Thư viện

Trung Dung Trên Đường Trung Đạo: Hướng dẫn hành hương về đất Phật Ấn Độ (Phần 6)

KESARIYA (KÊ-SA-RI-A)

Người dân bộ tộc Kalama ở Kesaputta nghe rằng: “Sa-môn Gotama, con dòng họ Thích-ca, xuất gia từ gia tộc Thích-ca, nay đã đến Kesaputta.” (1)

Phía bắc nước Vijja có một bộ tộc bán tự trị tên là Kalama, với thủ phủ là Kesaputta. Vị trí trọng yếu của thị trấn này là do nó nằm gần bến đò chính trên sông Gandak. Một trong những vị thầy đầu tiên của Đức Phật, Alara Kalama, có lẽ xuất thân từ đây. Trong một lần viếng thăm Kesaputta, Đức Phật đã thuyết giảng một trong những bài pháp quan trọng nhất của Ngài, kinh Kessaputtiya, thường được gọi là kinh Kalama. Nhiều vị đạo sư du hành đến Keasputta, trình bày quan điểm riêng và phê phán ý kiến của người khác. Kết quả là người Kalama không biết tin ai. Đức Phật khuyên họ nên dựa vào kinh nghiệm của chính mình.

“Này các Kalama, nghi ngờ là điều tốt. Nghi ngờ phát sinh trong vấn đề còn nghi vấn. Chớ nên tin theo lời mặc khải, tin đồn hay truyền thống dòng tộc. Chớ nên tin theo kinh điển, suy luận logic hay suy diễn. Chớ nên tin theo sự tương tự, suy đoán, khả năng xảy ra hay vì nghĩ rằng, ‘Ông ấy là thầy của chúng ta’. Nhưng khi tự mình biết rõ, ‘Những điều này là thiện, những điều này là vô tội, những điều này được người trí tán thán, và khi thực hành dẫn đến an lạc, hạnh phúc’, thì hãy làm theo.” (2)

Theo truyền thuyết sau này, khi Đức Phật rời Vajja trong chuyến hành trình cuối cùng đến Kusinara, đám đông người Vijji đi theo Ngài vì không chịu nổi ý nghĩ sẽ không bao giờ gặp lại vị thầy yêu quý của mình nữa. Nhiều lần Đức Phật bảo họ trở về nhà nhưng họ vẫn đi theo. Khi đến Kesaputta, Ngài quay lại đám đông lần cuối và khuyên họ để Ngài tiếp tục cuộc hành trình một mình. Họ miễn cưỡng đồng ý và lần lượt quay ra về. Vì lòng từ bi đối với họ và như một kỷ vật, Đức Phật đã trao cho người Vijji chiếc bát của Ngài, sau đó được thờ phụng ở Vesali. Về sau, một bảo tháp được xây dựng tại Kesaputta để kỷ niệm sự kiện này và cũng để đánh dấu nơi Đức Phật thuyết giảng kinh Kalama. Nằm ở nơi con đường chính từ Patiliputta rẽ nhánh đến Lumbini ở phía bắc hoặc bến sông dẫn đến Kusinara ở phía tây bắc, những người hành hương đến hoặc đi từ cả hai nơi này thường dừng lại ở Kesaputta. Cả Pháp Hiển và Huyền Trang đều đến đây và nhìn thấy bảo tháp, nhưng những mô tả của họ về nó rất ngắn gọn.

NHỮNG ĐIỀU CẦN THAM QUAN

Bảo tháp

Ngay cả khi đã đổ nát, bảo tháp Kesariya vẫn là một cảnh tượng cực kỳ ấn tượng. Cunningham thấy chu vi của nó là 424 mét và ông ước tính rằng mái vòm ban đầu của nó cao khoảng 51 mét. Liên quan đến những phát hiện thêm của mình, ông viết: “Các cuộc khai quật đã phát hiện ra những bức tường của một ngôi đền nhỏ 10 feet vuông, và đầu và vai của một bức tượng Phật khổng lồ, với mái tóc xoăn tít thường thấy.”

Các cuộc khai quật đúng cách chỉ được bắt đầu ở Kesariya vào năm 1999 và vẫn chưa hoàn thành. Phần dưới của bảo tháp có niên đại từ thời Gupta, trong khi phần trên và mái vòm được thêm vào trong thời Pala. Bảo tháp vươn lên trong sáu tầng khổng lồ, mỗi tầng có hình dạng khác nhau, tương tự như bảo tháp Lauriya Nandangaha. Xung quanh các mặt của mỗi tầng là những ô chứa các bức tượng Phật kích thước thật trong tư thế chạm đất, tất cả đều là bản sao của một bức tượng được tìm thấy trong một ô.

CÁCH ĐẾN ĐÓ

Kesariya cách Vesali khoảng 55 km về phía tây bắc. Để đến đó từ Vesali, đi đến đường chính Muzaffarpur-Motihari, đi về phía bắc và rẽ tại Pipra. Đừng rẽ tại Chakia vì đường rất xấu. Kesariya cách Pipra khoảng 20 km.

KOSAMBI (CÔ-SAM-TỲ)

Đức Phật đã nhiều lần viếng thăm Kosambi, thủ đô của nước Vamsa, và Ngài cũng đã an cư kiết hạ lần thứ chín sau khi thành đạo tại thành phố này, và lần thứ mười tại Parileyya gần đó. Kosambi là một thành phố thịnh vượng nhờ vị trí chiến lược trên Dakkinspatha, con đường thương mại đi vào và xuyên qua Trung Ấn Độ. Một trong những con đường chính từ Kosala đến Magadha cũng đi qua thành phố này, cũng như con đường chính từ Deccan. (1) Có chép rằng, tôn giả A-nan từng đi thuyền từ Magadha, có lẽ là khởi hành từ Patna, ngược sông lên Kosambi, cho thấy sông Yamuna, chảy qua thành phố, cũng hẳn đã được tàu buôn qua lại. (2)

Lần đầu tiên Đức Phật đến Kosambi là để đáp lại lời mời của ba người bạn, là các thương gia Ghosita, Kukkuta và Pavarika. Họ đã nghe danh Đức Phật và đến Savatthi để gặp Ngài. Khi nghe Pháp, họ vô cùng cảm kích và thỉnh mời Ngài cùng chư Tăng đến Kosambi. Mỗi người trong số ba người này đã cúng dường một khu vườn để Tăng đoàn sử dụng, và những khu vườn này được đặt theo tên của họ – Ghositarama, Kukkutarama và Pavarikambavana. Cho đến nay, chỉ có khu vườn đầu tiên được các nhà khảo cổ xác định. Đức Phật thường trú ngụ tại những nơi này, và cũng tại Simsapavana, nơi Ngài từng so sánh những gì Ngài đã dạy với số ít lá Ngài nhặt được trong tay, và những gì Ngài thực sự biết với lá trên tất cả các cây Simsapa (Dalbergia sissoo) trong khu rừng. (3) Trái ngược với các vị vua khác cùng thời, vua Udena của Vamsa chưa bao giờ là người ủng hộ Đức Phật, và thậm chí có bằng chứng cho thấy ông có phần thù địch với giáo pháp mới. Một thời gian sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn, các cung nữ trong triều đình của vua Udena đã cúng dường 500 chiếc áo cho tôn giả A-nan, nhưng phải mất một thời gian mới thuyết phục được nhà vua về công đức trong việc hộ trì Tăng đoàn. (4)

Chính tại Kosambi, cuộc khủng hoảng lớn đầu tiên trong Tăng đoàn đã xảy ra. Một sự bất đồng giữa một số vị Tỳ-khưu đã trở thành một cuộc tranh cãi liên quan đến toàn thể cộng đồng. Kinh điển ghi lại rằng, các vị Tỳ-khưu “hay tranh luận, cãi vã và gây gổ, dùng lời nói làm vũ khí để sát phạt lẫn nhau.” Khi Đức Phật cố gắng hòa giải, Ngài bị họ thẳng thừng bảo đừng can thiệp. Chán ngán những cuộc tranh cãi, và muốn bày tỏ sự không đồng tình của mình đối với cả chư Tăng và hàng cư sĩ, Ngài rời khỏi Kosambi, và khi ra đi, Ngài nói:

“Người ấy chửi mắng ta, đánh đập ta, Người ấy ức hiếp ta, cướp đoạt của ta.” Kẻ nào cứ giữ mãi những ý nghĩ ấy Sẽ không bao giờ dập tắt được hận thù. “Người ấy chửi mắng ta, đánh đập ta, Người ấy ức hiếp ta, cướp đoạt của ta.” Kẻ nào không giữ những ý nghĩ ấy Sẽ sớm dập tắt được hận thù. Bởi vì trong thế gian này Hận thù không bao giờ được dập tắt bởi hận thù. Chỉ có tình thương mới chiến thắng hận thù. Đó là chân lý muôn đời. (5)

Đức Phật đi đến Balakalonakara, nơi mà trái ngược với những gì đã xảy ra ở Kosambi, chư Tăng đang sống “trong tình thân ái và hòa hợp, như sữa hòa với nước, nhìn nhau bằng con mắt yêu thương.” Khi Đức Phật hỏi một vị Tỳ-khưu làm thế nào mà họ có thể làm được điều này, vị ấy trả lời: “Bạch Đức Thế Tôn, về điều này, con nghĩ: ‘Thật là một điều lợi ích cho con, thật là tốt khi con được sống với những người bạn đồng tu như vậy trong đời sống phạm hạnh.’ Con thực hành thân, khẩu, ý với tâm từ đối với họ, cả nơi công cộng lẫn nơi riêng tư. Con nghĩ: ‘Tại sao con không gạt bỏ những mong muốn của riêng mình và thuận theo ý muốn của họ?’ Và rồi con hành động theo đó. Thật vậy, chúng con khác nhau về thân thể, nhưng chúng con là một trong tâm trí.” (6) Sau đó, Đức Phật đi đến Parileyya, nơi Ngài tìm thấy sự bầu bạn của các loài thú hoang và sự yên tĩnh của rừng già như một sự giải thoát khỏi bầu không khí khó chịu ở Kosambi. Trong thời gian ở Parileyya, kinh chép rằng có một con voi đã chăm sóc Đức Phật, dọn dẹp một khoảng trống cho Ngài trong rừng và mang thức ăn, nước uống đến cho Ngài. (7) Trong khi đó, trở lại Kosambi, hàng cư sĩ đã ngừng ủng hộ những vị Tỳ-khưu vô kỷ luật, điều này đã nhanh chóng khiến họ tỉnh ngộ. Theo các bộ luận giải, tất cả các bài pháp trong kinh Itivuttaka đều do Đức Phật thuyết giảng tại Kosambi và được một nữ hầu trong hoàng gia, là vị cư sĩ Khujjuttara, thu thập và lưu giữ.

Khi Huyền Trang đến Vamsa, có khoảng 300 vị Tỳ-khưu Phật giáo trong nước, mặc dù mười tu viện đã đổ nát và Ấn Độ giáo là tôn giáo chiếm ưu thế. Tại Kosambi, ông nhìn thấy một ngôi đền lớn cao gần 18 mét, bên trong có một bức tượng gỗ đàn hương nổi tiếng mà theo truyền thuyết là do vua Udena tạc và được cho là nguyên mẫu của tất cả các bức tượng Phật khác. Ông cũng nhìn thấy tàn tích của ngôi nhà của Ghosita và nhiều nơi mà hai anh em nổi tiếng Asanga và Vasubandhu đã sống và sáng tác một số tác phẩm triết học của họ. Tuy nhiên, thời hoàng kim của thành phố đã qua, và không lâu sau chuyến thăm của Huyền Trang, Kosambi hoàn toàn bị bỏ hoang.

Ngày nay, những bức tường thành của Kosambi tạo thành một hình chữ nhật không đều dài hơn 6 km với sông Yamuna ở phía nam. Tại điểm cao nhất, các bức tường thành cao tới 15 mét. Những nhận xét của Cunningham khi nhìn thấy tàn tích lần đầu tiên vào năm 1861 vẫn còn đúng cho đến ngày nay: “Nhìn từ bên ngoài, tàn tích của Kosambi hiện lên một vẻ ngoài vô cùng ấn tượng. Những cuộc điều tra trước đây của tôi đã khiến tôi chỉ mong đợi một gò đất cao khoảng 20 hoặc 30 feet, phủ đầy gạch vỡ. Thật ngạc nhiên biết bao, khi vẫn còn cách nơi này một khoảng cách ở phía đông bắc, tôi nhìn thấy một dãy dài những gò đất cao ngất như hầu hết các cây cối, trải dài khoảng 2 dặm.” Sau chuyến thăm của mình vào năm 1862-63, Cunningham tuyên bố rằng ngôi làng Kosam và gò đất khổng lồ xung quanh nó có thể được xác định là vị trí của thành phố Kosambi cổ đại, mặc dù nhà sử học Vincent Smith, theo cách gây khó chịu thường lệ của mình, đã nghi ngờ tuyên bố này. Do đó, sự không chắc chắn vẫn tồn tại cho đến năm 1922 khi D.R. Salmi phát hiện ra một số bản khắc gần Kosam chứng minh rằng nhận định ban đầu của Cunningham là chính xác.

Các cuộc khai quật được thực hiện tại Kosambi vào năm 1937 và một lần nữa từ năm 1949 đến năm 1955, cho thấy thành phố đã có người sinh sống từ năm 1000 TCN trở đi.

NHỮNG ĐIỀU CẦN THAM QUAN

Cột trụ của vua A-dục

Con đường cắt ngang qua những bức tường thành của thành phố cổ, và đi theo nó một quãng, người hành hương sẽ nhìn thấy cột trụ của vua A-dục trên cánh đồng bên trái đường. Cột trụ không có minh văn, nhưng có rất nhiều chữ khắc từ các thời đại sau này và cũng có một số dấu tròn khác thường trên đó. Cột trụ đứng trong một khu dân cư của thành phố, có lẽ ở một ngã tư đường chính hoặc trong một quảng trường. Dấu tích của nhà cửa và các công trình khác có thể được nhìn thấy xung quanh cột trụ. Một cột trụ khác của vua A-dục, với một bản khắc gửi đến các quan chức tôn giáo tại Kosambi, hiện đang đứng trong pháo đài Allahabad. Cột trụ này ban đầu có thể đã đứng ở Ghositarama, mặc dù cả Pháp Hiển lẫn Huyền Trang đều không đề cập đến việc nhìn thấy bất kỳ cột trụ nào ở Kosambi.

