Thư viện

Ledi Sayādaw – Sách Chỉ Nam Ba-la-mật (Pāramī Dīpanī) [Dịch lần 2]

Ledi Sayādaw

Sách Chỉ Nam Ba-la-mật

Pāramī Dīpanī

Chuyển ngữ từ Anh sang Việt bởi Soṇa Thiện Kim, có dùng công cụ Gemini Advanced và ChatGPT Plus hỗ trợ

Lời Tựa Của Người Biên Tập

Hơn hai mươi năm trước, quyển sách này được trao tặng cho tôi bởi James Patrick Stuart Ross, một người Mỹ đã nhiều lần du hành đến Miến Điện để tìm kiếm sự hỗ trợ từ những dịch giả tài năng, với mong muốn mang những tác phẩm của Ngài Ledi Sayādaw đến với Phật tử khắp nơi trên thế giới, những người không thể đọc được tiếng Miến.

Do tính chất phức tạp của tác phẩm, mãi cho đến nay tôi mới có đủ thời gian và năng lượng để hoàn thành công việc biên tập cần thiết, nhằm mang đến một ấn bản xứng đáng được xuất bản. Bản thảo gốc sẽ rất khó hiểu đối với độc giả đại chúng, bởi vì nó sử dụng rất nhiều câu trích dẫn từ Kinh tạng Pāḷi, các bộ Luận giải, Phụ chú, và các tác phẩm khác. Tác phẩm này được viết để trả lời những câu hỏi từ vị thầy của Ngài Ledi Sayādaw. Như đã được đề cập trong tiểu sử vắn tắt của Ngài (xuất bản trong Maggaṅga Dīpanī):

“Khoảng 2.000 học trò đã tham dự các bài giảng hàng ngày của Tôn giả Sankyaung Sayādaw. Một ngày nọ, Tôn giả đã đặt ra 20 câu hỏi bằng tiếng Pāḷi về các Ba-la-mật (pāramī) và yêu cầu tất cả học trò trả lời. Không ai trong số họ, ngoại trừ Tỳ-khưu Nyāṇa, có thể trả lời những câu hỏi đó một cách thỏa đáng.” Ngài đã tập hợp tất cả những câu trả lời này và khi thọ 14 tuổi hạ (vassa), trong khi vẫn còn đang ở tại tu viện San-kyaung, ngài đã xuất bản cuốn sách đầu tiên của mình, Sách Chỉ Nam Ba-la-mật (Pāramī Dīpanī).

Tôi đã cố gắng giảm thiểu việc sử dụng tiếng Pāḷi ở bất cứ nơi nào có thể, và chuyển một số chú thích vào trong văn bản chính. Tôi đã đối chiếu nhiều câu trích dẫn với Chaṭṭha Saṅgāyana Tipiṭaka và sửa chữa lỗi chính tả. Ở nhiều chỗ, tôi đã cung cấp các tham chiếu chéo đến bản PTS Roman. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều việc phải làm để kiểm tra độ chính xác của những tham chiếu này.

Ngài Ledi Sayādaw đã hoàn thành tác phẩm này vào năm 1241 theo lịch Miến Điện, tương đương với năm 1880, khi ngài 34 tuổi. Điều này phù hợp với những gì ngài đã nói trong lời kết, rằng ngài đã hoàn thành 14 tuổi hạ (vassa) trong đời sống xuất gia. Theo tiểu sử của ngài, pháp danh được ban cho khi thọ giới tỳ-khưu là Ñāṇadhaja, nhưng cái tên ngài sử dụng cho chính mình trong phần kết luận là Ñāṇābhivaṃsa. Hậu tố “Abhivaṃsa” là một danh hiệu được thêm vào tên của ngài, mang ý nghĩa “người có danh tiếng lớn”.

Tôi hy vọng rằng ấn bản này sẽ góp phần giúp cho các tác phẩm của Ngài Sayādaw được tiếp cận rộng rãi hơn. Tôi nhận thấy rằng nó vẫn còn nhiều thiếu sót, nhưng tôi sẽ cố gắng khắc phục những điều đó khi thời gian cho phép.

Ấn bản này bao gồm nhiều chỉnh sửa bởi Antonio Costanzo.

Tỳ-khưu Pesala Luân Đôn, tháng 9 năm 2021

Sách Chỉ Nam Ba-la-mật

Pāramī Dīpanī

Tác giả:

Ledi Sayādaw Mahāthera, Aggamahāpaṇḍita, D.Litt.

Namo Tassa Bhagavato Arahanto Sammāsambuddhassa

Kính lạy Đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác.

Mục đích của Người Hỏi

Pucchaka ganthārambha  ⁰¹

“Pañhā byākaraṇecchekaṃ, Buddhaṃ paṇamya pucchisaṃ. Pañhā byākaraṇecchekaṃ, taṃ taṃ bodhisusaṃyuttaṃ.”

Con xin kính lễ Đức Phật, Bậc Thiện Thệ trong việc hỏi đáp! Sau khi thành kính đảnh lễ, Con xin phép được trình bày những câu hỏi, Nhằm khơi gợi những lời giải đáp khéo léo, Về những vấn đề liên quan đặc biệt Đến các hạng bậc của những vị Giác Ngộ.

Hai Mươi Câu Hỏi

Câu Hỏi Thứ Nhất ⁰⁰¹

Có người thực hiện các thiện sự, chẳng hạn như bố thí, với mục đích viên mãn công đức, mong cầu cả lợi ích thế gian và xuất thế gian. Liệu người ấy có gặt hái được lợi ích trong lĩnh vực thế gian như được sinh vào cảnh giới cao và có nhiều tài sản vật chất hay không? Hay người ấy sẽ đạt được Tuệ đạo và Tuệ quả, cuối cùng chứng ngộ Niết-bàn an lạc? Hay người ấy sẽ gặt hái được lợi ích cả hai, nghĩa là cả thế gian lẫn xuất thế gian? Hay người ấy sẽ không đạt được cả hai?

Câu Hỏi Thứ Hai ⁰⁰²

Ngược lại, có người thực hiện các thiện sự, chẳng hạn như bố thí, v.v., chỉ mong cầu công đức thế gian. Liệu người ấy chỉ hưởng được quả báo trong lĩnh vực thế gian hay cũng sẽ đạt được Niết-bàn an lạc (xuất thế gian)?

Câu Hỏi Thứ Ba ⁰⁰³

Hơn nữa, có người thực hiện các thiện sự, chẳng hạn như bố thí, v.v., chỉ mong cầu trí tuệ xuất thế gian (Niết-bàn). Liệu người ấy có đạt được trí tuệ đó (Niết-bàn) hay không, hay người ấy cũng sẽ hưởng được lợi ích thế gian từ đó?

Câu Hỏi Thứ Tư ⁰⁰⁴

(a) Nay, chư Phật Chánh Đẳng Giác, bậc Toàn Giác, đạt được Phật quả sau khi trải qua quá trình hoàn thiện công đức, chẳng hạn như bố thí, v.v., trong thời gian bốn A-tăng-kỳ kiếp ⁰² (asaṅkhyeyya) và một trăm ngàn đại kiếp ⁰³ (mahā-kappa), hoặc tám A-tăng-kỳ kiếp và một trăm ngàn đại kiếp, hoặc mười sáu A-tăng-kỳ kiếp và một trăm ngàn đại kiếp.

(b) Chư Phật Độc Giác (Paccekabuddhas) tự mình giác ngộ sau khi trải qua quá trình hoàn thiện công đức, chẳng hạn như bố thí, v.v., trong hai A-tăng-kỳ kiếp và một trăm ngàn đại kiếp.

(c) Và chư Thánh đệ tử A-la-hán Thượng thủ (aggasāvaka) giác ngộ sau khi trải qua quá trình hoàn thiện công đức, chẳng hạn như bố thí, v.v., trong một A-tăng-kỳ kiếp và một trăm ngàn đại kiếp.

(d) Và chư Thánh đệ tử A-la-hán Đại đệ tử (mahāsāvaka) giác ngộ sau khi trải qua quá trình hoàn thiện công đức, chẳng hạn như bố thí, v.v., trong một trăm ngàn đại kiếp.

(e) Và chư Thánh đệ tử A-la-hán bình thường (pakatisāvaka) giác ngộ sau khi trải qua quá trình hoàn thiện công đức, chẳng hạn như bố thí, v.v., trong một trăm đại kiếp, hoặc trong một ngàn đại kiếp.

Đối với mỗi hạng trong năm hạng bậc Giác Ngộ, nghĩa là Đức Phật Chánh Đẳng Giác, Đức Phật Độc Giác, chư Thánh đệ tử A-la-hán Thượng thủ, chư Thánh đệ tử A-la-hán Đại đệ tử và chư Thánh đệ tử A-la-hán bình thường, liệu thời gian cần thiết để hoàn thành Ba-la-mật của họ được tính từ khi họ phát nguyện cho loại giác ngộ cụ thể đó, hay là được tiên tri ⁰⁴ (vyākaraṇa) bởi Đức Phật liên quan?

Câu Hỏi Thứ Năm ⁰⁰⁵

Liệu tất cả những vị Giác Ngộ đó đều đạt được giác ngộ bằng cách hoàn thành Ba-la-mật chỉ sau khi nhận được lời tiên tri, hay họ đạt được giác ngộ bằng cách hoàn thành Ba-la-mật mà không (cần) nhận được lời tiên tri?

Câu Hỏi Thứ Sáu ⁰⁰⁶

Hơn nữa, liệu những vị Giác Ngộ tương lai đó, một khi đã được ban cho lời tiên tri, có phát nguyện lại cho một loại giác ngộ khác với loại đã được đảm bảo hay không? Hay là không?

Câu Hỏi Thứ Bảy ⁰⁰⁷

Có người thực hiện các thiện sự, chẳng hạn như bố thí, v.v., mà không mong cầu bất kỳ loại giác ngộ cụ thể nào, mà chỉ đơn giản mong cầu chứng ngộ Tuệ đạo, Tuệ quả và Niết-bàn; người ấy sẽ đạt được loại giác ngộ nào (katamāya bodhiyā bujjheyya)?

Nếu người ấy là vị Giác Ngộ tương lai, mong muốn đạt được giác ngộ A-la-hán sau khi hoàn thành Ba-la-mật cần thiết, liệu người ấy có đạt được giác ngộ như mong muốn (tức là A-la-hán) hay không? Nếu người ấy là vị Giác Ngộ tương lai, mong muốn đạt được giác ngộ Phật Độc Giác sau khi hoàn thành Ba-la-mật cần thiết, liệu người ấy có đạt được giác ngộ như mong muốn (tức là Phật Độc Giác) hay không? Nếu người ấy là vị Giác Ngộ tương lai, mong muốn đạt được giác ngộ Phật Chánh Đẳng Giác sau khi hoàn thành Ba-la-mật cần thiết, liệu người ấy có đạt được giác ngộ như mong muốn (tức là Phật) hay không?

Câu Hỏi Thứ Tám ⁰⁰⁸

Có người thực hiện các thiện sự, chẳng hạn như bố thí, v.v., mong muốn giác ngộ A-la-hán. Liệu người ấy, trong quá trình hoàn thành Ba-la-mật cần thiết, hoặc sau khi đã hoàn thành Ba-la-mật cần thiết, có phát nguyện cho bất kỳ loại giác ngộ nào khác (tức là khác với A-la-hán) hay không? Hay là không? Giả sử người ấy có phát nguyện cho một loại khác, liệu nguyện vọng đó có được thành tựu hay không? Nếu nguyện vọng thay thế của người ấy được chấp nhận, liệu đó có phải là kết quả của việc hoàn thành một phần Ba-la-mật, thay vì toàn bộ Ba-la-mật cần thiết hay không? Hay là, sự đạt được đó có được điều kiện hóa bởi một sự bắt đầu mới trong việc hoàn thành Ba-la-mật cần thiết?

Câu Hỏi Thứ Chín ⁰⁰⁹

Có người thực hiện các thiện sự, chẳng hạn như bố thí, v.v., mong muốn giác ngộ Phật Độc Giác. Liệu người ấy, trong quá trình hoàn thành Ba-la-mật cần thiết, hoặc sau khi đã hoàn thành Ba-la-mật cần thiết, có phát nguyện cho bất kỳ loại giác ngộ nào khác (tức là khác với Phật Độc Giác) hay không? Hay là không? Giả sử người ấy có phát nguyện cho một loại khác, liệu nguyện vọng đó có được thành tựu hay không? Nếu nguyện vọng thay thế của người ấy được chấp nhận, liệu đó có phải là kết quả của việc hoàn thành một phần Ba-la-mật, thay vì toàn bộ Ba-la-mật cần thiết hay không? Hay là, sự đạt được đó có được điều kiện hóa bởi một sự bắt đầu mới trong việc hoàn thành Ba-la-mật cần thiết?

Câu Hỏi Thứ Mười ⁰¹⁰

Có người thực hiện các thiện sự, chẳng hạn như bố thí, v.v., mong muốn giác ngộ Phật Chánh Đẳng Giác. Liệu người ấy, trong quá trình hoàn thành Ba-la-mật cần thiết, hoặc sau khi đã hoàn thành Ba-la-mật cần thiết, có phát nguyện cho bất kỳ loại giác ngộ nào khác (tức là khác với Phật Chánh Đẳng Giác) hay không? Hay là không? Giả sử người ấy có phát nguyện cho một loại khác, liệu nguyện vọng đó có được thành tựu hay không? Nếu nguyện vọng thay thế của người ấy được chấp nhận, liệu đó có phải là kết quả của việc hoàn thành một phần Ba-la-mật, thay vì toàn bộ Ba-la-mật cần thiết hay không? Hay là, sự đạt được đó có được điều kiện hóa bởi một sự bắt đầu mới trong việc hoàn thành Ba-la-mật cần thiết?

Câu Hỏi Thứ Mười Một ⁰¹¹

Liệu chư Phật Độc Giác và chư Thánh đệ tử A-la-hán có đạt được giác ngộ sau khi hoàn thành đầy đủ ba mươi Ba-la-mật hay không, hay họ đạt được giác ngộ sau khi hoàn thành ít hơn thế?

Câu Hỏi Thứ Mười Hai ⁰¹²

Thời gian tối thiểu để hoàn thành Ba-la-mật cho giác ngộ A-la-hán là bao lâu? Liệu người ta có phải hoàn thành Ba-la-mật trong thời gian tối thiểu đó để đạt được giác ngộ hay không?

Câu Hỏi Thứ Mười Ba ⁰¹³

Liệu những vị Thánh đệ tử tương lai (tức là chư Thánh đệ tử A-la-hán Thượng thủ, chư Thánh đệ tử A-la-hán Đại đệ tử và chư Thánh đệ tử A-la-hán bình thường) đã hoàn thành Ba-la-mật tương ứng của họ và tình cờ được sinh ra trong một đại kiếp không có Phật (Buddha-suñña-kappa) có tự mình giác ngộ hay không? Hay họ phải chờ đợi cho đến khi một đại kiếp có Đức Phật xuất hiện (Buddhuppāda-kappa)?

Câu Hỏi Thứ Mười Bốn ⁰¹⁴

Liệu Đức Phật, chư Phật Độc Giác và chư Thánh đệ tử A-la-hán có nhận được những lời tiên tri tương ứng với các yếu tố đồng nhất hay không, hay là các lời tiên tri khác nhau với các yếu tố khác nhau?

Câu Hỏi Thứ Mười Lăm ⁰¹⁵

Liệu chỉ có chư Phật Chánh Đẳng Giác mới đích thân nhận được lời tiên tri hay không? Liệu chư Phật Độc Giác và chư Thánh đệ tử A-la-hán cũng đích thân nhận được lời tiên tri hay không?

Câu Hỏi Thứ Mười Sáu ⁰¹⁶

Liệu tất cả loài người, chư Thiên hay chư Phạm đều cần phải hoàn thành Ba-la-mật trong suốt thời gian quy định cho chư Thánh đệ tử A-la-hán (Buddhasāvaka), tức là chư Tỳ-khưu Trưởng lão (thera), chư Tỳ-khưu Ni Trưởng lão (therī), chư Sa-di (sāmaṇera), chư Sa-di Ni (sāmaṇeri), và chư Thức-xoa-ma-na (sikkhamānā) hay không? Hay họ đạt được giác ngộ sau khi hoàn thành những lời tiên tri trong những khoảng thời gian ngắn hơn?

Câu Hỏi Thứ Mười Bảy ⁰¹⁷

Liệu chư Phật, chư Phật Độc Giác và chư Thánh đệ tử A-la-hán chỉ xuất hiện trong thế giới này hay không? Hay họ cũng xuất hiện trong các thế giới khác?

Câu Hỏi Thứ Mười Tám ⁰¹⁸

Hơn nữa, liệu chư Phật, chư Phật Độc Giác và chư Thánh đệ tử A-la-hán, sau khi được sinh ra trong thế giới này, chỉ hoàn thành Ba-la-mật ở đây hay không? Hay họ cũng sinh ra và hoàn thành Ba-la-mật ở các thế giới khác?

Câu Hỏi Thứ Mười Chín ⁰¹⁹

Hơn nữa, liệu chư Phật, chư Phật Độc Giác và chư Thánh đệ tử A-la-hán chỉ sinh ra và hoàn thành Ba-la-mật ở lục địa phía Nam Jambudīpa ⁰⁵ hay không, hay họ cũng sinh ra và hoàn thành Ba-la-mật ở những nơi khác, tức là ở ba lục địa khác và các đảo nhỏ xung quanh, và các đảo nhỏ của lục địa phía Nam như đảo Sīhala, đảo Nāga, v.v.?

Câu Hỏi Thứ Hai Mươi ⁰²⁰

Hơn nữa, ngay tại lục địa phía Nam, liệu chư Phật, chư Phật Độc Giác và chư Thánh đệ tử A-la-hán chỉ sinh ra và hoàn thành Ba-la-mật ở Trung Quốc (Majjhimadesa) hay không, hay họ cũng sinh ra và hoàn thành Ba-la-mật ở các vùng ngoại biên (paccanta desa)?

Con Đường Của Người Khôn Ngoan ⁰²¹

(a) Thông thường, người hỏi chỉ quan tâm đến một khía cạnh của vấn đề; bởi vì nếu họ đề cập đến tất cả các khía cạnh của một chủ đề, thì sẽ không có lý do gì để đặt câu hỏi cả. Khi đó sẽ không có câu hỏi nào phát sinh. Tuy nhiên, bây giờ một loạt câu hỏi đã được đặt ra, thì có người phải giải quyết chúng.

(b) Tại sao cần phải giải quyết chúng? Bởi vì mọi câu hỏi đều cần có câu trả lời: nơi nào có câu hỏi, nơi đó luôn có câu trả lời.

Như Saddasāratthajālinī đã nói:

Nơi nào rõ ràng có câu trả lời,

Thì người khôn ngoan nên đặt ra một câu hỏi (phù hợp) cho nó.

Và sau đó là câu kệ bổ sung:

Nơi nào rõ ràng có câu hỏi,

Thì người khôn ngoan nên đưa ra câu trả lời.

(c) Bây giờ đã có loạt câu hỏi này và chúng yêu cầu câu trả lời, tôi kêu gọi những ai cảm thấy mình có đủ năng lực, nghĩa là những người là người mang ngọn cờ Giáo pháp của Đức Phật (sāsanadhajūpamā), là lá cờ của lục địa Jambudīpa kiêu hãnh, và nằm trong phạm vi trách nhiệm của họ (đây không phải là phạm vi của những kẻ giả danh), những người, trích dẫn thẩm quyền từ kiến thức uyên bác của họ về kinh điển và các bộ luận giải, sẽ giải thích ý nghĩa cố hữu, tự nhiên của các câu hỏi và làm hài lòng người hỏi mà không còn một chút nghi ngờ nào, để trả lời hai mươi câu hỏi này.

(d) Nếu ai đó không đủ năng lực, nghĩa là không thể trả lời rõ ràng và tốt theo cách thức đã nói ở trên, thì tốt hơn hết là nên im lặng, vai rũ xuống, miệng ngậm chặt, vẻ mặt ủ rũ, giống như gốc cây ở ngã tư đường, hoặc tấm đá kê cửa.

(e) Tuy nhiên, tại sao những người không đủ năng lực phải giữ im lặng? Đó là bởi vì những người có năng lực nhất định sẽ đứng ra đảm nhận: họ vượt trội hơn bạn rất nhiều và hoàn toàn có thể tự mình hoàn thành tốt (nhiệm vụ trả lời). Giống như sư tử bờm (kesarasīha), loài cao quý nhất trong bốn loại sư tử – ba loại kia là sư tử nâu (paṇḍu-sīha), sư tử ăn cỏ (tiṇa-sīha) và sư tử thân người (nara-sīha hoặc manussīha) – là chúa tể của muôn thú, người khôn ngoan nổi tiếng với kiến thức uyên bác về Tam tạng kinh điển gồm chín phần, cùng với các bộ luận giải và phụ chú, sẽ đưa ra câu trả lời với sự tự tin và thành thạo cao nhất, giống như chúa tể của muôn thú gầm lên vang dội khắp khu rừng ba ngàn dặm. Khi một người xuất chúng như vậy đảm nhận nhiệm vụ phù hợp với kỹ năng tinh tế, thì những người tầm thường hãy giữ im lặng!

Hết phần Hai Mươi Câu Hỏi do cố Sankyaung Sayādaw ở Mandalay đặt ra

Chuyển ngữ từ Anh sang Việt bởi Soṇa Thiện Kim, có dùng công cụ Gemini Advanced và ChatGPT Plus hỗ trợ

Giải Đáp Hai Mươi Câu Hỏi

Lời Mở Đầu Của Người Trả Lời  ⁰²²

Vissajjanaka ganthārambha

(a) Nguyện cầu Đức Phật,

Đấng là kết quả của những Ba-la-mật vi diệu,

Đỉnh cao là Chánh Biến Tri,

Người khám phá ra Tuệ đạo,

Người nắm giữ Tri kiến viên mãn trong việc giảng dạy,

Đấng đã mang đến Ánh sáng của Tứ Diệu Đế

Cho những người đủ duyên giác ngộ,

Truyền trao Chánh pháp viên mãn

Của Tuệ đạo cho thế gian,

Ban cho con sự thành công và thịnh vượng!

(b) Vị thầy vĩ đại và ân nhân của chúng con,

Ngài Sankyaung Sayādaw, người được ban tặng danh hiệu tôn kính của hoàng gia,

Sudassanavara-dhammasāmi-mahādhammarājādhirājaguru,

Vững chắc (như trụ đá ở cổng thành)

Trong giới đức, thiền định và trí tuệ,

Đã đặt ra hai mươi câu hỏi (uyên bác) này (bằng tiếng Pāḷi);

Giờ đây, con xin phép được giải đáp chúng (bằng tiếng Pāḷi)

Và dịch đầy đủ (cả câu hỏi lẫn câu trả lời)

Sang tiếng bản địa (tiếng Miến).

Giải Thích Về Mục Đích Của Người Hỏi

Người hỏi sáng tác bài kệ này với mục đích chứng minh ngay từ đầu hiệu quả của việc thờ phượng Tam Bảo, điều sẽ mang lại thành công cho sự nghiệp cao quý của ông trong việc đặt ra hai mươi câu hỏi này, trong nhiệm vụ (tự đặt ra) mà ông mong muốn được an tâm với hiểu biết rằng sự tôn kính như vậy sẽ xua đuổi mọi điều xấu xa, đồng thời đảm bảo sự cát tường và công đức trong cả hai lĩnh vực thế gian và xuất thế gian.

Trong bài kệ mở đầu này, người hỏi, khi đặt ra các câu hỏi của mình, ngụ ý rằng cách thức đặt câu hỏi sẽ vừa sâu sắc vừa rộng lớn, và sẽ ít nhiều phù hợp với các phương pháp sau:

Năm hình thức câu hỏi trong các bộ luận giải về Kinh tạng, đó là:

  • Adiṭṭhajotanā pucchā (câu hỏi làm sáng tỏ những gì chưa được nhìn thấy)
  • Diṭṭhasandanā pucchā
  • Vimaticchedanā pucchā
  • Anumati pucchā
  • Kathetukamyatā pucchā

Bốn hình thức câu hỏi trong các bộ luận giải về Yamaka (Abhidhamma Piṭaka), đó là:

  • Pure pañhā
  • Pacchā pañhā
  • Paripuṇṇa pañhā
  • Mogha pañhā

Bốn hình thức câu hỏi trong Aṅguttaranikāya, đó là:

  • Ekaṃsavyākaraṇīya pañhā
  • Vibhajja vyākaraṇīya pañhā
  • Paṭipucchā vyākaraṇīya pañhā
  • Ṭhapanīya pañhā

Năm cách thức hỏi và đáp trong các bộ luận giải về Yamaka (Abhidhamma Piṭaka), đó là:

  • Pāḷigati vissajjanā
  • Paṭivacana vissajjanā
  • Sarūpadassana vissajjanā
  • Paṭekkhepa vissajjanā
  • Paṭisedha vissajjanā

Bốn cách thức trả lời trong các bộ luận giải về Kinh tạng, đó là:

  • Ekaṃsa vyākaraṇa
  • Vibhajja vyākaraṇa
  • Paṭipucchā vyākaraṇa
  • Thapana vyākaraṇa

Đó là những phương pháp đã được truyền lại từ lâu đời trong kinh điển.

Ngoài ra, theo ngữ pháp thông thường, có:

(a) sáu cách thức hỗn hợp, đó là:

  • Phương pháp Antonīta
  • Phương pháp Nikkhanta
  • Phương pháp Paduddhāra
  • Phương pháp Padapavesana
  • Phương pháp Ābhoga
  • Phương pháp Ākāra

(b) bốn cách hỏi (codanā), đó là:

  • Ayutta
  • Ābhoga
  • Byutireka
  • Anvaya

(c) bốn cách trả lời (parihāra), đó là:

  • Yutta
  • Ābhoga
  • Byatireka
  • Anvaya

(Để biết chi tiết, người học nên tham khảo các tác phẩm khác nhau về ngữ pháp).

CÂU HỎI: Tại sao chỉ nên thờ phượng Đức Phật?

TRẢ LỜI: Bởi vì ngay cả khi không thờ phượng Chánh pháp và Tăng già, mục đích chính là thành công trong sự nghiệp mà không gặp chướng ngại vẫn được đảm bảo bằng cách chỉ thờ phượng Đức Phật.

Ví dụ, trong Paṭisambhidāmagga Gaṇṭhi, người ta đã nói rằng Tam Bảo là ruộng phước, sự tôn kính dành cho bất kỳ một trong ba ngôi nào cũng mang lại thành công cho người tự mình hoàn thành các điều kiện thành công. Sự tôn kính như vậy có năng lực lớn (mahāpphala), công đức lớn (mahā­nisaṃsa) và hiệu quả lớn (mahānubhāva), miễn là người mong cầu không thiếu các điều kiện thành công. Đối với một người thực sự xứng đáng, có đầy đủ niềm tin vào cả khả năng của bản thân và hiệu quả của việc tôn kính Đức Phật, cũng giống như một cung thủ bậc thầy sẽ không bận tâm mang theo một bó tên mà chỉ mang theo một mũi tên.⁰²³

Mặt khác: Sự xứng đáng được tôn kính của Đức Phật đồng nhất với Tam Bảo, do đó, việc đảnh lễ Đức Phật cũng đồng nghĩa với việc đảnh lễ Chánh pháp và Tăng già, nghĩa là tôn kính Đức Phật cũng bao hàm sự tôn kính đối với Chánh pháp và Tăng già.

Xem ibid.⁰²⁴

Xem thêm Kaṇṇakatthala Sutta ⁰⁶ Aṭṭhakathā.⁰²⁵

Mặt khác: Người ta đã chỉ ra rằng bằng cách lấy cái chính thì cái phụ cũng được lấy theo: “Padhāne gahite appadhānampi gahitameva” (xem: saddhatitathāgatassa bodhiṃ).

Xem thêm bộ luận giải về Aṅguttaranikāya.⁰²⁶

Mặt khác: Như đã chỉ ra trong Udāna, thuật ngữ ‘Phật’ dùng để chỉ Đức Phật Chánh Đẳng Giác (Sabbaññutabuddha) cũng như một vị Thánh đệ tử A-la-hán (Sāvakabuddha).⁰²⁷

Nay, khi Đức Phật và Tăng già được tôn kính, thì Chánh pháp, mà Đức Phật và Tăng già là hiện thân, cũng tự động được tôn kính. Xem Paramatthadīpanī, bộ luận giải về Udāna ⁰²⁸ và Phụ chú về Mahāvagga của Dīghanikāya.⁰²⁹

Trên đây là những lập luận thích hợp để giải thích lý do tại sao chỉ có Đức Phật được tôn kính ở đây.

