Chú giải Tạng Luật

Chú Giải Tạng Luật – Phẩm Pārājika – Chương Các Giới Không Xác Định

3. Aniyatakaṇḍaṃ

3. Chương Bất Định

1. Paṭhamaaniyatasikkhāpadavaṇṇanā

1. Giải Thích Học Giới Bất Định Thứ Nhất

443.Tenasamayena buddho bhagavāti paṭhamaaniyatasikkhāpadaṃ. Tattha kālayuttaṃ samullapantoti kālaṃ sallakkhetvā yadā na añño koci samīpena gacchati vā āgacchati vā tadā tadanurūpaṃ ‘‘kacci na ukkaṇṭhasi, na kilamasi, na chātāsī’’tiādikaṃ gehassitaṃ kathaṃ kathento. Kālayuttaṃ dhammaṃ bhaṇantoti kālaṃ sallakkhetvā yadā añño koci samīpena gacchati vā āgacchati vā tadā tadanurūpaṃ ‘‘uposathaṃ kareyyāsi, salākabhattaṃ dadeyyāsī’’tiādikaṃ dhammakathaṃ kathento.
443. Vào lúc bấy giờ, Đức Phật, Đấng Thế Tôn: đây là học giới bất định thứ nhất. Trong đó, nói chuyện đúng lúc nghĩa là sau khi nhận thấy thời điểm thích hợp, khi không có ai khác đi qua hoặc đến gần, bấy giờ nói những lời thăm hỏi gia đình phù hợp như: “Cô có buồn phiền không, có mệt mỏi không, có đói khát không?” Thuyết pháp đúng lúc nghĩa là sau khi nhận thấy thời điểm thích hợp, khi có người khác đi qua hoặc đến gần, bấy giờ nói những lời pháp thoại phù hợp như: “Cô nên giữ ngày trai giới, nên cúng dường vật thực theo thẻ.”

Bahū dhītaro ca puttā ca assāti bahuputtā. Tassā kira dasa puttā dasa dhītaro ahesuṃ, bahū nattāro assāti bahunattā. Yatheva hi tassā evamassā puttadhītānampi vīsati vīsati dārakā ahesuṃ, iti sā vīsuttaracatusataputtanattaparivārā ahosi. Abhimaṅgalasammatāti uttamamaṅgalasammatā. Yaññesūti dānappadānesu. Chaṇesūti āvāhavivāhamaṅgalādīsu antarussavesu. Ussavesūti āsāḷhīpavāraṇanakkhattādīsu mahussavesu. Paṭhamaṃ bhojentīti ‘‘imepi dārakā tayā samānāyukā nirogā hontū’’ti āyācantā paṭhamaṃyeva bhojenti, yepi saddhā honti pasannā, tepi bhikkhū bhojetvā tadanantaraṃ sabbapaṭhamaṃ taṃyeva bhojenti. Nādiyīti tassā vacanaṃ na ādiyi, na gaṇhi, na vā ādaramakāsīti attho.
Người có nhiều con gái và con trai gọi là nhiều con. Bà ấy có mười người con trai và mười người con gái, người có nhiều cháu gọi là nhiều cháu. Giống như bà ấy, con cái của bà cũng có hai mươi người con, như vậy bà có bốn trăm hai mươi người con cháu vây quanh. Được xem là điềm lành tột bậc nghĩa là được coi là điềm lành cao quý nhất. Trong các lễ tế nghĩa là trong các việc cúng dường bố thí. Trong các lễ hội nghĩa là trong các lễ hội nhỏ như lễ cưới hỏi. Trong các đại lễ nghĩa là trong các lễ hội lớn như lễ hội Āsāḷhī, lễ Pavāraṇā, lễ hội các vì sao. Cho ăn trước tiên nghĩa là với ý nguyện “mong cho những đứa trẻ này cũng được sống lâu, không bệnh tật như con”, họ cho bà ăn trước nhất; những người có đức tin, có lòng trong sạch, sau khi cúng dường chư Tăng, họ cũng cho bà ăn trước tiên. Không chấp nhận nghĩa là không chấp nhận lời nói của bà, không tiếp thu, hoặc không tỏ ra tôn trọng.