GHOSITARAMA (GHÔ-XI-TA-RA-MA)

Cách cột trụ của vua A-dục khoảng nửa cây số về phía đông nam, băng qua những cánh đồng, là tàn tích của Ghositarama, nơi nổi tiếng nhất trong số những nơi Đức Phật từng trú ngụ khi ở Kosambi và là nơi Ngài thuyết giảng kinh Upakkilesa, kinh Kosambiya, kinh Jaliya và một số bài pháp khác. (8) Tôn giả A-nan hẳn cũng thường xuyên lui tới Ghositarama, xét theo nhiều bài pháp mà Ngài đã thuyết giảng tại đó. (9) Chúng ta biết được từ những bản khắc tìm thấy tại di tích này rằng vào thế kỷ thứ 1 sau Công nguyên, một vị Tỳ-khưu tên là Phagol đã cúng dường một phiến đá để “chư Tăng trú ngụ tại Ghositarama, nơi ở của Đức Phật, dùng để thờ cúng chư Phật.” Vào năm thứ ba đời vua Kanishka, ni sư Buddhamitra đã cúng dường ba bức tượng Bồ Tát cho tu viện. Người phụ nữ rộng lượng và sùng đạo này chính là vị ni sư được mô tả là đệ tử của Tỳ-khưu Bala trong bản khắc trên bức tượng Bồ Tát nổi tiếng ở Sarnath. Khi Pháp Hiển đến thăm Kosambi, ông thấy các vị Tỳ-khưu đang cư trú tại Ghositarama “như xưa”, nhưng đến thời Huyền Trang thì nơi này đã trở thành một tàn tích hoang vắng. Ghositarama được xác định trong các cuộc khai quật bắt đầu tại Kosambi vào năm 1951. Có người ở từ thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên đến thế kỷ thứ 5 sau Công nguyên, các lớp khác nhau lộ ra trong quá trình khai quật khiến cho việc phát hiện đường nét của từng công trình riêng lẻ trở nên khó khăn, mặc dù một số công trình chính khá rõ ràng.

Công trình cổ nhất tại di tích này là một bảo tháp lớn 25 mét x 25 mét, được xây dựng lần đầu tiên trong thời kỳ Maurya. Đây chắc chắn là bảo tháp lớn mà Huyền Trang nhìn thấy ở Ghositarama và ông cho rằng do vua A-dục xây dựng. Phần đế của bảo tháp ban đầu hình vuông nhưng trong những lần mở rộng sau này, các hốc tường được thêm vào, làm cho nó có hình đa giác. Bảo tháp được trang bị một hệ thống thoát nước công phu. Phía đông của bảo tháp chính là phần đế của một bảo tháp nhỏ hơn, hình chữ nhật, với một cầu thang dẫn lên. Hai bên cầu thang là hai bảo tháp nhỏ hơn với các điện thờ gắn liền với chúng. Bên cạnh bảo tháp là một điện thờ nhỏ được xây dựng tốt, trong đó người ta tìm thấy một bức tượng Hariti ngồi. Theo truyền thuyết, Hariti là một nữ quỷ dữ thường ăn thịt trẻ con cho đến khi bà được Đức Phật cảm hóa, sau đó bà được coi như một vị thần hộ mệnh của trẻ em. Các nhà sư Trung Quốc thường đề cập đến việc nhìn thấy các điện thờ Hariti trong các tu viện Phật giáo ở Ấn Độ.

Tất cả những công trình này đều nằm trong sân của tu viện chính và được bao quanh bởi các phòng của chư Tăng, trong đó khoảng 23 phòng vẫn còn dấu vết. Lối vào chính của tu viện ở phía tây bắc. Đến lượt mình, tu viện được bao quanh bởi một bức tường lớn dày gần 4 mét ở một số nơi. Ghositarama nằm ngay sát bên trong các bức tường thành của Kosambi, gần cổng phía đông, và là nơi độc đáo ở chỗ nó là tu viện duy nhất được thành lập trong thời Đức Phật nằm bên trong chứ không phải bên ngoài thành phố.

CÁCH ĐẾN ĐÓ

Mười ba cây số về phía tây của Allahabad trên đường cao tốc chính là ngã rẽ đến Mandare, bên kia là Kosambi. Tổng quãng đường từ Allahabad là khoảng 75 km. Có xe buýt đến Kosambi nhưng ít và không đáng tin cậy. Tốt hơn là nên đi taxi.

XUNG QUANH KOSAMBI

Đồi Prabhosa

Đức Phật đã an cư kiết hạ lần thứ 6 gần Kosambi tại một nơi gọi là đồi Mankula, nơi mà cả Tam tạng lẫn các bộ luận giải đều không cung cấp bất kỳ thông tin nào ngoài việc nói rằng nó nằm gần Kosambi. Vì vùng đất cao duy nhất trong nhiều km xung quanh thành phố là một mỏm đá tên là Prabhosa, nên chúng ta có thể xác định nó là đồi Mankula. Để đến Prabhosa, quay trở lại nơi con đường cắt ngang qua tường thành Kosambi, đi khoảng một km rồi rẽ trái đầu tiên. Prabhosa cách đó 12 km nữa và con đường khá tốt. Prabhosa đột ngột nhô lên khỏi vùng nông thôn xung quanh và nhìn ra sông Yamuna. Có rất nhiều hang động và gờ đá trên đồi, đặc biệt là ở phía nam dốc hơn. Hang động hiện được gọi là Cửa sổ của Sita có thể là nơi Đức Phật đã ở khi Ngài đến đây. Khi Huyền Trang đến thăm Mankula, ông cho biết đã nhìn thấy hang động này và gần đó có hai bảo tháp, một do vua A-dục xây dựng và một bảo tháp khác được cho là thờ tóc và móng tay của Đức Phật, mặc dù ngày nay không còn dấu vết của những di tích này. Một bản khắc khó nhìn thấy trên vách hang đề cập đến những món quà được tặng cho “các vị A-la-hán thuộc phái Kasyapiya.” Có rất nhiều bản khắc Kỳ-na giáo được khắc vào đá trên đồi và những bức tượng vỡ nằm rải rác xung quanh.

  • To Asoka’s Pillar: Đến cột trụ của vua A-dục
  • Votive Stupas: Các bảo tháp nhỏ (thờ phụng)
  • Hariti Temple: Điện thờ Hariti
  • Asoka’s Stupa: Bảo tháp của vua A-dục
  • Boundary Wall: Tường rào
  • Ramparts of Kosambi: Thành lũy Kosambi
  • Eastern Gate: Cổng phía Đông

Bảo tàng Allahabad

Tên cổ xưa của Allahabad là Payaga và những người theo Ấn Độ giáo đã đến thành phố này từ trước thời Đức Phật để tắm tại ngã ba sông Hằng và sông Yamuna. (10) Kinh chép rằng, có lần khi đi từ Veranja đến Varanasi, Đức Phật đã vượt sông Hằng tại Payaga. (11) Không còn gì từ thời Ngài còn tồn tại trong thành phố, nhưng có hai bảo tàng ở đó sẽ khiến người hành hương quan tâm, đầu tiên là Bảo tàng Allahabad. Bảo tàng này có một bộ sưu tập ấn tượng các tác phẩm điêu khắc Phật giáo, Ấn Độ giáo và Kỳ-na giáo cũng như các đồ vật bằng đất nung và các cổ vật khác được phát hiện tại Kosambi. Bảo tàng nằm trên đường Kamala Nehru và thời gian mở cửa là từ 10:00 sáng đến 4:30 chiều. (từ tháng 5 đến tháng 6: 7:00 sáng đến 12:00 trưa) và đóng cửa vào các ngày thứ Tư và ngày lễ.

Bảo tàng Khảo cổ học, Khoa Lịch sử Cổ đại, Đại học Allahabad

Bảo tàng này lưu giữ hầu hết các con dấu, bia ký, tác phẩm điêu khắc và các hiện vật khác được phát hiện trong quá trình khai quật tại Ghositarama. Bảo tàng mở cửa từ 10:00 sáng đến 4:00 chiều. (Tháng 5 đến tháng 6: 7:00 sáng đến 12:00 chiều) và đóng cửa vào Chủ nhật và các ngày lễ của trường đại học.

CÁCH ĐẾN ĐÓ

Allahabad nằm trên tuyến đường sắt chính đông-tây, cách Varanasi 122 km. Bảo tàng và trường đại học là những địa danh nổi tiếng trong thành phố.

MADHURA (MA-THU-RA)

Madhura có năm điều bất lợi. Năm điều đó là gì? Mặt đất không bằng phẳng, có nhiều bụi, chó dữ, có những yakkha độc ác và khó xin được thức ăn. (1)

Trong thời Đức Phật, Madhura, bây giờ được viết là Mathura, là thủ đô của vương quốc Surasena và nằm bên bờ sông Yamuna. Nằm ở rìa ngoài của Trung Ấn Độ, Đức Phật chỉ đến Madhura một lần và đó là nơi ở cực tây mà Ngài đã đến thăm mà vẫn còn có thể xác định được. Dường như Ngài không có ấn tượng tốt lắm về nơi này. Khi Ma-ha Ca-diếp đến đây, Ngài đã thuyết giảng kinh Madhura cho nhà vua, trong đó Ngài bác bỏ tuyên bố của những người Bà-la-môn cho rằng họ cao quý hơn các giai cấp khác. (2) Bất chấp những mối liên hệ nhỏ này với Đức Phật và các đệ tử trực tiếp của Ngài, Madhura đã phát triển thành một trung tâm Phật giáo lớn trong những thế kỷ sau đó. Trong thời kỳ Kusana và Gupta, những người thợ đá của Madhura đã tạo ra một số lượng lớn và đa dạng các tác phẩm nghệ thuật để trang trí cho các điện thờ địa phương cũng như ở nhiều nơi khác của Ấn Độ.

Khi Pháp Hiển đến thăm Madhura, ông thấy 20 tu viện và có tới 3000 vị Tỳ-khưu. Có những bảo tháp tôn vinh Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên và A-nan, và cũng có những bảo tháp tôn vinh Kinh tạng, Luật tạng và Luận tạng. Mỗi năm một lần, sau khi an cư kiết hạ, có một lễ hội tôn giáo lớn mà toàn dân tham gia. “Tất cả chư Tăng tập hợp trong một đại hội lớn và thuyết giảng Pháp, sau đó cúng dường lên bảo tháp của Xá-lợi-phất, với đủ loại hoa và hương. Suốt đêm, đèn được thắp sáng và những nhạc công tài giỏi được thuê để biểu diễn… Phần lớn các vị ni sư cúng dường lên bảo tháp của A-nan vì chính Ngài là người đã thỉnh cầu Đức Thế Tôn cho phép phụ nữ xuất gia. Các vị Sa-di phần lớn cúng dường cho La-hầu-la. Các vị giáo sư Luận tạng cúng dường cho Luận tạng; những người của Luật tạng cúng dường cho Luật tạng.” Huyền Trang cũng đề cập đến việc nhìn thấy lễ hội tương tự này trong thời gian ông ở trong thành phố. Ông cũng nhìn thấy ba bảo tháp do vua A-dục xây dựng.

Sức sống của Phật giáo ở Madhura được chứng minh qua việc hơn 150 năm khai quật trong và xung quanh thị trấn đã đưa ra ánh sáng một số lượng lớn các cổ vật Phật giáo. Năm 1836, Đại tá L.R. Stacy tìm thấy một bức tượng một cô gái ngực đầy đặn, đứng trên một người lùn đang cúi mình, với một con chim trên vai và một chiếc lồng chim trên tay phải. Tác phẩm điêu khắc quyến rũ này hiện đang ở Bảo tàng Ấn Độ ở Kolkata đã thu hút nhiều sự chú ý, và các nhà khảo cổ nghiệp dư bắt đầu đào bới trong các gò đất xung quanh thị trấn để tìm kiếm thêm. Cunningham đã khám phá khu vực này vào năm 1853 và một lần nữa vào năm 1862 và 1871. Năm 1860, khi tòa án đang được xây dựng, rất nhiều tác phẩm điêu khắc đã được tìm thấy, bao gồm các bức tượng, lan can đá, cột trụ, bảo tháp nhỏ và ô đá. Chính tại đây, bức tượng “Phật Madhura” nổi tiếng, có lẽ là bức tượng Phật đẹp nhất từng được tạo ra ở Ấn Độ, đã được khai quật. Nó hiện được lưu giữ tại Rastrapati Bhavan ở New Delhi và tiếc là công chúng không thể xem được. Phát hiện khảo cổ học phi thường cuối cùng trong chuỗi các phát hiện từ Madhura diễn ra vào năm 1976 ở ngoại ô phía tây của thành phố, gần công trình cấp nước. Một kho tàng tác phẩm điêu khắc đồ sộ từ thời kỳ Kusana và Gupta đã được tìm thấy, bao gồm hai bức tượng Phật kích thước thật, cả hai đều rất đẹp và được khắc tên người nghệ sĩ đã tạo ra chúng. Thật không may, không có ngôi đền và điện thờ nào trong số rất nhiều ngôi đền và điện thờ của Madhura có thể được nhìn thấy ngày nay vì thành phố hiện đại đã mọc lên trên chúng. Để chiêm ngưỡng vẻ vang của Madhura trong quá khứ, cần phải đến thăm bảo tàng của thành phố.