Một số lưu ý về cách thức tôn kính

“Paṇamya” trong câu kệ mở đầu giống như paṇāma, đồng nghĩa với hành động tôn kính (vandana). Cách thức thực hiện hành động này được định nghĩa trong Aṅguttaranikāya (Tương Ưng Bộ Kinh – Tam Tụ) như sau: “Tissa imā bhikkhave vandaṇā kāyena vācāya manasā:” – “Hành động này bao gồm sự tôn kính bằng thân, bằng lời nói hoặc bằng tâm.”

(1) Về hành động bằng thân thể, có thể là lễ lạy (pañcapatiṭṭhitā vandana) hoặc chỉ chắp tay hướng về người (hoặc vật) được tôn kính (añjalikamma vandana).

Lễ lạy có nghĩa là hạ mình xuống đất dưới chân người được tôn kính sao cho đầu gối, hai tay và trán chạm đất, do đó có thuật ngữ “nằm trên năm điểm” (pañcapatiṭṭhita). Xem định nghĩa Pāḷi tại Ref.⁰³⁰ Trong đó, chỉ đề cập đến năm điểm tiếp đất, nhưng nơi tiếp đất (bhūmiyaṃ) được đề cập cụ thể trong Sāratthadīpanī-ṭīkā.⁰³¹

Trong Vinayālaṅkāra-ṭīkā, một định nghĩa khác về năm cách thức thờ phượng được đưa ra bao gồm các yếu tố sau:

  • Đặt áo choàng ngoài lên vai trái,
  • Chắp tay,
  • Chạm vào chân người được tôn kính,
  • Cảm thấy tôn kính, và
  • Thể hiện sự tôn trọng.

Định nghĩa trên có thể phù hợp với một số tình huống nhất định.⁰³²

Trong bộ luận giải sau này về Sīlakkhandha, một phiên bản khác của năm cách thức thờ phượng được nêu ra. Theo đó, năm yếu tố là: bàn chân, đầu gối, khuỷu tay, hai tay và đầu chạm đất hướng về người được tôn kính. Đây là một cách giải thích mới về lễ lạy năm vóc mà chưa được chấp nhận rộng rãi.

Chắp tay như tư thế thờ phượng được định nghĩa là chắp hai tay lên trán hướng về người được tôn kính: (Añjali­kamma nāma karapuṭa samāyogo). Xem bộ luận giải về Theragāthā để hiểu rõ hơn về định nghĩa này.⁰³³

Trong hai cách thức thờ phượng, lễ lạy vượt trội hơn chắp tay: đây là cách thực hành truyền thống. Xem Therīgāthā và bộ luận giải của nó.⁰³⁴

Để hiểu rõ hơn về việc chắp tay, các bộ luận giải về Nidāna và Maṅgala Buddhavaṃsa nói rằng hai lòng bàn tay chắp vào nhau sao cho tạo thành hình dạng một nụ sen nở rộ,⁰³⁵ và chính vì những lời tuyên bố này mà nhà thơ trong bài thơ “Kogan pyo”  ⁰⁷ của ông đã mô tả một cách sống động cách thức mà hội chúng chư Tỳ-khưu đảnh lễ Đức Phật. Nhân tiện xin đề cập rằng trong hành động lễ lạy năm vóc, hai tay không bắt buộc phải tạo thành hình nụ sen, mà chỉ cần chạm đất là được.

Về sự tôn kính bằng lời nói: tất cả các hình thức lời nói thành kính ca ngợi Tam Bảo, từ những lời lẽ đơn giản cho đến những lời tán tụng công phu nhất – cho dù bằng tiếng Pāḷi hay bằng tiếng bản địa – đều tạo thành sự tôn kính bằng lời nói.

Tôn kính bằng tâm có nghĩa là ghi nhớ những phẩm chất cao quý của Tam Bảo. Việc sáng tác các tác phẩm tôn giáo, mặc dù được thực hiện bằng tay (tức là bằng thân thể), nhưng được bao gồm trong sự tôn kính bằng lời nói vì những gì được viết thường được đọc lên.

Hành động tôn kính (paṇāma) thường được gọi là chào hỏi hoặc thể hiện sự tôn trọng (abhivādana). Ví dụ, trong Buddhavaṃsa, việc thể hiện sự tôn trọng có ba cách diễn đạt đồng nghĩa, đó là: ca ngợi (thomana), tôn kính (vandana) và đảnh lễ (namassana).⁰³⁶ Bộ luận giải về Buddhavaṃsa định nghĩa bốn thuật ngữ đó.⁰³⁷

“Pucchissaṃ” (tất nhiên) có nghĩa là, “Tôi sẽ đặt ra một số câu hỏi nhất định.” Xem Paramattha-dīpanī, là bộ luận giải về Vimānavatthu, trong đó có nói: “Pucchāmī’ti ñātuṃ icchāmi pañhaṃ karomī’ti attho.”

Hết phần Giải thích về mục đích của Người hỏi

Giải Đáp Câu Hỏi Thứ Nhất

Sau khi đảnh lễ Đức Phật như là công việc sơ khởi (pubba kicca), người hỏi bắt đầu đặt câu hỏi của mình bằng những từ: “Yo lokiyalokuttara­sukhāni.”

Câu trả lời cho câu hỏi đầu tiên là:

Những hành động thiện lành được thực hiện với mục đích mang lại lợi ích cả thế gian và xuất thế gian sẽ dẫn đến sự thịnh vượng cả trong thế gian và xuất thế gian – với điều kiện là nó không trở nên vô hiệu hoặc không hoạt động (ahosi kamma). Nếu nó trở nên vô hiệu, nó sẽ đóng góp vào sự thịnh vượng xuất thế gian.

Điều đó quả thực là như vậy. Bởi vì một hành động của ý chí có thể trở nên vô hiệu chỉ đối với kết quả thế gian: không có nghiệp thiện nào mà không đóng góp vào sự an lạc xuất thế gian, và sự an lạc xuất thế gian thực sự không phải là sản phẩm trực tiếp của công đức thế gian, mà chỉ là một lợi ích (ānisaṃsa) thu được.

Giải thích về Lợi ích

Đây không phải là lợi ích tầm thường vì công đức được tìm kiếm với mục đích đạt được Tuệ đạo và Tuệ quả, Niết-bàn, sự giải thoát khỏi vòng luân hồi nghiệp báo (tức là vivaṭṭa), có tiềm năng tuyệt vời. Nó có thể được ví như tia chớp đánh trúng một cây đại thụ, chắc chắn sẽ giết chết cây đó, bởi vì công đức xuất thế gian, dù có vẻ nhỏ bé đến đâu, cũng có tác dụng lâu dài là thiêu đốt những phiền não thường lấn át một người thế gian. Nói tóm lại, nó hoạt động như một điều kiện đủ (upanissaya) cho sự giác ngộ trên con đường Đạo.

Điều này đã được vị luận sư giải thích trong Ākaṅkheyya Sutta, Mūlapaṇṇāsa như sau:

“Quả (phala) và lợi ích (ānisaṃsa), mặc dù đồng nghĩa, nhưng có ý nghĩa hoàn toàn khác nhau. ‘Phala’ hàm ý sự hưởng thụ dồi dào của công đức, do đó nó được gọi là ‘mahāpphala.’ ‘Ānisaṃsa’ có nghĩa là tiềm năng cho điều kiện đủ (upanissaya paccayo) cho hạnh phúc cao quý (mahanto) xuất thế gian, do đó nó được gọi là ‘mahānisaṃsa.’ Điều đó quả thực là như vậy bởi vì ngay cả những sự cúng dường đơn giản nhất của một người có giới đức, thiền định và trí tuệ (sīlādiguṇa-yuttassa) chẳng hạn như một nắm thức ăn bố thí hoặc một túp lều tranh khiêm tốn, rộng năm thước vuông với nền đất, cũng có thể ngăn cản người bố thí rơi vào các cảnh giới khổ đau trong hàng ngàn kiếp, và cũng đóng vai trò như điều kiện đủ cho việc đạt được Niết-bàn bất tử.”

Từ lời bình luận này, chúng ta có thể hiểu rằng lợi ích xuất thế gian không phải là một kết quả trực tiếp, nhưng là một ân huệ, một phước lành, một lợi thế rõ ràng (ānisaṃsa).⁰³⁸

Một câu hỏi có thể được đặt ra

CÂU HỎI: Dựa trên cơ sở nào mà nói rằng công đức được thực hiện với mục đích mang lại lợi ích cả thế gian và xuất thế gian sẽ được đền đáp theo cả hai cách?

TRẢ LỜI: Có những trường hợp như trường hợp của vua rồng Bhūridatta, hoặc vua rồng Campeyya hoặc vua rồng Saṅkhapāla.

(a) Trong Bhūridatta Jātaka, Mahānipāta, Đức Phật kể lại như sau: – “Khao khát những cung điện thiên giới như cung điện Vejayanta của Sakka, nơi chư Thiên ở Tāvatiṃsa sống trong sự xa hoa và hạnh phúc tột bậc, ta đã giữ giới luật ngày trai giới (Uposatha sīla) và sống trên đỉnh đồi.” ⁰³⁹

(b) Một lần nữa, trong Cariyāpiṭaka, cùng một sự kiện của Bhūridatta được kể lại như sau: – “Nhìn thấy trạng thái hạnh phúc rõ ràng của chư Thiên ở cõi Trời Ba Mươi Ba, ta đã tự mình thực hành giới đức với mục đích được sinh lên đó.” ⁰⁴⁰

(c) Trong Campeyya Jātaka, vua rồng nói với người bắt giữ mình như sau: – “Hỡi Đại vương, tôi giữ giới luật ngày trai giới không phải vì con cái của tôi, cũng không phải vì của cải, cũng không phải vì tuổi thọ của tôi như một con rồng; Tôi đang nỗ lực hết mình với mục đích được tái sinh làm người, điều mà tôi tha thiết mong muốn.”

(d) Trong Saṅkhapāla Jātaka, vua rồng Saṅkhapāla đã giữ giới luật vì những lý do tương tự.

Xét từ những câu chuyện về tiền kiếp của Đức Phật ở trên, chúng ta có thể lưu ý rằng công đức có được với các mục tiêu thế gian và xuất thế gian kết hợp với nhau sẽ bổ sung cho sự hoàn thiện của một người cần thiết cho Tuệ đạo, đỉnh cao là Niết-bàn.

CÂU HỎI: Người ta có thể hỏi: trong những câu trích dẫn trên, đâu là mong muốn cho xuất thế gian?

TRẢ LỜI: Những hành động công đức đó được tính là sự hoàn thành Ba-la-mật (pāramī) mà, như thuật ngữ đã chỉ ra, ngụ ý một động cơ tiềm ẩn cho lợi ích xuất thế gian, và thực tế là chúng được tính như vậy được đề cập rõ ràng trong Cariyāpiṭaka, được giải thích trong Paramattha­dīpanī, bộ luận giải về nó. Những giải thích tương tự về điểm này cũng được tìm thấy trong Aṭṭhasālinī, Paṭhama Jātaka Aṭṭhakathā, Madhurattha­vilāsinī (Luận giải về Buddhavaṃsa), Visuddhajana­vilāsinī (Luận giải về Apadāna), Jātātattakī, v.v.

Động cơ tiềm ẩn trong việc mong muốn tái sinh vào cõi người cũng đã được nêu trong Campeyya Jātaka và Saṅkhapāla Jātaka ⁰⁴¹ với nội dung: “Ta cũng vậy, khi đạt được sự tồn tại của con người, sẽ làm việc cho sự kết thúc của vòng sinh tử luân hồi.”

Như vị luận sư đã chỉ ra trong Bhūridatta-cariya, những mong muốn rõ ràng trong việc giữ giới luật có một động cơ tiềm ẩn là giác ngộ vào đúng thời điểm (Bodhiparipacānaṃ: nghĩa đen là Chín muồi hướng tới giác ngộ.)

“Việc thực hành giới đức ngày trai giới của ta, trong khi trưởng thành đến Chánh Biến Tri, cũng sẽ là nguyên nhân để tái sinh vào cõi Trời Ba Mươi Ba,” ta đã suy nghĩ như vậy; và sau đó ta đã đến cõi rồng Bhogavatī và nói với cha mẹ ta: ‘Thưa mẹ, thưa cha, con sẽ tự mình thực hiện việc tuân thủ giới luật Uposatha’.” ⁰⁴²

Vị luận sư sau đó nói thêm rằng Bhūridatta đã được tái sinh vào cõi trời sau khi chết.

Hết phần Giải đáp Câu hỏi Thứ nhất

Giải Đáp Câu Hỏi Thứ Hai

Việc vun trồng Ba-la-mật (pāramī), như được định nghĩa trong Jinālaṅkāra-ṭīkā,⁰⁴³ là một hành động thiện lành hướng đến Niết-bàn. Do đó, thực hiện công đức với mong muốn duy nhất là lợi ích thế gian không phải là sự hoàn thành Ba-la-mật. Tuy nhiên, người hỏi sử dụng thuật ngữ “Các thiện sự, chẳng hạn như bố thí, v.v. (dānādipāramiyo),” bởi vì những hành động thiện lành đó phù hợp với lời dạy của Đức Phật về các hành động thiện lành.

Hoặc, để lập luận theo một cách khác: vì bố thí và những hành động thiện lành tương tự trên thực tế là biểu hiện (paññatti) của người khôn ngoan, những bậc xứng đáng, nên những hành động do những người cao thượng như vậy thực hiện có thể được coi là sự hoàn thành Ba-la-mật: “Paramānaṃ paṇḍitānaṃ kammaṃ pāramī.”

Một hành động thiện lành được thực hiện với mục đích hoàn toàn vì thế gian không tạo thành điều kiện đủ (upanissaya) cho Tuệ đạo: nó chỉ dẫn đến thành công thế gian như được sinh vào cảnh giới cao hoặc giàu có.

Như các nhà luận giải về Aṅguttaranikāya và Saṃyuttanikāya, trong các tác phẩm của họ có tựa đề là Manorathapūraṇī và Sāratthappakāsinī, đã nói: –

(a) Cho dù đó là một món quà nhỏ bé như một bó cỏ, hoặc một món quà hào phóng như của vị Bồ tát Velāmaka Bà-la-môn, nếu nó được ban tặng với mục đích của người cho hướng đến những phần thưởng thấp kém của thành công thế gian (vaṭṭa sampatti), thì hành động đó sẽ chỉ dẫn đến sự thịnh vượng thế gian, chịu sự tái sinh vô tận (vaṭṭameva). Nó không giúp ích gì trong việc đưa người cho ra khỏi vòng luân hồi sinh tử hoặc đến Niết-bàn.

(b) Mặt khác, nếu người ta mong muốn Niết-bàn không còn tái sinh, nói rằng, “Nguyện cho hành động thiện lành này dẫn tôi đến sự đoạn tận các lậu hoặc (āsava) trong tâm trí của tôi” thì công đức được định hướng đúng đắn như vậy, nhờ vào sự không còn khao khát tái sinh, có khả năng giác ngộ A-la-hán hoặc Phật Độc Giác hoặc Phật Chánh Đẳng Giác.⁰⁴⁴

Hết phần Giải đáp Câu hỏi Thứ Hai

Giải Đáp Câu Hỏi Thứ Ba

Công đức có được với ý định duy nhất là hạnh phúc xuất thế gian có nghĩa là công đức không bị pha trộn với các lậu hoặc thấp hèn như vô minh (avijjā), ái dục (taṇhā), v.v., mà được kết hợp với các lực tinh tấn (tức là các tâm sở) thanh tịnh như niềm tin (saddhā), tinh tấn (vīriya), chánh niệm (sati), thiền định (samādhi) và trí tuệ (paññā). Nó thuộc loại đặc biệt cao quý (ukkaṭṭhatama). Do đó, nó mang theo điều kiện đủ cho Tuệ đạo với năng lực tích cực của nó trong việc phá hủy các phiền não và phá vỡ các ràng buộc trói buộc một người vào vòng luân hồi sinh tử. Hơn nữa, trong suốt khoảng thời gian trước khi đạt được Tuệ đạo, nó ban tặng cho người tạo ra công đức tất cả những gì vĩ đại nhất và cao quý nhất mà thế gian có thể cung cấp bằng cách sinh ra trong cảnh giới cao quý và địa vị cao sang, v.v. Ở đây, lợi ích thế gian như sự sinh ra và địa vị là kết quả trực tiếp của hành động thiện lành, trong khi Tuệ đạo và Niết-bàn là những hệ quả tiềm năng.

Trong các bộ luận giải về Dhammadāyāda Sutta được ghi lại trong Majjhimanikāya và Khuddakanikāya, Itivuttaka, người ta đã chỉ ra rằng mong muốn thoát khỏi quá trình tái sinh, chỉ hướng về (nghĩa đen là ‘dựa vào’) Niết-bàn (vivaṭṭupanissitaṃ) có thể hiện diện trong các hành động trực tiếp cũng như trong các ứng dụng phù hợp (upacāra dhamma) của Giáo pháp trong cuộc sống hàng ngày. Trên thế gian này, một số người, mong muốn thoát khỏi vòng luân hồi nghiệp báo, có thể bố thí hoặc cúng dường, giữ các giới luật đạo đức như năm giới căn bản, hoặc tám hoặc mười giới Uposatha, hoặc kiềm chế theo các quy tắc căn bản của chư Tỳ-khưu (Pātimokkha saṃvara sīla), cúng dường hương, nước hoa và hoa cho Tam Bảo, nghe Pháp, giảng Pháp, thực hành chánh niệm và xây dựng thiền định. Những người như vậy dần dần đạt được Niết-bàn bất tử (nippariyāya dhamma). Đây là cách Niết-bàn được chinh phục một cách có phương pháp theo thời gian (pariyāya dhamma).⁰⁴⁵

Một lưu ý về từ dần dần (anupubbena) trong đoạn trích dẫn trên: –

“Dần dần” hàm ý rằng người ta tiến tới sự thịnh vượng vượt trội (sampatti-atikama) thông qua các kiếp sống hạnh phúc trong cõi người và cõi trời, tiến dần đến Niết-bàn. Nó không hàm ý quá trình giác ngộ dọc theo con đường Đạo và Quả của nó. Trong Luận giải về Aṅguttaranikāya (Nhất Tụ), điều này đã được giải thích như sau:

“Chính tâm trí là điều quan trọng ở đây, tâm trí được sinh ra từ ý chí từ bỏ vòng luân hồi sinh tử (vivaṭṭavasena). Bởi vì chính tâm trí được định hướng tốt đó đã đặt một người vào con đường đúng đắn, nhờ đó người đó tiến từ kiếp sống hạnh phúc này sang kiếp sống hạnh phúc khác – từ hạnh phúc của con người đến hạnh phúc của cõi trời, và từ đó đến hạnh phúc của thiền định (jhāna sukhaṃ), và sau đó trưởng thành thành hạnh phúc của tuệ giác (vipassanā sukhaṃ), dẫn đến sự an lạc của Tuệ đạo (magga sukhaṃ) và sự thanh thản của Quả của nó (phala sukhaṃ), đỉnh cao là hạnh phúc tột cùng của Niết-bàn (nibbāna sukhaṃ). Vì nó hỗ trợ một người một cách tuyệt vời như vậy (adhivahati), và đưa một người (āharati) đến hạnh phúc của Niết-bàn, nên nó được gọi là người vận chuyển, phương tiện vận chuyển, con tàu (adhivāhana).”⁰⁴⁶

Có một số vị thầy tin rằng công đức có được với mong muốn giải thoát khỏi luân hồi (vivaṭṭa kusala) mang bản chất hủy diệt nghiệp, tốt hay xấu, không mang lại bất kỳ lợi ích nào trong lĩnh vực thế gian (vaṭṭasampatti). Điều này là không chính xác. Công đức với mong muốn giải thoát không loại trừ công đức thế gian: nó chỉ loại trừ ý chí tạo ra Tuệ đạo (magga cetanā) và bản thân Tuệ đạo (magga-ñāṇa). Điều này đã được nêu rõ ràng trong bộ luận giải về Kukkuravatika Sutta ⁰⁸ và trong bộ luận giải về Aṅguttaranikāya (Tứ Tụ).⁰⁹

Luận giải về Paṭṭhāna ⁰⁴⁷ giải thích chi tiết về điểm này như sau: –

(a) “Trong bộ ba về Pháp có ‘Pháp có hiệu lực thấp hơn làm đối tượng’ (appamāṇārammaṇā cetanā), có nghĩa là ý chí liên quan đến Tuệ giác về sự trưởng thành (gotrabhū-ñāṇa) và Tuệ giác quán chiếu (paccavekkhaṇa-ñāṇa) phát sinh trong ba loại Thánh nhân vẫn đang trong quá trình tu tập (sekkha puggala). Vì vậy, nó cũng nên được nói như vậy.

(b) “Tâm quả thuộc về các hiện tượng có hiệu lực thấp hơn làm đối tượng.” Chúng bao gồm tâm tái sinh thuộc loại đại quả (mahāvipāka) trong dòng hạnh phúc của sự tồn tại trong dục giới (kāmasugati) như là uẩn tâm (nāmakkhandha) với tâm thức có ba thiện căn liên quan đến trí tuệ (ñāṇa-sampayutta tihetuka) có đối tượng là nghiệp được đặc trưng bởi Tuệ giác về sự trưởng thành hoặc tâm thức thay đổi dòng dõi ngay sau đó là Tuệ giác thanh lọc (vodāna-ñāṇa) và Tuệ giác quán chiếu. Chúng cũng bao gồm các nhóm tâm lý bao gồm các loại tâm quả thiện lành (kusala vipāka) tiếp tục xảy ra trong quá trình tồn tại. Loại tâm thức này phát sinh như năm loại tâm thức giác quan như nhãn thức, v.v., do tiếp xúc với năm đối tượng giác quan. Chúng phát sinh bằng cách nhận thức (sampaṭicchana) và điều tra tâm thức (santīraṇa). Cũng bao gồm nhóm tâm lý bao gồm các loại tâm quả thiện lành được tiếp nhận (bởi tâm trí) bằng cách đăng ký tâm thức (tadārammaṇa) thuộc sáu loại (liên quan đến sáu căn) do tâm thức thúc đẩy giác quan (javana). Tất cả những nhóm tâm lý đó đều bị điều kiện hóa bởi nghiệp hoạt động từ thời điểm trước đó (nānākkhaṇika kamma).

Quan điểm của một số người cho rằng Tuệ giác về sự trưởng thành hoặc tâm thức thay đổi dòng dõi không dẫn đến tái sinh bị bác bỏ bởi đoạn văn trên.

Như Saddhammappakāsinī, bộ luận giải về Paṭisambhidā­magga, cũng giải thích:

(a) Cụm từ, “Đó là điều kiện của sự tái sinh trong tương lai” phải được hiểu như sau: khi nghiệp liên quan đến Tuệ giác về sự bình đẳng về các pháp hữu vi rất mạnh mẽ và mang lại sự tái sinh trong dục giới, thì sự luyến ái đối với tuệ giác, chính là tham ái, cung cấp điều kiện cho sự tái sinh trong một trong bảy kiếp sống may mắn của dục giới. Do đó, khi nghiệp, ý chí phát sinh như Tuệ giác về sự bình đẳng về các pháp hữu vi, là nguyên nhân trực tiếp hoặc là yếu tố tạo ra sự tái sinh, thì phiền não, tức là tham ái, hoạt động như một điều kiện hỗ trợ.

(b) “Trong trường hợp (nghĩa đen là nhân dịp) những người vẫn đang trong quá trình tu tập, được gọi là ‘những người vượt qua Tuệ giác thâm nhập’ – đối với vị Nhập lưu hoặc vị Nhất lai đã đạt được Quả của Đạo mà không đạt được thiền định, nghiệp của họ gây ra sự tái sinh vì sự luyến ái đối với tuệ giác cung cấp điều kiện cho sự tái sinh trong những kiếp sống may mắn của dục giới, nhờ vào nghiệp liên quan đến Tuệ giác về sự bình đẳng về các pháp hữu vi.

(c) “Hơn nữa, người đã đạt được thiền định và đạt được Quả của vị Nhập lưu, vị Nhất lai hoặc vị Bất lai, được ban tặng sự tái sinh (paṭisandhidānato) trong cõi Phạm thiên, không mang theo nghiệp điều kiện hóa sự tái sinh trong dục giới.

Tóm lại: – Tuệ giác về sự thích ứng (anuloma-ñāṇa) và Tuệ giác về sự trưởng thành (gotrabhū-ñāṇa) thuộc về nhóm tâm lý bị ô nhiễm bởi sự luyến ái đối với tuệ giác, kết quả là chúng trở thành điều kiện cho sự tái sinh. Vì vậy, cần lưu ý điều đó.” ⁰⁴⁸

Xét thực tế như được trích dẫn trong các Luận giải ở trên rằng ngay cả các nghiệp liên quan đến Tuệ giác về sự bình đẳng về các pháp hữu vi, Tuệ giác về sự thích ứng, Tuệ giác về sự trưởng thành, Tuệ giác thanh lọc và Tuệ giác quán chiếu, đều tạo ra sự tái sinh và các loại tâm quả của sự tồn tại thế gian, thì hiển nhiên là công đức thế gian như bố thí, v.v., sẽ chỉ mang lại thành công trong lĩnh vực thế gian.

Trả lời một câu hỏi giả định ¹⁰

Người hỏi không đặt ra một câu hỏi riêng biệt về hiệu quả của công đức được thực hiện mà không có bất kỳ mong muốn cụ thể nào, thế gian hay cách khác. Điều này đơn giản là vì rõ ràng là công đức như vậy cũng có khả năng dẫn đến sự an lạc thế gian, tức là những kiếp sống may mắn và trạng thái giàu có. Nếu ai đó đặt ra một câu hỏi như vậy, nó có thể được diễn đạt như sau: –

“Nay, có người thực hiện các thiện sự, chẳng hạn như bố thí, mà không có mong muốn cụ thể nào về lợi ích thế gian hay xuất thế gian. Liệu người ấy chỉ hưởng được quả báo trong lĩnh vực thế gian hay không? Hay người ấy sẽ chỉ đạt được Tuệ giác xuất thế gian? Hay người ấy sẽ hưởng cả hai? Hay người ấy sẽ bị từ chối cả hai?  ⁰⁴⁹

Câu trả lời là: công đức như vậy không mang lại lợi ích xuất thế gian, xem Luận giải về Cakkavatti Sutta: –

“Lòng nhân từ do tình yêu thương của cha mẹ đối với con cái của họ, và lòng nhân từ do tình yêu thương của con cái đối với cha mẹ của họ được gọi là ‘công đức dẫn đến vòng luân hồi sinh tử’ (vaṭṭa gāmi kusalaṃ), và ảnh hưởng cuối cùng của nó (pariyosānaṃ) có thể đưa một người đến sự tồn tại vinh quang của một vị Chuyển Luân Thánh Vương.” ⁰⁵⁰

Có thể thấy rằng tình yêu thương của cha mẹ và tình yêu thương của con cái không phải là trạng thái tâm trí với bất kỳ phần thưởng cụ thể nào trong tầm nhìn, nhưng tình yêu thương như vậy tạo thành công đức có khả năng tái sinh thành Chuyển Luân Thánh Vương. Và nhà luận giải đang đưa ra ở đây như một ví dụ về loại công đức tầm thường nhất. Do đó, bất kỳ công đức nào mà không có mục đích cụ thể nào chắc chắn sẽ sinh hoa kết quả trong lĩnh vực thế gian một cách phù hợp.

Để hiểu rõ hơn: – Lấy ví dụ, những việc thiện do một vị Tỳ-khưu thực hiện, người đã xuất gia thọ giới với các công thức quy định trong việc thỉnh cầu: “Xin hãy cho con xuất gia vì mục đích giải thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử,” và “Vì lòng từ bi, xin chư Tôn đức trong Tăng đoàn cho con thọ đại giới.” ⁰⁵¹

Ai thực hiện những nhiệm vụ đó, cho dù cho bản thân hay cho các bạn đồng tu, chẳng hạn như làm ô, làm dép, nung bát, nhuộm và may y từ giẻ rách, xây dựng nơi trú ẩn hoặc sửa chữa nó, v.v. Những việc thiện này, với tất cả bản chất bình thường của chúng, được xếp vào loại công đức tách rời khỏi vòng luân hồi sinh tử (vivaṭṭanissita kusala), chỉ nhờ vào sự thanh tịnh của việc thực hành thiện lành (āgamasuddhi).