444-5.Alaṃkammaniyeti kammakkhamaṃ kammayogganti kammaniyaṃ, alaṃ pariyattaṃ kammaniyabhāvāyāti alaṃkammaniyaṃ, tasmiṃ alaṃkammaniye, yattha ajjhācāraṃ karontā sakkonti, taṃ kammaṃ kātuṃ tādiseti attho. Tenevassa padabhājane vuttaṃ – ‘‘sakkā hoti methunaṃ dhammaṃ paṭisevitu’’nti, yattha methunaṃ dhammaṃ sakkā hoti paṭisevitunti vuttaṃ hoti. Nisajjaṃkappeyyāti nisajjaṃ kareyya, nisīdeyyāti attho. Yasmā pana nisīditvāva nipajjati, tenassa padabhājane ubhayampi vuttaṃ. Tattha upanisinnoti upagantvā nisinno. Evaṃ upanipannopi veditabbo. Bhikkhu nisinneti bhikkhumhi nisinneti attho. Ubho vā nisinnāti dvepi apacchā apurimaṃ nisinnā. Ettha ca kiñcāpi pāḷiyaṃ ‘‘sotassa raho’’ti āgataṃ, cakkhussa raheneva pana paricchedo veditabbo. Sacepi hi pihitakavāṭassa gabbhassa dvāre nisinno viññū puriso hoti, neva anāpattiṃ karoti. Apihitakavāṭassa pana dvāre nisinno anāpattiṃ karoti. Na kevalañca dvāre antodvādasahatthepi okāse nisinno, sace sacakkhuko vikkhittopi niddāyantopi anāpattiṃ karoti. Samīpe ṭhitopi andho na karoti, cakkhumāpi nipajjitvā niddāyanto na karoti. Itthīnaṃ pana satampi anāpattiṃ na karotiyeva.
444-5. Nơi thích hợp để hành sự nghĩa là nơi có thể thực hiện hành vi, nơi phù hợp để làm việc, đầy đủ điều kiện để thực hiện hành vi, nơi đó gọi là nơi thích hợp để hành sự. Ở nơi thích hợp để hành sự đó, khi thực hiện hành vi phạm giới, họ có thể làm được, việc đó có thể thực hiện được như vậy. Chính vì thế, trong phần phân tích từ ngữ của nó đã nói: “có thể thực hiện hành vi giao cấu”, nghĩa là nơi có thể thực hiện hành vi giao cấu. Nên ngồi nghĩa là nên thực hiện việc ngồi, nên ngồi xuống. Vì sau khi ngồi rồi mới nằm, nên trong phần phân tích từ ngữ của nó đã nói cả hai. Trong đó, ngồi gần nghĩa là đến gần rồi ngồi. Tương tự, nằm gần cũng nên hiểu như vậy. Khi Tỳ khưu ngồi nghĩa là khi vị Tỳ khưu đang ngồi. Hoặc cả hai cùng ngồi nghĩa là cả hai cùng ngồi không trước không sau. Ở đây, mặc dù trong Pāḷi nói “nơi kín đáo đối với tai”, nhưng nên hiểu sự phân định là nơi kín đáo đối với mắt. Nếu có người có trí tuệ ngồi ở cửa của một căn phòng đã đóng cửa, thì không phạm tội. Nhưng nếu ngồi ở cửa của một căn phòng không đóng cửa, thì phạm tội. Không chỉ ở cửa, mà ngay cả khi ngồi trong khoảng cách mười hai gang tay bên trong, nếu người có mắt, dù lơ đễnh hay đang ngủ, cũng không phạm tội. Người mù đứng gần cũng không phạm tội, người có mắt nhưng nằm ngủ cũng không phạm tội. Tuy nhiên, đối với một trăm người nữ, thì không phạm tội.