NHỮNG ĐIỀU CẦN THAM QUAN

Bảo tàng Chính phủ

Bảo tàng Chính phủ chắc chắn là một trong những bảo tàng tốt nhất của Ấn Độ và vì bộ sưu tập lớn các tác phẩm điêu khắc Phật giáo nên nó đặc biệt thu hút những người hành hương Phật giáo. Tác phẩm đẹp nhất trong bảo tàng là bức tượng Phật đứng kích thước thật. Bức tượng có niên đại từ giữa thế kỷ thứ 5 sau Công nguyên và một dòng chữ trên bệ ghi rằng nó được cúng dường bởi một vị Tỳ-khưu tên là Yasadinna. Bàn tay phải, hiện đã mất, được giơ lên ​​trong tư thế ban sự không sợ hãi trong khi bàn tay trái giữ mép áo choàng. Chiếc thắt lưng quanh eo có thể được nhìn thấy bên dưới áo choàng, làm cho lớp vải trông nhẹ nhàng và bán trong suốt. Bàn tay, khuôn mặt và vầng hào quang đã được chạm khắc rất tinh xảo, mang lại cho toàn bộ bức tượng một chủ nghĩa hiện thực độc đáo trong điêu khắc Ấn Độ. Hai tín đồ nhỏ quỳ gối tôn kính hai bên chân Đức Phật.

Một tác phẩm điêu khắc đẹp khác là bức tượng Phật nhỏ ngồi được tìm thấy ở Katra, cách Madhura vài km. Bức tượng, được bảo quản hoàn hảo, ngồi bắt chéo chân trên một bệ đỡ bởi ba con sư tử. Nó có niên đại từ thế kỷ thứ 2 sau Công nguyên và dòng chữ trên bệ ghi lại rằng nó được cúng dường bởi ni sư Phật giáo Amohasi “vì sự an lạc và hạnh phúc của tất cả chúng sinh.” Hai người hầu đội vương miện nhìn trộm từ phía sau Đức Phật trong khi hai vị thiên, vị bên trái mang một bát đá quý và vị bên phải giơ tay bày tỏ lòng kính trọng, bay về phía vầng hào quang. Lá và cành của cây Bồ đề có thể được nhìn thấy rõ ràng phía sau đầu Đức Phật. Đôi mắt Đức Phật mở to và bàn tay trái đặt vững chắc trên đầu gối tạo ấn tượng về sự mạnh mẽ và tỉnh táo.

Về mặt lịch sử, tác phẩm điêu khắc quan trọng nhất trong bảo tàng là bức chân dung vua Kanishka, một trong số ít bức chân dung của một nhân vật lịch sử còn sót lại từ Ấn Độ cổ đại. Mặc dù phần đầu đã mất, nhưng bàn chân dang rộng, tay trái chạm vào cây chùy và tay phải nắm chặt thanh kiếm khổng lồ cho thấy rõ ràng rằng Kanishka là một vị vua nghiêm khắc. Dòng chữ trên bức tượng có nội dung: “Đại đế, Vua của các vị vua, Con của Thượng đế, Kanishka.” Bất chấp năng lực quân sự mà bức chân dung này thể hiện, Kanishka cũng là một người yêu nghệ thuật và đã làm nhiều hơn để thúc đẩy Phật giáo hơn bất kỳ vị vua Ấn Độ nào khác ngoại trừ A-dục.

Bảo tàng Chính phủ cách Ga Đường sắt Cantonment không xa và mở cửa từ 10:30 sáng đến 4:30 chiều, đóng cửa vào thứ Hai. Từ ngày 16 tháng 4 đến ngày 30 tháng 6, thời gian là từ 7:30 sáng đến 12:30 chiều.

CÁCH ĐẾN ĐÓ

Madhura (Mathura) cách Delhi 145 km về phía nam và cách Agra 58 km về phía tây bắc trên đường cao tốc chính và tuyến đường sắt giữa hai thành phố. Bảo tàng Chính phủ cách ga xe lửa khoảng 1 km.

GURPA (CỔ-LÂU-PA-DA)

Như những đỉnh núi cao chót vót của đám mây xanh thẫm, Như những tòa nhà nguy nga tráng lệ là những tảng đá này, Nơi tiếng voi vang vọng khắp không gian, Những đỉnh núi đá này làm tâm trí tôi thích thú. (1)

Một trong những vị đệ tử nổi tiếng và quan trọng nhất của Đức Phật là Ma-ha Ca-diếp. Với tính cách khắc khổ và nghiêm khắc, Ma-ha Ca-diếp đã triệu tập Kiết tập Kinh điển lần thứ nhất sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn và được coi là người kế vị Ngài. Trong khi một số vị Tỳ-khưu sống trong các tu viện và tiếp xúc với các vị Tỳ-khưu khác và hàng cư sĩ, thì Ma-ha Ca-diếp lại thích cuộc sống khổ hạnh hơn, dành phần lớn thời gian của mình trong những khu rừng và ngọn đồi hoang vắng. Tam tạng kinh điển và các bộ luận giải cổ đại chứa đựng nhiều chi tiết về cuộc đời của Ma-ha Ca-diếp, nhưng kỳ lạ thay, lại không nói gì về việc Ngài mất như thế nào, khi nào hoặc ở đâu.

Tuy nhiên, các tài liệu ban đầu như Luật tạng Sarvastivadin và Divyavadana kể câu chuyện này. Trước khi Đức Phật nhập Niết-bàn, Ngài đã đổi y của mình cho Ma-ha Ca-diếp. Khoảng 20 năm sau, cảm thấy cái chết đang đến gần, vị khổ hạnh già nua này đã đến một ngọn núi hẻo lánh với ý định leo lên đỉnh. Khi những tảng đá chắn đường, Ngài dùng gậy gõ vào chúng và chúng tách ra để Ngài đi qua. Khi đến đỉnh núi, một hang động khác mở ra, Ma-ha Ca-diếp bước vào, rơi vào trạng thái thiền định sâu và những tảng đá khép lại xung quanh Ngài. Câu chuyện kết thúc bằng cách nói rằng trong tương lai xa, khi Đức Phật Di Lặc xuất hiện trên thế gian, Ngài sẽ đến ngọn núi này, đánh thức Ma-ha Ca-diếp, nhận y của Đức Phật từ Ngài và sau đó tiếp tục tuyên bố giáo pháp mới. Nơi mà tất cả những sự kiện này đã và sẽ diễn ra được gọi là Gurupadagiri (Núi Chân Thầy) hay thường được gọi là Kukkutapadagiri (Núi Chân Gà), rõ ràng là vì ba đỉnh núi của nó gợi nhớ đến chân gà.

Kukkutapadagiri nhanh chóng nổi tiếng là nơi ở của các vị khổ hạnh và thánh nhân. Trong một tài liệu kể về nó, chúng ta đọc được: “Những người hành hương Phật giáo từ quốc gia đó và các quốc gia khác hàng năm đến để tỏ lòng tôn kính với Ca-diếp; nếu có ai băn khoăn nghi ngờ, ngay khi mặt trời lặn, các vị A-la-hán sẽ đến và bắt đầu thuyết giảng cho những người hành hương và giải thích những nghi ngờ và khó khăn của họ; và, sau khi làm như vậy, ngay lập tức biến mất.” Hai trong số nhiều nhân vật nổi tiếng sống trên núi là vị thánh Phật giáo thời kỳ đầu Sanavastika và nhà triết học Đại thừa Asanga. Cả Huyền Trang và Pháp Hiển đều đến thăm nơi này, người trước đã viết một mô tả về nó mà ngày nay vẫn còn đúng. “Sườn núi cao và hiểm trở, thung lũng và hẻm núi không thể xuyên thủng. Những dòng nước xiết ào ạt đổ xuống hai bên sườn núi, những khu rừng rậm rạp bao phủ các thung lũng trong khi những bụi cây rậm rạp mọc dọc theo những vách đá cao ngất. Vút lên không trung là ba đỉnh núi nhọn hoắt; đỉnh của chúng được bao quanh bởi những làn hơi nước của trời và hình dạng của chúng chìm khuất trong mây.” Lần cuối cùng chúng ta nghe nói về ngọn núi của Ma-ha Ca-diếp trong văn học Phật giáo truyền thống là trong tiểu sử của nhà du hành vĩ đại Buddhagupta, người đã đến thăm nó trong thời gian ngắn trong những chuyến lang thang của ông vào thế kỷ 16.

Trong thế kỷ 19, một số nỗ lực đã được thực hiện để tìm Kukkutapadagiri. Cunningham cho rằng đó có thể là một ngọn đồi thấp gần làng Kurkihar trong khi Aurel Stein cho rằng nó có thể được xác định là đồi Sobnath, cách Kurkihar khoảng 6 km về phía tây nam. Nhưng cả hai gợi ý này đều không mấy thuyết phục. Cuối cùng, vào năm 1906, R. D. Banerjee đã phát hiện ra một ngọn núi phía đông nam Gaya tên là Gurpa, rất phù hợp với những mô tả cổ xưa về nơi này. Tên của nó là dạng rút gọn của Gurupada, tên gọi khác của ngọn núi thiêng, có các cổ vật Phật giáo ở đó và nó có tất cả các hang động, khe nứt và đỉnh núi được những người hành hương thời xưa nhắc đến. Ngày nay, Gurpa vẫn được bao quanh bởi những bụi cây khô và rừng rậm thấp và như vậy, nó là một trong số ít những nơi linh thiêng ở Trung Ấn Độ vẫn giữ được nhiều nét như thời Đức Phật.

NHỮNG ĐIỀU CẦN THAM QUAN

Núi Gurpa

Với độ cao khoảng 300 mét, Gurpa là một trong những ngọn núi cao nhất ở thung lũng sông Hằng. Từ làng Gurpa, người hành hương phải đi bộ qua khoảng một km rừng rậm để đến chân núi. Từ đó, một con đường dốc gồ ghề dẫn lên đỉnh. Sau khoảng nửa giờ leo núi vất vả, người hành hương sẽ đến một khu vực bằng phẳng, nhiều đá, trên đó có một số tảng đá khổng lồ. Giữa hai tảng đá này là một hồ nước đá với làn nước trong vắt, tối tăm. Con đường tiếp tục uốn lượn lên trên cho đến khi cuối cùng dẫn đến chân một vách đá dựng đứng. Bên phải là một hang động không thể đi qua và bên trái là một khe hẹp chạy từ đỉnh xuống chân vách đá. Đây hẳn là nơi mà, theo truyền thuyết, Ma-ha Ca-diếp đã dùng gậy gõ vào đá và nó mở ra để Ngài đi qua.

Bước vào khe nứt này và đi khoảng 70 mét, người hành hương sau đó phải rẽ trái vào một hang động hoàn toàn tối. Một ngọn đuốc sẽ giúp việc di chuyển dễ dàng hơn nhiều. Hang động mở ra một gờ đá, từ đó con đường tiếp tục băng qua những tảng đá đến cửa một hang động khác. Hang động này kết thúc tại một vực thẳm ngoạn mục, ở ngay rìa đó là một bể chứa nước được khoét ra từ đá sống. Khi Pháp Hiển đến Kukkutapadagiri, ông nhìn thấy một vùng nước mà, theo lời kể, Ma-ha Ca-diếp thường tắm và từ đó những người hành hương sẽ lấy bùn vì những đặc tính chữa bệnh được cho là của nó. Không rõ bể chứa này hay hồ nước đá ở xa hơn trên núi là nơi mà Pháp Hiển nhắc đến.

Quay trở lại lối vào hang và tiếp tục leo lên, người hành hương sẽ sớm đến đỉnh. Một dãy điện thờ Ấn Độ giáo được xây dựng thô sơ và một bảo tháp mới được xây dựng gần đây nằm trên đỉnh núi. Gắn trên tường của các điện thờ Ấn Độ giáo là một bức tượng Phật, một bức tượng khác của Tara và một số mảnh đá chạm khắc. Trên sàn nhà trong điện thờ cuối cùng là một phiến đá có một cặp dấu chân và một dòng chữ khắc từ thế kỷ thứ 10 trên đó. Có khả năng những người theo Phật giáo cổ đại tin rằng những dấu chân này thuộc về Ma-ha Ca-diếp; người dân địa phương bây giờ tin rằng chúng là của nữ thần núi. Phía trước các điện thờ là nền móng của một công trình hình chữ nhật lớn làm bằng đá thô. Đây có lẽ là tàn tích của bảo tháp Kukkutapadagiri nổi tiếng mà truyền thuyết cho rằng đã được vua A-xà-thế xây dựng. Trên các bức tượng Di Lặc, chính bảo tháp này luôn được mô tả trong vương miện của Ngài. Phía sau các điện thờ là ba bảo tháp đá nhỏ, được chạm khắc đẹp mắt có niên đại từ thời Pala. Khung cảnh nhìn từ đỉnh Gurpa đặc biệt đẹp; về phía đông và phía tây là hai đỉnh núi khác của Gurpa; phía bắc là những cánh đồng canh tác của Bihar và phía nam là rừng rậm trải dài tít tắp.

CÁCH ĐẾN ĐÓ

Từ Gaya, đi qua cây cầu mới bắc qua sông và đi theo đường Fatipur qua Fatipur đến làng Gurpa. Con đường được trải nhựa nhưng gồ ghề đến Fatipur và không trải nhựa ở những đoạn đường xa hơn, tổng quãng đường khoảng 33 km. Không có xe buýt đến Gurpa nên cần phải thuê xe. Từ làng, đi bộ qua đường ray xe lửa và đi theo một trong những con đường dẫn đến núi.