Do đó, bộ luận giải về Itivuttaka nói: –

“Trong đó, kiến thức có thể thuộc nhiều loại khác nhau. Ví dụ, một vị Tỳ-khưu thông minh có thể có kỹ năng làm ô: trong khi một vị khác có khả năng làm các vật dụng cần thiết như y, v.v. Tất cả những nhiệm vụ của chư Tỳ-khưu như vậy, được thực hiện dưới sự hướng dẫn tốt đẹp của Giới luật của Đức Phật, những kỹ năng đó không thể bị xem nhẹ: chúng có tiềm năng trở thành nguyên nhân gần (padaṭṭhāna) của sự giác ngộ dọc theo con đường Đạo và Quả của nó. Mặt khác, một vị Tỳ-khưu, sau khi xuất gia theo lời dạy của Đức Phật, có được kỹ năng trong sự suy đồi (kuladūsanaṃ) và không phù hợp (anesanaṃ) chẳng hạn như hành nghề y; những kỹ năng như vậy là nguồn gốc chắc chắn của sự gia tăng các lậu hoặc (āsavā).” ⁰⁵²

Phụ chú sau đó nói thêm: –

“’Dưới sự hướng dẫn tốt đẹp của Giới luật’ (vaṭṭasīseṭhatvā)¹¹ có nghĩa là biến các quy tắc ứng xử của chư Tỳ-khưu thành phần thiêng liêng của một người, tức là phần đầu. Như vậy, hết lòng tôn trọng giới luật, một vị Tỳ-khưu, thanh tịnh trong sinh kế, làm những thứ hữu ích như ô, v.v., cho dù cho những bạn đồng tu không thể làm ra chúng, hoặc để sử dụng cho riêng mình, để nó bảo vệ người sử dụng khỏi các yếu tố. Những hành động như vậy tương đương với việc bảo vệ bản thân hoặc người khác. Nó tạo thành một điều kiện đủ cho Tuệ đạo, và do đó không nên bị ngăn cản (na vattabbaṃ) vì không đóng vai trò là nguyên nhân gần của sự giác ngộ. ⁰⁵³

Bốn loại công đức

  • Hành động thiện lành được thực hiện một cách ngẫu nhiên, không có bất kỳ sự cân nhắc nào về hiệu quả của nó.
  • Hành động thiện lành được thực hiện chỉ với mục đích an lạc thế gian.
  • Hành động thiện lành được thực hiện với mục đích mang lại lợi ích cả thế gian và xuất thế gian.
  • Hành động thiện lành được thực hiện với mong muốn thuần túy là xuất thế gian (Niết-bàn).

Trong bốn loại đó, loại thứ tư là đáng trân trọng nhất. Trong trường hợp nó không thu hút bạn, thì loại thứ ba là lựa chọn tốt nhất tiếp theo, nếu không thì loại thứ hai và loại thứ nhất theo thứ tự giảm dần.

Xét thực tế là lợi ích thế gian như sự tồn tại cao quý, sinh ra cao quý, địa vị phù hợp, v.v., mà các vị vua rồng Campeyya và Saṅkhapāla mong muốn, được thúc đẩy bởi mong muốn cuối cùng của họ là thực hiện một cách hiệu quả các Ba-la-mật như bố thí và giữ gìn giới luật đạo đức, v.v., với tư cách là con người, mục tiêu của họ vừa thiết thực vừa đáng khen ngợi.

Điểm này đã được vị luận sư nhấn mạnh trong Saṅkhārupapatti Sutta ¹² như sau: –

(a) “Có người được trời phú cho năm phẩm chất cao quý (niềm tin, giới đức, học thức, rộng lượng và trí tuệ), nhưng người đó không mong muốn bất kỳ sự tồn tại cụ thể nào. Khi đó, điểm đến tương lai của người đó là không chắc chắn. Mặt khác, có người có mong muốn cụ thể nào đó về một sự tồn tại nhất định nhưng người đó thiếu năm phẩm chất cao quý. Điểm đến tương lai của người đó cũng không chắc chắn. Tuy nhiên, đối với người đáp ứng cả hai khía cạnh (mong muốn và công đức cá nhân); điểm đến tương lai là chắc chắn.

(b) “Điều đó quả thực là như vậy. Cũng giống như một ngọn giáo phóng lên trời không thể đoán trước được nó sẽ rơi xuống đất như thế nào, tức là nó sẽ rơi trên mũi, hay trên đuôi cán, hay nằm nghiêng, thì việc đạt được sự tái sinh mới (paṭisandhi-gahānaṃ) cũng không thể đoán trước được. Như vậy, chúng ta nên mong muốn một cảnh giới tồn tại nhất định bất cứ khi nào thực hiện một hành động thiện lành nào đó.” ⁰⁵⁴

Một số câu hỏi có thể được đặt ra

CÂU HỎI: Nếu đúng như vậy, liệu một người làm công đức chỉ với mục đích mang lại lợi ích xuất thế gian, không có mong muốn cụ thể nào về bất kỳ hình thức tồn tại nào, có phải đối mặt với sự không chắc chắn về sự tái sinh của mình hay không – giống như một ngọn giáo phóng lên trời?

TRẢ LỜI: Theo lời giải thích được đưa ra trong Paṭisambhidā­magga Aṭṭhakathā ⁰⁵⁵ và Dhātu Saṃyutta Aṭṭhakathā.

Câu trả lời là: Công đức được thực hiện với mục đích xuất thế gian thuộc loại đặc biệt cao quý (ukkaṭṭhatama) đến mức nó có khả năng định hướng cho người thực hiện, kết quả là nó luôn đưa một người đến những kiếp sống, dòng tộc và trạng thái phù hợp, thuận lợi, do đó không có gì phải lo sợ rằng một người sẽ rơi vào tình trạng hỗn loạn.

CÂU HỎI: Trong trường hợp đó, liệu câu trả lời của Ngài có phủ nhận vị luận sư trước đó, người nói rằng người tìm kiếm công đức nên mong muốn một hình thức tồn tại nào đó hay không?

TRẢ LỜI: Loại công đức đặc biệt cao quý này được phát hiện là có lợi ích cố hữu trong việc ngăn chặn sự thèm muốn không mong muốn hoặc bất lợi đối với những kiếp sống trong quá khứ và dẫn dắt người thực hiện mong muốn những kiếp sống thuận lợi trong trường hợp của Janavasabha con trai của một vị trời, và Gandhabba con trai của một vị trời. Hơn nữa, loại công đức này còn có những lợi ích khác nữa.

Như Paṭisambhidāmagga đã nói: –

“’Đã làm những việc thiện lành trong quá khứ’ (pubbe ca kata puññatā) có nghĩa là đã tích lũy công đức được thực hiện trong những kiếp sống trước. Hơn nữa, trong bốn loại phước báu hay thành công (sampatti), phước báu đã làm công đức trong những kiếp sống trước là thước đo (pamāṇaṃ) cho sự thành công của một người trong kiếp sống hiện tại. Điều đó quả thực là như vậy bởi vì khi ai đó, với một tâm trí thận trọng, tức là tâm thức liên kết với trí tuệ (ñāṇa­sampayuttā cittena) đã làm một hành động thiện lành, thì công đức đó dẫn dắt (upaneti) người ấy đến một nơi phù hợp (patirūpadesa) ¹³ và để người ấy kết giao với người ngay thẳng (sappurisa). Như vậy, người ấy sẽ thấy mình được đặt đúng chỗ.¹⁴ Vì vậy, cần lưu ý điều đó.”

Vị luận sư về Dhātu Saṃyutta ⁰⁵⁶ cũng nói như vậy:

“Công đức được thực hiện với một tâm trí thận trọng sẽ đưa người thực hiện đến một nơi ở thuận lợi và để người ấy noi theo những người ngay thẳng. Như vậy, người ấy sẽ tự mình tìm thấy một chỗ đứng vững chắc.” ¹⁵


Hết phần Giải đáp Câu hỏi Thứ Ba

Giải Đáp Câu Hỏi Thứ Tư

Ý chính của câu hỏi là: “Thời gian cần thiết để hoàn thành Ba-la-mật bắt đầu từ khi nào?” tức là từ lúc phát nguyện hay từ ngày họ nhận được lời tiên tri từ Đức Phật. Trong câu hỏi này, có năm loại giác ngộ, trong đó loại thứ nhất biểu thị cho A-la-hán đạo tuệ và Toàn giác tuệ, tức là “Sammā­sambodhin’ti Arahatta-magga-ñāṇañceva sabbaññuta-ñāṇañca.” ¹⁶

Lưu ý: Trong Luận giải về Cariyāpiṭaka, ‘bodhi’ trong ngữ cảnh này được hiểu theo hai nghĩa: Toàn giác tuệ là một, Toàn giác tuệ và A-la-hán đạo tuệ là một. Trong Madhuratthavilāsinī, Luận giải về Buddhavaṃsa, chỉ có Toàn giác tuệ được đề cập.

Trong các trường hợp sau, ‘bodhi’ được hiểu là bốn giai đoạn của tuệ đạo, và Toàn giác tuệ không được bao gồm.

Nhân tiện, trong cả năm trường hợp, ‘bodhi’ có thể có nghĩa là Niết-bàn – xem ‘Patvāna bodhiṃ amataṃ asaṅkhataṃ’ (trong Kinh).

Bây giờ là câu trả lời cho câu hỏi này:

Tất cả thời gian cần thiết để hoàn thành Ba-la-mật, cụ thể là: –

  • Đối với chư Phật Chánh Đẳng Giác, bốn A-tăng-kỳ kiếp và một trăm ngàn đại kiếp, hoặc tám A-tăng-kỳ kiếp và một trăm ngàn đại kiếp, hoặc mười sáu A-tăng-kỳ kiếp và một trăm ngàn đại kiếp (theo loại sẽ được giải thích sau);
  • Đối với chư Phật Độc Giác, hai A-tăng-kỳ kiếp và một trăm ngàn đại kiếp;
  • Đối với chư Thánh đệ tử A-la-hán Thượng thủ (Aggasāvaka), một A-tăng-kỳ kiếp và một trăm ngàn đại kiếp;
  • Đối với chư Thánh đệ tử A-la-hán Đại đệ tử (Mahāsāvaka), một trăm ngàn đại kiếp – được tính từ ngày, tức là Kiếp, họ nhận được lời tiên tri, chứ không phải từ lúc họ phát nguyện. Việc tính toán cũng không được thực hiện từ thời điểm của một lời tiên tri chung chung về sự giác ngộ trong tương lai của họ (aniyata vyākaraṇa), cũng không phải từ một số lời tiên tri sau đó của chư Phật tiếp theo sau lời tiên tri. Đối với chư Thánh đệ tử A-la-hán bình thường (pakatisāvaka), không có tuyên bố chắc chắn nào tương đương với lời tiên tri. Vì vậy, thời gian của họ để hoàn thành Ba-la-mật, có thể thay đổi từ một trăm đại kiếp đến một ngàn đại kiếp hoặc hơn, được tính từ thời điểm họ tha thiết mong muốn Niết-bàn, khinh thường tất cả công đức thế gian, tức là khi bắt đầu phát triển xuất thế gian thiện nghiệp (vivaṭṭa kusala).

Về ba loại Phật, thời gian để hoàn thành Ba-la-mật khác nhau tùy thuộc vào việc một vị Phật dựa vào trí tuệ làm chỗ dựa chính (paññādhika), vào niềm tin (saddhādhika) hay vào tinh tấn (vīriyādhika); thời gian lần lượt là bốn A-tăng-kỳ kiếp và một trăm ngàn đại kiếp, tám A-tăng-kỳ kiếp và một trăm ngàn đại kiếp, và mười sáu A-tăng-kỳ kiếp và một trăm ngàn đại kiếp.

Điều này có thể được tìm thấy trong Luận giải về Cariyāpiṭaka, nơi nó nói: –

“Ba loại Phật đó (tức là loại ưu thế về trí tuệ, loại ưu thế về niềm tin và loại ưu thế về tinh tấn) đã quyết tâm vững chắc (abhinīhāra) về Phật quả và làm các hành động thiện lành từ vô thủy, và đã nghe từ miệng Đức Phật đương thời lời tuyên bố (say mê) tiên tri về Phật quả của chính họ trong tương lai xa xôi, và đã dần dần hoàn thành Ba-la-mật trong khoảng thời gian bốn A-tăng-kỳ kiếp và một trăm ngàn đại kiếp, hoặc tám A-tăng-kỳ kiếp và một trăm ngàn đại kiếp, hoặc mười sáu A-tăng-kỳ kiếp và một trăm ngàn đại kiếp, tương ứng, đã đạt được Chánh Biến Tri.” ⁰⁵⁷

Từ tuyên bố đó, chúng ta cần lưu ý rằng không có sự khác biệt rõ rệt về thời gian theo đuổi Phật quả trước lời tiên tri hoặc sự đảm bảo cao quý, và chỉ sau đó thời gian mới khác nhau tùy theo sự lựa chọn của riêng vị Bồ tát.

Cũng giống như với mỗi loại trong ba loại Phật, thời gian để hoàn thành Ba-la-mật khác nhau, từ bốn A-tăng-kỳ kiếp và một trăm ngàn đại kiếp trở lên, tùy thuộc vào đó là loại ‘trí tuệ’, loại ‘niềm tin’ hay loại ‘tinh tấn’, thì đối với chư Phật Độc Giác, thời gian cũng khác nhau như sau: –

  • Đối với loại ‘trí tuệ’, đó là hai A-tăng-kỳ kiếp và một trăm ngàn đại kiếp;
  • đối với loại ‘niềm tin’, đó là hai A-tăng-kỳ kiếp và hai trăm ngàn đại kiếp;
  • đối với loại ‘tinh tấn’, đó là hai A-tăng-kỳ kiếp và mười triệu đại kiếp.

Điều này đã được đề cập trong các Luận giải về Suttanipāta ⁰⁵⁸ và Theragāthā: –

“Điều này quả thực là như vậy. Ngay cả với trạng thái của một vị Phật Độc Giác loại ‘trí tuệ’ (paññādhika bhāve), người mong cầu phải hoàn thành Ba-la-mật trong hai A-tăng-kỳ kiếp và một trăm ngàn đại kiếp. Đây là yêu cầu tối thiểu; không gì ít hơn sẽ làm được. Trong trường hợp của chư Phật Độc Giác loại ‘niềm tin’ và ‘tinh tấn’, thời hạn kéo dài vài đại kiếp vượt quá hai A-tăng-kỳ kiếp, nhưng không bao giờ vượt quá ba A-tăng-kỳ kiếp, tức là họ đạt được Độc giác tuệ (Paccekabodhi-ñāṇa) trong vòng ba A-tăng-kỳ kiếp. Vì vậy, cần lưu ý điều đó.”

Lưu ý: Cụm từ “Na tatiyaṃ asaṅkhyeyyaṃ” ngụ ý một khoảng thời gian không xác định ngắn hơn A-tăng-kỳ thứ ba. Thời gian có thể quy cho loại ‘niềm tin’ và loại ‘tinh tấn’ có thể được phân biệt tùy thuộc vào sự quyết định của riêng người mong cầu.

Nguyên tắc về ba thời kỳ khác nhau cũng áp dụng cho chư Thánh đệ tử A-la-hán Thượng thủ và chư Thánh đệ tử A-la-hán Đại đệ tử. Với loại trước, loại ‘trí tuệ’ cần tối thiểu một A-tăng-kỳ kiếp và một trăm ngàn đại kiếp, kéo dài đến bất kỳ khoảng thời gian nào ngắn hơn hai A-tăng-kỳ kiếp; khoảng thời gian vượt quá A-tăng-kỳ kiếp thứ nhất vượt quá một trăm ngàn đại kiếp thứ nhất và những đại kiếp cuối cùng của A-tăng-kỳ kiếp thứ nhất sẽ được phân chia phù hợp giữa ba loại. Tương tự, với loại sau, khoảng thời gian giữa đại kiếp thứ nhất vượt quá một trăm ngàn đại kiếp thứ nhất và đại kiếp cuối cùng của một trăm ngàn thứ nhất phải được phân chia giữa ba loại.

Tất nhiên, tất cả những khoảng thời gian đó bắt đầu được tính từ kiếp mà người mong cầu nhận được lời tiên tri từ Đức Phật đương thời, xem Luận giải về Theragāthā: – ⁰⁵⁹

“Đối với chư Phật Độc Giác tương lai, sau khi được Đức Phật còn sống đảm bảo về sự thành công nhờ vào năm yếu tố tạo thành lời nguyện long trọng, đó là: là con người (manussattaṃ), là nam giới (liṅgasampatti), nhìn thấy một vị Phật còn sống không còn lậu hoặc (vigatāsava dassanaṃ), tận tâm với sự hoàn thiện (adhikāro) và mong muốn kiên định về Phật quả Độc Giác (chandatā); và đối với chư Thánh đệ tử A-la-hán, những người được trời phú cho hai yếu tố cần thiết là đã thực hiện công đức hướng tới sự hoàn thiện như phù hợp với một vị A-la-hán tương lai và có mong muốn kiên định trở thành một vị Thánh đệ tử A-la-hán – không có việc đạt được mục tiêu mong muốn cho đến khi thời gian cần thiết đã được phục vụ đầy đủ. Tại sao? Bởi vì trí tuệ vẫn chưa trưởng thành cho đến lúc đó.”

Về vấn đề này, chúng ta cũng cần lưu ý rằng bốn loại bậc giác ngộ – chư Phật, chư Phật Độc Giác, chư Thánh đệ tử A-la-hán Thượng thủ và chư Thánh đệ tử A-la-hán Đại đệ tử, trước khi nhận được lời tiên tri, phải đạt được các điều kiện đủ thông qua các hành động thiện lành trước sự hiện diện của vô số chư Phật trong quá khứ.

Một câu hỏi có thể được đặt ra

Trong trường hợp đó, một người mong cầu Phật quả sẽ phải trải qua bao lâu để đạt được công đức trước đó đủ để nhận được lời tiên tri? Theo Samantabhaddikā, Luận giải về Anāgatavaṃsa:

Đầu tiên, một người mong cầu Phật quả phải rèn luyện bản thân để có được lòng hổ thẹn về hành vi sai trái (hirīsampatti) trong năm trăm kiếp; cho một cảm giác sợ hãi về mặt đạo đức đối với hành vi sai trái (ottappasampatti) trong một nghìn kiếp, và để đạt được kỷ luật thích hợp (thực hành tôn giáo) trong năm nghìn kiếp; do đó tạo ra tổng cộng sáu nghìn năm trăm kiếp. Sau đó, người ấy phải trải qua một trăm ngàn đại kiếp, tích lũy thêm công đức. Chỉ khi đó, người ấy mới trở nên phù hợp để nhận được lời tiên tri. Đó là quy luật (Dhammatā).” ⁰⁶⁰

Trong Paṭisambhidāmagga Gaṇṭhi cũng đề cập đến ba lần đạt được.⁰⁶¹ Điều này được giải thích chi tiết trong các tài liệu Phật giáo như Sotattakī, Tathāgatuppatti, v.v., như sau: –

“Sāriputta, trong bảy A-tăng-kỳ kiếp, ta đã cầu nguyện cho Phật quả chỉ bằng tâm (tâm niệm); sau đó trong chín A-tăng-kỳ kiếp, ta đã cầu nguyện cho nó bằng lời nói; và sau đó trong bốn A-tăng-kỳ kiếp và một trăm ngàn đại kiếp, ta đã cầu nguyện cho nó trong khi hoàn thành Ba-la-mật bằng cách làm các hành động thiện lành bằng tâm, bằng lời nói và bằng thân thể. Ta đã hoàn thành Ba-la-mật đến mức đó.” ⁰⁶²

Thời gian cầu nguyện bằng tâm như sau: –

  • Nanda-saṅkhyeyya được đánh dấu bởi năm nghìn vị Phật bắt đầu từ Brahma Deva, v.v.
  • Sunanda-saṅkhyeyya được đánh dấu bởi chín nghìn vị Phật;
  • Pathavī-saṅkhyeyya được đánh dấu bởi mười nghìn vị Phật;
  • Maṇḍa-saṅkhyeyya được đánh dấu bởi mười một nghìn vị Phật;
  • Dharaṇī-saṅkhyeyya được đánh dấu bởi hai mươi nghìn vị Phật;
  • Sāgara-saṅkhyeyya được đánh dấu bởi ba mươi nghìn vị Phật;
  • Puṇḍarika-saṅkhyeyya được đánh dấu bởi bốn mươi nghìn vị Phật. Trong bảy A-tăng-kỳ kiếp (asaṅkhyeyya) đó, những vị Phật đó, tổng cộng là một trăm hai mươi lăm nghìn vị, đã xuất hiện, người mà Đức Phật Gotama tương lai đã thực hiện những lời cầu nguyện bằng tâm để trở thành một vị Phật.

Thời gian cầu nguyện bằng lời nói như sau: –

  • Sabbabhadda-saṅkhyeyya được đánh dấu bởi năm nghìn vị Phật bắt đầu từ Porāṇa, Sakyamuni, v.v.;
  • Sabbaphulla-saṅkhyeyya được đánh dấu bởi sáu mươi nghìn vị Phật;
  • Sabbaratana-saṅkhyeyya được đánh dấu bởi bảy mươi nghìn vị Phật;
  • Usabhakkhandha-saṅkhyeyya được đánh dấu bởi tám mươi nghìn vị Phật;
  • Mānibhadda-saṅkhyeyya được đánh dấu bởi chín mươi nghìn vị Phật;
  • Paduma-saṅkhyeyya được đánh dấu bởi hai mươi nghìn vị Phật;
  • Usabha-saṅkhyeyya được đánh dấu bởi mười nghìn vị Phật;
  • Khandhuttama-saṅkhyeyya được đánh dấu bởi năm nghìn vị Phật;
  • Sabbapāla-saṅkhyeyya được đánh dấu bởi hai nghìn vị Phật. Trong chín A-tăng-kỳ kiếp (asaṅkhyeyya) đó, chư Phật ở trên, tổng cộng là ba trăm bốn mươi hai nghìn vị, đã xuất hiện, người mà Đức Phật Gotama tương lai đã thực hiện những lời cầu nguyện bằng lời nói để trở thành một vị Phật.

Như vậy, trong mười sáu A-tăng-kỳ kiếp (asaṅkhyeyya), Đức Phật Gotama tương lai đã hoàn thành Ba-la-mật ngay cả trước khi Ngài nhận được lời tiên tri (từ Đức Phật Dīpaṅkara). Nhân tiện, (mười sáu A-tăng-kỳ kiếp) đó là quy luật cho tất cả các vị Bồ tát khác để nhận được lời tiên tri.

Đây là một phiên bản. Một phiên bản khác: –

Trong Phụ chú về Mahāvagga của Saṃyuttanikāya, tác giả nói: –

“Thời gian để chư Bồ tát hoàn thành Ba-la-mật, từ bốn A-tăng-kỳ kiếp (và một trăm ngàn) đại kiếp, tám và mười sáu A-tăng-kỳ kiếp, đối với loại trí tuệ, loại niềm tin và loại tinh tấn tương ứng, không đề cập đến thời gian phải trôi qua sau khi nhận được lời tiên tri. Đúng hơn, nó đề cập đến thời gian cần thiết để trưởng thành đến giai đoạn trí tuệ phù hợp để nhận được lời tiên tri, tức là, với tư cách là một người mong cầu chưa trưởng thành, cần 16 A-tăng-kỳ kiếp; với tư cách là người mong cầu trung bình, cần 8 A-tăng-kỳ kiếp; và với tư cách là người mong cầu sắc sảo, cần 4 A-tăng-kỳ kiếp để đạt được Chánh Biến Tri.”

Theo phiên bản đó, có một khoảng thời gian thống nhất là 28 A-tăng-kỳ kiếp mà mỗi người mong cầu Phật quả phải hoàn thành Ba-la-mật để trở nên xứng đáng với lời tiên tri, ba khoảng thời gian khác nhau đại diện cho các giai đoạn trưởng thành dần dần từ giai đoạn chưa trưởng thành đến giai đoạn trưởng thành.⁰⁶³

Một phiên bản khác:

Trong Phật Apadāna, Đức Phật nói: –

“Ānanda, ta cũng vậy, với tư cách là một người mong cầu Phật quả, đã thực hiện những lời cầu nguyện bằng tâm cho Chánh Biến Tri dưới chân chư Phật trước đây, số lượng của chư vị ấy là không thể tính toán được.” ⁰⁶⁴ (Không có luận giải nào về đoạn này.)

Vì, như kinh văn trên cho thấy, số lượng chư Phật trước đây mà Đức Phật Gotama tương lai đã thực hiện những lời cầu nguyện bằng tâm cho Phật quả là không thể tính toán được, nên thời gian trôi qua sẽ là vô lượng. Điều đó quả thực là như vậy. Những gì các tác giả Phật giáo đã đưa vào Sotattakī, v.v., là hai mươi A-tăng-kỳ kiếp – trong đó chỉ có năm trăm mười hai nghìn lẻ hai mươi sáu vị Phật, bắt đầu từ Brahmā deva đến Kassapa, xuất hiện trên thế gian – do đó có vẻ không thể tin được. Bởi vì ngay cả khi khoảng thời gian 20 A-tăng-kỳ kiếp đó được tăng lên gấp mười lần, thì số lượng chư Phật vẫn có thể đếm được. Do đó, khoảng thời gian mà một vị Bồ tát phải chờ đợi cho đến khi Ngài chín muồi cho lời tiên tri là vô hạn.

Nếu có bất kỳ sự hoài nghi nào về điều này, người ta có thể xem xét các ghi chép sau đây để củng cố: –

Những kiếp sống trước đây của Tôn giả Ni Yasodharā

Yasodharā phu nhân, vợ của Thái tử Siddhattha, vị Phật tương lai, bản thân bà đã hoàn thành Ba-la-mật từ rất lâu trước khi nhận được lời tiên tri từ Đức Phật Dīpaṅkara rằng bà sẽ trở thành người bạn đời (kế tiếp đến kiếp sống cuối cùng) của vị tu sĩ Sumedha, người đã nhận được lời tiên tri về Phật quả. Vào thời điểm đó, bà thuộc dòng dõi Bà-la-môn, tên là Sumittā. Bà đã tham gia đám đông khổng lồ để chứng kiến ​​dịp trọng đại vị Bồ tát Sumedha nhận được lời tiên tri, và khi nhìn thấy vẻ đẹp tuyệt vời của vị tu sĩ trẻ tuổi, những cảm xúc dịu dàng mà bà dành cho vị tu sĩ đã được khơi dậy trong bà, bà đã dâng năm trong số tám bông hoa sen dành để dâng lên Đức Phật Dīpaṅkara cho vị Bồ tát, và dâng ba bông cho Đức Phật, cầu nguyện cho mối quan hệ bạn đời trọn đời với Sumedha trong tất cả các kiếp sống tương lai cho đến khi vị Bồ tát đạt được Phật quả. Tình yêu sét đánh này, xét cho cùng, là kết quả của việc cả hai đã kết hôn với nhau qua vô số kiếp sống trong quá khứ, trong thời gian đó, hai nghìn tỷ, mười hai nghìn, một trăm bảy mươi chín vị Phật như Brahma deva, Porāṇa Gotama, v.v., đã xuất hiện trên thế gian, dưới chân chư vị ấy, cặp đôi đã cùng nhau cầu nguyện cho sự Giác ngộ như những người bạn đời.

Vào dịp trọng đại đó, mười nghìn thiếu nữ đã cầu nguyện cho sự Giác ngộ A-la-hán, kết quả là tất cả họ đều được sinh ra trong dòng họ Thích Ca – họ hàng của chính Đức Phật Gotama.

Mười tám nghìn thiếu nữ Bà-la-môn, cùng với Sumittā, những người trước đây đã cầu nguyện với cùng chư Phật như Brahma-deva, v.v., cho sự Giác ngộ A-la-hán dưới thời một vị Phật tương lai, tức là Đức Phật Gotama, cũng dâng hoa lên Đức Phật Dīpaṅkara và nhận được lời tiên tri tương ứng của họ. Họ được tái sinh trong dòng họ Thích Ca và đạt được Giác ngộ A-la-hán. Xem Therī Apadāna.

Khi xem xét thực tế rằng, nơi mà các vị nữ đệ tử đứng đầu là Yasodharā tương lai đã phải trải qua những khoảng thời gian rộng lớn bao gồm các kỷ nguyên của hơn hai nghìn tỷ vị Phật trước Đức Phật Dīpaṅkara, thì khoảng thời gian mà Đức Phật Gotama tương lai đã trải qua, trước thời Đức Phật Dīpaṅkara, chắc chắn phải là vô hạn (Dhammarājā asaṅkhayā).

Trong kinh văn được đề cập ở trên, “chư Phật không thể tính toán được” chỉ đề cập đến những lời cầu nguyện bằng tâm (manasāyeva hutvāna); nó không nói về những vị Phật trước đây khác mà Đức Phật Gotama tương lai đã thực hiện những lời cầu nguyện bằng lời nói và bằng thân thể của Ngài.

Lưu ý rằng những lời cầu nguyện bằng tâm đứng trước những lời cầu nguyện bằng lời nói và bằng thân thể, thực tế này sẽ trở nên rõ ràng khi chúng ta tiếp tục.

Có nhiều phiên bản khác nhau trong chính Therī Apadāna về số lượng chư Phật và chư Phật Độc Giác mà Yasodharā tương lai đã cầu nguyện cho sự Giác ngộ; tuy nhiên, về số lượng chư A-la-hán mà dưới chân chư vị ấy bà đã bày tỏ mong muốn này, thì không có sự khác biệt.