Saddheyyavacasāti saddhātabbavacanā. Sā pana yasmā ariyasāvikāva hoti, tenassa padabhājane ‘‘āgataphalā’’tiādi vuttaṃ. Tattha āgataṃ phalaṃ assāti āgataphalā paṭiladdhasotāpattiphalāti attho. Abhisametāvinīti paṭividdhacatusaccā. Viññātaṃ sikkhattayasāsanaṃ etāyāti viññātasāsanā. Nisajjaṃ bhikkhu paṭijānamānoti kiñcāpi evarūpā upāsikā disvā vadati, atha kho bhikkhu nisajjaṃ paṭijānamānoyeva tiṇṇaṃ dhammānaṃ aññatarena kāretabbo, na appaṭijānamānoti attho.
Lời nói đáng tin cậy nghĩa là lời nói có thể tin được. Vì bà ấy là một nữ thánh đệ tử, nên trong phần phân tích từ ngữ của nó đã nói “người đã chứng đắc quả vị” v.v… Trong đó, người đã chứng đắc quả vị (āgataphalā) nghĩa là người đã chứng đắc quả Tu-đà-hoàn. Người đã thấu hiểu (abhisametāvinī) nghĩa là người đã liễu ngộ Tứ Thánh Đế. Người đã hiểu rõ giáo pháp tam học (viññātasāsanā) nghĩa là người đã biết rõ giáo pháp gồm ba học phần. Khi Tỳ khưu thừa nhận việc ngồi nghĩa là mặc dù một nữ cư sĩ như vậy nhìn thấy và nói, nhưng vị Tỳ khưu chỉ bị xử phạt theo một trong ba pháp khi thừa nhận việc ngồi, chứ không phải khi không thừa nhận.

Yena vā sā saddheyyavacasā upāsikā vadeyya tena so bhikkhu kāretabboti nisajjādīsu ākāresu yena vā ākārena saddhiṃ methunadhammādīni āropetvā sā upāsikā vadeyya, paṭijānamānova tena so bhikkhu kāretabbo. Evarūpāyapi upāsikāya vacanamattena na kāretabboti attho. Kasmā? Yasmā diṭṭhaṃ nāma tathāpi hoti, aññathāpi hoti.
Hoặc theo điều mà nữ cư sĩ có lời nói đáng tin cậy ấy nói, vị Tỳ khưu ấy phải bị xử phạt theo điều đó nghĩa là trong các trường hợp như ngồi gần, nếu nữ cư sĩ ấy cáo buộc vị Tỳ khưu cùng với hành vi giao cấu v.v… theo cách nào, thì vị Tỳ khưu ấy chỉ bị xử phạt theo cách đó khi thừa nhận. Nghĩa là, không thể xử phạt chỉ dựa vào lời nói của một nữ cư sĩ như vậy. Tại sao? Vì điều được thấy có thể là như vậy, cũng có thể là khác.