LAURIYA NANDANGAR (LAU-RI-A NAN-DAN-GA)

Thị trấn nhỏ Lauriya Nandangar không có mối liên hệ nào được biết đến với Đức Phật, nhưng xét theo các di tích trong khu vực, nó hẳn đã có ý nghĩa đặc biệt đối với các Phật tử thời xưa. Xung quanh thị trấn có khoảng 20 gò đất phủ cỏ thành ba hàng, một hàng chạy từ đông sang tây và hai hàng khác song song với nhau, chạy từ bắc xuống nam. Những gò đất này có lẽ là tàn tích của những bảo tháp cổ, và việc khai quật chúng đã đưa ra ánh sáng những mảnh vỡ của các bình bằng đất, xương người bị cháy xém, và trong một trường hợp, một hình người nhỏ làm bằng vàng dát mỏng. Các bảo tháp thiếu các đặc điểm phát triển, cho thấy chúng có niên đại rất sớm. Nhưng chính hai di tích khác ở Lauriya Nandangar mới khiến nó trở nên thú vị đối với các Phật tử.

NHỮNG ĐIỀU CẦN THAM QUAN

Cột trụ của vua A-dục

Người ta tin rằng vua A-dục ban đầu đã dựng khoảng 40 cột trụ, nhưng chỉ một số ít trong số này còn tồn tại nguyên vẹn. Một số bị sét đánh, một số bị đổ và vỡ, một số bị kéo đến các địa điểm khác, và một số, như cột trụ Sanchi, bị phá vỡ để lấy đá cho các mục đích khác nhau. Chỉ có cột trụ Lauriya Nandangar còn lại ở vị trí ban đầu với phần đỉnh còn nguyên vẹn, do đó mang đến cái nhìn độc đáo về ấn tượng mạnh mẽ mà những di tích hùng vĩ này đã từng tạo ra. Thân cột trụ có độ dốc thoai thoải vào trong và cao 12,8 mét mặc dù nó có thể đã chìm xuống đất vài mét trong nhiều thế kỷ. Phần đỉnh bao gồm một diềm trang trí thấp hơn so với đỉnh cột trụ Sarnath, và có một dải xoắn ốc bên dưới nó. Phía trên là phần trống với một dải trang trí hình ngỗng chạy xung quanh từ trái sang phải. Trên trống có một con sư tử đang ngồi xổm với các đường nét được chạm khắc tinh xảo, mạnh mẽ và uy nghiêm. Thật không may, khuôn mặt của con sư tử đã bị mất, có lẽ đã bị bắn bởi một khẩu đại bác khi quân đội của Mir Jumla đi qua nơi này vào năm 1660. Sáu sắc lệnh của vua A-dục ban hành năm 244 TCN được khắc trên cột trụ Lauriya Nandangar, và bởi vì chúng đưa ra một ý tưởng hay về phạm vi nỗ lực của ông trong việc áp dụng các giá trị Phật giáo vào chính quyền của mình, chúng đáng được trích dẫn đầy đủ:

“Người được chư Thiên yêu mến nói như sau: Sắc lệnh Chánh pháp này được viết hai mươi sáu năm sau khi ta lên ngôi. Hạnh phúc trong thế giới này và thế giới tới rất khó đạt được nếu không có nhiều tình yêu thương đối với Chánh pháp, nhiều sự tự kiểm điểm, nhiều sự tôn trọng, nhiều sự sợ hãi (cái ác) và nhiều sự nhiệt tình. Nhưng thông qua sự chỉ dạy của ta, sự quan tâm đến Chánh pháp và tình yêu thương Chánh pháp này đã tăng lên từng ngày và sẽ tiếp tục tăng lên. Và các quan chức cấp cao, cấp thấp và cấp trung của ta đang thực hành và tuân theo Chánh pháp, và có khả năng truyền cảm hứng cho những người khác làm điều tương tự. Các vị đại thần ở các vùng biên giới cũng đang làm như vậy. Và đây là những chỉ dẫn của ta: bảo vệ bằng Chánh pháp, tạo hạnh phúc thông qua Chánh pháp và gìn giữ bằng Chánh pháp.”

“Người được chư Thiên yêu mến, vua Piyadasi, nói như sau: Chánh pháp là tốt, nhưng Chánh pháp bao gồm những gì? (Nó bao gồm) ít ác, nhiều thiện, lòng tốt, sự rộng lượng, trung thực và thanh tịnh. Ta đã ban tặng món quà thị giác theo nhiều cách khác nhau. Cho chúng sinh hai chân và bốn chân, cho chim chóc và động vật thủy sinh, ta đã ban tặng nhiều thứ, bao gồm cả món quà sự sống. Và nhiều việc thiện khác đã được ta thực hiện. Sắc lệnh Chánh pháp này đã được viết ra để mọi người có thể làm theo và nó có thể tồn tại trong một thời gian dài. Và người nào làm theo nó một cách đúng đắn sẽ làm được điều thiện.”

“Người được chư Thiên yêu mến, vua Piyadasi, nói như sau: Mọi người chỉ nhìn thấy những việc làm tốt của họ, nói rằng: ‘Ta đã làm việc thiện này.’ Nhưng họ không nhìn thấy những việc làm xấu xa của họ, nói rằng: ‘Ta đã làm việc ác này’ hoặc ‘Điều này được gọi là ác.’ Nhưng (xu hướng) này rất khó nhìn thấy. Người ta nên suy nghĩ như thế này: ‘Chính những điều này dẫn đến cái ác, bạo lực, tàn ác, tức giận, kiêu ngạo và ghen tị. Ta đừng để mình bị hủy hoại bởi những điều này.’ Và hơn nữa, người ta nên nghĩ: ”Điều này dẫn đến hạnh phúc trong thế giới này và thế giới tới”.”

“Người được chư Thiên yêu mến nói như sau: Sắc lệnh Chánh pháp này được viết hai mươi sáu năm sau khi ta lên ngôi. Các vị Rajjuka của ta đang làm việc giữa dân chúng, giữa hàng trăm nghìn người. Việc xét xử các đơn kiện và thi hành công lý đã được giao cho họ để họ có thể thực hiện nhiệm vụ của mình một cách tự tin và không sợ hãi, và để họ có thể làm việc vì phúc lợi, hạnh phúc và lợi ích của người dân trong nước. Nhưng họ nên nhớ điều gì gây ra hạnh phúc và đau khổ, và bản thân họ hết lòng với Chánh pháp, họ nên khuyến khích người dân trong nước (làm điều tương tự), để họ có thể đạt được hạnh phúc trong thế giới này và thế giới tới. Các vị Rajjuka này rất háo hức phục vụ ta. Họ cũng tuân theo các quan chức khác, những người biết mong muốn của ta, những người hướng dẫn các vị Rajjuka để họ có thể làm hài lòng ta. Giống như một người cảm thấy tự tin khi giao con mình cho một người y tá chuyên nghiệp, nghĩ rằng: ‘Người y tá sẽ chăm sóc con tôi khỏe mạnh’, các vị Rajjuka cũng vậy, đã được ta bổ nhiệm vì phúc lợi và hạnh phúc của người dân trong nước. Việc xét xử các đơn kiện và thi hành công lý đã được giao cho các vị Rajjuka để họ có thể thực hiện nhiệm vụ của mình một cách không bị quấy rầy, không sợ hãi và tự tin. Ta mong muốn rằng luật pháp phải thống nhất và việc tuyên án phải thống nhất. Ta thậm chí còn đi xa hơn, cho phép những người trong tù đã bị xét xử và kết án tử hình được hoãn thi hành án trong ba ngày. Trong thời gian này, người thân của họ có thể kháng cáo để được tha mạng cho các tù nhân. Nếu không có ai kháng cáo thay mặt họ, các tù nhân có thể tặng quà để tạo công đức cho thế giới tới, hoặc tuân thủ các ngày ăn chay. Thật vậy, ta mong muốn rằng bằng cách này, ngay cả khi thời gian của một tù nhân có hạn, họ có thể chuẩn bị cho thế giới tới, và việc thực hành Chánh pháp, tự chủ và rộng lượng của mọi người có thể phát triển.”

“Người được chư Thiên yêu mến, vua Piyadasi, nói như sau: Hai mươi sáu năm sau khi ta lên ngôi, nhiều loài động vật được tuyên bố là được bảo vệ – vẹt, chim sáo, aruna, ngỗng đỏ, vịt trời, dơi, kiến ​​chúa, rùa đầm, cá không xương, rùa cạn, nhím, sóc, hươu, bò đực, okapinda, lừa rừng, bồ câu rừng, bồ câu nhà và tất cả các loài động vật bốn chân không hữu ích cũng không ăn được. Những con dê cái, cừu cái và lợn nái đang mang thai hoặc đang cho con bú được bảo vệ, và những con non dưới sáu tháng tuổi cũng vậy. Gà trống không được thiến, vỏ trấu ẩn chứa sinh vật sống không được đốt và rừng không được đốt, dù vô cớ hay để giết sinh vật. Không được cho một con vật ăn thịt một con vật khác. Vào ba tháng An cư kiết hạ, ba ngày Tisa và trong ngày mười bốn và mười lăm của Uposatha, cá được bảo vệ và không được bán. Trong những ngày này, động vật cũng không được giết trong các khu bảo tồn voi hoặc khu bảo tồn cá. Vào ngày thứ tám của mỗi nửa tháng, vào ngày mười bốn và mười lăm, vào Tisa, Punarvasu, ba tháng An cư kiết hạ và những ngày tốt lành khác, bò đực không được thiến, dê đực, cừu đực, lợn rừng và các động vật khác thường bị thiến cũng không được thiến. Vào Tisa, Punarvasu, An cư kiết hạ và nửa tháng của An cư kiết hạ, ngựa và bò đực không được đóng dấu. Trong hai mươi sáu năm kể từ khi ta lên ngôi, các tù nhân đã được ân xá hai mươi lăm lần.”

“Người được chư Thiên yêu mến nói như sau: Mười hai năm sau khi ta lên ngôi, ta bắt đầu cho viết các sắc lệnh Chánh pháp vì sự an lạc và hạnh phúc của người dân, và để không vi phạm chúng, họ có thể phát triển trong Chánh pháp. Suy nghĩ: ‘Làm thế nào để đảm bảo sự an lạc và hạnh phúc của người dân?’ Ta quan tâm đến những người thân của mình, đến những người sống gần và những người sống xa, để ta có thể đưa họ đến hạnh phúc và sau đó ta hành động phù hợp. Ta làm điều tương tự cho tất cả các nhóm. Ta đã tôn vinh tất cả các tôn giáo bằng nhiều danh dự khác nhau. Nhưng ta cho rằng tốt nhất là gặp gỡ mọi người trực tiếp. Sắc lệnh Chánh pháp này được viết hai mươi sáu năm sau khi ta lên ngôi.”

Những sắc lệnh tương tự này được tìm thấy trên các cột trụ Topra và Meerut, hiện ở Delhi, cột trụ Allahabad và các cột trụ ở Lauriya Araraj và Rampurva, cả hai địa điểm này đều cách Lauriya Nandangar không xa. Cũng như bản khắc của vua A-dục, cột trụ có một lượng lớn chữ khắc trên đó, cả cổ đại lẫn hiện đại. Lý do tại sao vua A-dục chọn địa điểm này để dựng một cột trụ vẫn chưa được biết, nhưng người ta cho rằng vào thời cổ đại, Lauriya Nandangar là một trong những điểm dừng chân chính trên tuyến đường hành hương từ Patna đến Lumbini.

Bảo tháp

Cách cột trụ của vua A-dục khoảng 1,5 km, phía sau nhà máy đường địa phương, là tàn tích của thứ hẳn đã từng là một trong những bảo tháp lớn nhất từng được xây dựng ở Ấn Độ. Mặc dù bảo tháp hiện chỉ cao khoảng 24 mét nhưng nó có chu vi gần 457 mét. Phần đế của bảo tháp nhô lên thành một loạt các tầng khổng lồ, các tầng thấp hơn có mặt bằng hình đa giác, trong khi các tầng trên hình tròn. Việc khai quật cho thấy lõi của bảo tháp được làm bằng đất. Ở độ sâu 11 mét tính từ đỉnh, người ta tìm thấy một bảo tháp hoàn chỉnh nhỏ hơn không có xá lợi bên trong. Tuy nhiên, bên cạnh nó là một chiếc hộp đựng một dải vỏ cây bạch dương dài, được chứng minh là một trang trong kinh sách Phật giáo có niên đại từ khoảng thế kỷ thứ 4 sau Công nguyên. Một bảo tháp có kích thước khổng lồ như vậy hẳn đã được xây dựng để thờ phụng một số xá lợi rất quý giá hoặc để kỷ niệm một sự kiện rất quan trọng nào đó, nhưng đó là gì vẫn còn là một bí ẩn.

CÁCH ĐẾN ĐÓ

Lauriya Nandangar cách Bettiah 26 km, nằm trên con đường chính phía bắc Patna. Bettiah cách Patna 190 km qua Motihari và Muzaffarpur.

BARABAR, NAGARJUNI VÀ KAUADOL

Phía bắc thành Gaya có một số ngọn đồi hoang vắng và rải rác đá cuội được gọi chung là Barabar và Nagarjuni. Vào thời cổ đại, khu vực này được gọi là Pravaragiri, “ngọn đồi tuyệt vời” mà từ đó cái tên Barabar được bắt nguồn. Những ngọn đồi này hẳn đã có rừng rậm rạp trong thời Đức Phật và nhiều tảng đá và khe nứt của chúng sẽ khiến chúng trở thành nơi lui tới ưa thích của các vị khổ hạnh lang thang và chư Tăng Phật giáo. Có một số địa điểm xung quanh đồi Barabar gắn liền với cuộc đời của Đức Phật và lịch sử lâu dài của Phật giáo ở Ấn Độ.

NHỮNG ĐIỀU CẦN THAM QUAN

Hang Lomas Rishi

Các vị khổ hạnh ở Ấn Độ luôn ưa chuộng sống trong hang động; vì chúng mát mẻ vào mùa hè và vì chúng có xu hướng ngăn tiếng ồn, chúng thích hợp cho việc thiền định. Khi không có hang động tự nhiên, người ta có thể đục ra những hang động nhân tạo, và ở Ấn Độ, tập tục này đã phát triển thành một nghệ thuật đạt đến đỉnh cao với những ngôi đền hang động vĩ đại của Ellora và Ajanta. Các hang động nhân tạo trên đồi Barbara đại diện cho sự khởi đầu của nghệ thuật này. Tất cả bốn hang động có lẽ được vua A-dục ủy thác và tặng cho những người Ajivaka, một giáo phái khổ hạnh khỏa thân do Makkhali Gosala thành lập vào thời Đức Phật, nhưng cuối cùng đã chết. Món quà của vua A-dục về những hang động này chứng tỏ rằng mặc dù nhiệt thành với Phật giáo, nhưng ông vẫn đủ khoan dung để hỗ trợ các giáo phái và tôn giáo khác.