Như vậy, chúng ta có trong Mahantaguṇa: ⁰⁶⁵ nói rằng số lượng chư A-la-hán là vô hạn, trong khi đó, có 640 triệu vị Phật Độc Giác và ba trăm bảy mươi triệu, hai trăm sáu mươi nghìn vị Phật.

Từ những tài liệu tham khảo trước đó, chúng ta có năm phiên bản khác nhau liên quan đến khoảng thời gian được cho là đã trôi qua trước khi Đức Phật Gotama tương lai nhận được lời tiên tri. Tóm tắt lại:

  • Luận giải về Anāgatavaṃsa và Paṭisambhidāmagga Gaṇṭhi cho rằng đó là khoảng thời gian bao gồm sáu nghìn kiếp sống và một trăm ngàn kiếp;
  • Sotattakī và các tác phẩm khác cho rằng đó là mười sáu A-tăng-kỳ kiếp;
  • Phụ chú về Mahāvagga của Saṃyuttanikāya cho rằng đó là hai mươi tư A-tăng-kỳ kiếp;
  • Trong Luận giải về Thera Apadāna, nó được cho là ba mươi tư A-tăng-kỳ kiếp;
  • Apadāna nói rằng khoảng thời gian đó chỉ đơn giản là vô hạn.

Trong năm phiên bản đó, phiên bản thứ năm, trích từ kinh điển Pāḷi, được coi là hợp lý nhất (balavatara). Hãy để những người tò mò tìm hiểu thêm.

Không có tài liệu tham khảo trực tiếp nào về khoảng thời gian trước Lời đảm bảo trong trường hợp của chư Phật Độc Giác và chư Thánh đệ tử A-la-hán.

Bây giờ chúng ta hãy chuyển sang một số nguồn liên quan như Dhammaruci Thera Apadāna, trong đó nói rằng: “Tadā dīpaṅkaro buddho sumedhaṃ vyākari jino” – điều này làm sáng tỏ vấn đề một cách thú vị. Ở đây, chúng ta hiểu rằng Tôn giả Dhammaruci tương lai đã bắt đầu khát vọng ban đầu của mình đối với sự Giác ngộ A-la-hán từ cảnh tượng đầy cảm hứng khi Sumedha nhận được lời tiên tri từ Đức Phật Dīpaṅkara. Lời ca ngợi của Ngài đối với vị Phật tương lai (tức là Sumedha) là bước đầu tiên của Ngài trên con đường Giác ngộ dưới thời Đức Phật Gotama để trở thành vị đệ tử nổi tiếng được gọi là Tôn giả Dhammaruci.

Trong một trường hợp khác, đó là trường hợp của người cư sĩ hộ trì Nisseṇi, Nisseṇidāyaka Thera Apadāna đã đề cập rằng việc tích lũy công đức sớm nhất của ông bắt đầu vào thời Đức Phật Koṇḍañña, khoảng ba A-tăng-kỳ kiếp và một trăm ngàn đại kiếp trước kiếp hiện tại của chúng ta, khi ông cúng dường một cầu thang cho Đức Phật. Ông đã đạt được Giác ngộ A-la-hán với tư cách là một đệ tử cư sĩ dưới thời Đức Phật Gotama.

Những trường hợp đó dường như chỉ ra rằng ngay cả đối với một vị Thánh đệ tử A-la-hán, thời gian trước khi nhận được lời tiên tri để hoàn thành Ba-la-mật cũng kéo dài đến ba hoặc bốn A-tăng-kỳ kiếp. Do đó, hiển nhiên là những người mong muốn trở thành Thánh đệ tử A-la-hán Thượng thủ hoặc Thánh đệ tử A-la-hán Đại đệ tử chắc chắn phải yêu cầu khoảng thời gian lớn hơn nữa.

Trong trường hợp của Yasodharā và hai mươi tám nghìn vị tỳ kheo ni lớn tuổi, vì họ đã phát nguyện trở thành những người hầu cận cho vị Phật tương lai (xem: Tuyhatthāya mahāmune), cho dù một số người trong số họ có thể đã chín muồi để đạt được Giác ngộ A-la-hán, họ đã phải chờ đợi Đức Phật Gotama xuất hiện để khát vọng chính của họ có thể được hoàn thành.

Hết phần Giải đáp Câu hỏi Thứ Tư

Giải đáp Câu hỏi Thứ Năm

Có:

  • Tám yếu tố cần thiết cho lời tiên tri về Phật quả;
  • Năm yếu tố cho chư Phật Độc Giác;
  • Hai yếu tố cho chư Thánh đệ tử A-la-hán Thượng thủ, chư Thánh đệ tử A-la-hán Đại đệ tử, mẹ của Đức Phật, cha của Đức Phật và người hầu cận của Đức Phật, điều này tất nhiên ngụ ý rằng những vị Thánh nhân đó phải được trời phú cho những khả năng (sāmatthiya) bằng cách các yếu tố cần thiết cũng như khoảng thời gian phải trôi qua trước khi nhận được lời tiên tri, vì không có sự Giác ngộ nào dành cho họ nếu không có được lời tiên tri trước.

Đối với chư Thánh đệ tử A-la-hán bình thường, một số người nhận được lời tiên tri trong khi những người khác thì không. Ví dụ, chúng ta có thể trích dẫn Tôn giả Adhimuttaka thuộc loại trước và Tôn giả Girimānanda thuộc loại sau.

Xem chi tiết trong Thera Apadāna và Therī Apadāna.

Hết phần Giải đáp Câu hỏi Thứ Năm

Giải Đáp Câu Hỏi Thứ Sáu

Một vị Bồ tát, theo đúng nghĩa của mình, không phải là một người bình thường: Ngài đã sở hữu bốn điều kiện (paccaya), bốn căn nguyên (hetu), bốn sức mạnh (bala) và ba đặc điểm phân biệt (liṅga) cho những phẩm chất độc đáo mà nhờ đó Ngài nhận được lời tiên tri. Như vậy, không có chuyện một vị Phật tương lai quay trở lại bất kỳ hình thức Giác ngộ thấp kém nào: Ngài sẽ không bao giờ mơ tưởng đến điều đó. Như vị luận sư về Cariyāpiṭaka đã nói: “Ngay khi quyết tâm lớn (mahābhinīhāra) đã được thực hiện, bậc vĩ nhân sẽ tự mình thực hiện pháp hành (paṭipattiṃ okkanto) của một vị Bồ tát. Điều này là do Ngài có sự chắc chắn về sứ mệnh của mình, điều này khiến Ngài hầu như không thể quay đầu lại, và chính sự kiên định về mục đích đó đã khiến Ngài được mang tên Bồ tát.”

Một câu hỏi có thể được đặt ra

CÂU HỎI: Từ lời luận giải được trích dẫn ở đây, dường như không có khả năng một vị Bồ tát thay đổi sang một hình thức Giác ngộ thấp kém hơn; tuy nhiên, nó không loại trừ khả năng Ngài có thể dự tính làm như vậy.

TRẢ LỜI: Để trả lời câu hỏi như vậy, vị luận sư về Ghaṭikāra Sutta đã đưa ra câu trả lời phủ định rõ ràng như sau: –

“Quả thực là như vậy. Một vị Bồ tát xuất gia trước sự hiện diện của Đức Phật, và sau đó, không giống như những người khác, Ngài không bao giờ chểnh mảng.¹⁷ Thay vào đó, Ngài tự thiết lập mình trong bốn sự thanh tịnh của giới đức (catupārisuddhi sīla), làm quen tốt (uggaṇhitvā) với những lời dạy của Đức Phật, thực hiện mười ba pháp hành khổ hạnh (dhutaṅga) được Đức Phật cho phép, đến trú ngụ trong rừng và thực hành thiền định (gatapaccāgatavattaṃ). Ở đó, Ngài thực hiện các nhiệm vụ của một vị ẩn sĩ và trau dồi tuệ giác (vipassanā) cho đến giai đoạn Tuệ giác về sự thích ứng (saccānuloma-ñāṇa), nơi Ngài sẽ an trú (tiṭṭhanti), mà không cố gắng đạt được (vāyāmaṃ na karoti) Tuệ đạo và Tuệ quả.” ⁰⁶⁶

Như các luận giải về Pañcapakaraṇa và Puggalapaññatti đã nói: –

“Trong những kiếp sống kế tiếp trong quá khứ, được kể lại từ kiếp sống cuối cùng này, chư Bồ tát sẽ xuất gia theo lời dạy của Đức Phật, học Tam tạng kinh điển và, tiến bộ về mặt tâm linh thông qua pháp hành ẩn cư của chư Tỳ-khưu, trau dồi đến mức độ Tuệ giác về sự thích ứng (anuloma-ñāṇa) và Tuệ giác về sự trưởng thành (gotrabhū-ñāṇa), nơi mà chư vị ấy an trú mà không theo đuổi thêm nữa.” ⁰⁶⁷

Trong Paṭisambhidāmagga Aṭṭhakathā, mức độ tuệ giác mà chư Bồ tát đạt được được đề cập là “gần với Tuệ giác về sự thích ứng và Tuệ giác về sự trưởng thành (anuloma gotrabhusamīpaṃ).”

Từ ba nguồn trên, chúng ta có thể suy ra rằng chư Bồ tát đã trau dồi tuệ giác đến mức độ Bình đẳng đối với tất cả các pháp hữu vi (saṅkhārupekkhā-ñāṇa).

Điều này đã được mô tả chi tiết trong Jinālaṅkāra-ṭīkā: –

“Vị Bồ tát đã đạt được tám giai đoạn Tuệ giác này, đó là: Tuệ giác về sự sinh và diệt (udayabbaya-ñāṇaṃ), Tuệ giác về sự hoại diệt (bhaṅga-ñāṇaṃ), Tuệ giác về sự sợ hãi (bhaya-ñāṇaṃ), Tuệ giác về sự khổ đau (ādīnavānupassanā-ñāṇaṃ), Tuệ giác về sự chán ghét (nibbidānupassanā-ñāṇaṃ), Tuệ giác về mong muốn giải thoát (muñcitukamyatā-ñāṇaṃ), Tuệ giác về sự quán sát lại (paṭisaṅkhānupassanā-ñāṇaṃ), Tuệ giác về sự bình đẳng đối với các hành (saṅkhārupekkhā-ñāṇaṃ). Nhờ công đức đã tích lũy trước đây của Ngài, đó là: Ngài đã xuất gia làm Tỳ-khưu dưới thời nhiều vị Phật trong quá khứ, học kinh điển (Piṭaka) và trau dồi Tuệ giác trên con đường Đạo – những giai đoạn Tuệ giác đó đã phát sinh trong Ngài ngay lập tức và Ngài an trú trong đó vững chắc như ngọn lửa được đặt trong một tu viện kín gió, nơi không có gió thổi. Chỉ có giai đoạn thứ chín, tức là Tuệ giác về sự thích ứng (anuloma-ñāṇa) là điều mà Ngài chưa bao giờ có được trước đây trước khi đạt được Phật quả, và Ngài đã an trú như vậy (ṭhitaṃ) cho đến kiếp sống cuối cùng.” ⁰⁶⁸

Paṭisambhidāmagga Gaṇṭhi giải thích vấn đề này như sau: –

“Thuật ngữ gần với Tuệ giác về sự thích ứng và Tuệ giác về sự trưởng thành có thể được hiểu theo nghĩa này: nó chỉ ra Tuệ giác về sự bình đẳng đối với các hành (saṅkhārupekkhā-ñāṇa) phát sinh ngay trước chúng. Tuy nhiên, phải nhớ rằng Tuệ giác về sự bình đẳng đối với các hành không phải là một tuệ giác đầy đủ, ở chỗ nó chưa đạt đến sự nhận thức đầy đủ về giai đoạn tuệ giác cụ thể đó, mà còn thiếu một vài khoảnh khắc của tâm sở thúc đẩy (javana). Điều này là như vậy bởi vì, nếu nó là một tuệ giác được nhận thức đầy đủ, thì không có đường quay lại – tuệ giác nhất thiết phải tự phát triển thành Tuệ giác về sự thích ứng và con đường Đạo. Do đó, ý nghĩa của thuật ngữ (gần với anuloma-ñāṇa) là vị luận sư đang đề cập đến ba loại người, người chậm hiểu (manda), người sắc sảo (tikkha) và người đặc biệt sắc sảo (tikkhatara). Đối với loại thứ nhất, người ấy sẽ chỉ đạt đến giai đoạn Tuệ giác bao gồm Suy tư quán chiếu; và với loại thứ ba, Tuệ giác về sự bình đẳng, trước khi người ấy an trú. Thuật ngữ ‘gần’ phải được hiểu theo nghĩa ba mặt này.” ⁰⁶⁹

Trong bối cảnh trên, một vị Phật tương lai phải được hiểu là thuộc loại thứ ba. Kết luận từ những trích dẫn đó là một vị Bồ tát không bao giờ tìm kiếm tuệ giác vượt quá giai đoạn quan trọng của Tuệ giác về sự bình đẳng vì Ngài cố tình từ chối A-la-hán quả, chỉ đặt mục tiêu vào Chánh Biến Tri.

Những lời đó sẽ giải đáp thỏa đáng câu hỏi liệu một vị Bồ tát sau khi nhận được lời tiên tri có xu hướng nào đối với một hình thức Giác ngộ thấp kém hơn hay không.

Tuy nhiên, cần lưu ý dựa trên thẩm quyền của Paccekabuddha Apadāna, rằng một vị Phật Độc Giác tương lai, sau khi nhận được lời tiên tri, có thể thay đổi ý chí của mình và chuyển sang một hình thức Giác ngộ thấp kém hơn:

“Một số người khôn ngoan, bất chấp những nỗ lực nghiêm túc của họ, không đạt được tuệ giác về tính không (suññata), hoặc về sự không mong muốn (appaṇihita), hoặc về sự không dấu hiệu (animitta) trong thời gian Giáo pháp của Đức Phật được truyền bá và không trở thành những vị Thánh đệ tử A-la-hán; sau đó, họ tự mình khám phá ra Tứ Diệu Đế và đạt được Giác ngộ với tư cách là chư Phật Độc Giác.” ⁰⁷⁰

Kinh văn trên nói rằng một số vị Phật Độc Giác đã đến dưới thời Đức Phật thuyết pháp đã cố gắng đạt được A-la-hán quả thông qua một trong các hình thức tuệ giác về sự giải thoát, nhưng không thành công do thiếu các điều kiện cần thiết, sau đó họ khám phá ra Chân lý bên ngoài Giáo pháp của Đức Phật, tức là khi Giáo pháp của Đức Phật đã bị diệt vong trên thế gian.

Điều mà kinh văn trên tiết lộ là một số vị Phật Độc Giác tương lai, khi họ đến dưới thời Đức Phật thuyết pháp (sāsana), đã cố gắng đạt được Tuệ đạo; tuy nhiên, những nỗ lực của họ là vô ích bởi vì họ đã nhận được lời tiên tri hoàn toàn không thể sai lầm.

Một lần nữa, trong trường hợp của chư Thánh đệ tử A-la-hán Thượng thủ và chư Thánh đệ tử A-la-hán Đại đệ tử, chúng ta có những trường hợp như trường hợp của Tôn giả Dabba Mallaputta tương lai, Tôn giả Kumāra Kassapa, Tôn giả Bāhiya Dārucīriya, Tôn giả Sabhiya và vua Pukkusāti – tất cả đều là những vị Thánh đệ tử A-la-hán Đại đệ tử – những người, trong thời Đức Phật Kassapa, đã nỗ lực hết mình cho A-la-hán quả mặc dù không thành công – bởi vì họ đã được đảm bảo về sự giác ngộ với tư cách là những vị Thánh đệ tử A-la-hán Đại đệ tử. ⁰⁷¹

Hết phần Giải đáp Câu hỏi Thứ Sáu

Giải Đáp Câu Hỏi Thứ Bảy

Bốn hạng bậc Giác ngộ tương lai, Đức Phật, Đức Phật Độc Giác, Thánh đệ tử A-la-hán Thượng thủ và Thánh đệ tử A-la-hán Đại đệ tử, theo quy luật, đều nhận được lời tiên tri như được chứng minh bằng các yếu tố cần thiết – tám, năm và hai tương ứng – để chín muồi cho nó. Trong ba điều kiện cơ bản để nhận được lời tiên tri, ý chí (chandatā) có thể được giải thích ở đây: –

  • Người nào mong muốn Chánh Biến Tri thì được nhận lời tiên tri cho Chánh Biến Tri;
  • Người nào mong muốn Độc Giác Bồ-đề thì được nhận lời tiên tri cho Độc Giác Bồ-đề;
  • Người nào mong muốn Thánh đệ tử A-la-hán Thượng thủ thì được nhận lời tiên tri cho Thánh đệ tử A-la-hán Thượng thủ;
  • Người nào mong muốn Thánh đệ tử A-la-hán Đại đệ tử thì được nhận lời tiên tri cho Thánh đệ tử A-la-hán Đại đệ tử.

Sau khi được Đức Phật đảm bảo, nhờ vào việc họ đáp ứng các phẩm chất cần thiết, những vị Giác ngộ tương lai tiếp tục hoàn thành Ba-la-mật trong những khoảng thời gian tương ứng đã được ấn định cho những nguyện vọng khác nhau:

  • Bốn, tám hoặc mười sáu A-tăng-kỳ kiếp và một trăm ngàn đại kiếp, hoặc
  • Hai A-tăng-kỳ kiếp và một trăm ngàn đại kiếp, hoặc
  • Một A-tăng-kỳ kiếp và một trăm ngàn đại kiếp, hoặc
  • Một trăm ngàn đại kiếp, tất cả các khoảng thời gian phải được phục vụ chính xác.

Như vậy, người nào chưa bao giờ có ý chí cụ thể để đạt được Giác ngộ nào đó trong suốt quá trình tiến bộ của mình trên con đường công đức, ngay cả khi có khả năng giải thoát khỏi tái sinh, sẽ không bao giờ nhận được bất kỳ lời tiên tri nào chỉ vì thiếu ý chí cho một số hình thức Giác ngộ cụ thể. Điều này có nghĩa là giác ngộ dưới một trong bốn loại Giác ngộ tương lai cần có một ý chí cụ thể, nếu không có nó, người mong cầu có thể đạt được giải thoát chỉ với tư cách là một Thánh đệ tử A-la-hán bình thường, bất chấp A-tăng-kỳ kiếp hoàn thành Ba-la-mật.

Lưu ý: Một Thánh đệ tử A-la-hán bình thường có thể là người, trời hoặc Phạm thiên, người chưa xuất gia làm Tỳ-khưu.

Nhân tiện, đây là một câu kệ sẽ giúp ích cho học giả trong mọi tình huống thích hợp:

“Cho dù ý nghĩa chính xác được thể hiện bao nhiêu đi chăng nữa, nếu thiếu tài liệu tham khảo trực tiếp từ kinh điển (tức là Pāḷi hoặc Luận giải hoặc Phụ chú), nếu có một số bằng chứng rõ ràng là đúng,¹⁸ thì nó nên được coi là thẩm quyền tốt, vững chắc như lời dạy của chính Đức Phật.” ⁰⁷²

Một câu hỏi có thể được đặt ra

CÂU HỎI: Liệu một khoảng thời gian dài tạo dựng công đức, đã làm phong phú thêm sự hoàn thành Ba-la-mật, có phải là lý do chính đáng cho một số hình thức Giác ngộ cụ thể mà người ta sẽ chọn hay không?

TRẢ LỜI: Không. Lý do là: việc không thể thực hiện một mong muốn kiên định ngay từ đầu cho một số Giác ngộ cụ thể là do một trong những điểm yếu sau đây, cụ thể là: –

  • Người ta chưa bao giờ hiểu được giá trị của Chánh Biến Tri hoặc các hình thức Giác ngộ cụ thể thấp kém hơn.
  • Ngay cả khi đã hiểu được giá trị, vẫn có sự chậm chạp trong việc dấn thân vào Bồ tát đạo bởi vì nó liên quan đến những hy sinh to lớn trong việc hoàn thành Ba-la-mật như từ bỏ mạng sống, chân tay và vợ con hoặc tài sản quý giá của một người như vương quốc, v.v., cùng với việc không có khả năng nỗ lực ở mức độ siêu phàm. Sự chậm chạp này, tất nhiên, là do lòng ích kỷ mạnh mẽ ăn sâu vào con người bình thường.
  • Nỗi sợ hãi khi phải trải qua những khoảng thời gian dài như vậy cho sự Giác ngộ, được tính bằng A-tăng-kỳ kiếp – mặc dù, khi so sánh với quá khứ vô lượng mà người ta đã trải qua trong luân hồi, những khoảng thời gian tưởng chừng như dài đó thực sự ngắn ngủi.

Như vậy, đó là vấn đề “Không dám mạo hiểm thì không đạt được gì.”

Hạt giống công đức nằm trong trái tim của một người yếu đuối là yếu kém về chánh niệm (sati), trí tuệ (paññā), niềm tin (saddhā), mong muốn (chanda) và tinh tấn (vīriya); đến nỗi cho dù nó được nuôi dưỡng trong những khoảng thời gian dài, nó cũng không tăng trưởng đủ để xứng đáng với bất kỳ loại Giác ngộ đặc biệt nào. Sương mù quanh năm sẽ không bao giờ lấp đầy sông, hồ và đại dương; cỏ mọc ngàn năm, dù cao hay to đến đâu, cũng không bao giờ có thể dùng làm gỗ xây dựng. Chính người dũng cảm, hiểu được giá trị thực sự của loại Giác ngộ đặc biệt; chẳng hạn như Phật quả, v.v., là người đặt hết tâm trí vào đó, và là người sẵn sàng trải qua pháp hành nghiêm khắc thực sự ghê gớm, và là người chờ đợi mục tiêu của mình trong A-tăng-kỳ kiếp như thể đó là sáng hôm sau. Phải, cần có một mong muốn mãnh liệt (mahājjhāsaya), một quyết tâm vững chắc (daḷhasamādāna), để trở thành một vị Bồ tát.

Để thảo luận chi tiết về điểm này, hãy xem Paramatthadīpanī, Luận giải về Cariyāpiṭaka.

Quyết tâm của những người có trái tim sư tử như vậy có thể được ví như những cơn mưa kỷ nguyên rơi xuống vào chu kỳ đổi mới của vũ trụ, lấp đầy vô số thế giới (cakkavāḷa) bằng nước trong nháy mắt; hoặc cây xoài ma thuật được trồng ngay lập tức bởi người làm vườn Kaṇḍa, hoặc Cây Bồ-đề mọc lên ngay lập tức để che chở cho vị Phật tương lai – vì tất cả những vị Bồ tát đó (tức là bốn loại Giác ngộ tương lai cụ thể) đều thực hiện quyết tâm của họ đến chính mục tiêu trong những khoảng thời gian cần thiết.

Từ lời giải thích này, điều hữu ích cần lưu ý là những người không có đủ dũng khí về mặt tinh thần để mong muốn những hình thức Giác ngộ cao hơn nên làm tốt nhất cơ hội hiện tại khi đã đến dưới thời Đức Phật thuyết pháp để trau dồi cho sự giải thoát khỏi tái sinh ngay tại đây và bây giờ, mà không cần phải ồn ào.

Như vị luận sư về Puggalapaññatti đã nói: –

“Ai là loại người thứ sáu này? Đây là câu hỏi. Câu trả lời là: người ấy là người có hành vi tốt hoặc đạo đức với sự chểnh mảng. Phải, người ấy là người tự nhủ: ‘Tại sao ta phải nhập Niết-bàn dưới thời Đức Phật Gotama thuyết pháp? Ta sẽ làm điều đó trong tương lai dưới thời Đức Phật Metteyya.’ Vì vậy, bất chấp nền tảng đầy hứa hẹn của mình về sự thanh tịnh của giới đức, người ấy không trau dồi tuệ giác. Đối với một người như vậy, lời khuyên tốt cũng nên được đưa ra. Người ấy nên được nhắc nhở về những điều không chắc chắn trong tiến trình tương lai của một người. Người ấy không nên quên rằng điểm đến của một người thế gian bị bao quanh bởi sự không chắc chắn tột độ đến mức không có gì đảm bảo rằng người ấy sẽ được gặp Đức Phật Metteyya, do đó, người ấy nên cố gắng đạt được A-la-hán quả bằng cách trau dồi tuệ giác, thay vì vẫn tiếp tục thờ ơ.” ⁰⁷³

Điều mà vị luận sư nói ở đây là, nếu một người không có hình thức Giác ngộ cụ thể nào trong tầm nhìn, thì tốt nhất là nên nhanh chóng tiến bước menuju sự giải thoát khỏi luân hồi, vì đó là một canh bạc lớn khi khao khát Giáo pháp của Đức Phật Metteyya, bỏ lỡ điều đó thì cơ hội Giác ngộ của một người thực sự bị tiêu tan. Điều này rõ ràng không áp dụng cho người có quyết tâm vững chắc để đạt được một số Giác ngộ cụ thể.

Hết phần Giải đáp Câu hỏi Thứ Bảy

Giải Đáp Câu Hỏi Thứ Tám

Có một số dạng câu hỏi mang theo câu trả lời trong chính nó: ví dụ, chúng ta có trong Vajiratthasaṅgaha: “Uṇhakāle kamicchanti” – có thể có nghĩa là, “Mọi người mong muốn gì vào thời tiết nóng?” Hoặc nó cũng có thể có nghĩa là: “Nước được mong muốn vào thời tiết nóng.”

Ở đây chúng ta có một câu hỏi như vậy. Người nào mong muốn Thánh đệ tử A-la-hán quả có thể thay đổi mong muốn của mình và mong muốn một hình thức Giác ngộ cao hơn, trong trường hợp đó, người ấy có cơ hội thành công cao. Câu trả lời này được ngụ ý trong chính câu hỏi. Vì vậy, chúng ta chỉ cần thảo luận ở đây câu hỏi về việc hoàn thành Ba-la-mật: liệu sự hoàn thành bổ sung có đủ hay không.

  • Người mong muốn Thánh đệ tử A-la-hán quả bình thường có thể, và nên, sau đó đặt mục tiêu của mình cho bất kỳ hạng bậc nào trong bốn hạng bậc Giác ngộ cụ thể:
  • Người mong muốn Thánh đệ tử A-la-hán Đại đệ tử có thể, và nên, sau đó đặt mục tiêu của mình cho bất kỳ hạng bậc nào trong ba hạng bậc Giác ngộ cao hơn.
  • Người mong muốn Thánh đệ tử A-la-hán Thượng thủ có thể, và nên, sau đó đặt mục tiêu của mình cho Phật quả hoặc Phật Độc Giác quả.

Người mong cầu ở đây có nghĩa là người nghiêm túc và kiên định, không phải là người mù quáng và ngu ngốc, người sẽ: –

  • Khi biết rằng để đạt được Giác ngộ A-la-hán bình thường là khá dễ dàng, thì mong muốn điều đó; nhưng sau đó;
  • Khi biết rằng Giác ngộ A-la-hán Đại đệ tử thì tốt hơn, thì mong muốn điều đó; nhưng sau đó; –
  • Khi biết rằng Giác ngộ A-la-hán Thượng thủ thì tốt hơn nữa, thì mong muốn điều đó; nhưng sau đó, –
  • Khi biết rằng Giác ngộ Phật Độc Giác thì tốt hơn nữa, thì mong muốn điều đó; nhưng sau đó,
  • Khi biết rằng Chánh Biến Tri thuộc một trong ba loại là điều mà một người đàn ông thực sự nên hướng tới, thì mong muốn điều đó;
  • Và khi biết rằng, trong ba loại Phật quả, loại ‘trí tuệ’ là tốt nhất, thì mong muốn điều đó!

Theo cách này, người ấy thay đổi mục tiêu của mình trong một kiếp sống duy nhất – không, trong nhiều năm, hoặc thậm chí nhiều ngày. Điều này đúng là như vậy. Trong Visuddhimagga Aṭṭhakathā, chúng ta được cho biết rằng vào ngày Đức Thế Tôn từ cõi Trời Ba Mươi Ba giáng xuống Saṅkassa-nagara, không có một linh hồn nào, khi nhìn thấy sự vinh quang của Đức Phật, mà không mong muốn Phật quả: (Taṃ divasaṃ bhagavantaṃ buddha bhāvāya pihaṃ anuppādetvā thitasattonāma natthi). Hội chúng độc đáo này bao gồm tất cả chúng sinh – người, trời và Phạm thiên – thuộc về một trăm nghìn thế giới. Tuy nhiên, trong số rất nhiều người, chỉ có năm trăm mười người được định sẵn để có được mong muốn của họ được hoàn thành theo Sotattakī.

Vì vậy, không có nhiều ý nghĩa trong việc thay đổi hoặc mong muốn thất thường của đám đông. Đối với những người mong cầu đã được đảm bảo về sự Giác ngộ trong tương lai, thì việc thay đổi như vậy cũng không thể thực hiện được.