Tadatthajotanatthañca idaṃ vatthuṃ udāharanti – mallārāmavihāre kira eko khīṇāsavatthero ekadivasaṃ upaṭṭhākakulaṃ gantvā antogehe nisīdi, upāsikāpi sayanapallaṅkaṃ nissāya ṭhitā hoti. Atheko piṇḍacāriko dvāre ṭhito disvā ‘‘thero upāsikāya saddhiṃ ekāsane nisinno’’ti saññaṃ paṭilabhitvā punappunaṃ olokesi. Theropi ‘‘ayaṃ mayi asuddhaladdhiko jāto’’ti sallakkhetvā katabhattakicco vihāraṃ gantvā attano vasanaṭṭhānaṃ pavisitvā antova nisīdi. Sopi bhikkhu ‘‘theraṃ codessāmī’’ti āgantvā ukkāsitvā dvāraṃ vivari. Thero tassa cittaṃ ñatvā ākāse uppatitvā kūṭāgārakaṇṇikaṃ nissāya pallaṅkena nisīdi. Sopi bhikkhu anto pavisitvā mañcañca heṭṭhāmañcañca oloketvā theraṃ apassanto uddhaṃ ullokesi, atha ākāse nisinnaṃ theraṃ disvā ‘‘bhante, evaṃ mahiddhikā nāma tumhe mātugāmena saddhiṃ ekāsane nisinnabhāvaṃ vadāpetha evā’’ti āha. Thero ‘‘antaragharasseveso āvuso doso, ahaṃ pana taṃ saddhāpetuṃ asakkonto evamakāsiṃ, rakkheyyāsi ma’’nti vatvā otarīti.
Và để làm sáng tỏ ý nghĩa đó, người ta kể câu chuyện này – tại tu viện Mallārāma, một vị Trưởng lão A-la-hán một hôm đến nhà của người hộ độ và ngồi bên trong nhà, nữ cư sĩ cũng đứng dựa vào giường ngủ. Bấy giờ, một vị Tỳ khưu đi khất thực đứng ở cửa nhìn thấy, liền khởi lên ý nghĩ “vị Trưởng lão ngồi cùng một chỗ với nữ cư sĩ” rồi nhìn đi nhìn lại. Vị Trưởng lão cũng nhận thấy “người này đã có ý nghĩ không trong sạch về ta”, sau khi dùng xong bữa ăn, ngài trở về tu viện, vào nơi ở của mình rồi ngồi bên trong. Vị Tỳ khưu kia nghĩ “ta sẽ chất vấn vị Trưởng lão” bèn đi đến, hắng giọng rồi mở cửa. Vị Trưởng lão biết được tâm ý của vị ấy, liền bay lên không trung rồi ngồi kiết già dựa vào nóc của ngôi nhà có nóc nhọn. Vị Tỳ khưu kia vào trong, nhìn cái giường và gầm giường, không thấy Trưởng lão đâu, bèn ngước nhìn lên, thấy Trưởng lão đang ngồi trên không trung, liền nói: “Thưa Đại đức, ngài có thần thông lớn như vậy mà lại để người ta nói rằng ngài ngồi cùng một chỗ với người nữ hay sao?”. Vị Trưởng lão nói: “Này hiền hữu, đó là lỗi của việc ở trong nhà, còn tôi vì không thể làm cho ông tin tưởng nên đã làm như vậy, mong ông hãy bảo vệ tôi” rồi ngài đi xuống.

446. Ito paraṃ sā ce evaṃ vadeyyātiādi sabbaṃ paṭiññāya kāraṇākāradassanatthaṃ vuttaṃ, tattha mātugāmassa methunaṃ dhammaṃ paṭisevantoti mātugāmassa magge methunaṃ dhammaṃ paṭisevantoti attho. Nisajjāya kāretabboti nisajjaṃ paṭijānitvā methunadhammapaṭisevanaṃ appaṭijānanto methunadhammapārājikāpattiyā akāretvā nisajjāmattena yaṃ āpattiṃ āpajjati tāya kāretabbo, pācittiyāpattiyā kāretabboti attho. Etena nayena sabbacatukkesu vinicchayo veditabbo.
446. Từ đây trở đi, tất cả những gì được nói như nếu bà ấy nói như vậy v.v… là để trình bày nguyên nhân và không phải nguyên nhân của việc thừa nhận. Trong đó, thực hành pháp giao cấu với người nữ nghĩa là thực hành pháp giao cấu trong đường của người nữ. Nên bị xử phạt vì tội ngồi nghĩa là khi thừa nhận việc ngồi nhưng không thừa nhận việc thực hành pháp giao cấu, thì không bị xử phạt tội Ba-la-di về pháp giao cấu, mà bị xử phạt theo tội nào phạm phải chỉ do việc ngồi, tức là nên bị xử phạt tội Ba-dật-đề. Theo cách này, cần phải hiểu sự phân xử trong tất cả bốn trường hợp.