Hang động thú vị nhất trên đồi Barabar là hang Lomas Rishi. Bên trong hang động bao gồm một sảnh dài hình vòm với một tiền sảnh ở một đầu giống như nội thất của một túp lều tròn nhỏ. Các bức tường của sảnh được đánh bóng cao, mặc dù mái nhà và tiền sảnh vẫn chưa hoàn thiện. Nhưng chính mặt tiền của hang động mới khiến nó trở nên thú vị, vì nó là bản sao chính xác bằng đá của những túp lều mái tranh bằng gỗ mà các vị khổ hạnh, bao gồm cả chư Tăng Phật giáo, từng sống. Hai cột thẳng đứng hơi nghiêng vào trong đỡ hai xà nhà chính, và những cột này cùng với một hàng xà phụ đỡ mái nhà, bao gồm ba tấm gỗ dán. Phía trên cửa là những mái vòm hình bán nguyệt. Giữa những mái vòm thấp hơn là một đám rước voi được chạm khắc đẹp mắt đang thờ cúng các bảo tháp, điều này, cần phải hiểu rằng, cũng là đối tượng tôn kính trong các tôn giáo phi Phật giáo. Giữa các mái vòm phía trên là một cửa sổ hình mắt cáo. Người thợ đá đã sao chép từng chi tiết công việc của người thợ mộc một cách cẩn thận đến mức toàn bộ trông giống như một cấu trúc bằng gỗ nhưng hóa đá. Mặc dù hang Lomas Rishi có niên đại từ thời Maurya, nhưng dòng chữ phía trên cửa đã được thêm vào vài thế kỷ sau khi hang động được xây dựng.

Hang Sudama và Karna Chaupar

Có ba hang động khác trên đồi Barabar, một hang hơi cách xa và hai hang khác gần hang Lomas Rishi. Cách Lomas Rishi một đoạn ngắn về bên trái là hang Sudama, hang này không có mặt tiền nhưng có nội thất rất ấn tượng. Sảnh chính dài 10 mét, rộng 6 mét và cao 3,7 mét. Toàn bộ nội thất được đánh bóng đẹp mắt và các góc nơi các bề mặt gặp nhau đều hoàn hảo. Ở cuối sảnh là một túp lều hình tròn với những rãnh thẳng đứng không đều nhau để mô phỏng rơm và tre. Trên tường của lối vào chính là một dòng chữ của vua A-dục có nội dung: “Năm thứ mười hai sau khi lên ngôi, vua Piyadasi đã tặng hang Nigrodha này cho những người Ajivaka.” Đã có những nỗ lực để xóa bỏ dòng chữ này, có lẽ bởi những cư dân sau này của hang động là đối thủ của những người Ajivaka. Ở phía bên kia của sườn núi dài, nơi cả hang Lomas Rishi và hang Sudama đều được đục ra, là hang Karna Chaupar. Nội thất của hang động này tương tự như hai hang động kia, ngoại trừ việc nó không có tiền sảnh và có một bục dựa vào bức tường phía tây của nó, có lẽ được sử dụng làm chỗ ngồi của giáo viên, giường ngủ hoặc điện thờ. Dòng chữ ở lối vào hang động, một lần nữa do vua A-dục viết, có nội dung: “Năm thứ mười chín sau khi lên ngôi, vua Piyadasi đã tặng hang động này trên đồi Khalatika dễ chịu để bảo vệ khỏi mưa.” Một lần nữa, dòng chữ đã bị xóa.

Hang Gopika

Đi bộ khoảng 2 km về phía đông bắc từ chân đồi Barabar, người hành hương sẽ đến đồi Nagarjuni. Hang Gopika và cầu thang lớn dẫn lên đó có thể dễ dàng nhìn thấy khi người ta đến gần qua những cánh đồng lúa. Gopika là hang động lớn nhất trong số những hang động cổ này, sảnh của nó dài 12,3 mét, rộng 5,2 mét và cao 6,5 mét. Hai đầu hình bán nguyệt của sảnh và mái vòm hình thùng được thi công hoàn hảo, và một lần nữa toàn bộ bề mặt được đánh bóng cao. Phía trên lối vào bên ngoài là một dòng chữ của vua Dasaratha, cháu trai của vua A-dục. Nó có nội dung: “Hang Gopi, nơi ở lâu dài như mặt trời và mặt trăng, được vua Dasaratha, Người được chư Thiên yêu mến, cho khai quật khi ông lên ngôi, làm nơi ẩn cư cho những vị khổ hạnh tận tâm nhất.” Trong lối đi dẫn vào hang động có một số dòng chữ khác từ các thời kỳ sau đó.

Kauadol

Phía tây nam đồi Barabar là một ngọn đồi cao, nhiều đá, nhọn hoắt tên là Kawadol, có lẽ là “Điện thờ Pasanaka đáng yêu, xinh đẹp”, nơi diễn ra các sự kiện trong Parayanavagga của Kinh Sutta Nipata. (1) Khi Huyền Trang đang trên đường đến Bồ Đề Đạo Tràng từ Patna, ông đi ngang qua đồi Barabar và mô tả một số tu viện lớn trong vùng lân cận, quan trọng nhất được thành lập bởi và được đặt theo tên một vị Tỳ-khưu tên là Silabhadra. Sinh ra ở Bengal và được Dharmapala thọ giới tại Nalanda, Siladhadra sau đó đã nổi bật trong các cuộc tranh luận với các học giả phi Phật giáo. Để thưởng cho kỹ năng của ông, nhà vua đã ban tặng cho ông doanh thu của một thị trấn và từ đó ông đã xây dựng một tu viện, tàn tích của nó vẫn còn có thể nhìn thấy. Dưới chân đồi Kawadol là một gò đất khổng lồ với một số cột đá nhô lên từ đó và gần đó, được che chở dưới một lùm cây me cổ thụ, là một bức tượng Phật lớn và đặc biệt đẹp. Khuôn mặt của nó đã bị những kẻ bài trừ thánh tượng làm hư hại nhưng ngoài ra, nó vẫn trong tình trạng tốt. Cunningham đã đo bức tượng và thấy nó rộng 2,4 mét ngang vai và 1,4 mét từ đầu gối đến đầu gối. Đôi mắt của bức tượng được miêu tả gần như nhắm nghiền hoàn toàn, tạo cho nó một vẻ mặt thanh thản nội tâm tuyệt vời. Hai bàn tay ở tư thế chạm đất và trên bệ bên dưới nó là những hốc hình vòm với những bức tượng Phật nhỏ và bảo tháp trong đó. Một dòng chữ phía trên những hốc này vẫn chưa được giải mã nhưng có lẽ là Tóm tắt Chánh pháp hoặc tên của người đã cúng dường bức tượng. Bên phải bức tượng là phần duy nhất còn lại của ngai vàng đã từng ở phía sau nó – một cột trụ và phần đỉnh và một bức phù điêu sư tử được chạm khắc tinh xảo được một chiến binh giơ cao, đến lượt mình, người này đang đứng trên lưng một con voi. Khi Francis Buchanan đến đây vào năm 1811, phần lớn ngôi đền đã thờ phụng bức tượng Phật này vẫn còn tồn tại. Nó có kích thước 40 x 27 mét, được làm bằng gạch và mười hoặc 12 cột trụ đã đỡ mái nhà vẫn còn đứng vững. Buchanan cũng nhìn thấy khung cửa ra vào và cửa sổ, đầu cột và các mảnh vỡ của tác phẩm điêu khắc nhưng hầu hết những thứ này đã biến mất. Nhiều tảng đá xung quanh Kauadol có hình ảnh Ấn Độ giáo được chạm khắc trên đó và rất đáng để dành thời gian xem qua chúng.

CÁCH ĐẾN ĐÓ

Đi theo con đường chính phía bắc Gaya khoảng 22 km và rẽ phải ở con đường dẫn đến Ga đường sắt Bela Bắc. Ngã rẽ được đánh dấu rõ ràng. Đồi Barabar cách ngã rẽ 15 km và con đường rất xấu. Khoảng 8 km dọc theo con đường, tại làng Balua, là ngã rẽ đến Kauadol, thêm 5 km nữa. Kauadol là ngọn đồi nhọn dốc với những tảng đá nằm chênh vênh trên đỉnh.

XUNG QUANH ĐỒI BARABAR VÀ KAWADOL

Avalokitesvara ở Dharawat

Nếu người hành hương quay trở lại con đường chính Gaya-Patna và tiếp tục đi về phía bắc, cuối cùng họ sẽ đến Makdumpur. Rẽ trái tại đồn cảnh sát dẫn sau khoảng 4 km đến làng Dharawat. Có một ngôi đền gần mỗi trong hai ao xung quanh làng, cả hai đều có những bức tượng Phật cổ bên trong. Gần một trong số này là một bức tượng Avalokitesvara ấn tượng. Bức tượng này cao khoảng 1,5 mét và mô tả vị Bồ Tát của lòng từ bi đang đứng trong tư thế thoải mái, với 12 cánh tay và một chiếc vương miện cao, trong đó có một bức tượng Phật. Bên phải là một cái bình, từ đó một cây nho nhô ra và uốn cong trên thân Bồ Tát. Vô số tua nho mọc ra từ cây nho, mỗi tua có một vị Bồ Tát nhỏ ở đầu. Dưới chân Avalokitesvara bên trái và bên phải là hai vị phối ngẫu của Ngài. Ngoài ra còn có một số hình trên bệ, hình chính là một ngạ quỷ (peta) đang cầu xin Bồ Tát giải cơn khát bằng nước cam lồ của lòng từ bi. Thật đáng để đi đến Dharawat chỉ để chiêm ngưỡng bức tượng tuyệt đẹp và khác thường này.

Cách làng khoảng 1 km về phía nam là đồi Kunwa, nơi có những tàn tích rộng lớn trên sườn đồi mà Cunningham tin rằng là tàn tích của Gunamati Vihara. Huyền Trang đã đến thăm tu viện này và đưa ra tiểu sử chi tiết về học giả vĩ đại Gunamati người Nam Ấn Độ sống ở đó. Ngoài ra còn có một hang động trên đồi có bức tranh vẽ một bảo tháp trên tường.

Telhara

Trên hành trình từ Patna đến Gaya, Huyền Trang đã dừng lại vài ngày tại Tiladhaka Vihara. Về tổ chức này, ông viết:

“Nó bao gồm bốn sân, các gian nhà ba tầng, sân thượng cao và có cổng rộng dẫn từ nơi này sang nơi khác … Các học giả từ nước ngoài và những người thông thái từ nhiều vùng đất đến đây thành từng đoàn và cư trú tại đó. Có vài nghìn người trong số họ đều đang nghiên cứu Đại thừa. Cuối con đường đối diện với cổng giữa có ba điện thờ được trang trí bằng các biểu tượng bánh xe trên mái và chuông treo … Cửa ra vào, cửa sổ, tường ngoài và cầu thang đều được tô điểm bằng vàng và đồ trang trí bằng đồng nổi. Bức tượng Phật đứng trong điện thờ giữa cao 30 feet và được đặt ở bên trái bởi Tara và bên phải bởi Avalokitesvara. Ba bức tượng này bằng đồng thau và có biểu cảm trang nghiêm.”

Một thời gian sau, khi Huyền Trang ở Nalanda, ông nghe nói về một vị Tỳ-khưu tên là Prajnahbanda ở Tiladhaka và là một chuyên gia về sabdhavidya và hetuvidya. Vì muốn hiểu biết sâu hơn về những môn học này nên ông đã ở lại tu viện ba tháng để học với Prajnabhanda.

Vị trí của tu viện lớn này đã được biết đến từ hơn một thế kỷ; Cunningham đã đến đó, viết một mô tả ngắn gọn về nó và chuyển một số tác phẩm điêu khắc mà ông tìm thấy ở đó đến Hội Châu Á ở Kolkata. Tuy nhiên, phải đến năm 2009, bước đầu tiên mới được thực hiện để khai quật địa điểm này. Cho đến nay, các cuộc khai quật đã tiết lộ một quần thể khổng lồ và vô số bức tượng, bia ký, con dấu và các yếu tố kiến ​​trúc được chạm khắc. Nhưng vì các cuộc thám hiểm đang được tiến hành và chưa có báo cáo khảo cổ nào về địa điểm này được công bố nên chúng tôi sẽ không nói thêm về nó. Cơ quan Khảo sát Khảo cổ học Ấn Độ ước tính rằng ít nhất một thập kỷ nữa sẽ cần thiết để khám phá đầy đủ địa điểm này. Mặc dù khó đến nhưng Telhara rất đáng để ghé thăm.

CÁCH ĐẾN ĐÓ

Quay trở lại con đường chính và tiếp tục đi về phía bắc đến Jahanabad. Vài km qua thị trấn, rẽ phải và từ đó thêm 22 km nữa đến Telhara. Từ Gaya đến Jahanabad là 50 km. Bạn cũng có thể đến đó khi đến thăm Nalanda. Từ Nalanda, đi theo con đường chính về phía bắc đến Bihar Sharif và sau đó hỏi đường Parwapur và đi về phía tây khoảng 35 km. Cả hai con đường đều không an toàn sau khi trời tối.