Tất cả các chi tiết đã nói ở trên liên quan đến năm hạng bậc Giác ngộ, thời kỳ trưởng thành và thuật ngữ chỉ tồn tại trong khi Giáo pháp của Đức Phật còn tồn tại. Một khi Giáo pháp biến mất khỏi thế gian, tất cả những điều đó sẽ không bao giờ được nghe đến hoặc hiểu đúng. Các luận giải về Brahmāyu Sutta và Aṅguttaranikāya đã nói điều này: –

“Có một cuốn sách được gọi là Cuốn sách về các đặc điểm của bậc vĩ nhân (mahāpūrisa-lakkhaṇa). Nó cho chúng ta biết về ba mươi hai tướng chính, tám mươi tướng phụ, 108 dấu hiệu trên lòng bàn chân của Đức Phật. Nó bao gồm mười hai nghìn bài luận (gantha). Bên cạnh đó, còn có một Cuốn sách về Lời tiên tri được gọi là “Buddhamanta,” bao gồm mười sáu nghìn câu kệ. Và chính nhờ sự trợ giúp của cuốn sách thứ hai mà những lời giải thích về cuốn sách thứ nhất được thực hiện. Như vậy, bạn được hiểu rằng khi những tướng đó hiển hiện đầy đủ trên người của ai đó, người ấy được gọi là Đức Phật; rằng những tướng đó tiết lộ Đức Phật Độc Giác; rằng những tướng đó tiết lộ hai vị Thánh đệ tử A-la-hán Thượng thủ; rằng những tướng đó tiết lộ tám mươi vị Thánh đệ tử A-la-hán Đại đệ tử; rằng những tướng đó tiết lộ mẹ của Đức Phật; rằng những tướng đó tiết lộ cha của Đức Phật; rằng những tướng đó tiết lộ Hoàng hậu của vị Phật tương lai; và rằng những tướng đó tiết lộ vị Chuyển Luân Thánh Vương. Tất cả những cá nhân vĩ đại đó có thể được nhận ra bằng những tướng cụ thể đó.”

“Về những câu kệ đó, chúng được tạo ra bởi chư Phạm thiên ở cõi Sắc giới (Suddhāvāsa brahmā). Khi vị Phật tương lai được biết là (đối với họ) sẽ xuất gia làm ẩn sĩ, họ đã đến thế giới loài người trước thời điểm đó với hình dạng của những vị Bà-la-môn, mang theo những cuốn sách Vệ Đà, nơi họ thêm một chương về Đức Phật. Phần này của tác phẩm, được gọi là Câu kệ Phật giáo (Buddhamantā), họ đã dạy cho những người khôn ngoan để những câu kệ Vệ Đà đó sẽ phục vụ nhân loại như những người hướng dẫn mà nhờ đó những người quyền lực sẽ biết đến Như Lai. Như vậy, trong những ngày trước khi Đức Phật nhập diệt, các đặc điểm của tám cá nhân vĩ đại bao gồm cả Đức Phật đã được thế giới biết đến. Và sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn, những câu kệ Vệ Đà đó dần dần bị diệt vong, do đó, trong thời đại của chúng ta, Cuốn sách về các đặc điểm của bậc vĩ nhân không được tìm thấy ở đâu cả.” ⁰⁷⁴

Khoảng một nghìn năm trước khi Đức Phật xuất hiện trên thế gian, tin tức về sự xuất hiện của Ngài đã được (chư Phạm thiên) công bố và, như đã kể ở trên, các tài liệu Vệ Đà về Đức Phật đã được một số vị Bà-la-môn thông thái như Pokkharasāti và Brahmāyu biết đến; và thậm chí họ được cho là chỉ biết một phần của nó.

Vì các Vệ Đà nói trên chỉ có sẵn cho nhân loại trong những khoảng thời gian hạn chế và vì chúng chỉ được một số ít người khôn ngoan biết đến, nên các thuộc tính đặc biệt liên quan đến chư Phật, chư Phật Độc Giác và chư Thánh đệ tử A-la-hán đã được giới tinh hoa nghe đến, một cách không đầy đủ. Khi Giáo pháp của Đức Phật im lặng trên thế gian, kiến thức liên quan đến Đức Phật và những cá nhân vĩ đại này bị thế gian từ chối. Đó là lý do tại sao, ngoại trừ chư Phật tương lai, những người khôn ngoan thực hiện các hành động thiện lành như bố thí hoặc giữ gìn giới luật đạo đức, không có bất kỳ mục tiêu xác định nào như Phật Độc Giác quả, hoặc Thánh đệ tử A-la-hán Thượng thủ hoặc Thánh đệ tử A-la-hán Đại đệ tử. Những người khôn ngoan nhất trong số họ, trong những trường hợp đó, sẽ mong muốn giải thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử, điều tất yếu dẫn đến tuổi già, bệnh tật và cái chết.

Theo đó, bên ngoài Giáo pháp của Đức Phật, dường như không có người mong muốn Thánh đệ tử A-la-hán quả nào có khả năng thay đổi mục tiêu của họ về hình thức Giác ngộ cụ thể, ngoại trừ Phật Độc Giác. Người nào đã quen với việc lựa chọn loại công đức không tái sinh (vivaṭṭa kusala) trong vô số kiếp sống, có thể, vào lúc này hay lúc khác bên ngoài Giáo pháp của Đức Phật, đã nhìn thấy một vị Phật Độc Giác và, hầu hạ Ngài với sự tận tâm tột độ (adhikāra), mong muốn có được Tuệ giác như Đức Phật Độc Giác đã biết. Tương tự như vậy, trong khi trong những kiếp sống sau này, thuộc về những kiếp tiếp theo, bất cứ khi nào người ấy có cơ hội nhìn thấy một vị Phật Độc Giác, hoặc khi Giáo pháp của Đức Phật đang thịnh hành, thì nguyện vọng trước đây này có thể đã truyền cảm hứng cho người ấy một lần nữa mong muốn Phật Độc Giác quả. Theo cách này, mong muốn của người ấy đối với loại Giác ngộ cụ thể đó sẽ trở nên trưởng thành và, nhận được lời tiên tri vào đúng thời điểm, sẽ đạt được giải thoát với tư cách là một vị Phật Độc Giác.

Tương tự, có người có thể đã nhìn thấy sự cao quý của Thánh đệ tử A-la-hán đứng bên phải của Đức Phật, vị Thánh đệ tử A-la-hán Thượng thủ về Tuệ giác, hoặc Thánh đệ tử A-la-hán đứng bên trái của Đức Phật, vị Thánh đệ tử A-la-hán Thượng thủ về Thần thông, hoặc một số Thánh đệ tử A-la-hán Đại đệ tử như Thánh đệ tử A-la-hán Thượng thủ về việc tuân thủ mười ba pháp hành khổ hạnh (dhutaṅga), và được truyền cảm hứng, có thể đã thốt ra mong muốn rằng người ấy cũng vậy, một ngày nào đó có thể sở hữu được Tuệ giác mà chư A-la-hán đó có. Một khi lời nói như vậy (đi kèm với sự tận tâm hầu hạ vị Thánh nhân) đã được thực hiện, thì mong muốn đó sẽ tồn tại cho đến khi được hoàn thành ngay cả khi không được lặp lại trong những kiếp sống sau này. Bây giờ, câu hỏi hiện tại của chúng ta chỉ liên quan đến những người mong cầu đã bày tỏ mong muốn cụ thể của họ (đi kèm với sự hầu hạ tôn giáo đối với một số vị Thánh nhân đầy cảm hứng), nhưng người vẫn chưa nhận được lời tiên tri.

Từ những điều đã nói ở trên, có thể lưu ý rằng bất kỳ ai, sau khi đã hầu hạ tốt, chỉ đơn giản mong muốn Niết-bàn thông qua Tuệ đạo, nên được xếp vào loại Thánh đệ tử A-la-hán bình thường.

Thuật ngữ “Bồ tát”, như Luận giải về Cariyāpiṭaka đã chỉ ra, chỉ áp dụng cho người mong cầu đã nhận được lời tiên tri và do đó chắc chắn về sự Giác ngộ trong tương lai. Cho đến khi nhận được lời tiên tri, ngay cả người mong cầu Phật quả cũng không chắc chắn về con đường của mình, chưa nói đến những người mong cầu thấp kém hơn. Như Sotattakī đã nói: –

“Cũng giống như bông hoa sen này, một người mong cầu Phật quả, với tất cả sự tích lũy rộng lớn của mình về các điều kiện cần thiết cho sự Giác ngộ Phật quả, không thể chắc chắn về tương lai của mình cho đến khi người ấy nhận được lời tiên tri.” ⁰⁷⁵

Sự không chắc chắn cũng ngụ ý rằng bất kỳ sự thay đổi nào trong mục tiêu của người mong cầu đều có thể xảy ra.

Bây giờ, đối với câu hỏi liệu Ba-la-mật đã được hoàn thành cho một mục tiêu ban đầu nhất định của Giác ngộ thuộc một loại cụ thể có được tính là điều kiện cần thiết cho mục tiêu đã thay đổi của một loại Giác ngộ khác hay không, để chỉ cần sự hoàn thành bổ sung; hoặc liệu người mong cầu có phải bắt đầu lại từ đầu hay không – quan điểm là khác nhau.

Theo Tôn giả Dhammapāla, tác giả của Sīlakkhandha-ṭīkā, việc hoàn thành Ba-la-mật cho một loại Giác ngộ, chỉ dành cho mục tiêu đó, không thể đóng vai trò là điều kiện cần thiết cho một loại Giác ngộ khác. Tuy nhiên, cùng một nguồn này đề cập đến một ý kiến ​​khác nhau của các vị thầy khác rằng công đức, được thực hiện cho mục tiêu cuối cùng là đạt được giải thoát khỏi luân hồi, nên được chuyển nhượng cho một mục tiêu đã thay đổi.

Phụ chú về Sāmaññaphala Sutta ⁰⁷⁶ trích dẫn trường hợp của vua Ajātasattu, người đã giết cha mình. Nếu ông ta không phạm tội ác nghiêm trọng đó, ông ta đã có thể đạt được Tuệ đạo ở một mức độ thấp hơn, nhưng vì ông ta đã bị ngăn cản bởi hành động tàn ác của mình khỏi việc đạt được Giác ngộ trong kiếp sống đó, nên sau khoảng thời gian trả quả báo trong địa ngục, ông ta sẽ trở thành một vị Phật Độc Giác với cái tên Vijitāvī. Trích dẫn từ nguồn đã nói: –

(a) “Ở đây, ai đó có thể phản đối: tại sao lại như vậy? Nếu vị vua này (Ajātasattu) không có chướng ngại cho nghiệp của mình (kammantarāyā bhāve) vì đã giết cha mình, khi nghe Sāmaññaphala Sutta, ông ta sẽ chứng đắc Nhập lưu, người ta nói như vậy; nếu đúng như vậy thì làm thế nào và tại sao ông ta lại đạt được Giác ngộ với tư cách là một vị Phật Độc Giác trong tương lai? Một lần nữa, nếu ông ta được cho là sẽ trở thành một vị Phật Độc Giác thì làm thế nào ông ta có thể phù hợp để chứng đắc Nhập lưu khi nghe Sāmaññaphala Sutta? Hai tuyên bố liên quan đến điều kiện đủ cho A-la-hán quả không mâu thuẫn với nhau sao?

(b) “Không. Rằng ông ta, nếu không có nghiệp chướng ngại của mình, sẽ chứng đắc Nhập lưu ngay tại đây và bây giờ; và rằng ông ta sẽ trở thành một vị Phật Độc Giác trong tương lai, không phải là những tuyên bố mâu thuẫn nhau. Tại sao? Bởi vì trong những kiếp sống sau này, ông ta sẽ tích lũy thêm công đức của mình để đủ điều kiện cho Phật Độc Giác quả. Điều đó là như vậy, bởi vì nếu ai đó chín muồi cho Thánh đệ tử A-la-hán quả mà không đạt được Giác ngộ vì thiếu một số điều kiện nhất định, thì người ấy, ngay cả bên ngoài Giáo pháp của Đức Phật, cũng có thể trở thành một vị Phật Độc Giác. Tại sao? Bởi vì người ấy đã tự mình nỗ lực tốt (katābhinīhāra) cho loại Giác ngộ đó.”

(a) “Các vị thầy khác nói rằng vị vua này (Ajātasattu) chỉ tự mình nỗ lực (katābhinīhāra) để trở thành một vị Phật Độc Giác. Điều đó là như vậy. Bởi vì trừ khi hành vi hướng tới sự hoàn thành chưa trưởng thành, thì người ấy mới có khả năng đạt được Giác ngộ A-la-hán trước sự hiện diện của Đức Phật. Đó là lý do tại sao Đức Phật nói: “Sacāyaṃ bhikkhave rājā”ti.

(b) “Bây giờ, chỉ có một vị Phật tương lai ‘đã được đảm bảo’ mới được miễn trừ khỏi hậu quả của hành vi sai trái nghiêm trọng mà phải chịu quả báo ngay lập tức (ānantariya kamma): chư Phật Độc Giác tương lai và chư Thánh đệ tử A-la-hán tương lai thì không. Tuyên bố đó quả thực là đúng. Bất chấp việc đã nhận được lời tiên tri cho Phật Độc Giác quả, Devadatta đã cho phép mình phạm những tội ác nghiêm trọng là gây chia rẽ trong Tăng đoàn và làm đổ máu Đức Phật, nhờ vào sự thù hận của ông ta đối với Đức Thế Tôn (lokanātha), Đức Phật, ông ta đã nuôi dưỡng trong năm đại kiếp.”

(c) “Do đó, những vị thầy đó kết luận rằng vị vua này (Ajātasattu) bị ngăn cản bởi tội ác nghiêm trọng của mình và do đó không có khả năng đạt được tuệ giác về Nhập lưu, sẽ, trong sự công bình của vạn vật (samattha niyāma magga), đạt được Đạo trong tương lai với tư cách là một vị Phật Độc Giác. Vì vậy, cần lưu ý điều đó.”

Theo vị phụ chú: –

Đức Phật nói về khả năng đạt được Tuệ đạo của vị vua này bởi vì vị vua trong những kiếp sống trước đây chỉ mong muốn Thánh đệ tử A-la-hán quả. Nếu trước đây ông ta đã trau dồi cho Phật Độc Giác quả, thì ông ta sẽ không đạt được Thánh đệ tử A-la-hán quả, cho dù ông ta đã trau dồi bao nhiêu cho sự trưởng thành hướng tới Phật Độc Giác Bồ-đề. Bất kỳ Ba-la-mật nào mà ông ta có thể đã hoàn thành cho Thánh đệ tử A-la-hán quả bình thường cũng sẽ trở nên vô hiệu trong kiếp sống đó do chướng ngại trên Nghiệp của ông ta, vì tội giết cha. Tất cả sự tích lũy công đức đó sẽ chỉ đóng vai trò như một điều kiện xa cho sự Giác ngộ (upanissaya koṭi) với tư cách là một vị Phật Độc Giác trong tương lai rất xa. Như vậy, ông ta sẽ chuyển nguyện vọng của mình sang Phật Độc Giác Bồ-đề và bắt đầu lại từ đầu, và vào đúng thời điểm, sẽ tự mình chín muồi cho lời tiên tri và từ đó trở đi, sau hai A-tăng-kỳ kiếp và một trăm ngàn đại kiếp, đạt được Phật Độc Giác quả. Vì trước đây ông ta chưa từng mong muốn Phật Độc Giác quả, và hai phẩm chất cần thiết của sự Giác ngộ, tức là đã thực hiện sự hầu hạ hoặc phụng sự cần thiết và đã mong muốn điều đó, vẫn chưa có ở đó, nên lời tiên tri không được mong đợi vào thời điểm đó.

Theo các vị thầy khác: –

Ajātasattu trước đây đã mong muốn Phật Độc Giác Bồ-đề và mặc dù sự hoàn thành những lời tiên tri của ông ta hướng tới mục tiêu đó chưa chín muồi, nhưng chúng nên được coi là điều kiện đủ cho A-la-hán quả với tư cách là một Thánh đệ tử A-la-hán bình thường. Tuy nhiên, nếu Ba-la-mật đã chín muồi, thì ông ta không thể mong muốn Thánh đệ tử A-la-hán quả bình thường. Khi chúng ta cân nhắc hai lý thuyết khác nhau ở trên, chúng ta có thể phải xem xét điều này: –

Sumedha, vào ngày nhận được lời tiên tri của mình, đã nói, “Nếu ta có mong muốn của mình, thì hôm nay ta đã có thể đạt được Tuệ đạo A-la-hán và Quả của nó.” Bây giờ, một vị Bồ tát không phải là loại người sẽ nói điều gì đó không liên quan chỉ để khoe khoang, và, như Luận giải đã lưu ý, nếu Sumedha đạt được Giác ngộ A-la-hán với tư cách là một Thánh đệ tử A-la-hán bình thường, thì Ngài sẽ làm như vậy với tư cách là một Tỳ-khưu. Tất cả những cân nhắc này dường như ủng hộ lý thuyết của những vị thầy khác đã đề cập ở trên. Tuy nhiên, đó là một điểm cần bàn cãi để những người khôn ngoan xem xét.

Hết phần Giải đáp Câu hỏi Thứ Tám

Giải Đáp Câu Hỏi Thứ Chín

Trong câu hỏi này cũng đã có câu trả lời ngụ ý rằng người mong muốn Phật Độc Giác Bồ-đề trước khi nhận được lời tiên tri, có thể thay đổi ý định của mình sang một loại Giác ngộ khác và người ấy cũng có thể thành công ở đó.

Điểm cần bàn cãi là liệu công đức hướng tới việc hoàn thành Ba-la-mật cho Phật Độc Giác Bồ-đề trong trường hợp đó có hướng tới sự đầy đủ của điều kiện cho Chánh Biến Tri hay không, sẽ phải được đánh giá từ những gì đã được thảo luận trong Câu hỏi thứ Tám ở trên.

Có sáu vị Phật Độc Giác tương lai đã được tiên tri hoặc đảm bảo dưới thời Đức Phật Gotama thuyết pháp, đó là: –

  • Devadatta
  • Vua Ajātasattu
  • Sumana người bán hoa
  • Người canh gác đồng ruộng
  • Cú mèo ở Vedisagiri
  • Người cúng dường dải băng đô hoa cho Đức Phật.

Chúng được đề cập cụ thể trong kinh điển.

Về tương lai của họ:

  • Devadatta sẽ trở thành một vị Phật Độc Giác tên là Aṭṭhissara trong kiếp thứ một trăm nghìn tính từ kiếp hiện tại của chúng ta, xem Milindapañha và Dhammapada Aṭṭhakathā.
  • Vua Ajātasattu sẽ trở thành một vị Phật Độc Giác tên là Vijitāvī, xem Sāmaññaphala Sutta Aṭṭhakathā. Thời điểm Giác ngộ của ông ta không được đề cập.
  • Sumana người bán hoa sẽ trở thành một vị Phật Độc Giác tên là Sumanissara trong kiếp thứ một trăm nghìn tính từ kiếp hiện tại của chúng ta, xem Suttanipāta Aṭṭhakathā.
  • Người canh gác đồng ruộng sẽ trở thành một vị Phật Độc Giác với cái tên Ratanakuṭi, xem Theragāthā; thời điểm Giác ngộ của ông ta không được đề cập, nhưng được cho là ngay trong kiếp hiện tại của chúng ta.
  • Cú mèo sẽ trở thành một vị Phật Độc Giác với cái tên Somanassa, trong kiếp thứ một trăm nghìn tính từ kiếp hiện tại của chúng ta, xem Suttanipāta Aṭṭhakathā, v.v.
  • Người cúng dường dải băng đô hoa sẽ trở thành một vị Phật Độc Giác với cái tên Vaṭaṃsaka, xem Nettippakaraṇa. Thời điểm xuất hiện của ông ta không được đề cập; có lẽ nó sẽ là trong kiếp hiện tại.

Cũng có một câu chuyện về một người đao phủ nào đó ¹⁹, người đã làm công việc đẫm máu này trong năm mươi lăm năm, nhưng khi cái chết của ông ta sắp xảy ra, ông ta đã có cơ hội may mắn được cúng dường cho Tôn giả Sāriputta, và đã được sinh lên cõi trời Tusita sau khi chết. Sau kiếp sống đó, ông ta được định sẵn sẽ trở thành một vị Phật Độc Giác, Sahassavatthu nói như vậy. Tuy nhiên, trong các nguồn khác, cụ thể là Aṅguttaranikāya Aṭṭhakathā, phần Kammavibhaṅga của Aṅguttara­nikāya Ṭīkā, đã đề cập đến cùng một người, nhưng chỉ đề cập đến sự tái sinh của ông ta ở Tusita – chứ không phải Phật Độc Giác quả tương lai của ông ta.

Trong Mahāmāyā-vatthu, Māra được cho là sẽ trở thành một vị Phật Độc Giác, “So pi Bodhisattaṃ thometvā teneva pasādena anāgate paccekabuddho bhavissati.” Theo truyền thuyết Phật giáo, được chứa đựng trong các tác phẩm như Sotatattakī, có 500 vị Phật tương lai chưa chín muồi cho lời tiên tri và mười vị đã chín muồi cho nó. Những người thứ hai đã nhận được lời tiên tri của họ và đã gặp Đức Phật Gotama; theo Suṇṇiya anāgatāvaṃsa, họ là: –

  • Tôn giả Ajita, con trai của vua Ajātasattu, trong quá khứ là một vị Chuyển Luân Thánh Vương với cái tên Saṅkha; Ngài đã nhận được lời tiên tri từ Đức Phật Sirīmanta; Ngài là Đức Phật Metteyya tương lai, vị Phật thứ năm và cũng là vị Phật cuối cùng của kiếp của chúng ta. Tuổi thọ của Ngài sẽ là tám mươi nghìn năm; chiều cao của Ngài, 88 cubit; Cây Bồ-đề của Ngài, Gangaw (mesua ferrea).
  • Vua Rāma sống vào thời Đức Phật Gotama, trong quá khứ là một thanh niên tên là Nārada, người đã nhận được lời tiên tri từ Đức Phật Kassapa. Ngài sẽ xuất hiện với tư cách là một vị Phật, tên là Rāma, trong kiếp tiếp theo, kiếp sẽ có hai vị Phật (maṇḍa-kappa). Tuổi thọ của Ngài sẽ là chín mươi nghìn năm; chiều cao của Ngài, 80 cubit; Cây Bồ-đề của Ngài, cây Đàn hương.
  • Vua Pasenadi của Kosala đã nhận được lời tiên tri từ Đức Phật Koṇāgamana với tư cách là chàng trai trẻ Suddha. Ngài sẽ xuất hiện trong cùng một kiếp tiếp theo (maṇḍa kappa) với tư cách là Đức Phật Dhammarāja. Tuổi thọ của Ngài sẽ là năm mươi nghìn năm; chiều cao của Ngài, chín mươi cubit; Cây Bồ-đề của Ngài, Gangaw (mesua ferrea).
  • Abhibhū, vua của chư Thiên, trong quá khứ là một vị quan đại thần tên là Bodhi. Ngài đã nhận được lời tiên tri từ Đức Phật Kassapa. Ngài sẽ xuất hiện với tư cách là Đức Phật Dhammasami trong một kiếp tương lai được ban tặng bởi một vị Phật (sāra kappa). Tuổi thọ của Ngài sẽ là một trăm nghìn năm; chiều cao của Ngài, tám mươi cubit; Cây Bồ-đề của Ngài, Ingyin (pentacme suavis).
  • Dīghasoṇi, vua của A-tu-la, trong quá khứ là một vị vua với cái tên Sirīratanā. Ngài đã giành được lời tiên tri từ Đức Phật Kassapa, và Ngài sẽ trở thành Đức Phật Nārada trong kiếp tương lai với hai vị Phật. Tuổi thọ của Ngài sẽ là mười nghìn năm; chiều cao của Ngài, 120 cubit; Cây Bồ-đề của Ngài, cây Đàn hương.
  • Saṅki Bà-la-môn là một thanh niên tên là Māgha, người đã nhận được lời tiên tri từ Đức Phật Kakusandha. Ngài sẽ trở thành Đức Phật Rasimuṇi trong cùng một kiếp với Đức Phật Nārada. Tuổi thọ của Ngài sẽ là năm nghìn năm; chiều cao của Ngài 60 cubit; Cây Bồ-đề của Ngài, Letpan, cây bông gòn (bombax malabaricum).
  • Subha Bà-la-môn trong một kiếp sống trước đây là một con voi trắng (Chaddanta Nāga). Ngài đã nhận được lời tiên tri từ Đức Phật Koṇāgamana. Ngài sẽ xuất hiện với tư cách là Đức Phật Devātideva trong một thế giới tương lai với hai vị Phật. Tuổi thọ của Ngài sẽ là tám nghìn năm; chiều cao của Ngài, 80 cubit; Cây Bồ-đề của Ngài, Saga (Sanga) (michelis champaca).
  • Todeyya Bà-la-môn trong quá khứ là chàng trai trẻ Nanda, người đã nhận được lời tiên tri từ một vị Phật Độc Giác. Ngài sẽ trở thành một vị Phật với cái tên Narasīha trong cùng một kiếp với Đức Phật Devāti-deva (Subha Bà-la-môn ở trên). Tuổi thọ của Ngài sẽ là 80 nghìn năm; chiều cao của Ngài 60 cubit; Cây Bồ-đề của Ngài, Thakhut (Thakut) (dolichandrone rheedii).
  • Nāḷāgīri, con voi cao quý được gọi là Dhanapala, là Hoàng tử ­Dhammasena trong một kiếp sống trước đây. Ngài đã nhận được lời tiên tri từ Đức Phật Koṇāgamana, và sẽ trở thành Đức Phật Tissa trong một kiếp tương lai, nơi hai vị Phật sẽ được sinh ra. Tuổi thọ của Ngài sẽ là tám mươi nghìn năm; chiều cao của Ngài tám mươi cubit, Cây Bồ-đề của Ngài là cây đa (ficus benghalensis).
  • Palale, vua của loài voi, đã từng là một vị Chuyển Luân Thánh Vương tên là Mahāpanāda. Ngài đã nhận được lời tiên tri từ Đức Phật Kakusandha và sẽ xuất hiện với tư cách là Đức Phật Sumaṅgala trong cùng một kiếp với Đức Phật Tissa (con voi Nāḷāgiri ở trên). Tuổi thọ của Ngài sẽ là một trăm nghìn năm; chiều cao của Ngài, 80 cubit; Cây Bồ-đề của Ngài, Gangaw (mesua ferrea).

Trong số mười người đó (người thứ tư) Abhibhū chỉ là một tên gọi khác của Māra – mặc dù một câu đối nhất định trong tiếng Miến dường như tính Māra ngoài Abhibhū. Tuy nhiên, Māra chỉ là một vị Phật Độc Giác tương lai, xem Mahāmāyā-vatthu. Thuật ngữ ‘Abhibhū’ mang ý nghĩa riêng của nó (và không chỉ đơn thuần là một trong những thuộc tính của Māra), đó là lý do tại sao Anāgatavaṃsa và Sotattakī, v.v., liệt kê ông ta dưới cái tên cụ thể đó.

Trong số mười người đã được đảm bảo về Phật quả, họ được liệt kê theo thứ tự thời gian xuất hiện của họ trong tương lai, như đã nói:

“Dasuttarā pañcasatā Bodhisatta samūhatodassa-anukkamāyeva pañcasatā nanukkamā.”

Rõ ràng, năm trăm người chưa nhận được lời tiên tri không thể được liệt kê như vậy. Cũng như vậy, các chi tiết về họ như thời gian xuất hiện, danh hiệu Phật, v.v., vẫn chưa thể được báo trước một cách cụ thể.

Có thể đề cập rằng các chi tiết tỉ mỉ về Đức Phật Metteyya tương lai, tức là người đầu tiên trong số mười người được liệt kê ở trên, Tôn giả Ajita, được đưa ra trong Anāgatavaṃsa-gāthā Aṭṭhakathā có tựa đề là Samantabhaddikā.

Hết phần Giải đáp Câu hỏi Thứ Chín

Giải Đáp Câu Hỏi Thứ Mười

Câu hỏi này cũng bao gồm câu trả lời của nó rằng người mong muốn Phật quả có thể thay đổi mục tiêu của mình về loại Giác ngộ. Một câu hỏi thuộc loại pañhāpādottara có nghĩa là “chính câu hỏi là câu trả lời.”

Sự thay đổi trong mục tiêu của người mong cầu chỉ có thể xảy ra trước khi người ấy nhận được lời tiên tri; điều này áp dụng cho chư Phật tương lai, chư Phật Độc Giác tương lai, chư Thánh đệ tử A-la-hán Thượng thủ tương lai và chư Thánh đệ tử A-la-hán Đại đệ tử tương lai. Điều này đã được chỉ ra trong các từ, “nếu được phép” (yadi labheyya). Trong câu hỏi, ‘“uṇṇakāle” có nghĩa là khi người ấy chín muồi cho lời tiên tri, và “Uṇṇa kāle” có nghĩa là trước khi trưởng thành.