451. Sikkhāpadapariyosāne pana āpattānāpattiparicchedadassanatthaṃ vuttesu gamanaṃ paṭijānātītiādīsu gamanaṃ paṭijānātīti ‘‘rahonisajjassādatthaṃ gatomhī’’ti evaṃ gamanaṃ paṭijānāti, nisajjanti nisajjassādeneva nisajjaṃ paṭijānāti. Āpattinti tīsu aññataraṃ āpattiṃ. Āpattiyā kāretabboti tīsu yaṃ paṭijānāti, tāya kāretabbo. Sesamettha catukke uttānādhippāyameva. Dutiyacatukke pana gamanaṃ na paṭijānātīti raho nisajjassādavasena na paṭijānāti , ‘‘salākabhattādinā attano kammena gatomhi, sā pana mayhaṃ nisinnaṭṭhānaṃ āgatā’’ti vadati. Sesametthāpi uttānādhippāyameva.
451. Tuy nhiên, ở cuối học giới, trong những điều được nói để trình bày sự phân định có tội và không có tội như thừa nhận việc đi v.v…, thì thừa nhận việc đi nghĩa là thừa nhận việc đi như “tôi đã đi để hưởng sự thích thú của việc ngồi một mình nơi kín đáo”; việc ngồi nghĩa là thừa nhận việc ngồi chỉ vì sự thích thú của việc ngồi. Tội nghĩa là một trong ba tội. Nên bị xử phạt theo tội nghĩa là trong ba tội, thừa nhận tội nào thì bị xử phạt theo tội đó. Phần còn lại trong bốn trường hợp này đều có ý nghĩa rõ ràng. Tuy nhiên, trong bốn trường hợp thứ hai, không thừa nhận việc đi nghĩa là không thừa nhận theo ý nghĩa hưởng sự thích thú của việc ngồi một mình nơi kín đáo, mà nói rằng “tôi đã đi vì công việc của mình như nhận vật thực theo thẻ v.v…, còn bà ấy thì đến chỗ tôi ngồi”. Phần còn lại ở đây cũng có ý nghĩa rõ ràng.