SAVATTHI (SA-VÁT-THÌ)

Thủ đô xinh đẹp của xứ Kosala Gợi niềm hứng khởi trong tâm trí, làm say đắm mắt nhìn, Mang đến cho tai mười âm thanh Và cung cấp đủ thức ăn cho tất cả. (1)

Savatthi, thủ đô của Kosala, được cho là có tên gọi bắt nguồn từ việc mọi thứ đều có sẵn ở đó (sabbani atthi) và nó thực sự là một trong những thành phố giàu có và sôi động nhất ở Trung Ấn Độ. Đức Phật đã nhiều lần viếng thăm Savatthi trước khi cuối cùng biến nó thành trụ sở chính của Ngài vào năm thứ 25 sau khi giác ngộ. Kể từ đó, Ngài đã trải qua mỗi mùa an cư kiết hạ, ngoại trừ lần cuối cùng, ở vùng ngoại ô thành phố. Có lẽ Ngài đã quyết định hạn chế những chuyến du hành của mình vào thời điểm này do tuổi cao (Ngài đã 60 tuổi) và chắc chắn Ngài đã chọn Savatthi làm căn cứ vì sự hỗ trợ hào phóng của những thương gia giàu có nhất thành phố và có lẽ vì nó chỉ cách Kapilavatthu, quê hương của Ngài, vài ngày đi bộ.

Trong khi đang ở Rajagaha để làm việc, trưởng giả Cấp Cô Độc đến thăm anh rể của mình, người mà ông thấy đang bận rộn chuẩn bị cho một bữa tiệc đến nỗi không chào đón Cấp Cô Độc theo cách thân thiện thường lệ của mình. “Có dịp gì trọng đại vậy?” Cấp Cô Độc hỏi. “Một đám cưới? Một chuyến thăm của nhà vua?” Anh rể của ông trả lời rằng ông đang chuẩn bị một bữa ăn cho Đức Phật và chư Tăng của Ngài. Chỉ cần nghe thấy từ “Phật” đã khiến Cấp Cô Độc tràn ngập niềm vui đến nỗi ông bày tỏ mong muốn được đến gặp vị “Phật” này ngay lập tức. Được cho biết rằng bây giờ không phải là thời điểm thích hợp, ông quyết định đi gặp Đức Phật vào sáng hôm sau, điều đầu tiên vào buổi sáng. Cấp Cô Độc vui mừng khôn xiết trước đặc ân hiếm có được gặp một con người giác ngộ hoàn toàn, và ông tràn trề hy vọng đến nỗi thức dậy ba lần trong đêm vì nghĩ rằng trời sắp sáng. Cuối cùng, ông lên đường trước bình minh, nhưng khi rời khỏi thị trấn và bước vào rừng, ông nhận ra rằng vẫn còn một thời gian nữa mới có ánh sáng xuất hiện, và ông bắt đầu sợ hãi. Ông do dự và cân nhắc quay trở lại thì đột nhiên một vị thần xuất hiện, chiếu sáng khắp khu vực và khuyến khích ông tiếp tục. Cấp Cô Độc và Đức Phật gặp nhau trong ánh sáng buổi sớm mai, và sau đó Cấp Cô Độc đã mời Đức Phật an cư kiết hạ mùa tiếp theo ở Savatthi. Đức Phật đồng ý, nói rõ rằng Ngài mong đợi Cấp Cô Độc sẽ cung cấp cho Ngài và chư Tăng của Ngài một nơi yên tĩnh để cư trú trong thời gian Ngài ở lại: “Này gia chủ, Như Lai thích những nơi vắng vẻ.” “Con hiểu, thưa Đức Thế Tôn. Con hiểu, thưa bậc Hạnh phúc,” Cấp Cô Độc trả lời. (2)

Khi Cấp Cô Độc trở lại Savatthi, ông bắt đầu tìm kiếm một nơi để Đức Phật an trú. Nơi thích hợp nhất hóa ra là một khu vườn giải trí ngay bên ngoài Savatthi thuộc sở hữu của hoàng tử Kỳ-đà. Cấp Cô Độc đến gặp hoàng tử và hỏi ông muốn bán khu vườn của mình với giá bao nhiêu, nhưng ông trả lời rằng ông không muốn bán. Cấp Cô Độc cứ khăng khăng đòi hoàng tử Kỳ-đà ra giá, và cuối cùng, vì quá bực bội cũng như để xua đuổi ông, hoàng tử đã đưa ra một cái giá cao đến mức phi thực tế là 100.000 đồng tiền vàng. Trước sự ngạc nhiên của mình, Cấp Cô Độc đã chấp nhận. Ngay sau đó, những người hầu đến với những xe chất đầy tiền vàng và bắt đầu trải chúng trên mặt đất. Lúc này, hoàng tử Kỳ-đà đã nhượng bộ, nhận ra Cấp Cô Độc quyết tâm có được khu vườn như thế nào, và số tiền còn lại được dùng để xây dựng một khu phức hợp tu viện lớn. (3) Luật tạng mô tả khu phức hợp bao gồm “các sảnh đường, các tòa nhà tu viện, các phòng, hành lang, phòng tiếp khách, phòng lửa, nhà vệ sinh, lối đi có mái che, giếng, phòng tắm và ao sen.” (4) Và để vinh danh hai người đàn ông chịu trách nhiệm cho sự ra đời của nó, nơi này được gọi là Kỳ Viên, Tinh Xá Cấp Cô Độc.

Trong những năm tiếp theo, một số tu viện lớn tương tự khác đã được xây dựng xung quanh Savatthi, Pubbarama (Tu viện phía Đông, nay được đại diện bởi làng Khanbari) và Rajakarama là hai tu viện nổi tiếng nhất, và chính tại những tu viện này và các địa điểm khác xung quanh Savatthi mà Đức Phật đã thuyết giảng hầu hết các bài pháp của Ngài.

Trong tất cả các sự kiện trong cuộc đời Đức Phật diễn ra ở Savatthi, nổi tiếng nhất là cuộc gặp gỡ của Ngài với A-la-vị. Tên cướp giết người này đã giết rất nhiều người đến nỗi dân làng ở các huyện ngoại thành đã thu dọn đồ đạc và chuyển vào thành phố. Từ mỗi nạn nhân của mình, hắn ta cắt một ngón tay và đeo vào một sợi dây quanh cổ, do đó có tên là A-la-vị, Vòng cổ Ngón tay. Khi Đức Phật nghe nói về điều này, Ngài đã lên đường đến khu vực mà A-la-vị được biết là đang hoạt động, với mục đích cụ thể là gặp hắn ta. Trên một đoạn đường vắng, A-la-vị nhìn thấy Đức Phật và bắt đầu đuổi theo Ngài. Nhưng mặc dù hắn ta đã chạy hết sức nhanh nhưng vẫn không thể đuổi kịp Đức Phật, người vẫn tiếp tục đi bộ với tốc độ nhàn nhã. Trong sự thất vọng và hoang mang, A-la-vị gọi: “Dừng lại, Tỳ-khưu!” Đức Phật trả lời: “Ta đã dừng lại, A-la-vị. Chính ngươi mới nên dừng lại.” A-la-vị hỏi Đức Phật ý Ngài là gì, và Đức Phật trả lời rằng Ngài đã ngừng giết chóc và làm hại chúng sinh và A-la-vị cũng nên làm như vậy. Tên sát nhân vứt thanh kiếm xuống, và cúi đầu dưới chân Đức Phật, xin được thọ giới làm Tỳ-khưu. Sau đó, A-la-vị đã giác ngộ, nhưng mãi cho đến khi ông phải chịu đựng bạo lực và sự sỉ nhục từ những người nhớ về quá khứ khủng khiếp của mình. (5)

Trong nhiều thế kỷ sau Đức Phật, Savatthi suy tàn, nhưng Jetavana vẫn tiếp tục là một trung tâm Phật giáo quan trọng. Khi Pháp Hiển đến Savatthi, thành phố chỉ còn là một thị trấn nhỏ, đã suy tàn và chỉ có khoảng 200 gia đình sinh sống, mặc dù Jetavana dường như vẫn tương đối thịnh vượng. “Cổng của nó quay mặt về hướng đông và nó có hai gian phòng, trước đó có hai cột đá. Trên đỉnh cột bên trái là một bánh xe và trên đỉnh cột bên phải là một con bò đực. Nước trong hồ trong vắt, cây cối xanh tươi và hoa đủ màu sắc tạo nên một cảnh tượng đáng yêu.” Bên trong Jetavana, ông nhìn thấy một ngôi đền, có lẽ là Gandhakuti, nơi có một bức tượng gỗ đàn hương nổi tiếng của Đức Phật.

“Tu viện Jetavana ban đầu cao bảy tầng. Các vị vua và người dân của nhiều quốc gia thi nhau cúng dường ở đây, treo cờ đuôi nheo và tán lụa, rải hoa và thắp đèn cháy ngày đêm không bao giờ tắt. Rồi một con chuột tha bấc đèn từ một trong những ngọn đèn trong miệng, làm cháy hoa, cờ đuôi nheo và tán lụa. Toàn bộ tòa nhà bảy tầng bốc cháy. Các vị vua và người dân của tất cả các quốc gia xung quanh than khóc cay đắng, nghĩ rằng bức tượng gỗ đàn hương hẳn cũng đã bị thiêu rụi. Nhưng bốn hoặc năm ngày sau, khi họ mở cửa một ngôi đền nhỏ ở phía đông, họ đã vô cùng ngạc nhiên và vui mừng khi thấy bức tượng không hề hấn gì. Họ cùng nhau xây dựng lại tu viện thành một tòa nhà hai tầng và chuyển bức tượng trở lại vị trí ban đầu của nó.”

Pháp Hiển cũng kể lại rằng ông và bạn đồng hành của mình đã xúc động như thế nào khi được bước đi trên những nơi Đức Phật đã từng đi, và sự kinh ngạc của chư Tăng Ấn Độ khi lần đầu tiên nhìn thấy chư Tăng Trung Quốc.

“Khi đến Tu viện Jetavana, khi Pháp Hiển và Đạo Chinh nghĩ rằng Đức Thế Tôn đã sống ở đây hai mươi lăm năm, họ hối tiếc vì đã sinh ra ở một đất nước xa xôi. Trong số những người bạn đồng hành đã đi cùng họ qua nhiều vùng đất, một số đã phải quay trở lại và một số đã chết. Khi họ nhìn những nơi mà Đức Phật không còn có thể được nhìn thấy, họ vô cùng xúc động và lòng tràn ngập nỗi buồn. Chư Tăng ở đó đến hỏi họ. “Các vị đến từ đâu?” họ hỏi. “Chúng tôi đến từ Trung Quốc,” Pháp Hiển trả lời. “Thật kỳ diệu,” chư Tăng thốt lên, “những người từ một đất nước xa xôi lại đến đây để tìm kiếm Chánh pháp!” Và họ nhận xét với nhau: “Từ xưa đến nay, chưa có vị thầy nào trong chúng ta từng thấy một vị Tỳ-khưu Trung Quốc ở đây.”

Đến thời Huyền Trang, cả Savatthi và Jetavana đều hoang vắng và đổ nát. Về Jetavana, ông nói: “Nơi cư trú (của chư Tăng) đã bị phá hủy hoàn toàn; chỉ còn lại nền móng, ngoại trừ một tòa nhà gạch đơn độc đứng một mình giữa những tàn tích và có một bức tượng Phật.” Tuy nhiên, điều tra khảo cổ cho thấy rằng ngay sau chuyến thăm của Huyền Trang, tất cả các tu viện tại Jetavana đã được trùng tu, những tu viện mới được xây dựng và nó tiếp tục phát triển mạnh mẽ cho đến thế kỷ 12, sau đó cuối cùng nó bị bỏ hoang và bị rừng rậm nuốt chửng.

Năm 1863, sử dụng thông tin được đưa ra trong các ghi chép về hành trình của Pháp Hiển và Huyền Trang, Cunningham đã xác định được Jetavana, nơi đã được gọi là Saheth, và cả Savatthi, nơi được gọi là Maheth. Ông đã tiến hành một số cuộc khai quật, tìm thấy một dòng chữ xác nhận nhận định của mình và quay trở lại vào năm 1876 để thực hiện thêm một số cuộc khai quật nữa. Các cuộc khai quật đã được thực hiện vào khoảng nửa tá dịp khác kể từ đó, lần cuối cùng là bởi các nhà khảo cổ học Nhật Bản vào cuối những năm 1980. Ngày nay, tàn tích của Jetavana được bao quanh bởi những khu vườn được chăm sóc cẩn thận, và bởi vì có ít người hành hương hoặc khách du lịch đến thăm nơi này, nên nó có một môi trường đặc biệt yên bình và tĩnh lặng, với khỉ và công đôi khi được nhìn thấy giữa những cây cối và bụi rậm.

NHỮNG ĐIỀU CẦN THAM QUAN

Tu viện Nava Jetavana

Ngay bên kia đường từ lối vào chính của công viên khảo cổ là Nava Jetavana Mahavihara, một ngôi chùa hiện đại được xây dựng bởi vị Tỳ-khưu nổi tiếng người Sri Lanka, Hòa thượng Metivala Sangharatana. Điện thờ của ngôi chùa có một số bức tranh tường đẹp mắt do một nghệ sĩ nổi tiếng người Sri Lanka vẽ. Phần lớn các bức tranh thể hiện những sự kiện trong cuộc đời Đức Phật đã diễn ra tại Savatthi, mặc dù bốn sự kiện chính trong cuộc đời Đức Phật cũng như những sự kiện quan trọng trong lịch sử Phật giáo cũng được thể hiện. Các bức tranh nằm trong các bảng được đánh số. Chúng là:

(1) Cuộc đời của Thái tử Tất-đạt-đa trước khi giác ngộ.

(2) Ma vương cám dỗ Đức Phật ngay trước khi Ngài giác ngộ. (3) Bài pháp đầu tiên của Đức Phật tại Sarnath.

(4) Đức Phật nhập Niết-bàn tại Kusinara.

(5) Cấp Cô Độc gặp Đức Phật.

(6-7) Việc mua Jetavana.

(8) Trồng cây Bồ đề Ananda.

(9) Việc xây dựng Pubbarama.