Điều đó quả thực là như vậy. Bởi vì quyết tâm lớn lao cho Chánh Biến Tri (paṇidhāna hoặc mahābhinīhāra) chỉ đến với những người đã hoàn thành Ba-la-mật ở mức độ to lớn đến mức có thể thực hiện một cuộc dấn thân táo bạo duy nhất như vậy. Đó không phải là việc của những người có tâm hồn thấp kém hơn. Đó không phải là loại quyết tâm mà ngay cả những người mong muốn Phật Độc Giác Bồ-đề hoặc Thánh đệ tử A-la-hán Thượng thủ hoặc Thánh đệ tử A-la-hán Đại đệ tử hoặc Thánh đệ tử A-la-hán bình thường có thể dám thực hiện, chứ đừng nói đến những người bình thường chưa bao giờ bắt đầu hoàn thành bất kỳ Ba-la-mật nào.

Những phẩm chất bẩm sinh của một vị Phật tương lai thuộc về một đẳng cấp riêng biệt ngay cả trong giai đoạn trước khi được đảm bảo. Đó là lý do tại sao chính sự cam kết mong muốn Chánh Biến Tri là một mệnh đề không thể tưởng tượng được đối với những người mong muốn Giác ngộ thấp kém hơn như chư Phật Độc Giác tương lai, v.v. Các luận giải giải thích tám yếu tố tạo thành quyết tâm lớn lao (mahābhinīhāra), cụ thể hơn là về điều kiện gốc (hetu), sự hầu hạ hoặc phụng sự (adhikāra) và ý chí (chandatā). ⁰⁷⁷

Lưu ý: Những giải thích tương tự như Tài liệu tham khảo ⁰⁷⁸ cũng có thể được tìm thấy trong Jātaka Aṭṭhakathā, Buddhavaṃsa Aṭṭhakathā, Apadāna Aṭṭhakathā và phần Giới thiệu về Jātattakī.

Những tài liệu tham khảo đó chỉ ra rằng bài kiểm tra quan trọng để đánh giá sự chín muồi để thực hiện Quyết tâm lớn lao là liệu người mong cầu có đủ trưởng thành cho A-la-hán quả vào thời điểm đó hay không.

Một câu hỏi có thể được đặt ra

CÂU HỎI: Bài kiểm tra này tự nó không phải là duy nhất đối với vị Phật tương lai: bởi vì vị ẩn sĩ Sarada, tức là Tôn giả Sāriputta tương lai, Thánh đệ tử A-la-hán Thượng thủ, và vị ẩn sĩ Nanda, tức là Tôn giả Subhūti tương lai, một trong những vị Thánh đệ tử A-la-hán Đại đệ tử, không được trời phú cho những phẩm chất tương tự (tức là sự phù hợp cho A-la-hán quả vào thời điểm thực hiện quyết tâm) sao?

TRẢ LỜI: Không. Đó không phải là tiêu chí duy nhất cho sự phù hợp hoặc điều kiện gốc (hetu); có nhiều điều kiện khác cho Phật quả hoàn toàn nằm ngoài khả năng của những người mong cầu thấp kém hơn, như đã chỉ ra trong Cariyāpiṭaka Aṭṭhakathā: – ⁰⁷⁹

(a) “Như vậy, có một số đặc điểm (liṅgaṃ) đại diện cho sự chín muồi của các điều kiện cần thiết (upanissaya) để nhận được lời tiên tri mà một vị Phật tương lai có đầy đủ. Sự ban tặng tuyệt vời này là kết quả của các khả năng vượt trội, pháp hành vượt trội (paṭipatti), khả năng phán đoán vượt trội (kosalla) của vị Bồ tát, lớn hơn, sâu sắc hơn và không thể so sánh được với bất kỳ người mong muốn Thánh đệ tử A-la-hán quả hoặc Phật Độc Giác Bồ-đề nào. Những đặc điểm tuyệt vời khác nhau này là khá rõ ràng.

(b) “Những đặc điểm này về sự đầy đủ của các điều kiện cần thiết là khá rõ ràng. Trên thế gian này, bậc vĩ nhân được trời phú cho những điều kiện đầy đủ này có sự thanh tịnh của các giác quan (visadindriyo), sự thanh tịnh của trí tuệ (visadañāṇo) mà không một vị Phật Độc Giác tương lai hoặc Thánh đệ tử A-la-hán tương lai nào có thể sở hữu được. Vị Phật tương lai phấn đấu vì lợi ích của người khác, tức là tất cả chúng sinh, và không bao giờ vì lợi ích của chính mình.”

(c) “Điều đó quả thực là đúng. Bậc vĩ nhân bước vào con đường Phật quả vì lợi ích của chúng sinh, vì hạnh phúc của chúng sinh, vì lòng từ bi đối với thế gian (lokānukampāya), vì lợi ích thực sự (atthāya, tức là Tuệ đạo) vì hạnh phúc (sukhāya, tức là Tuệ quả) của tất cả người và trời, và vì sự giải thoát hoàn toàn (Niết-bàn) – loại nỗ lực mà không một vị Phật Độc Giác tương lai hoặc Thánh đệ tử A-la-hán tương lai nào có thể thử làm.”

(d) “Trong khi làm việc cực nhọc vì lợi ích của thế gian, vị Bồ tát sở hữu sự nhanh chóng trong mọi hoàn cảnh (ṭhānuppattipaṭibhānena) cũng như kỹ năng phân biệt sự thật với sự giả dối (ṭhānāṭhānakusalatāya), một đặc điểm kép về năng lực bẩm sinh của Ngài (kosallaṃ).”

Trong Jātaka Aṭṭhakathā, chúng ta có: –

(a) “Ngài sở hữu những phẩm chất tinh thần như thiền định (jhāna), thần thông (abhiññā) và các tầng thiền (samāpatti), nhưng Ngài đã hy sinh mạng sống của mình cho Đức Phật. Đối với một người như vậy, người đã cống hiến (adhikāra) cho nhiệm vụ (đạt được Phật quả), mong muốn của Ngài chắc chắn sẽ được hoàn thành. Không ai khác có thể mơ về thành công tương tự. Ngoài sự cống hiến tột độ như vậy, Ngài phải có một ý chí hoặc mong muốn lớn lao đối với Phật quả, năng lượng và nỗ lực to lớn, và một cuộc tìm kiếm không ngừng nghỉ cho sự Giác ngộ, tất cả cùng góp phần tạo nên tổng thể Ba-la-mật cần thiết cho Phật quả, nếu Ngài muốn thực hiện mong muốn của mình. Không ai khác có thể mong đợi thành công tương tự.

(b) Về ý chí lớn lao của Ngài, nó có thể được minh họa như sau: –

“Nếu, vì Phật quả, Ngài được yêu cầu bơi qua toàn bộ thế giới (cakkavāḷa) dài và rộng một triệu hai trăm lẻ ba nghìn bốn trăm năm mươi do tuần, Ngài sẽ sẵn sàng làm điều đó. Chính ý chí mạnh mẽ như vậy đã đưa Ngài đến Phật quả. “Một lần nữa, nếu Ngài được yêu cầu đi qua một rừng tre không bị gián đoạn trên bề mặt của thế giới … Ngài sẽ sẵn sàng làm điều đó. Chính ý chí mạnh mẽ như vậy đã đưa Ngài đến Phật quả. “Một lần nữa, nếu Ngài được yêu cầu đi qua thế giới … được bao phủ bởi những chiếc gai nhọn mọc dày đặc khắp nơi, Ngài sẽ sẵn sàng làm điều đó. Chính ý chí mạnh mẽ như vậy đã đưa Ngài đến Phật quả. “Một lần nữa, nếu Ngài được yêu cầu đi qua thế giới … được bao phủ bởi than hồng trải khắp nơi, Ngài sẽ sẵn sàng làm điều đó. Chính ý chí mạnh mẽ như vậy đã đưa Ngài đến Phật quả. “Giả sử đó là những điều kiện cần thiết, và người ta sẵn sàng đáp ứng chúng, không nao núng trước bất kỳ điều nào trong bốn điều đó, không bao giờ coi chúng là thực sự khó khăn, quyết tâm vượt qua thế giới để chống lại những chướng ngại đó thì người ta được cho là có một ý chí lớn lao. Thêm vào đó, người ta sở hữu năng lượng và nỗ lực to lớn, và một cuộc tìm kiếm không ngừng nghỉ cho sự Giác ngộ: thì mong muốn của người ta sẽ được hoàn thành. Không ai khác có thể mong đợi thành công như vậy.” ⁰⁸⁰

Từ lời giải thích ở trên, không còn nghi ngờ gì nữa, quyết tâm lớn lao cho Phật quả chỉ đến với bậc vĩ nhân đã tích lũy được công đức to lớn phù hợp với nguyện vọng của mình, điều này nằm ngoài tầm với của những người mong muốn Phật Độc Giác Bồ-đề hoặc Thánh đệ tử A-la-hán quả. Do đó, cần lưu ý rằng ngay cả trong giai đoạn trước khi được đảm bảo, thực sự có hai giai đoạn – thời điểm người mong cầu đang chuẩn bị để thực hiện cam kết bằng cách bày tỏ mong muốn lớn lao của mình (mahābhinīhāra); và sau đó.

Có thể đề cập ở đây rằng, như những người khôn ngoan thời xưa đã nói, ⁰⁸¹ “Có những người hỏi không phân biệt được điều gì cần phải nghi ngờ và điều gì không. Đối với những người có bất kỳ nghi ngờ hợp lý nào, thì bất kỳ loại câu hỏi kỳ quặc nào cũng có thể xuất hiện trong tâm trí của họ.” Vì vậy, những câu hỏi này đã được đóng khung với những người hoài nghi như vậy trong tâm trí. Do đó, chúng cũng áp dụng cho chư Phật tương lai, v.v., những người đã nhận được lời tiên tri.

Đó là lý do tại sao tác giả của những câu hỏi này đã ghi chú như sau trong phần kết luận: Mayaṃ codakānama ekadesapekkhakā nasakala pekkha kā, v.v.

Một vị Phật tương lai, một khi đã nhận được lời tiên tri, sẽ không bao giờ mơ tưởng đến việc thay đổi mục tiêu của mình sang các loại Giác ngộ thấp kém hơn. Về vấn đề này, người ta có thể tham khảo những tuyên bố như được chứa đựng trong Kathāvatthupakaraṇa-anuṭīkā. ⁰⁸²

Trước khi nhận được lời tiên tri, không có sự kiên định nào về con đường của người mong cầu được đề cập trong bất kỳ kinh điển nào: sự không ổn định là điều được đề cập cụ thể về nó. Vì vậy, người mong muốn Phật quả, chưa được xác nhận bởi lời tiên tri, có thể thay đổi mục tiêu của mình sang mục tiêu thấp hơn; và nếu người ấy làm như vậy, người ấy có cơ hội thành công cao ở đó.

Trong Sotattakī ⁰⁸³ và các tài liệu Phật giáo khác, người ta nói: –

“Cũng giống như bông hoa sen này, một người mong muốn Phật quả, với tất cả sự tích lũy rộng lớn của mình về các điều kiện cần thiết cho sự Giác ngộ Phật quả, không thể chắc chắn về tương lai của mình cho đến khi người ấy nhận được lời tiên tri.

Những người mong muốn các hạng bậc Giác ngộ khác nhau, như Devadatta, có thể có sự tích lũy đáng kể các điều kiện cần thiết cho sự Giác ngộ; ²⁰ tuy nhiên, nếu sau đó, họ trở nên đầy những hành vi sai trái, họ sẽ từ bỏ nguyện vọng ban đầu của mình.”

Người mong muốn Phật quả có thể, bất cứ lúc nào trước khi nhận được lời tiên tri, từ bỏ (parihāyanti) nguyện vọng ban đầu của mình; và điều này cũng đúng với những người mong cầu thấp kém hơn. Do đó, có một số trường hợp mà nguyện vọng cho Phật quả sau đó kết thúc bằng sự Giác ngộ như một trong bốn hạng bậc thấp hơn. Nhiều người mong muốn Phật quả, do một chuỗi dài các kiếp sống được đánh dấu bằng những hành vi sai trái, vì kết giao với bạn bè xấu (pāpamitta-saṃsagga) hoặc một số nguyên nhân khác, đã thối rữa thay vì chín muồi đến giai đoạn tiên tri, và họ vẫn là những người thế gian mù quáng, ngu ngốc, vô vọng cho sự trưởng thành như một gốc cây. Vì vậy, có thể lưu ý rằng từ “từ bỏ” cũng áp dụng cho các hạng bậc mong muốn Giác ngộ thấp kém hơn khác. Ở đây, Devadatta chỉ được trích dẫn như một ví dụ về một người bị áp đảo bởi hành vi sai trái, chứ không phải là người đã từ bỏ nguyện vọng ban đầu: ông ta chắc chắn sẽ trở thành một vị Phật Độc Giác sau một trăm nghìn đại kiếp nữa.

Việc từ bỏ nguyện vọng ban đầu của một người mong muốn Phật quả, có thể giả định rằng, chỉ có thể xảy ra nếu người ấy chưa hầu hạ tốt để đủ điều kiện thực hiện nguyện vọng lớn lao của mình, và rằng, một khi các điều kiện đủ để bày tỏ mong muốn Phật quả đã có trong tay, thì không thể từ bỏ được nữa. Đây là giả định hợp lý, nhưng sự biện minh cho nó vẫn có thể cần bàn cãi.

Về việc liệu Ba-la-mật được hoàn thành với mục đích Chánh Biến Tri có được coi là một sự công nhận cho một số hình thức Giác ngộ khác hay không, sau khi sự thay đổi mục tiêu đã diễn ra, câu hỏi đã được thảo luận ở trên, trích dẫn Sīlakkhandha-ṭīkā (bao gồm cả quan điểm của vị thầy khác).

Chúng ta chỉ cần thêm một chút ở đây: –

Giai đoạn trước khi nhận được lời tiên tri cho Phật quả, như Sotattakī và các kinh văn Phật giáo khác đã tuyên bố, kéo dài mười sáu A-tăng-kỳ kiếp, trong thời gian đó, người mong cầu hoàn thành Ba-la-mật; khoảng thời gian này được coi là khoảng thời gian không chắc chắn (aniyata kāla).

Theo một số vị thầy khác, những người cho rằng công đức hướng tới một loại Giác ngộ nhất định có thể được chuyển nhượng cho một loại khác mà người mong cầu sau đó chuyển mục tiêu của mình sang đó, thì những khẳng định của họ như sau: –

  • Người ban đầu có được công đức dành riêng cho Phật quả có thể, sau khoảng một nghìn đại kiếp hoặc lâu hơn, khi gặp một vị Phật, đạt được Giác ngộ A-la-hán với tư cách là một Thánh đệ tử A-la-hán bình thường;
  • Người như vậy, sau khoảng một trăm nghìn đại kiếp hoặc lâu hơn, khi gặp một vị Phật, có thể đạt được Giác ngộ A-la-hán với tư cách là một Thánh đệ tử A-la-hán Đại đệ tử;
  • Người như vậy, sau một A-tăng-kỳ kiếp và một trăm nghìn đại kiếp, trong cùng hoàn cảnh, có thể đạt được Giác ngộ A-la-hán với tư cách là một Thánh đệ tử A-la-hán Thượng thủ;
  • Người như vậy, sau hai A-tăng-kỳ kiếp và một trăm nghìn đại kiếp, khi Giáo pháp của Đức Phật đã bị diệt vong, có thể đạt được Giác ngộ với tư cách là một vị Phật Độc Giác.

Nếu những khẳng định đó là đúng, thì nó nhất thiết phải ngụ ý rằng chư Phật Độc Giác, chư Thánh đệ tử A-la-hán Thượng thủ và chư Thánh đệ tử A-la-hán Đại đệ tử có thể đạt được Giác ngộ mà không cần phải nhận được lời tiên tri trước. Trong trường hợp đó, các yếu tố cần thiết để nhận được lời tiên tri và khoảng thời gian cần thiết để hoàn thành Ba-la-mật sau lời tiên tri sẽ trở thành các yếu tố ngẫu nhiên (aniyama) thay vì là những điều chắc chắn (ekanta niyama) – như thường được chấp nhận. Tuy nhiên, những điều này không được coi là những yếu tố ngẫu nhiên, và đặc biệt hơn là vấn đề tiên tri không nên được xem nhẹ.

Nếu đúng như vậy, tất cả các hạng bậc mong cầu, sau khi nhận được lời tiên tri, sẽ hoàn thành Ba-la-mật chính xác trong những khoảng thời gian tương ứng và đạt được mục tiêu tương ứng của họ, trong trường hợp đó, công đức tích lũy cho nguyện vọng ban đầu không thể được chuyển nhượng cho mục tiêu đã thay đổi, như những vị thầy khác đã khẳng định.

Ý kiến ​​được cân nhắc của tác giả như sau: –

Rằng người mong muốn Phật quả có thể, nếu người ấy muốn, đạt được A-la-hán quả với tư cách là bốn hạng bậc Giác ngộ thấp hơn sau khoảng thời gian một nghìn đại kiếp, hoặc một trăm nghìn đại kiếp của một A-tăng-kỳ kiếp và một trăm nghìn đại kiếp, hoặc hai A-tăng-kỳ kiếp và một trăm nghìn đại kiếp, tùy từng trường hợp, được chỉ ra bởi các cụm từ, “Không thể chắc chắn về tương lai của mình” (aniyama) và “Từ bỏ nguyện vọng ban đầu” (parihāyanti).

Vào thời điểm nhận được lời tiên tri, một vị Phật tương lai có thể, nếu Ngài chọn, đạt được A-la-hán quả với tư cách là một Thánh đệ tử A-la-hán bình thường, như được đề cập rõ ràng trong kinh văn (Icchamāno ahaajja kileseghātāyā-mahaṃ) và các luận giải khác nhau về nó.

Điều này cũng được nêu trong Cariyāpiṭaka Aṭṭhakathā ⁰⁸⁴ và Sīlakkhandha­vagga-ṭīkā: –

(a) “Trong ba loại Phật tương lai đó, loại thứ nhất, được gọi là “Người học nhanh” (ugghaṭitaññū), người, sau khi nghe chỉ hai dòng của một bài kệ bốn dòng do Đức Phật đọc, ²¹ trở nên có khuynh hướng hướng tới Thánh đệ tử A-la-hán quả, và có thể, nhờ vào những phẩm chất bẩm sinh của mình tạo thành điều kiện đủ, để đạt được A-la-hán quả, cùng với bốn sự phân biệt (paṭisambhidā) và sáu thần thông (chaḷhabhiññāhi).

Lưu ý: Trong câu kệ thứ hai và thứ ba ở trên, các tác giả ban đầu đã bỏ qua các từ, “Cùng với các sự phân biệt” (sahapaṭisambhidāhi); tuy nhiên, cả ba câu kệ rõ ràng có nghĩa là thống nhất về cách diễn đạt này về cách đạt được A-la-hán quả.

So sánh với Suttanipāta Aṭṭhakathā ⁰⁸⁵, trong đó nói rằng: “Sau khi nghe một bài kệ bốn dòng, Ngài có thể phân tích và nhận thức ý nghĩa.

Một câu hỏi có thể được đặt ra

CÂU HỎI: Trong trường hợp người mong muốn Phật quả thay đổi mục tiêu của mình sang một hạng bậc Giác ngộ thấp hơn, thì người ấy thuộc hạng bậc nào?

TRẢ LỜI: Từ cách diễn đạt, “Yadi sāvakabodhiyaṃ adhimutto siyā,” khả năng trở thành Phật Độc Giác bị loại trừ. Bên cạnh đó, như kinh văn nói: “Kiṃ me aññātavasena dhammaṃ sacchikate nidha” mà vị luận sư giải thích: “Sacāhaṃ iccheyyaṃ…” ⁰⁸⁶ Thánh đệ tử A-la-hán Thượng thủ và Thánh đệ tử A-la-hán Đại đệ tử dường như cũng bị loại trừ.

Từ các tài liệu tham khảo được trích dẫn ở trên, dường như nó chỉ ra một Thánh đệ tử A-la-hán bình thường, là một thành viên mới của Tăng đoàn và là một người ít tên tuổi. Tuy nhiên, không phải vậy. Lý do là người mong muốn Phật quả đã hoàn thành Ba-la-mật trong mười sáu A-tăng-kỳ kiếp, vượt xa cả thời gian chín muồi của một vị Phật Độc Giác, chứ đừng nói đến của chư Thánh đệ tử A-la-hán Thượng thủ và chư Thánh đệ tử A-la-hán Đại đệ tử.

Sự vĩ đại của một vị Phật tương lai được vị luận sư về Mora Jātaka, Pakiṇṇaka Nipāta thể hiện. ⁰⁸⁷

Về đoạn văn được trích dẫn ở trên: Yadi sāvakabodhi adhimutto siyā: thuật ngữ Sāvakabodhi được sử dụng theo nghĩa giác ngộ sau khi nghe lời dạy của Đức Phật, và không mang ý nghĩa bình thường; và cách diễn đạt Saṅghanavako hutvā: chỉ có nghĩa là một người mới đến với Giáo đoàn Tỳ-khưu, không nhất thiết có nghĩa là một Tỳ-khưu tầm thường.

Đối với thuật ngữ Aññātavesena: Phụ chú về Mahāpadāna Sutta đã giải thích rằng vào thời điểm nhận được lời tiên tri, Sumedha, tức là Đức Phật Gotama tương lai, là một người ít tên tuổi (aññātā) so với Đức Phật Dīpaṅkara. Nếu Ngài đạt được Giác ngộ ngay tại đó, thì Ngài sẽ được gọi là người ít tên tuổi bởi vì Ngài không tự mình khám phá ra Chân lý mà có được nó từ một vị Phật khác. Dựa trên sức mạnh của Ba-la-mật mà Ngài đã tạo dựng cho đến nay, Ngài là tối cao trong số tất cả chúng sinh, ngoại trừ việc sự tối cao của Ngài tất nhiên không thể nổi bật trước sự hiện diện của Đức Phật Dīpaṅkara, giống như ánh sáng của mặt trăng bị lu mờ bởi ánh sáng của mặt trời. ⁰⁸⁸

Chính vì Đức Phật Gotama tương lai không thể chấp nhận một vai trò ít tên tuổi như vậy nên Ngài đã quyết tâm như sau: – ²²

“Sau khi nhìn thấy tiềm năng của chính mình như một con người đầy hứa hẹn như vậy, tại sao ta phải tìm kiếm sự an toàn cá nhân của mình bằng cách vượt qua đại dương luân hồi này một mình? Ta sẽ tự mình đạt được Phật quả và, sau khi đã đạt được, sẽ giải cứu vô số chư Thiên và loài người.” ⁰⁸⁹

Dựa trên các thẩm quyền được trích dẫn ở trên, chúng ta có thể lưu ý rằng người mong muốn Phật quả có thể, từ một trăm hoặc một nghìn đại kiếp hoàn thành Ba-la-mật ban đầu hướng tới Phật quả của mình, cho đến khi người ấy chín muồi để nhận được sự đảm bảo, có thể kéo dài đến mười sáu A-tăng-kỳ kiếp, thay đổi mục tiêu của mình và lựa chọn bất kỳ hạng bậc nào trong bốn hạng bậc Giác ngộ thấp hơn, ở bất kỳ giai đoạn trưởng thành nào mà người ấy có thể thấy mình. Mặc dù điều đó đúng về mặt lý thuyết, nhưng trong thực tế, không có người mong muốn Phật quả nào thay đổi ý định của mình sau khi người ấy đã có được công đức cần thiết được mong đợi ở một vị Phật Độc Giác, đó là hai A-tăng-kỳ kiếp và một trăm nghìn đại kiếp.

Một khi thời kỳ trưởng thành vượt quá yêu cầu của một vị Phật Độc Giác, tức là sau khi ba hoặc bốn A-tăng-kỳ kiếp đã trôi qua, thì không có người mong muốn Phật quả nào có thể thay đổi mục tiêu của mình, công đức tích lũy của người ấy đã trở nên quá lớn. Vì vậy, chúng ta nên hiểu rằng khả năng người mong muốn Phật quả đạt được Giác ngộ A-la-hán chỉ được thể hiện một cách giả định thông qua một trong những yếu tố trưởng thành để nhận được lời tiên tri; nhưng không có khả năng xảy ra một sự kiện như vậy. Trên thực tế, không có chỗ cho sự thay đổi mục tiêu như vậy trong tâm trí của người mong muốn Phật quả ở giai đoạn đó.

Khoảng hai đến ba A-tăng-kỳ kiếp, nếu người mong muốn Phật quả đạt được Giác ngộ, vì ban đầu người ấy không mong muốn bất kỳ hạng bậc Thánh đệ tử A-la-hán nào và do đó không chính thức được gọi là Thánh đệ tử A-la-hán Thượng thủ, hoặc Thánh đệ tử A-la-hán Đại đệ tử có địa vị cao nhất về thần thông hoặc về tuệ giác, mục tiêu đầu tiên của người ấy chỉ là Phật quả, người ấy sẽ đứng ngang hàng với một vị Thánh đệ tử A-la-hán Thượng thủ, hoặc một vị Thánh đệ tử A-la-hán Đại đệ tử hoặc một vị Thánh đệ tử A-la-hán bình thường theo số lượng công đức có được; và nếu sự hầu hạ của người ấy trong việc hoàn thành Ba-la-mật đã đạt đến mức của Phật Độc Giác Bồ-đề, thì người ấy có thể trở thành một vị Phật Độc Giác nếu người ấy muốn. Trong bất kỳ trường hợp nào trong số đó, người ấy cũng không cần phải cầu nguyện lại cho mục tiêu mới hoặc chờ đợi lời tiên tri. Đây là một giả định.

Nếu người mong muốn Phật quả chuyển mục tiêu của mình sang một trong những Giác ngộ thấp kém hơn, thì Ba-la-mật mà người ấy đã hoàn thành cho Phật quả sẽ giúp ích cho người ấy trong việc nhận được lời tiên tri, và những gì các vị thầy khác nói về những khoảng thời gian cụ thể cho từng loại Giác ngộ cụ thể như Thánh đệ tử A-la-hán Thượng thủ, Thánh đệ tử A-la-hán Đại đệ tử và Phật Độc Giác Bồ-đề chỉ ra sự cần thiết phải nhận được lời tiên tri. Đây là một giả định khác.

Xem xét công đức hướng đến giải thoát (vivaṭṭanissita kusala) đã tích lũy từ vô số kiếp sống trong quá khứ, người mong muốn Phật quả, sau khi nhận được lời tiên tri về Giác ngộ với tư cách là một vị Phật Độc Giác hoặc là một vị Thánh đệ tử A-la-hán, tùy theo mong muốn sau này của người ấy, thì thời gian để hoàn thành thêm Ba-la-mật dường như khá linh hoạt. Có thể là chỉ sau một trăm đại kiếp, người ấy có thể đạt được Thánh đệ tử A-la-hán Thượng thủ; hoặc chỉ sau một trăm nghìn đại kiếp, người ấy có thể trở thành Thánh đệ tử A-la-hán Đại đệ tử, hoặc chỉ sau một A-tăng-kỳ kiếp, người ấy có thể trở thành Phật Độc Giác. Đây là một giả định khác.

Năm yếu tố cho chư Phật Độc Giác và hai yếu tố cho chư Thánh đệ tử A-la-hán biểu thị quy luật về việc thực hiện mong muốn chứ không phải về việc nhận được lời tiên tri. Như vậy, đối với Thánh đệ tử A-la-hán quả, hai yếu tố chỉ là thực hiện sự hầu hạ (adhikāro) và ý chí (chandatā) và không bao gồm bất kỳ người ban lời tiên tri nào. Đối với chư Phật Độc Giác, thuật ngữ “Vigatāsava-dassanaṃ” có nghĩa là một vị A-la-hán, có thể từ một vị Phật đến một vị Thánh đệ tử A-la-hán bình thường. Do đó, trong trường hợp một vị Thánh đệ tử A-la-hán bình thường tình cờ ban lời tiên tri cho người mong muốn Phật quả về mục tiêu đã thay đổi của người ấy là đạt được Phật Độc Giác Bồ-đề, thì làm thế nào người ấy có thể tiên tri trước hai A-tăng-kỳ kiếp và một trăm nghìn đại kiếp (thời gian hoàn thiện thông thường cho Phật Độc Giác Bồ-đề)? Do đó, rất khó để nói chắc chắn liệu đối với chư Phật Độc Giác, chư Thánh đệ tử A-la-hán Thượng thủ và chư Thánh đệ tử A-la-hán Đại đệ tử, việc nhận được lời tiên tri có phải là một yếu tố thiết yếu hay không. Đây là một giả định khác.