Ayaṃ pana sabbattha vinicchayo – raho nisajjassādoti methunadhammasannissitakileso vuccati. Yo bhikkhu tenassādena mātugāmassa santikaṃ gantukāmo akkhiṃ añjeti, dukkaṭaṃ. Nivāsanaṃ nivāseti, kāyabandhanaṃ bandhati, cīvaraṃ pārupati, sabbattha payoge payoge dukkaṭaṃ. Gacchati, padavāre padavāre dukkaṭaṃ. Gantvā nisīdati, dukkaṭameva. Mātugāme āgantvā nisinnamatte pācittiyaṃ. Sace sā itthī kenaci karaṇīyena uṭṭhāyuṭṭhāya punappunaṃ nisīdati, nisajjāya nisajjāya pācittiyaṃ. Yaṃ sandhāya gato, sā na diṭṭhā, aññā āgantvā nisīdati, assāde uppanne pācittiyaṃ. Mahāpaccariyaṃ pana ‘‘gamanakālato paṭṭhāya asuddhacittattā āpattiyevā’’ti vuttaṃ. Sace sambahulā āgacchanti, mātugāmagaṇanāya pācittiyāni. Sace uṭṭhāyuṭṭhāya punappunaṃ nisīdanti, nisajjāgaṇanāya pācittiyāni. Aniyametvā diṭṭhadiṭṭhāya saddhiṃ rahassādaṃ kappessāmīti gantvā nisinnassāpi āgatāgatānaṃ vasena punappunaṃ nisajjāvasena ca vuttanayeneva āpattiyo veditabbā. Sace suddhacittena gantvā nisinnassa santikaṃ āgantvā nisinnāya itthiyā rahassādo uppajjati anāpatti.
Đây là sự phân xử trong mọi trường hợp – sự thích thú của việc ngồi một mình nơi kín đáo được gọi là phiền não liên quan đến pháp giao cấu. Vị Tỳ khưu nào vì sự thích thú đó mà muốn đến gần người nữ, liếc mắt, phạm tội Tác ác. Mặc y nội, thắt dây lưng, đắp y, trong mỗi hành động đều phạm tội Tác ác. Đi, mỗi bước chân phạm tội Tác ác. Đến rồi ngồi xuống, vẫn phạm tội Tác ác. Ngay khi người nữ đến và ngồi xuống, phạm tội Ưng Đối Trị. Nếu người nữ đó vì một công việc nào đó mà đứng dậy rồi lại ngồi xuống nhiều lần, mỗi lần ngồi phạm tội Ưng Đối Trị. Người mà vị ấy có ý định đến gặp không thấy, một người nữ khác đến và ngồi xuống, nếu khởi lên sự thích thú, phạm tội Ưng Đối Trị. Tuy nhiên, trong Đại Sớ Giải có nói: “Từ lúc đi, do tâm không trong sạch nên đã phạm tội rồi”. Nếu nhiều người nữ cùng đến, số tội Ưng Đối Trị tính theo số người nữ. Nếu họ đứng dậy rồi lại ngồi xuống nhiều lần, số tội Ưng Đối Trị tính theo số lần ngồi. Ngay cả khi đi và ngồi với ý định “ta sẽ hưởng thụ sự kín đáo với bất kỳ người nữ nào ta thấy” mà không xác định trước, thì cũng cần phải hiểu các tội theo cách đã nói, tùy theo những người nữ đã đến và tùy theo việc ngồi xuống nhiều lần. Nếu một vị Tỳ khưu đi và ngồi với tâm trong sạch, rồi một người nữ đến ngồi gần và khởi lên sự thích thú kín đáo, thì không phạm tội.

Samuṭṭhānādīni paṭhamapārājikasadisānevāti.
Các yếu tố như sự phát sinh v.v… đều giống như tội Bất Cộng Trụ thứ nhất.

Paṭhamaaniyatasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải Thích Học Giới Bất Định Thứ Nhất đến đây là hết.

2. Dutiyaaniyatasikkhāpadavaṇṇanā

2. Giải Thích Học Giới Bất Định Thứ Hai

452.Tena samayena buddho bhagavāti dutiyaaniyatasikkhāpadaṃ. Tattha bhagavatā paṭikkhittantiādimhi ‘‘yaṃ eko ekāya raho paṭicchanne āsane alaṃkammaniye nisajjaṃ kappeyya, taṃ nisajjaṃ kappetuṃ paṭikkhitta’’nti evaṃ sambandho veditabbo. Itarathā hi ‘‘ekassa ekāyā’’ti vattabbaṃ siyā, kasmā? ‘‘Paṭikkhitta’’nti vuttattā. Sāmiatthe vā etaṃ paccattavacanaṃ veditabbaṃ.
452. Vào lúc bấy giờ, Đức Phật, Đấng Thế Tôn: đây là học giới bất định thứ hai. Trong đó, ở đoạn bắt đầu bằng bị Đức Thế Tôn ngăn cấm, cần phải hiểu mối liên hệ như sau: “việc một người nam cùng một người nữ ngồi ở một chỗ ngồi kín đáo, khuất tịch, thích hợp để hành sự, việc ngồi như vậy là bị ngăn cấm”. Nếu không, lẽ ra phải nói “của một người nam với một người nữ”, tại sao? Vì đã nói “bị ngăn cấm”. Hoặc nên hiểu đây là sở thuộc cách được dùng với nghĩa chủ cách.