(10) Cấp Cô Độc xuất gia khi về già, và sau khi nỗ lực tinh tấn, đã chứng đắc quả A-la-hán. Tuy nhiên, do một số nghiệp xấu đã làm trong quá khứ, ông cũng bị mù. Một hôm, khi đang đi tới đi lui, ông giẫm đạp và giết chết nhiều côn trùng, và khi các vị Tỳ-khưu khác nhìn thấy điều này, họ đã báo cáo với Đức Phật. Ngài nói với họ rằng chỉ những hành động được thực hiện với chủ ý mới có nghiệp báo.

(11) Mattakundali là con trai duy nhất của một người cha giàu có nhưng cực kỳ keo kiệt. Một ngày nọ, anh ta bị ốm, và hy vọng tránh phải trả tiền cho bác sĩ, cha của Mattakundali đã đuổi anh ta ra ngoài để ông ta không phải tiếp đãi những người đến an ủi con trai mình. Khi Đức Phật nghe nói về điều này, Ngài đã xuất hiện trước mặt Mattakundali ngay khi anh ta chết, và anh ta rất vui khi nhìn thấy Đức Phật nên đã được tái sinh vào cõi trời.

(12) Một người đàn ông kết hôn với một người phụ nữ hóa ra lại không thể sinh con, vì vậy anh ta lấy vợ lẽ. Người vợ cả coi cô vợ lẽ là đối thủ và ghen ghét cô sâu sắc. Khi người vợ thứ hai mang thai, người vợ cả đã khiến cô bị sẩy thai. Qua nhiều kiếp luân hồi, hai người phụ nữ tiếp tục ganh đua và thù hận lẫn nhau, cho đến khi người vợ cả được tái sinh thành một con quỷ dữ cố gắng ăn thịt đứa con của người vợ thứ hai. Cuối cùng, Đức Phật gặp hai người họ, nói với họ rằng mối hận thù lâu dài của họ đã gây ra bao nhiêu đau khổ cho cả hai, và tìm cách hòa giải họ.

(13) Đề-bà-đạt-đa, người anh họ độc ác của Đức Phật, đã ăn năn hối lỗi về những hành động của mình vào cuối đời và yêu cầu được đưa đến gặp Đức Phật tại Jetavana để chuộc lỗi. Nhưng ông ta đã chết ngay trước khi gặp Đức Phật và bị một hố sâu trên mặt đất nuốt chửng.

(14) Đức Phật và A-nan chăm sóc một vị Tỳ-khưu bị ốm.

(15) Trên đường trở về sau khi tàn sát người Thích-ca, quân đội của Vidudabha đã ngủ lại trong lòng một con sông cạn nước, và trong đêm, một trận lũ quét đã cuốn trôi họ.

(16) Một người đàn ông nghèo có một người vợ rất xinh đẹp mà vua Ba-tư-nặc yêu say đắm. Nhà vua đã biến người đàn ông nghèo thành người hầu của mình với ý định giết anh ta để nhà vua có thể lấy người vợ xinh đẹp cho riêng mình. Người đàn ông nghèo được giao một nhiệm vụ bất khả thi và được cho biết rằng nếu anh ta không hoàn thành nó, anh ta sẽ bị hành quyết. Sau đó, nhà vua không thể ngủ được khi nghĩ đến tội ác mà mình đã định gây ra. Các Bà-la-môn trong triều nói với ông rằng ông sẽ được giải thoát khỏi nghiệp xấu của mình nếu ông thực hiện một nghi lễ hiến tế lớn. Tuy nhiên, ông đã gặp Đức Phật, người đã dạy ông về Chánh pháp và giúp tâm ông được an lạc.

(17) Có lần, một người đàn ông đi săn cùng với những con chó của mình, và trên đường đi ngang qua một vị Tỳ-khưu. Sau đó, ông ta không săn được gì, và vì mê tín, ông ta đổ lỗi cho việc đã nhìn thấy vị Tỳ-khưu. Trên đường về nhà, ông ta gặp vị Tỳ-khưu, và trong cơn tức giận, ông ta đã thả chó của mình tấn công vị Tỳ-khưu, người đã trèo lên cây để thoát khỏi những con chó. Áo cà-sa của vị Tỳ-khưu rơi trúng người thợ săn, và những con chó, nhầm chủ nhân của chúng với vị Tỳ-khưu, đã tấn công ông ta và làm ông ta bị thương nặng đến mức chết.

(18) Ni sư Uppalavanna từ giã cuộc sống thế gian, vào rừng tu hành, nhưng không may bị một thợ săn hiếp dâm. Người thợ săn đó sau đó bị lửa thiêu rụi.

(19) Chồng của Patacara qua đời vì bị rắn cắn, nên bà cùng hai đứa con nhỏ lên đường về thăm cha mẹ. Trên đường đi, bà phải vượt qua sông Achiravati, lúc đó đang lên cao. Bà để đứa con lớn ở bên bờ, dặn nó chờ hiệu lệnh rồi ra đi, còn mình cõng đứa con nhỏ qua sông, để nó bên bờ đối diện. Khi bà đang lội qua sông lần nữa, một con đại bàng lao xuống và vồ lấy đứa trẻ nhỏ. Trong cơn điên cuồng, Patacara vung tay loạn xạ để đuổi con chim đi. Đứa con lớn tưởng đó là hiệu lệnh nên nhảy xuống sông, bị dòng nước cuốn trôi. Khi bà trở về nhà, chỉ để thấy cha mẹ đã mất trong trận hỏa hoạn thiêu rụi ngôi nhà của họ. Những bi kịch này làm Patacara phát điên, bà lang thang nửa khỏa thân trong Savatthi cho đến khi gặp Đức Phật, Người an ủi bà và dạy bà Pháp.

(20) Một thiếu phụ tên Kisagotami đem đứa con chết của mình đến Đức Phật, cầu xin Người cứu giúp. Đức Phật bảo bà hãy tìm một hạt mù tạt từ nhà nào chưa từng có ai qua đời. Khi bà tìm kiếm khắp nơi mà không thể tìm ra một gia đình nào không có người qua đời, thực tế về cái chết dần dần hiện rõ trong tâm bà, và nỗi đau của bà cũng từ từ vơi đi.

(21) Vị vua Pasenadi thất vọng khi nghe tin hoàng hậu sinh ra một công chúa thay vì một hoàng tử. Nhưng Đức Phật khuyên ngài hãy suy nghĩ rằng, con gái cũng có thể thành đạt và thành công như con trai.

(22) Đức Phật bị Angulimala truy đuổi.

(23) Một tông phái đối thủ cố gắng vu khống Đức Phật bằng cách xúi một phụ nữ giả mang thai, rồi công khai cáo buộc Đức Phật là cha của đứa trẻ. Trong lúc bà ta đang cáo buộc, một con chuột gặm đứt sợi dây buộc gối quanh bụng bà. Sự gian dối bị vạch trần, và Đức Phật được minh oan.

(24) Để làm cho kẻ chỉ trích và đối thủ phải kinh ngạc, Đức Phật đã thực hiện một kỳ công tâm linh kỳ diệu, làm cho lửa và nước chảy ra từ thân mình.

(25) Hội nghị lần thứ nhất tại Rajagaha.

(26) Hội nghị lần thứ ba tại Patna.

(27) Vị vua Asoka đã sai con trai mình, Mahinda, đến Sri Lanka để truyền bá Pháp. Mahinda gặp vua Devanampiyatissa của Sri Lanka khi ngài đang đi săn và đã hoằng hóa thành công.

(28) Vị vua Milinda, một trong những hậu duệ của Alexander Đại đế, đã trở thành Phật tử sau cuộc thảo luận nổi tiếng với ngài Nagasena.

(29) Anagarika Dharmapala và Chùa Mahabodhi.

(30) Tiến sĩ Bimrao Ambedkar cùng với nửa triệu tín đồ của ông, tất cả đều là những người bị coi là “không thể chạm đến” trong xã hội Ấn Độ, đã từ bỏ Ấn Độ giáo và quy y theo Phật giáo vào ngày 14 tháng 10 năm 1955. Đây là sự kiện quan trọng nhất trong công cuộc phục hưng Phật giáo ở Ấn Độ hiện đại.

(31) Hòa thượng Sangharatana, với căn am đơn sơ mà ngài sống khi xây dựng Tu Viện Nava Jetavana Mahavihara, và Tiến sĩ Shankar Dayal Sharma, Phó Tổng thống Ấn Độ, đã khai trương ngôi chùa vào ngày 31 tháng 12 năm 1988.

Chùa số 12

Bước vào Jetavana bằng cổng chính, đi theo con đường và rẽ trái, người hành hương sẽ đến một ngôi chùa nhỏ. Ngôi chùa bao gồm một điện thờ chính với lối đi vòng quanh và hai điện thờ nhỏ hơn ở hai bên. Có khả năng điện thờ chính có một bức tượng Phật, trong khi hai điện thờ nhỏ hơn có tượng Quan Thế Âm Bồ Tát và Phật Di Lặc. Trong quá trình khai quật ngôi chùa này, một hộp sọ người và các xương khác đã được tìm thấy trên sàn nhà.

Tu viện số 19

Ở cuối con đường là một tu viện bao gồm một sân trong có giếng, xung quanh có 21 phòng. Phía đông là một điện thờ có lối đi vòng quanh. Tu viện này được xây dựng lần đầu tiên vào thế kỷ thứ 6 và sau đó được xây dựng lại theo cùng một kế hoạch vào khoảng thế kỷ 11. Trong số rất nhiều cổ vật được tìm thấy trong tu viện này có một bức tượng Quan Thế Âm Bồ Tát từ thế kỷ thứ 8 hoặc thứ 9, một tấm đất nung có hình Đức Phật từ thế kỷ thứ 5 hoặc thứ 6, một bức tượng Thần Tài làm bằng sa thạch đỏ Madhura, và các tác phẩm điêu khắc rời rạc làm bằng đá đen được tìm thấy xung quanh Gaya. Một phòng được phát hiện có chứa một chiếc giường làm bằng gạch, một đầu hơi nâng lên tạo thành gối. Một phòng khác có một cái chum bằng đất lớn chôn nửa chừng dưới sàn, có lẽ được dùng để đựng ngũ cốc, và bên cạnh nó là một chiếc cốc bằng đồng và một cái muôi bằng sắt.

Nhưng vật thể thú vị nhất được tìm thấy trong tu viện này là một bản khắc bằng đồng của vua Govindachandra, chồng của hoàng hậu Kumaradevi, người đã xây dựng Tu viện Dharmachakrajina ở Sarnath. Bản khắc được tìm thấy được đóng gói cẩn thận trong một hộp đất sét chôn dưới sàn của một phòng và được ban hành vào ngày tương đương với ngày 23 tháng 6 năm 1130 sau Công nguyên. Nó ghi lại việc ban tặng sáu ngôi làng cùng với doanh thu của chúng cho chư Tăng cư trú tại Jetavana, trong đó một vị Tỳ-khưu tên là Buddhabhattaraka là người đứng đầu. Để đảm bảo tất cả mọi người đều biết đến khoản tài trợ này, nó đã được công bố trước toàn thể triều đình; “các vị vua, hoàng hậu, người thừa kế, các bộ trưởng, linh mục, người gác cổng, tướng lĩnh, thủ quỹ, người lưu giữ hồ sơ, bác sĩ, nhà chiêm tinh, thị thần, sứ giả và các quan chức phụ trách chăm sóc voi, ngựa, thị trấn và mỏ.” Điều thú vị cần lưu ý là một số ngôi làng được đề cập trong bản khắc vẫn còn tồn tại và vẫn được biết đến với tên gọi cổ xưa của chúng.

Tám bảo tháp

Cách Tu viện 19 một đoạn ngắn về phía bắc là một cụm tám bảo tháp bằng gạch. Những bảo tháp này có lẽ được xây dựng để thờ tro cốt của những vị Tỳ-khưu đặc biệt được tôn kính, những người đã cư trú tại Jetavana trong nhiều thế kỷ. Một bảo tháp được phát hiện có chứa một con dấu có tên Buddhadeva trên đó có niên đại từ thế kỷ thứ 5.

Cây Bồ đề

Xa hơn dọc theo con đường chính là nền móng của một số công trình kiến ​​trúc với một cái cây mọc lên từ đó, thường được xác định là cây Bồ đề Ananda. Theo lời chú giải về Jataka, khi mọi người đến Jetavana để tỏ lòng thành kính với Đức Phật và thấy Ngài vắng mặt, họ sẽ để lại những bông hoa và vòng hoa cúng dường của họ ở cửa Gandhakuti. Khi Cấp Cô Độc nghe nói về điều này, ông đã hỏi Đức Phật làm thế nào mọi người có thể bày tỏ lòng thành kính với Ngài khi Ngài vắng mặt, và Đức Phật gợi ý rằng điều đó có thể được thực hiện bằng cách đặt lễ vật tại một cây Bồ đề. Theo đó, một hạt giống đã được mang đến từ cây Bồ đề ở Bồ Đề Đạo Tràng và với nghi lễ long trọng đã được trồng tại Jetavana. Vì hạt giống do A-nan trồng nên cây được gọi là cây Bồ đề Ananda. (6)

Tuy nhiên, do Jetavana bị bỏ hoang cho rừng rậm gần một nghìn năm và vì không có bằng chứng khảo cổ nào cho thấy cây Bồ đề Ananda thực sự mọc ở đâu, nên việc xác định cây này với cây ban đầu là rất đáng nghi ngờ. Lời chú giải về Jataka nói rằng cây được trồng gần cổng chính của Jetavana, được cho là ở đâu đó gần Chùa Miến Điện hiện nay.