Như vậy, về cơ bản, chúng ta có nhiều ý kiến ​​khác nhau được bày tỏ bởi nhiều vị thầy khác nhau liên quan đến lời tiên tri cho bốn hạng bậc Giác ngộ thấp kém hơn đó và liên quan đến thời gian cố định để hoàn thành Ba-la-mật và sự linh hoạt của chúng khi những vấn đề này liên quan đến người mong muốn Phật quả ban đầu. Vì chúng ta không có thẩm quyền cụ thể về những vấn đề này trong kinh điển nên chúng ta không có cơ sở vững chắc ở đây.

Cuộc thảo luận ở trên của chúng ta dựa trên lý thuyết, được Sotattakī và các kinh văn Phật giáo tương tự duy trì, rằng người mong muốn Phật quả phải trải qua mười sáu A-tăng-kỳ kiếp trước khi nhận được lời tiên tri – trong thời gian đó, chỉ có mong muốn bằng tâm kéo dài trong 7 A-tăng-kỳ kiếp, tiếp theo là mong muốn được bày tỏ trong 9 A-tăng-kỳ kiếp – mà các trường phái tư tưởng khác nhau đã đưa ra những quan điểm khác nhau. Có những nguồn khác như Anāgatavaṃsa Aṭṭhakathā, v.v., mà quan điểm của chúng cũng có thể được xem xét.

Thẩm quyền của Sotattakī bị một số người tranh cãi về quy tắc mười sáu A-tăng-kỳ kiếp, tức là bảy A-tăng-kỳ kiếp dưới sự mong muốn bằng tâm và chín A-tăng-kỳ kiếp dưới sự mong muốn bằng lời nói. Họ lập luận rằng quy tắc này không được tìm thấy trong kinh điển Pāḷi cũng như trong các luận giải và phụ chú về nó. Cho rằng một số nguồn nhất định, mặc dù không được ghi nhận là kinh văn được đọc tụng tại các đại hội kết tập Phật giáo khác nhau (Saṅgāyana), đã được chấp nhận là lời dạy của Đức Phật và một số (ví dụ: Milindapañha) được các nhà luận giải trích dẫn trong các bối cảnh phù hợp với sức mạnh của thẩm quyền kinh điển. Không tìm thấy tài liệu tham khảo nào khác ở nơi nào khác về chủ đề này, do đó tác phẩm này (Sotattakī) có thể bị hoài nghi.

Để hiểu rõ hơn về lập luận trên: –

Tuyên bố ở trên về quy tắc mười sáu A-tăng-kỳ kiếp không được tìm thấy, thậm chí là gián tiếp, trong bất kỳ kinh điển nào sau đây: –

  • Tam tạng được ghi lại bởi các đại hội kết tập Phật giáo kế tiếp;
  • Các luận giải của Tôn giả Buddhaghosa, đó là:
    • 2.1 Sumaṅgalavilāsinī, Luận giải về Dīghanikāya (9 tập);
    • 2.2 Papañcasudanī, Luận giải về Majjhimanikāya (3 tập);
    • 2.3 Sāratthappakāsinī, Luận giải về Saṃyuttanikāya (5 tập);
    • 2.4 Manorathapūraṇī, Luận giải về Aṅguttaranikāya (11 tập);
    • 2.5 Samantapāsādikā, Luận giải về Luật tạng (5 tập);
    • 2.6 Aṭṭhasālinī, Luận giải về A-tỳ-đạt-ma (7 tập);
    • 2.7 Sammohavinodanī, Luận giải về A-tỳ-đạt-ma (7 tập);
    • 2.8 Pañcapakaraṇa, Luận giải về A-tỳ-đạt-ma (7 tập);
    • 2.9 Paramatthajotikā, Luận giải về Suttanipāta;
    • 2.10 Luận giải về Dhammapada;
    • 2.11 Luận giải về Jātaka.
  • Luận giải của Tôn giả Buddhadatta, có tựa đề là Madhurattha­vilāsinī, về Buddhavaṃsa;
  • Luận giải của Tôn giả Mahābhidhāna, có tựa đề là Saddhammap­pakāsinī, về Paṭisambhidāmagga;
  • Luận giải của Tôn giả Upasena, có tựa đề là Saddhammap­pajjotikā, về Cūḷaniddesa và Mahāniddesa;
  • Luận giải của một tác giả ít tên tuổi, có tựa đề là Visuddhajanavilāsinī, về Thera Apadāna;
  • Luận giải của một tác giả ít tên tuổi, có tựa đề là Paramatthajotikā, về Khuddakapāṭha.

Trong phần kết luận của tác phẩm cuối cùng được đề cập này, hai quyền tác giả được tuyên bố: đó là của Tôn giả Buddhaghosa và của Tôn giả Dhammapāla. Tuy nhiên, cách xử lý, cách trình bày và phong cách của tác phẩm đã phản bội sự giả dối của cả hai quyền tác giả.

Về chủ đề sự đầy đủ của điều kiện cho người mong muốn Phật quả để cam kết bằng mong muốn rõ ràng cho Phật quả như là bước đầu tiên để nhận được lời tiên tri, chúng ta có tám nguồn, đó là các Luận giải của Tôn giả Dhammapāla về Khuddakanikāya:

  • Paramatthadīpanī, Udāna Aṭṭhakathā;
  • Itivuttaka Aṭṭhakathā;
  • Vimānavatthu Aṭṭhakathā;
  • Petavatthu Aṭṭhakathā;
  • Theragāthā Aṭṭhakathā;
  • Therīgāthā Aṭṭhakathā;
  • Cariyāpiṭaka Aṭṭhakathā;
  • Nettippakaraṇa Aṭṭhakathā.

Trong số tám tác phẩm đó, Cariyāpiṭaka Aṭṭhakathā nói: –

“Trong mối liên hệ đó, điều sau đây là sự đạt được các điều kiện đầy đủ cho bậc vĩ nhân, người mong muốn Phật quả. Vì Ngài có một khuynh hướng không ngừng nghỉ đối với Chánh Biến Tri, nên Ngài có một hành vi không ngừng nghỉ hướng tới lợi ích của tất cả chúng sinh; và chính vì hành vi cao cả này mà bậc vĩ nhân này đã, dưới chân nhiều vị Phật trước đây (tức là trước Đức Phật Dīpaṅkara, chẳng hạn như Đức Phật Brahmadeva, v.v.), thực hiện mong muốn của mình, bằng tâm cũng như bằng lời nói: “Cầu mong con, giống như Đức Phật này, trở thành một bậc Chánh Đẳng Giác và mang lại lợi ích cho tất cả chúng sinh một cách triệt để.”

Ba loại Ba-la-mật (pāramī) được mô tả như sau: –

“Bắt đầu từ việc thực hiện mong muốn đầu tiên bằng tâm cho đến mong muốn cuối cùng, mười hành động thiện lành bắt đầu từ bố thí mà Ngài thực hành được gọi là các hành động của Ba-la-mật bình thường (pāramī); sau đó, từ mong muốn rõ ràng đầu tiên cho Phật quả cho đến mong muốn cuối cùng, công đức mà Ngài tìm kiếm hướng tới sự hoàn thiện được gọi là các hành động của Ba-la-mật phụ (upapāramī); sau đó, từ các hành động thiện lành đầu tiên bằng thân thể cho đến hành động cuối cùng hướng tới cùng một mục tiêu, được gọi là các hành động của Ba-la-mật tuyệt đối (paramattha pāramī). Các vị thầy khác nói như vậy.” ⁰⁹⁰

Sīlakkhandha-ṭīkā cũng định nghĩa Ba-la-mật theo cách tương tự.

Tuy nhiên, trong Apadāna, chỉ có mong muốn bằng tâm được đề cập. ⁰⁹¹

Trong Maṇisāramañjūsā, các hành động bày tỏ quyết tâm (paṇidhāna) bằng tâm, bằng lời nói và bằng thân thể được đề cập lần lượt. ⁰⁹²

Dựa trên sức mạnh của những tài liệu tham khảo kinh điển đó, câu hỏi về ba giai đoạn kế tiếp của việc cam kết – bằng tâm, bằng lời nói và bằng thân thể đối với việc hoàn thành Ba-la-mật – sẽ vẫn được giải quyết. Sau đó, xét về khoảng thời gian cụ thể là bốn, tám hoặc mười sáu A-tăng-kỳ kiếp đối với giai đoạn thứ ba (biểu hiện bằng thân thể) đã là quy luật đã được thiết lập, dường như hợp lý khi chấp nhận rằng khoảng thời gian tương tự cũng nên chi phối như một quy luật đối với hai giai đoạn trước (của biểu hiện bằng tâm và bằng lời nói). Tuy nhiên, kinh điển im lặng về điểm này. Không có trường hợp nào có thể được trích dẫn để chứng minh cho lý thuyết này. Trong tình huống như vậy, người ta phải tìm kiếm một số tác phẩm đề cập đến nó, và nếu có một tác phẩm như vậy trong tay (ở đây là Sotattakī), thì nó có thể được chấp nhận mà không cần thắc mắc, sau khi cân nhắc độ tin cậy chung của chính tác phẩm đó. Ngay cả khi người ta bảo lưu phán đoán của mình về vấn đề này, thì cũng không có ích gì khi bác bỏ nó ngay lập tức hoặc chê bai nó; một thái độ trung lập được yêu cầu trong những trường hợp như vậy. Đây là một cách nhìn nhận vấn đề.

Ba giai đoạn kế tiếp được chấp nhận bởi hai người khổng lồ văn học trong lĩnh vực văn học luận giải Phật giáo, đó là Tôn giả Dhammapāla và Tôn giả Ariyavaṃsa. Đây là một cách nhìn nhận vấn đề khác. Người thứ nhất có công với chín luận giải (tám luận giải đã đề cập trước đó và Saccasaṅkhepa Aṭṭhakathā) và hai mươi mốt Phụ chú (ṭīkā), đó là: về tám Aṭṭhakathā đã đề cập ở trên và bộ ba tập của Dīghanikāya, về bộ ba tập của Majjhimanikāya, về bộ năm tập của Saṃyuttanikāya, về Aṅguttaranikāya (Nhất Tụ), về bộ bảy tập của A-tỳ-đạt-ma (được liệt kê trong Khuddakanikāya), về Nettippakaraṇa và về Visuddhimagga; một bậc thầy về Tam tạng, một vị thầy có danh tiếng không hề tầm thường, một bậc thầy được kính trọng nhất về tôn giáo, tức là một học giả uyên bác một cách thuyết phục về giá trị của quan điểm của chính mình cũng như về sự sai lầm của các quan điểm tông phái khác nhau, có thể so sánh về sức mạnh trí tuệ với Ānanda, loài cá khổng lồ tuyệt vời của đại dương, được cho là có chiều dài một nghìn do tuần, người duy nhất có thể, bằng sự vui đùa của mình, tạo ra những con sóng lớn trên cả bốn đại dương cùng một lúc. Người thứ hai, Tôn giả Ariyavaṃsa, là tác giả nổi tiếng của Maṇisāramañjūsā, Maṇidīpa, Anuṭīkā Mahānissaya, Jātakavisodhanī và Ganthābharaṇa.

Lưu ý: Tôn giả Dhammapāla cũng được cho là tác giả của Pāṭha Jātaka-ṭīkā; tuy nhiên, cách xử lý, phong cách, v.v., chắc chắn chứng minh điều ngược lại.

Xét về những điều đó, dường như không có lý do chính đáng để loại bỏ những tác phẩm văn học đang được đề cập.

Phải có lý do tại sao Cariyāpiṭaka Aṭṭhakathā và các thẩm quyền kinh điển như vậy chỉ nói về ba giai đoạn cam kết của người mong muốn Phật quả mà không nói về thời lượng của chúng, và chúng ta nên cố gắng tìm ra chúng. Một trong số đó là việc phân chia thời gian không phù hợp với Apadāna, trong đó nói: “Manasāyeva hutvāna dhammarājā asaṅkhayā.” Từ đó, chúng ta lưu ý rằng dưới thời vô số chư Phật, vị Bồ tát đã thực hiện mong muốn của mình cho Phật quả chỉ bằng tâm. Bây giờ, trong Sotattakī và các tác phẩm như vậy, thời gian mong muốn bằng tâm là bảy A-tăng-kỳ kiếp được cho là đã trôi qua, trong thời gian đó, một trăm hai mươi lăm vị Phật đã xuất hiện. Nếu, theo Apadāna, thời gian mong muốn bằng tâm này dài đến mức phải mất vô số chư Phật xuất hiện, thì khoảng thời gian đó rõ ràng phải lớn hơn nhiều so với khoảng thời gian đó. Trong Yasodharā Therī Apadāna, người mong cầu, tức là Yasodharā tương lai, được cho là đã cầu nguyện cho sự Giác ngộ A-la-hán với tư cách là một Thánh đệ tử A-la-hán Đại đệ tử, với tư cách là vợ của vị Phật tương lai, dưới thời hai triệu triệu mười hai nghìn một trăm bảy mươi chín vị Phật, chẳng hạn như Đức Phật Brahmadeva, Đức Phật Porāṇa Gotama, v.v. Con số đó khác biệt rất nhiều so với những gì được đề cập trong Sotattakī và các tác phẩm như vậy, và sẽ thật nực cười khi cho rằng Yasodharā tương lai đã bắt đầu mong muốn Thánh đệ tử A-la-hán quả ngay cả trước khi có một Đức Phật Gotama tương lai. Đây là điều phi lý.

Trong Apadāna, thời gian cầu nguyện bằng tâm được tính từ thời điểm công đức không tạo ra tái sinh được vị Bồ tát bắt đầu, trong khi Sotattakī và các kinh văn như vậy chỉ tính đến những hành động của vị Bồ tát thể hiện quyết tâm trở thành một vị Phật, do đó, bảy A-tăng-kỳ kiếp mà họ đưa ra cho thời gian cầu nguyện bằng tâm chỉ là một phần nhỏ của những gì thực sự đã xảy ra, và đó có lẽ là lý do tại sao hầu hết các nhà luận giải không đề cập đến khoảng thời gian đó.

Những hướng suy nghĩ tương tự cũng có thể được mở ra.

Sotattakī, trong phần kết luận của mình, trích dẫn câu kệ, “Imañca…” như một phần trong lời dạy của chính Đức Phật. ⁰⁹³

Nó cũng nói rằng toàn bộ câu chuyện về vị Bồ tát được kể trong đó đã được vị thầy nổi tiếng Buddhaghosa Thera mở rộng. Có lẽ đó chỉ là một người trùng tên với vị luận sư vĩ đại.

Cuộc thảo luận trước đó dựa trên lý thuyết về mười sáu A-tăng-kỳ kiếp trước thời kỳ tiên tri được Sotattakī duy trì.

Có những cách tính toán khác có thể được xem xét, chẳng hạn như thời kỳ trước khi nhận được lời tiên tri là một trăm nghìn đại kiếp cộng với 1.600 kiếp sống, thời kỳ hai mươi tư A-tăng-kỳ kiếp, thời kỳ vô lượng, v.v., và cũng giống như người mong muốn Phật quả có thể sau đó thay đổi mục tiêu của mình, thì người mong muốn Phật Độc Giác Bồ-đề, hoặc Thánh đệ tử A-la-hán Thượng thủ hoặc Thánh đệ tử A-la-hán Đại đệ tử cũng có thể thay đổi sang một hạng bậc Giác ngộ thấp hơn, và nếu mong muốn đó phát sinh trước khi trưởng thành cho lời tiên tri, thì mong muốn đã thay đổi cũng có thể thực hiện được. Một số người nói rằng Tôn giả Sāriputta đã từng mong muốn Phật quả.

Tuy nhiên, không có gợi ý nào về điều này trong bất kỳ kinh văn nào: Sāriputta Theragāthā và luận giải của nó, Paramatthadīpanī; Sāriputta Apadāna và luận giải của nó, Visuddhajana­vilāsinī; Aṅguttaranikāya và luận giải của nó là Manorathapūraṇī và Phụ chú của nó; và các tài liệu luận giải khác, không bao giờ đề cập đến bất cứ điều gì về điều này.

Các đoạn trích sau đây có thể được so sánh: –

Trong luận giải, Tôn giả Sāriputta tương lai, với tư cách là chàng trai trẻ Sarada, vào đêm trước khi ẩn cư trong rừng, đã suy ngẫm như sau: “Than ôi, cái chết là điều chắc chắn đối với tất cả chúng sinh này. Vì vậy, ta sẽ tìm kiếm con đường thoát khỏi cái chết bằng cách sống không nhà.” ⁰⁹⁴

Kiểu suy tư này là điển hình của những người mong muốn Phật Độc Giác Bồ-đề và Thánh đệ tử A-la-hán quả, chứ không phải của một vị Phật tương lai. Do đó, Tôn giả Sāriputta tương lai chắc hẳn đã, trước khi nhận được lời tiên tri, đặt tâm trí của mình vào Phật Độc Giác Bồ-đề hoặc một số hình thức Thánh đệ tử A-la-hán quả.

Theo tác giả của Sīlakkhandha-ṭīkā, Tôn giả Sāriputta tương lai đã bắt đầu tìm kiếm sự Giác ngộ bằng cách mong muốn Thánh đệ tử A-la-hán quả bình thường. Điều này là do Ngài, giống như vị ẩn sĩ Nanda, tức là Tôn giả Subhūti tương lai, đã chín muồi cho A-la-hán quả với tư cách là một Thánh đệ tử A-la-hán bình thường vào thời điểm nhận được lời tiên tri cho Thánh đệ tử A-la-hán Thượng thủ.

Như luận giải đã nói: –

“Vị ẩn sĩ Sarada, được truyền cảm hứng bởi hình ảnh của Tôn giả Nisabha, đã tự nghĩ, ‘Ồ, ta muốn trở thành một vị Thánh đệ tử A-la-hán Thượng thủ giống như vị Tôn giả này dưới thời một vị Phật nào đó biết bao!’ Chính do sự bận tâm này với một mục tiêu khác mà Ngài đã bỏ lỡ cơ hội đạt được Đạo của mình vào dịp đó khi Đức Phật Anomadassī thuyết pháp.” ⁰⁹⁵

Đoạn văn trên ngụ ý rằng nếu Tôn giả Sāriputta tương lai với tư cách là Sarada không bị ám ảnh bởi mong muốn Thánh đệ tử A-la-hán Thượng thủ, thì Ngài đã đạt được Đạo và Quả của nó với tư cách là một Thánh đệ tử A-la-hán bình thường ngay tại đó.

Nhân tiện, tên của Tôn giả Sāriputta tương lai là Sarada theo các Luận giải. Trong Sāriputta Apadāna, Ngài được đề cập với cái tên Suruci: ²³ “Pañcābhiññābalappatto Suruci nāma tāpaso.”

Tương tự như vậy, tên của Tôn giả Moggallāna tương lai cũng khác nhau trong các nguồn khác nhau; trong khi Luận giải gọi Ngài là gia chủ Sirivaḍḍhana, thì Moggallāna Thera Apadāna ²⁴ mô tả Ngài là Varuṇa, vua của loài rắn, người có nhà ở đại dương, và người đã chào đón Đức Phật Anomadassī bằng âm nhạc khi Đức Phật đến thăm Himavanta, nơi Ngài nhận được lời tiên tri cho Thánh đệ tử A-la-hán Thượng thủ tương lai. ⁰⁹⁶

Về vấn đề này, luận giải nói rằng gia chủ Sirivaḍḍhana, khi chết, đã được sinh lên cõi trời; và không nói rằng Ngài được tái sinh thành rắn.

Một lần nữa, liên quan đến tên của Tôn giả Subhūti tương lai, có một sự khác biệt: trong luận giải, Ngài được gọi là vị ẩn sĩ Nanda, người đứng đầu bốn mươi tư nghìn người theo dõi, trong khi trong Subhūti Thera Apadāna, Ngài được cho là một vị ẩn sĩ tên là Kosiya. ⁰⁹⁷

Như vậy, chúng ta có một số trường hợp khác biệt xảy ra trong danh tính cá nhân và sự kiện giữa Apadāna và các luận giải. Hãy bỏ qua những khác biệt giữa các luận giải khác nhau, có một số khác biệt ngay cả trong cùng một tác phẩm: ví dụ, trong Theragāthā Aṭṭhakathā, trong câu chuyện về Tôn giả Moggallāna, Ngài được gọi là gia chủ Sirivaḍḍhana khi Ngài nhận được lời tiên tri, và sau khi toàn bộ sự kiện cuộc đời của Ngài đã được kể, câu chuyện kết thúc bằng cách trích dẫn kinh văn từ Moggallāna Thera Apadāna (tena vuttaṃ apadāne), mô tả Ngài là Varuṇa, vua của loài rắn, người đã nhận được lời tiên tri là một vị Thánh đệ tử A-la-hán Thượng thủ.

Sự nhầm lẫn tương tự cũng được tìm thấy trong Thera Apadāna Aṭṭhakathā. Ban đầu, giống như trong luận giải về Aṅguttaranikāya, là gia chủ Sirivaḍḍhana, người nhận được lời tiên tri; và sau đó nó kết thúc như kinh điển Pāḷi đã đọc (tức là với tư cách là vua rắn).

Cần lưu ý rằng nội dung của Thera Apadāna và Theragāthā không hoàn toàn giống nhau. Tập trước chứa 550 vị Trưởng lão trong khi tập sau chỉ có 266 vị, trong đó 235 vị cũng được tìm thấy trong tập trước và 31 vị còn lại thì không; và trong số 235 vị được bao gồm trong Apadāna, các câu kệ mở đầu liên quan đến ba vị, đó là Tôn giả Kimila, Tôn giả Vaḍḍha và Tôn giả Mahānāga, mặc dù được vị luận sư trích dẫn, nhưng không thể tìm thấy trong kinh điển Pāḷi Apadāna còn tồn tại đến nay.

Sự khác biệt tương tự cũng được tìm thấy giữa Therī Apadāna và Therī­gāthā: tập trước chứa 40 vị tỳ kheo ni lớn tuổi trong khi tập sau có 73 vị, trong đó 35 vị cũng được tìm thấy trong tập trước. Trong số đó, các câu kệ mở đầu liên quan đến hai vị, đó là của Tôn giả Ni Puttā và Tôn giả Ni Rohiṇī, mặc dù được vị luận sư trích dẫn, nhưng không được tìm thấy trong kinh điển Therī Apadāna còn tồn tại đến nay. Các câu kệ mở đầu liên quan đến Tôn giả Ni Uppalavaṇṇa như được vị luận sư trích dẫn, cũng khác với những câu kệ được đọc trong kinh điển Uppalavaṇṇa Therī Apadāna còn tồn tại đến nay.

Đây là một số khác biệt rõ ràng được chỉ ra vì lợi ích của các học giả. Người ta không nên, vì những khác biệt đó, mà mất niềm tin vào một trong hai kinh điển, tức là Apadāna và Theragāthā Aṭṭhakathā. Thay vào đó, nên tìm hiểu lý do của những khác biệt đó.

Hết phần Giải đáp Câu hỏi Thứ Mười

Giải Đáp Câu Hỏi Thứ Mười Một

Mười Ba-la-mật (pāramī) cơ bản trong ba cấp độ: như là công đức tương đương với Ba-la-mật bình thường (pāramī), Ba-la-mật phụ (upapāramī) và Ba-la-mật tuyệt đối (paramattha pāramī) – do đó tạo thành ba mươi loại Ba-la-mật – chỉ dành cho chư Phật, những người mà chúng luôn luôn thuộc về (nippariyāya). Chư Phật Độc Giác và chư Thánh đệ tử A-la-hán không cần tất cả chúng. ⁰⁹⁸

Điều đó quả thực là như vậy. Toàn giác tuệ (sabbaññutā), Mười năng lực trí tuệ (dasabala-ñāṇa), v.v., là hiện thân của một bậc Chánh Đẳng Giác, được trời phú cho sự giác ngộ không thể so sánh được (anuttara-sammāsambodhi), chỉ được điều kiện hóa đầy đủ (upanissaya) bởi ba mươi Ba-la-mật bất biến. Đối với chư Phật Độc Giác và chư Thánh đệ tử A-la-hán, mười Ba-la-mật cơ bản, được hoàn thành đúng cách, sẽ cho phép họ đạt được loại Giác ngộ tương ứng của mình.

Điều này được giải thích trong Theragāthā Aṭṭhakathā như sau: –

(a) Quả thực điều này là đúng. Cũng giống như với chư Phật tương lai, đối với chư Phật Độc Giác tương lai và chư Thánh đệ tử A-la-hán tương lai, công đức được thực hiện đến mức hoàn thiện như bố thí, v.v., dần dần góp phần củng cố (paribrūhita) sự hoàn thiện về trí tuệ, trưởng thành thành một sự tích lũy đáng kể (gabbhaṃ) mà đỉnh cao là sự Giác ngộ của Phật Độc Giác Bồ-đề hoặc Thánh đệ tử A-la-hán quả, tùy từng trường hợp.

(b) Tôi xin giải thích thêm: Những người mong muốn Giác ngộ đó, thông qua việc liên tục theo đuổi bố thí trong vô số kiếp sống trước đây, đã có được một khuynh hướng không tham lam (alobhijjhāsaya) để họ không có sự luyến ái (asaṅgamāmasā) hoặc mong muốn (anapekkhacittā) đối với bất cứ điều gì, tức là bất kỳ chúng sinh nào hoặc bất kỳ hoàn cảnh nào trong cuộc sống (sabbatthā-sattasaṅkhāra). Thông qua việc liên tục theo đuổi giới đức, họ đã có được sự kiểm soát đúng đắn các giác quan để họ có sự thanh tịnh của các hành động bằng thân thể và bằng lời nói, sự thanh tịnh của sinh kế, và trong sáu căn, các cánh cửa tri giác được bảo vệ tốt. Hơn nữa, họ biết giới hạn thích hợp trong thức ăn, tỉnh táo và cảnh giác, và họ cố gắng tốt hướng tới mục tiêu của mình. Pháp hành tỉnh giác của họ được giải thích bằng cách họ ẩn cư.

(c) Đối với những người mong muốn Giác ngộ tuân theo Pháp hành cao quý, họ trở nên được trang bị tốt với sự hầu hạ cần thiết, kết quả là họ đạt được mà không gặp khó khăn, tám tầng thiền, năm thần thông, sáu thần thông, là cơ sở của tuệ giác, và từ đó có được tuệ giác đứng trước Tuệ đạo. Tám Ba-la-mật khác như tinh tấn (vīriya) dễ dàng phù hợp với hai Ba-la-mật quan trọng là bố thí (dāna) và giới đức (sīla).

(d) Bây giờ, về mức độ quan trọng của hai Ba-la-mật: – Trong khi nỗ lực bố thí và các hành động thiện lành khác vì Giác ngộ Phật Độc Giác hoặc Thánh đệ tử A-la-hán, người mong muốn Giác ngộ đang thực hành Ba-la-mật tinh tấn đến mức hoàn thiện (vīriya pāramī). Sự chịu đựng mà người ấy thực hiện trong việc theo đuổi công đức đó là pháp hành Ba-la-mật nhẫn nhục (khantī pāramī). Việc tuân thủ bố thí, giới đức và các pháp hành lành mạnh khác một cách chân thành mà không lừa dối hoặc giả vờ (samādānāvisaṃvādanaṃ) là pháp hành Ba-la-mật chân thật (sacca pāramī). Sự kiên định không lay chuyển mà người ấy duy trì trong mọi hoàn cảnh là pháp hành Ba-la-mật quyết tâm (adhiṭṭhāna pāramī). Mong muốn lợi ích cho người khác bắt đầu từ người nhận sự bố thí của mình là pháp hành Ba-la-mật từ bi (mettā pāramī). Không quan tâm đến lỗi lầm của người khác là pháp hành Ba-la-mật xả (upekkhā pāramī). Theo cách này, khi bố thí, giới đức và phát triển tuệ giác (bhāvanā) được hoàn thành, hoặc khi giới đức (sīla), thiền định (samādhi) và trí tuệ (paññā) được tích lũy tốt, thì các Ba-la-mật khác như Ba-la-mật tinh tấn (viriya pāramī), sẽ tự động được hoàn thành. ⁰⁹⁹

Một câu hỏi có thể được đặt ra

CÂU HỎI: Theo luận giải ở trên, những người mong muốn Phật Độc Giác Bồ-đề và Thánh đệ tử A-la-hán quả cũng không thể thiếu bố thí, giới đức và phát triển tuệ giác, vì vậy những pháp hành đó cũng bao hàm tám Ba-la-mật khác như tinh tấn, v.v., do đó rõ ràng là mười Ba-la-mật bình thường thuộc về khả năng của họ. Tuy nhiên, liệu họ có cần phải thực hành đến mức hoàn thiện hai cấp độ cao hơn của Ba-la-mật phụ và Ba-la-mật tuyệt đối hay không vẫn còn chưa rõ ràng.