453.Na heva kho pana paṭicchannanti ettha pana yampi bahi parikkhittaṃ anto vivaṭaṃ pariveṇaṅgaṇādi, tampi antogadhanti veditabbaṃ. Evarūpañhi ṭhānaṃ appaṭicchanneyeva gahitanti mahāpaccariyaṃ vuttaṃ. Sesaṃ paṭhamasikkhāpadanayeneva veditabbaṃ. Kevalañhi idha itthīpi purisopi yo koci viññū anandho abadhiro antodvādasahatthe okāse ṭhito vā nisinno vā vikkhittopi niddāyantopi anāpattiṃ karoti. Badhiro pana cakkhumāpi andho vā abadhiropi na karoti. Pārājikāpattiñca parihāpetvā duṭṭhullavācāpatti vuttāti ayaṃ viseso. Sesaṃ purimasadisameva. Ubhayatthāpi ummattakaādikammikānaṃ anāpatti.
453. Chỗ ấy không phải là kín đáo: ở đây, cần phải hiểu rằng ngay cả những nơi như sân tu viện v.v…, dù được rào bên ngoài nhưng bên trong trống trải, cũng được bao gồm. Những nơi như vậy được coi là không kín đáo, như đã nói trong Đại Sớ Giải. Phần còn lại cần được hiểu theo cách giải thích của học giới thứ nhất. Chỉ có điều khác biệt ở đây là: bất kỳ ai, dù là người nữ hay người nam, có trí, không mù, không điếc, đứng hoặc ngồi trong phạm vi mười hai gang tay, dù lơ đễnh hay đang ngủ, cũng không phạm tội (khi có người khác thấy). Nhưng người điếc dù có mắt, hoặc người mù dù không điếc, thì không làm cho (người kia) không phạm tội. Và tội nói lời thô tục được đề cập, trừ tội Bất Cộng Trụ. Đây là điểm khác biệt. Phần còn lại tương tự như trước. Trong cả hai trường hợp, người điên cuồng và người mới phạm tội lần đầu đều không phạm.

Samuṭṭhānādīsu idaṃsikkhāpadaṃ tisamuṭṭhānaṃ – kāyacittato, vācācittato, kāyavācācittato ca samuṭṭhāti. Kiriyaṃ, saññāvimokkhaṃ, sacittakaṃ, lokavajjaṃ, kāyakammaṃ, vacīkammaṃ, akusalacittaṃ, sukhamajjhattavedanāhi dvivedanaṃ. Sesaṃ uttānatthamevāti.
Về sự phát sinh v.v…, học giới này có ba cách phát sinh – phát sinh từ thân và tâm, từ lời nói và tâm, và từ thân, lời nói và tâm. Là hành động, giải thoát nhờ nhận thức, có chủ ý, lỗi thế gian, hành động của thân, hành động của lời nói, tâm bất thiện, hai cảm thọ với cảm giác trung tính là chính. Phần còn lại có ý nghĩa rõ ràng.

Dutiyaaniyatasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải Thích Học Giới Bất Định Thứ Hai đến đây là hết.

Samantapāsādikāya vinayasaṃvaṇṇanāya

Trong bộ Samantapāsādikā, phần Sớ Giải Luật

Aniyatavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải Thích Chương Bất Định đến đây là hết.

Hộp bình luận Facebook

Soṇa Thiện Kim

Panha.org là trang web chuyên sâu về Pháp học của Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Tông), nơi cung cấp kiến thức và tài liệu quý báu về kinh điển, giáo lý, và triết học Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Tông). Tại đây, bạn có thể tìm hiểu về các giáo pháp truyền thống, kinh nghiệm tu tập, và những bài giảng từ các vị tôn sư hàng đầu trong cộng đồng Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Tông). Với mục tiêu giúp người học hiểu sâu hơn về con đường giác ngộ và sự giải thoát, Panha.org mang đến nguồn tài nguyên phong phú, chính xác và cập nhật để hỗ trợ hành giả trên hành trình tu tập Pháp học.

Bài viết liên quan

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.

0 Góp ý
Được bỏ phiếu nhiều nhất
Mới nhất Cũ nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Back to top button