Kosambakuti

Hơi chếch về phía bắc của cây Bồ đề và bên trái con đường là tàn tích của Kosambakuti, một trong hai nơi nghỉ ngơi yêu thích của Đức Phật tại Jetavana. Cấu trúc ban đầu có lẽ là một ngôi nhà nhỏ bằng gỗ và tranh, nơi Đức Phật sẽ ngủ, thiền định và trò chuyện với khách. Một bức phù điêu từ Bảo tháp Bharhut mô tả việc mua Jetavana cho thấy cả Kosambakuti và Gandhakuti, đưa ra một số ý tưởng về hình dáng của hai công trình kiến ​​trúc này. Kosambakuti dường như là một cấu trúc mái đầu hồi nhỏ, mặt bằng hình vuông với đỉnh bằng đất sét trên mái. Nó không được xây dựng bằng vật liệu bền và sau đó được thay thế bằng một cấu trúc bằng gạch. Sự thay thế này, nền móng mà người hành hương nhìn thấy ngày nay, có kích thước 5,75 mét x 5,45 mét, và bao quanh một điện thờ.

Cunningham đã tìm thấy một bức tượng lớn được chạm khắc từ đá sa thạch màu hồng khi ông khai quật tại Kosambakuti. Dòng chữ trên bức tượng, bị hư hại nhiều, cho chúng ta biết rằng nó được dựng lên tại Kosambakuti bởi Tỳ-khưu Bala. Bức tượng hiện đang ở Bảo tàng Ấn Độ ở Kolkata. Khi Huyền Trang đến đây, ông đã nhìn thấy bức tượng này và Kosambakuti, đây là công trình duy nhất ở Jetavana không bị đổ nát. Ngay phía trước Kosambakuti là một bệ dài làm bằng gạch đánh dấu nơi Đức Phật sẽ đi tới đi lui vào buổi tối để tập thể dục.

Gandhakuti

Xa hơn dọc theo con đường là nền móng của thứ từng là tòa nhà nổi tiếng nhất trong thế giới Phật giáo cổ đại, Gandhakuti, Tịnh thất Hương. Bức phù điêu Bharhut cho thấy Gandhakuti ban đầu tương tự như Kosambakuti, chỉ lớn hơn và được xây dựng theo hình chữ thập. Những tàn tích mà người hành hương nhìn thấy ngày nay có niên đại từ thời Gupta và bao gồm một nền hình chữ nhật có cầu thang và lối vào hướng về phía đông, một gian nhà và một điện thờ nhỏ hơn 2,85 mét vuông, với các bức tường dày khoảng 1,8 mét. Điện thờ nhỏ này chắc chắn là một Gandhakuti sau này được xây dựng trên điện thờ ban đầu, trong khi gian nhà chắc hẳn đã được thêm vào sau đó. Trong các cuộc khai quật vào năm 1907-1908, Vogal đã đào bên dưới Gandhakuti với hy vọng tìm ra dấu vết của cấu trúc ban đầu, nhưng không tìm thấy gì.

Cái tên Gandhakuti dùng để chỉ một loại hình kiến ​​trúc hơn là một tòa nhà cụ thể. Nơi ở cố định đầu tiên cho Đức Phật được xây dựng tại Jetavana và bởi vì mọi người sẽ đến cúng dường hoa, gỗ đàn hương và nước hoa, nên nó được đặt tên là Gandhakuti. Chẳng bao lâu sau, bất kỳ công trình kiến ​​trúc nào được xây dựng cho Đức Phật hoặc nơi Ngài thường xuyên ở đều được đặt cùng tên, và trong những thế kỷ sau đó, bất kỳ điện thờ nào trong tu viện có chứa tượng Phật cũng được gọi là Gandhakuti. Các bộ luận giải cổ đại cho chúng ta biết rằng Gandhakuti của Jetavana được xây dựng ở giữa tu viện, một sự thật đã được các nhà khảo cổ học xác minh. Cunningham đã tìm thấy một con đường được xây dựng tốt dẫn từ Gandhakuti đến nơi được cho là cổng trước của Jetavana, cho thấy vị trí trung tâm của nó trong khu phức hợp.

  • Monastery 1: Tu viện 1
  • Stupa 8: Bảo tháp 8
  • Stupa 9: Bảo tháp 9
  • New Excavations: Khu vực khai quật mới
  • Gandhakuti: Gandhakuti (Tịnh thất Hương)
  • Chinese Temple: Chùa Trung Quốc
  • JETAVANA (SAHETH): (Giữ nguyên)
  • Kosambakuti: Kosambakuti
  • Bodhi Tree: Cây Bồ đề
  • Stupas: Các bảo tháp
  • Monastery 19: Tu viện 19
  • Temple 12: Chùa 12
  • Road to Maheth: Đường đến Maheth
  • Nava Jetavana Vihara: Tu viện Nava Jetavana

Sumangalavilasini trình bày chi tiết thói quen hàng ngày của Đức Phật, và cho chúng ta biết rằng Ngài sẽ ăn và ngủ trong Gandhakuti, đi ra ngoài từ đó để thuyết giảng Chánh pháp, và vào buổi tối khi Ngài cần duỗi chân, Ngài sẽ đi tới đi lui trước mặt nó. Chúng ta cũng được cho biết rằng Gandhakuti có một căn phòng nhỏ hơn bên trong, một phòng tắm và một “cầu thang nạm ngọc” (có lẽ có nghĩa là nó được trang trí lộng lẫy) dẫn lên đó, nơi Đức Phật đôi khi sẽ đứng và nói chuyện ngắn gọn với chư Tăng tập hợp. Sumahgalavilasini cũng cho chúng ta biết rằng sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn, mọi người đã tập trung xung quanh Gandhakuti để thương tiếc sự ra đi của Đức Phật, và A-nan, khi trở về Jetavana, đã an ủi họ bằng một bài nói chuyện về vô thường. Sau đó, ông mở cửa, phủi bụi ghế của Đức Phật, quét những vòng hoa đã tàn và cánh hoa khô từ sàn nhà, và đặt giường và ghế lại đúng vị trí của chúng, giống như ông đã làm mỗi ngày trong suốt cuộc đời Đức Phật.

Bảo tháp

Hơi chếch về phía bắc của Gandhakuti và bên trái con đường là tàn tích của một bảo tháp nhỏ có niên đại từ cuối thời Gupta, trong đó người ta tìm thấy một bức tượng Phật. Bức tượng nhỏ, chỉ cao 50 cm, và cho thấy Đức Phật đang ngồi với tay trong tư thế ban sự không sợ hãi. Vầng hào quang hình tròn phía sau đầu, chỉ còn lại một phần, được trang trí bằng họa tiết hoa sen nở rộ. Ở hai đầu của bệ là hai con sư tử với lưỡi thè ra, và giữa chúng là một bức phù điêu đại diện cho một vị Bồ Tát ngồi được hai bên hộ tống mang vòng hoa. Dọc theo đáy của bệ là một dòng chữ được viết bằng các ký tự Kusana muộn có nội dung: “Món quà sùng đạo của Sihadeva, một Pravarika từ Saketa.” Phong cách của bức tượng này và loại đá mà nó được làm từ cho thấy nó được sản xuất tại Madhura, và có thể Sihadeva đã đến đó với mục đích mua bức tượng, và sau đó mang nó đến Jetavana khi ông đến hành hương. Bức tượng Phật này hiện đang ở Bảo tàng Lucknow.

Bảo tháp 8

  • Rapti River: Sông Rapti
  • Savatthi: Savatthi (Sa-vát-thì)
  • Pakki Kuti: Pakki Kuti (Tịnh thất Gạch)
  • Kachchi Kuti: Kachchi Kuti (Tịnh thất Đất sét)
  • Jain Temple: Đền Kỳ-na giáo
  • Thai nuns Temple: Chùa Ni cô Thái Lan
  • Pond: Ao
  • Chinese Temple: Chùa Trung Quốc
  • Burmese Temple: Chùa Miến Điện
  • Jetavana: Jetavana (Kỳ Viên)
  • Nava Jetavana Vihara: Tu viện Nava Jetavana
  • Asokan pillae: Cột trụ của vua A-dục
  • SAVATTHI AND JETAVANA (SAHETH MAHETH): Savatthi và Jetavana (Saheth Maheth)
  • Thai/Cambodian Temple: Chùa Thái Lan/Campuchia
  • Japanese Peace bell: Chuông Hòa bình Nhật Bản
  • Korean Temple: Chùa Hàn Quốc
  • To Balrampur: Đến Balrampur
  • Stupa: Bảo tháp
  • Thai Temple: Chùa Thái Lan

Ở phía bên kia con đường từ Bảo tháp 9 là một bảo tháp lớn hơn khác. Bảo tháp này ban đầu có hình tròn, nhưng sau đó, vào khoảng thế kỷ thứ 9 đến thế kỷ thứ 10, đã được xây dựng lại theo mặt bằng hình vuông. Giai đoạn thứ hai của bảo tháp này được phát hiện có chứa phần dưới của một bức tượng: hai chân bắt chéo ngồi trên bệ. Dòng chữ trên bệ, được viết bằng các ký tự từ thời kỳ Kusana đầu, có nội dung: “Một vị Bồ Tát (đã được dựng lên) trong Jetavana tại Savatthi và là quà tặng của … và Sivadhara, Kshatriya, anh em từ Vilishta và là con trai của Dharmananda của Madhura. Thông thạo kinh điển và biết rõ sự vô thường của lạc thú và sự mong manh của cuộc sống, họ tặng bức tượng này để tôn vinh chư Phật, vì sự an lạc của tất cả chúng sinh, đặc biệt quan tâm đến cha mẹ của họ và để tích lũy công đức cả trong thế giới này và thế giới tới. Vị Bồ Tát này được tạo ra bởi Sivamitra, một nhà điêu khắc từ Madhura.” Bên dưới, Tóm tắt Chánh pháp được khắc bằng các ký tự từ thế kỷ thứ 8 hoặc thứ 9 sau Công nguyên. Bức tượng dường như đã bị vỡ khi được thờ trong bảo tháp, và có lẽ được đặt ở đó bởi vì, trong khi nó bị hư hại quá nặng để được thờ cúng, nó cũng được coi là quá thiêng liêng để vứt bỏ. Dòng chữ này rất thú vị vì một lần nữa nó là bằng chứng cho tầm quan trọng của Madhura như một trung tâm sản xuất các tác phẩm điêu khắc Phật giáo. Nó cũng quan trọng bởi vì nó chỉ ra rằng không chỉ chư Tăng mà cả những người cư sĩ cũng “thông thạo kinh điển.”

Tu viện 1

Nằm ở phía bắc của khu di tích, công trình này là công trình lớn nhất được phát hiện cho đến nay tại Jetavana và dường như đã được xây dựng vào thế kỷ thứ 10. Lối vào hướng về phía đông và dẫn đến một sảnh có bốn cột trụ. Sân trong được bao quanh bởi 35 phòng và có một ngôi chùa ở giữa. Giống như hầu hết các tu viện tại Jetavana, tu viện này có bằng chứng đã bị phá hủy bởi hỏa hoạn.

Ao

Rời khỏi tàn tích của Jetavana bằng cổng sau và đi về phía tây bắc dọc theo con đường, người hành hương sẽ sớm băng qua một cây cầu bắc qua một cái ao. Theo kinh Udana, Đức Phật có lần đang đi khất thực thì gặp một nhóm trẻ em đang hành hạ cá. Ngài dừng lại và với cách nhẹ nhàng và khéo léo hỏi những đứa trẻ rằng chúng có thích đau khổ không. Chúng trả lời rằng chúng không thích và Đức Phật sau đó gợi ý rằng chúng nên đối xử với người khác theo cách mà chúng muốn được đối xử. (7) Kinh Udana cho chúng ta biết rằng cuộc gặp gỡ này diễn ra giữa Savatthi và Jetavana, và vì đây là vùng nước duy nhất giữa hai nơi này, nên nó chắc hẳn đã xảy ra gần cái ao này.

Savatthi

Xa hơn về phía bắc dọc theo con đường là địa điểm của thành phố Savatthi cổ đại. Các bức tường thành của thành phố tạo thành hình lưỡi liềm và có tổng chiều dài khoảng 5 km. Sông Rapti từng chảy bên cạnh đường cong bên trong của tường thành nhưng bây giờ cách đó khoảng 1,5 km về phía bắc. Cổng chính của thành phố được đại diện bởi một khoảng trống cách một đoạn ngắn về bên trái nơi con đường hiện đại cắt ngang qua tường thành. Đi theo con đường một quãng, người hành hương sẽ đến hai công trình kiến ​​trúc bằng gạch khổng lồ, công trình đầu tiên bây giờ được gọi là Pakki Kuti, và công trình thứ hai là Kachchi Kuti. Cả hai công trình ban đầu có lẽ là bảo tháp, được tu sửa lại sau này để sử dụng cho các mục đích khác. Vào mùa mưa, người ta có thể nhìn thấy dãy Himalaya từ trên đỉnh Kachchi Kuti.

CÁCH ĐẾN ĐÓ

Savatthi, được người dân địa phương gọi là Shravasti hoặc Saheth Maheth, cách Balrumpur khoảng 17 km và có thể đến đó bằng xe buýt hoặc xe ngựa. Có thể dễ dàng đến Bairumpur bằng tàu hỏa từ Lucknow hoặc Gorakhpur. Taxi thường xuyên cũng đi từ Lucknow đến Balrumpur đi ngang qua Savatthi.

Hộp bình luận Facebook

Soṇa Thiện Kim

Panha.org là trang web chuyên sâu về Pháp học của Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Tông), nơi cung cấp kiến thức và tài liệu quý báu về kinh điển, giáo lý, và triết học Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Tông). Tại đây, bạn có thể tìm hiểu về các giáo pháp truyền thống, kinh nghiệm tu tập, và những bài giảng từ các vị tôn sư hàng đầu trong cộng đồng Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Tông). Với mục tiêu giúp người học hiểu sâu hơn về con đường giác ngộ và sự giải thoát, Panha.org mang đến nguồn tài nguyên phong phú, chính xác và cập nhật để hỗ trợ hành giả trên hành trình tu tập Pháp học.

Bài viết liên quan

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.

0 Góp ý
Được bỏ phiếu nhiều nhất
Mới nhất Cũ nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Back to top button