TRẢ LỜI: Cariyāpiṭaka và Sīlakkhandha-ṭīkā, trích dẫn một số trường phái tư tưởng, nói rằng vì chư Thánh đệ tử A-la-hán được người khác giúp đỡ để vượt qua dòng lũ luân hồi (tārita puggala), nên những người mong muốn Thánh đệ tử A-la-hán quả quan tâm đến mười Ba-la-mật bình thường; vì chư Phật Độc Giác là những người có thể tự mình vượt qua dòng lũ luân hồi (tarita puggala), nên những người mong muốn Phật Độc Giác Bồ-đề quan tâm đến mười Ba-la-mật phụ; và vì chư Phật là những người giúp đỡ người khác vượt qua dòng lũ luân hồi (tārayitu puggala), nên những người mong muốn Phật quả quan tâm đến mười Ba-la-mật tuyệt đối. ¹⁰⁰

Theo trường phái tư tưởng đó, dường như những người mong muốn Thánh đệ tử A-la-hán quả hoàn toàn không quan tâm đến Ba-la-mật phụ và Ba-la-mật tuyệt đối; rằng những người mong muốn Phật Độc Giác Bồ-đề chỉ quan tâm đến Ba-la-mật phụ; và rằng chư Phật tương lai hoàn toàn không quan tâm đến Ba-la-mật bình thường và Ba-la-mật phụ. (Quan điểm này không phù hợp với kinh văn nói rằng: “Tiṃsapāramīsaṃpuṇṇā dhammarājā asaṅkhayā.”)

Theo một trường phái tư tưởng khác (aññe vāda) được trích dẫn trong các nguồn đã đề cập ở trên, người ta đã lập luận rằng xét về sự vui mừng hoặc tán thành của họ, hoặc sự xúi giục, đối với việc làm công đức của người khác hoặc tự mình làm công đức, thì cả ba khía cạnh này của việc tìm kiếm công đức nên là mối quan tâm của những người mong muốn Thánh đệ tử A-la-hán quả và những người mong muốn Phật Độc Giác Bồ-đề; và do đó, họ cũng nên thực hành Ba-la-mật phụ và Ba-la-mật tuyệt đối. ¹⁰¹

Một trường phái nhất định (eke vāda) cho rằng những người mong muốn Thánh đệ tử A-la-hán quả và những người mong muốn Phật Độc Giác Bồ-đề phải thực hành mười Ba-la-mật bình thường và mười Ba-la-mật phụ, và chỉ những người mong muốn Phật quả mới cần thực hành tất cả ba mươi loại Ba-la-mật. ¹⁰²

Quan điểm của riêng họ (saka vāda), các nhà luận giải đã đề cập ở trên nói, là hy sinh tài sản bên ngoài như vợ con, của cải được gọi là Ba-la-mật bình thường; hy sinh chân tay hoặc các bộ phận cơ thể tạo thành Ba-la-mật phụ; hy sinh mạng sống của chính mình được tính là Ba-la-mật tuyệt đối. ¹⁰³

Tuy nhiên, Buddhavaṃsa Aṭṭhakathā nói rằng hy sinh chân tay và các bộ phận cơ thể là Ba-la-mật bình thường; hy sinh tài sản bên ngoài là Ba-la-mật phụ; và hy sinh mạng sống của chính mình là Ba-la-mật tuyệt đối. Đây là những điều liên quan đến Ba-la-mật bố thí. Các Ba-la-mật còn lại được phân loại tương ứng. ¹⁰⁴ Dường như có rất ít logic trong cách phân loại này.

Các nhà luận giải ở đây bày tỏ quan điểm của họ rằng Ba-la-mật phụ và Ba-la-mật tuyệt đối có thể hoặc không được áp dụng một phần cho chư Phật Độc Giác và chư Thánh đệ tử A-la-hán.

Hết phần Giải đáp Câu hỏi Thứ Mười Một

Giải Đáp Câu Hỏi Thứ Mười Hai

Trong Câu hỏi thứ Tư ở trên, chúng ta đã nói rằng chư Thánh đệ tử A-la-hán bình thường phải trải qua thời kỳ hoàn thiện từ một trăm đại kiếp đến một nghìn đại kiếp. Ở đây câu hỏi là: “Những khoảng thời gian đó có cố định hay không, hay chúng linh hoạt?”

Một câu hỏi có thể được đặt ra

CÂU HỎI: Các khoảng thời gian từ một trăm đại kiếp đến một nghìn đại kiếp được đặt ra như một quy luật bất biến. Sự cứng nhắc này đến từ đâu?

TRẢ LỜI: (a) Visuddhimagga đã nói điều này: –

(a) Tôi xin giải thích thêm: một số vị ẩn sĩ không phải Phật tử, những người tin vào nghiệp, đã đạt được thiền định và có được các tầng thiền tâm linh, hoặc chư Thánh đệ tử A-la-hán bình thường, hoặc chư Thánh đệ tử A-la-hán Đại đệ tử, hoặc chư Thánh đệ tử A-la-hán Thượng thủ, hoặc chư Phật Độc Giác, hoặc chư Phật – sáu loại người này có thể nhớ lại những kiếp sống trước đây của họ.

(b) Trong số sáu người đó, các vị ẩn sĩ không phải Phật tử, những người tin vào nghiệp, đạt được thiền định và các tầng thiền có thể nhớ lại quá khứ của họ đến bốn mươi đại kiếp, nhưng không vượt quá con số đó. Tại sao? Bởi vì họ nghèo nàn về kiến thức. Điều đó quả thực là như vậy. Vì họ thiếu kiến thức có thể phân tích tâm và vật chất (nāmarūpapariccheda-ñāṇa).

(c) “Chư Thánh đệ tử A-la-hán bình thường có thể nhớ lại quá khứ của họ đến một trăm kiếp hoặc một nghìn đại kiếp. Tại sao? Bởi vì, sở hữu kiến thức phân tích về tâm và vật chất, họ có kiến thức tuyệt vời (balavapaññattā). Tám mươi vị Thánh đệ tử A-la-hán Đại đệ tử có thể nhớ lại quá khứ của họ đến một trăm nghìn đại kiếp; hai vị Thánh đệ tử A-la-hán Thượng thủ có thể nhớ lại quá khứ của họ đến một A-tăng-kỳ kiếp.

(d) Chư Phật Độc Giác có thể nhớ lại quá khứ của họ đến hai A-tăng-kỳ kiếp và một trăm nghìn đại kiếp. Tại sao? Bởi vì họ đã tự mình đảm nhận, với tâm trí đặt vào các mục tiêu tương ứng (abhinīhāro), việc hoàn thành Ba-la-mật trong những khoảng thời gian tương tự – tức là một A-tăng-kỳ kiếp và một trăm nghìn đại kiếp trong trường hợp của chư Thánh đệ tử A-la-hán Đại đệ tử và hai A-tăng-kỳ kiếp và một trăm nghìn đại kiếp, trong trường hợp của chư Phật Độc Giác. Đối với chư Phật, khoảng thời gian nỗ lực như vậy hướng tới Phật quả là không thể tính toán được. ¹⁰⁵

Các khoảng thời gian mà chư Thánh đệ tử A-la-hán bình thường có thể nhớ lại quá khứ của họ được cho là từ một trăm đến một nghìn đại kiếp dựa trên thẩm quyền của các luận giải về Kinh tạng và Luật tạng; trong Kinh tạng, nó được trình bày như sau: “Tesu pana, v.v.” ¹⁰⁶ (Đây là phần giải thích thêm về những điều đã nói ở trên.)

Một câu hỏi có thể được đặt ra

CÂU HỎI: Trong luận giải ở trên, liên quan đến cách diễn đạt “Ettako hi etesaṃ abhinīhāro,” tại sao tám mươi vị Thánh đệ tử A-la-hán Đại đệ tử chỉ có thể nhớ lại quá khứ của họ đến một trăm nghìn đại kiếp?

TRẢ LỜI: Bởi vì thời lượng hoàn thành Ba-la-mật của họ chỉ kéo dài đến mức đó.

CÂU HỎI: Tại sao chư Thánh đệ tử A-la-hán Thượng thủ chỉ có thể nhớ lại quá khứ của họ đến một A-tăng-kỳ kiếp và một trăm nghìn đại kiếp?

TRẢ LỜI: Bởi vì thời lượng hoàn thành Ba-la-mật của họ là đến mức đó.

CÂU HỎI: Tại sao chư Phật Độc Giác chỉ có thể nhớ lại quá khứ của họ đến hai A-tăng-kỳ kiếp và một trăm nghìn đại kiếp?

TRẢ LỜI: Vì những lý do tương tự như trên, tức là thời gian hoàn thành Ba-la-mật của họ chỉ kéo dài hai A-tăng-kỳ kiếp và một trăm nghìn đại kiếp.

CÂU HỎI: Tại sao tám mươi vị Thánh đệ tử A-la-hán Đại đệ tử vượt trội về năng lực nhớ lại quá khứ?

TRẢ LỜI: Câu trả lời nằm ở cách diễn đạt “kiến thức tuyệt vời”, trong đoạn (c) ở trên, xuất hiện ở trên khi đề cập đến chư Thánh đệ tử A-la-hán bình thường. Họ được cho là sở hữu kiến thức tuyệt vời bởi vì trí tuệ của họ gắn liền với sự thanh tịnh của quan điểm (diṭṭhivisuddhi).

Điều này cũng đúng với chư Thánh đệ tử A-la-hán Thượng thủ và chư Phật Độc Giác.

Nếu cách diễn đạt “Balavapaññattā” không được giải thích đúng như trên, và nếu cách diễn đạt “Ettakohi etesaṃ abhinīhāro” bị hiểu sai, thì nó có nghĩa là các vị ẩn sĩ không phải Phật tử cũng có thể vượt quá 40 đại kiếp và nhớ lại quá khứ của họ đến một trăm nghìn đại kiếp, v.v., điều này rõ ràng là vô lý. Vì nếu đúng như vậy, thì vị ẩn sĩ Bồ tát Sarabhaṅga sẽ phải được công nhận là có năng lực nhớ lại quá khứ của mình đến bốn A-tăng-kỳ kiếp và một trăm nghìn đại kiếp vì Ngài đã hoàn thành Ba-la-mật lâu như vậy.

Do đó, cách diễn đạt “Balavapaññattā” là dấu hiệu thích hợp cho thấy năng lực nhớ lại quá khứ của chư Thánh đệ tử A-la-hán Đại đệ tử vượt quá bốn mươi đại kiếp; và cách diễn đạt “Ettako hi etesaṃ abhinīhāro” chỉ ra giới hạn một trăm nghìn đại kiếp, v.v., liên quan đến chư Thánh đệ tử A-la-hán.

Như vậy, cách diễn đạt chỉ thị trong đoạn (c) chi phối đoạn tiếp theo, và cách diễn đạt trong đoạn (d) cũng chi phối đoạn trước. Do đó, chúng ta nên đọc đoạn (c) như thể nó là:

“Pakati sāvakā kappasatampi kappasahassampi yeva ettako hi etesaṃ abhinīhāro.”

Đọc theo cách đó, thời kỳ hoàn thiện một trăm đại kiếp và một nghìn đại kiếp, phạm vi cố định cho hầu hết chư Thánh đệ tử A-la-hán bình thường, trở nên rõ ràng. Đó là lý do tại sao trong Câu hỏi thứ Tư, những khoảng thời gian này được đặt ra như một quy luật.

Phụ chú chỉ ra rằng từ “Eta” trong cụm từ “Ettako hi etesaṃ” chỉ đề cập đến Tám mươi vị Thánh đệ tử A-la-hán Đại đệ tử: Etesanti asīti mahā­sāvakānaṃ. Điều đó khiến người ta không chắc chắn về thời kỳ hoàn thiện xác định cho Thánh đệ tử A-la-hán bình thường, một số nhà phê bình phàn nàn như vậy. Tuy nhiên, mục đích thực sự của vị phụ chú ở đây là loại trừ Đức Phật Độc Giác, xuất hiện gần với cụm từ đó; đối với thuật ngữ “Thánh đệ tử A-la-hán bình thường” (pakati sāvakā), nó đã được bao hàm bởi từ “balavapaññatā” để không có mối liên hệ hoặc phụ thuộc (pasaṅga) trong câu hỏi. Do đó, không nên coi lời giải thích này của vị phụ chú là thực sự loại trừ Thánh đệ tử A-la-hán bình thường khỏi ý nghĩa chung của cụm từ. Người ta cũng không thể nói rằng lời giải thích cho phép Thánh đệ tử A-la-hán bình thường: nó chỉ đơn thuần là không quan tâm đến Thánh đệ tử A-la-hán bình thường ở đây.

Một câu hỏi có thể được đặt ra

CÂU HỎI: Tại sao vị luận sư lại chỉ ra kiến thức tuyệt vời là nguyên nhân trong câu trước khi nó chi phối chư Thánh đệ tử A-la-hán Đại đệ tử, v.v., và sẽ thuộc về câu sau một cách thích hợp?

TRẢ LỜI: Đó là để đặt thuật ngữ này cạnh thuật ngữ “Kiến thức ít ỏi” (dubbalapaññā) dùng để chỉ những vị ẩn sĩ không phải Phật tử.

Những gì được giải thích ở trên sẽ giải quyết câu hỏi làm thế nào và tại sao phạm vi thời kỳ hoàn thiện cho chư Thánh đệ tử A-la-hán bình thường lên đến một trăm và một nghìn đại kiếp.

Đối với câu hỏi liệu phạm vi đã nói là một trăm đại kiếp và một nghìn đại kiếp có được xử lý một cách cứng nhắc hay không, chúng ta có một số trường hợp cho thấy rằng giới hạn trên là một nghìn đại kiếp đôi khi bị vượt quá. Dưới đây là một số: –

Tôn giả Dhammaruci:

Trong Dhammaruci Thera Apadāna, người ta nói: –

“Tadā dīpaṅkaro buddho sumedhaṃ vyākari jino,” v.v., – liên quan đến câu chuyện về quá khứ của Tôn giả Dhammaruci. Ngài được truyền cảm hứng bởi việc vị Bồ tát Sumedha nhận được lời tiên tri từ Đức Phật Dīpaṅkara và trở thành Tỳ-khưu, từ đó cuộc hành trình menuju Giác ngộ của Ngài bắt đầu. Vì Ngài đã trở thành một vị A-la-hán, nổi bật trong số chư Thánh đệ tử A-la-hán bình thường, chỉ dưới thời Đức Phật Gotama thuyết pháp, nên thời kỳ hoàn thiện của Ngài kéo dài bốn A-tăng-kỳ kiếp và một trăm nghìn đại kiếp. Tương tự: –

  • Tôn giả Nisseṇidāyaka: bắt đầu mong muốn Giác ngộ khi cúng dường một cầu thang cho Đức Phật Koṇḍañña và phải hoàn thành Ba-la-mật trong ba A-tăng-kỳ kiếp và một trăm nghìn đại kiếp.
  • Tôn giả Supāricariya, người đã cung kính hầu hạ Đức Phật Padumuttara sau khi nghe lời dạy của Đức Phật, và đã hoàn thành Ba-la-mật trong một A-tăng-kỳ kiếp và một trăm nghìn đại kiếp.
  • Tôn giả Sumana, Tôn giả Abbhañjanadāyaka, Tôn giả Pānadhidāyaka, Tôn giả Maggadattika, v.v., những người đã nhận được lời tiên tri từ Đức Phật Anomadassī.
  • Tôn giả Vidhūpanadāyaka và hơn một trăm vị Trưởng lão, những người đã bắt đầu mong muốn Thánh đệ tử A-la-hán quả bình thường dưới thời Đức Phật Padumuttara, khoảng một trăm nghìn đại kiếp trong quá khứ.

Từ những trường hợp đó được ghi lại trong Apadāna, chúng ta có thể lưu ý rằng nhiều vị Thánh đệ tử A-la-hán bình thường đã hoàn thành Ba-la-mật vượt xa một nghìn đại kiếp.

Một câu hỏi có thể được đặt ra

CÂU HỎI: Còn những khoảng thời gian hoàn thiện ngắn hơn tiêu chuẩn thông thường là một trăm đại kiếp thì sao? Khoảng thời gian tối thiểu được biết đến là bao nhiêu?

TRẢ LỜI: Một số vị Trưởng lão như Migasira, Subhūti, Lomasakaṅgiya, Vana­vaccha, Ekavihāriya, Apadāna nói rõ ràng, đã bắt đầu tìm kiếm công đức đặc biệt (puññavisesa), tức là mong muốn A-la-hán quả, từ thời Đức Phật Kassapa. Tuy nhiên, vị luận sư về Theragāthā nói rằng những vị Trưởng lão đó thực sự đã mong muốn (adhikāra) A-la-hán quả từ sớm hơn nhiều. ¹⁰⁷ Do đó, chúng ta không thể xác định thời lượng từ những trường hợp đó.

Các trường hợp tương tự cũng được đề cập trong Dhammapada Aṭṭhakathā, v.v., trong đó những người mong muốn Thánh đệ tử A-la-hán quả bình thường, những người đã đạt được mục tiêu của họ dưới thời Đức Phật Gotama, đã bắt đầu mong muốn dưới thời chư Phật Độc Giác xuất hiện trong khoảng thời gian giữa Đức Phật Kassapa và Đức Phật Gotama, chẳng hạn như năm trăm vị Phật Độc Giác được sinh ra từ Paduma Devī, và một vị Phật Độc Giác khác; và dưới thời Đức Phật Độc Giác Kattarasikhī, người đã xuất hiện khoảng một nghìn năm trước khi Đức Phật Gotama xuất hiện, thời kỳ phấn khích chung khi thế giới chờ đợi Đức Phật sắp tới (Buddha-kolāhala). Tuy nhiên, cũng không thể đưa ra quyết định cuối cùng nào về thời lượng tối thiểu cho sự hoàn thiện từ những điều đó.

Điều mà Luận giải về Theragāthā chỉ ra là người mong muốn Thánh đệ tử A-la-hán quả bình thường không thể được coi là đủ chín muồi cho A-la-hán quả bằng cách hầu hạ chỉ hai hoặc ba vị Phật.

Tuy nhiên, có những bậc thầy cho rằng Thánh đệ tử A-la-hán quả bình thường có thể đạt được bằng cách hầu hạ chỉ hai hoặc ba kiếp sống. Điều này đã được thể hiện trong Samantapāsādikā Aṭṭhakathā và Visuddhimagga Aṭṭhakathā:

“Đức Thế Tôn được gọi là bậc Thầy của cả loài vật vì khả năng chỉ dạy Chánh pháp cho chúng. Chúng có thể nghe lời dạy của Đức Phật và, tiếp thu nó, trở nên được trang bị điều kiện đủ cho A-la-hán quả để đến kiếp sống thứ hai hoặc thứ ba, chúng có thể được nhận Tuệ đạo và Quả của nó. Về vấn đề này, Maṇḍūka, con trai của một vị trời và các trường hợp tương tự có thể được chỉ ra.” ¹⁰⁸

Trong bối cảnh này, cách diễn đạt: “Tāya eva upanissaya sampattiyā dutiye tatiyevā attabhāve maggaphalabhāgino honti” bằng cách sử dụng từ “Eva”, “chỉ”, chỉ ra rằng điều kiện cần thiết được hoàn thành chỉ bằng cách nghe lời dạy của Đức Phật, mà không cần công đức trước đó hướng đến giải thoát khỏi tái sinh. Đây là một lập luận.

Trong Mūlapaṇṇāsa Aṭṭhakathā, khi bình luận về Cūḷasaccaka Sutta, vị luận sư nói: –

“Vào thời điểm đó, Đức Thế Tôn đã nhận thức ăn bố thí do Saccaka, vị tu sĩ Kỳ-na-giáo cúng dường, và quy công đức cho Saccaka, hoàn toàn tách biệt với mong muốn của người thứ hai. Thức ăn ban đầu được các vị hoàng tử Licchavī cúng dường cho Saccaka, vì một số lý do, ²⁵ đã không cúng dường nó cho Đức Thế Tôn. Tầm quan trọng của việc cúng dường của Saccaka đã được Đức Thế Tôn chỉ ra bằng những lời bắt đầu, ‘Yaṃ kho Aggivessana…’ Hơn nữa, việc bố thí đó của Saccaka sẽ để lại một ấn tượng không thể phai mờ trong tâm trí của ông ta (vāsanāya bhavissati), điều này sẽ mang lại lợi ích cho ông ta trong tương lai, có lẽ trong kiếp sống thứ hai hoặc thứ ba. Vì vậy, cần lưu ý điều đó.” ¹⁰⁹

Khi Saccaka cúng dường thức ăn mà ông ta nhận được từ các vị hoàng tử Licchavī cho Đức Phật và Tăng đoàn, ông ta đã thỉnh cầu Đức Phật rằng công đức đó được hồi hướng cho những người cúng dường ban đầu, tức là những người Licchavī; nhưng Đức Phật trả lời rằng nó sẽ chỉ thuộc về ông ta. Do đó, việc cúng dường của Saccaka bị vấy bẩn vì không mong muốn công đức; do đó nó chỉ để lại cho ông ta ấn tượng về một việc làm tốt mà sẽ chỉ đơm hoa kết quả trong những kiếp sống sau này.

(a) “Đức Phật đã dạy cho vị tu sĩ Kỳ-na-giáo hai bài pháp, bài thứ nhất gồm hai phần ²⁶ và bài thứ hai, một phần rưỡi. Mặc dù đã nghe hai phần rưỡi này, nhưng vị tu sĩ vẫn không đạt được Tuệ đạo; ông ta đã không xuất gia – ông ta thậm chí còn không quy y. Vậy tại sao Đức Phật lại dạy dài dòng như vậy cho một người Kỳ-na-giáo, người thậm chí còn chưa bao giờ đứng trong hàng ngũ của Ngài? ²⁷ Câu trả lời cho câu hỏi này là để lại ấn tượng trong tâm trí của người Kỳ-na-giáo để mang lại lợi ích trong tương lai.

(b) “Để mở rộng điểm này: Đức Thế Tôn biết rằng Saccaka không có điều kiện đủ để Giác ngộ trong kiếp sống hiện tại. Tuy nhiên, Ngài biết rằng khoảng hai trăm năm sau khi Ngài nhập diệt, Giáo pháp của Ngài sẽ hưng thịnh trên đảo Tambapaṇṇī (Sri Lanka); rằng vị tu sĩ Kỳ-na-giáo này sẽ được tái sinh vào một gia đình đáng kính; rằng ông ta, khi đến tuổi thích hợp, sẽ xuất gia làm Tỳ-khưu và sau khi học Tam tạng và phát triển tuệ giác, sẽ đạt được A-la-hán quả với bốn sự phân biệt, để trở thành một vị Trưởng lão nổi tiếng với cái tên Kālabuddharakkhita. Nhìn thấy tiến trình của các sự kiện trong tương lai như vậy, Đức Phật đã dạy cho ông ta một cách dài dòng như vậy để lại ấn tượng trong tâm trí của ông ta. Nên nhìn nhận vấn đề này dưới góc độ như vậy.” ¹¹⁰

Điều mà Luận giải chỉ ra ở đây là Saccaka, người không quy y Tam Bảo, không thể đạt được Đạo khi nghe lời dạy của Đức Phật, điều này chỉ có thể tạo ấn tượng lành mạnh trong tâm trí của ông ta.

Luận giải nói rõ rằng vào thời điểm nghe bài giảng của Đức Phật, Saccaka hoàn toàn không có điều kiện đủ để Giác ngộ, “Idāni upanissayo natthi.” Tuy nhiên, bắt đầu với những hành động thiện lành là bố thí và nghe lời dạy của Đức Phật, công đức của ông ta tiếp tục nhân lên, kết quả là chỉ sau hơn 200 năm, trong kiếp sống thứ ba của mình, ông ta đã đạt được A-la-hán quả và Quả của nó. Vì, như một tác giả khác đã giải thích về ông ta, Saccaka đã được sinh lên cõi trời sau khi chết. Đây là một lập luận khác.

Một lần nữa, chúng ta có trong Milindapañha: –

“Hỡi Đại vương, nếu không có hiệu quả trước đây của các pháp hành khổ hạnh (dhutaṅga), thì không thể có A-la-hán quả trong một kiếp sống duy nhất.” ¹¹¹

Tuyên bố này ngụ ý khả năng dành cho người thực hành các pháp hành khổ hạnh trong hai hoặc nhiều kiếp sống hơn vì nó chỉ loại trừ một kiếp sống duy nhất.

Đây là một lập luận khác.

Trong Mahāsatipaṭṭhāna Sutta-ṭīkā, vấn đề này được thảo luận như sau: –

“Đối với một vị Phật Độc Giác, điều kiện đủ cho sự Giác ngộ như vậy là một lượng công đức thích hợp cũng như mức độ trưởng thành của trí tuệ được tích lũy (tajjā­puñña­ñāṇa-sambhāra sambharanaṃ) trong khoảng thời gian hai A-tăng-kỳ kiếp và một trăm nghìn đại kiếp. Về điều kiện đủ cho sự Giác ngộ của chư Thánh đệ tử A-la-hán, chư Thánh đệ tử A-la-hán Thượng thủ phải tích lũy công đức trong một A-tăng-kỳ kiếp, và chư Thánh đệ tử A-la-hán Đại đệ tử, một trăm nghìn đại kiếp. Các vị Thánh đệ tử A-la-hán bình thường khác phụ thuộc vào sự Giác ngộ của họ dựa trên sức mạnh của công đức có lợi cho tuệ giác (nibbedha­bhāgiyaṃ kusalaṃ) nhằm thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử (vivaṭṭasannissaya), tức là với mong muốn vững chắc về Niết-bàn, đã được tích lũy trong những kiếp sống trước đây.” ¹¹²

Từ cách diễn đạt “được tích lũy trong những kiếp sống trước đây” (atitāsu jātīsu), chúng ta hiểu rõ ràng rằng có thể chỉ mất hai hoặc ba kiếp sống để mong muốn và trau dồi cho sự Giác ngộ A-la-hán với tư cách là một Thánh đệ tử A-la-hán bình thường.

Đây là một lập luận khác.

Dựa trên sức nặng của những lập luận đó, chúng ta có thể kết luận một cách an toàn rằng khoảng thời gian hoàn thiện tối thiểu cho Thánh đệ tử A-la-hán quả bình thường có thể chỉ là hai hoặc ba kiếp sống.

Đó là theo những bậc thầy được trích dẫn ở trên. Lý thuyết của họ đã được xem xét kỹ lưỡng theo cách sau: –

Liên quan đến lập luận đầu tiên, cách diễn đạt: “Tāya eva upanissayasampattiyā dutiye tatiyevā attabhāve maggaphalabhāgino honti” – từ “Eva” nên được hiểu đúng là chi phối loại công đức (tức là nghe lời dạy của Đức Phật) mà con ếch (maṇḍūka) có được vào thời điểm đó; và nó không có nghĩa là không có công đức đầy đủ nào được tích lũy trong những kiếp sống trước đây của nó.

Nếu không, nó sẽ dẫn đến một kết luận sai lầm ²⁸ rằng con ếch, khi nghe bài giảng gần nơi ở của nó là hồ Gaggarā, đã vô tình bị giết và trở thành con trai của một vị trời khi nó trở lại ngay lập tức ngay cả trước khi bài giảng kết thúc, kể lại câu chuyện tái sinh của nó cho Đức Thế Tôn, và sau khi tiếp tục chú ý đến bài giảng, đã đạt được A-la-hán quả. Nếu đúng như vậy, thì thời kỳ hoàn thiện của nó sẽ chỉ ngắn bằng vài giờ – điều này rõ ràng là vô lý.

Do đó, điều kiện đủ phải được hiểu là đã được tích lũy trước kiếp sống của nó là một con ếch. Được tái sinh thành động vật do một số nghiệp xấu, nó tình cờ có được công đức cần thiết để có được sự tái sinh may mắn trong cõi trời thông qua việc nghe bài giảng, và tận dụng sự tái sinh mới của mình, được trời phú cho ba thiện căn (tihetuka), giờ đây nó đã trở thành một người phù hợp để đạt được Đạo. Như vậy, với sự xứng đáng của bản thân (bhabba puggala), việc nó hầu hạ Đức Phật như là tài sản của nó, việc nó chăm chú lắng nghe bài giảng đã khơi dậy kho công đức trong quá khứ và làm cho các điều kiện cần thiết cho A-la-hán quả trở nên hoàn chỉnh. Do đó, trong câu: “Tāyeva upanissaya­sampattiyā maggaphalabhāgino honti,” từ “Tāyeva” bao gồm tất cả những điều kiện đó cùng nhau để đạt được Đạo và Quả của nó. Nó không chỉ đề cập đến việc nghe lời dạy của Đức Phật như một con ếch, mà không được hỗ trợ bởi công đức trước đây. Điều này được vị phụ chú trình bày như sau: “Upanissaya sampattinti… v.v.” ¹¹³

Vimativinodanī-ṭīkā giải thích thêm: –

“Con ếch tiếp thu các thuộc tính của giọng nói của Đức Thế Tôn” ²⁹ có thể được hiểu theo nghĩa này: đã quen thuộc với việc nghe Chánh pháp chân chính ³⁰ dưới thời các vị Phật khác nhau đã xuất hiện trong quá khứ, con ếch, khi nghe giọng nói của Đức Phật, đã tiếp thu nó, tức là nhận ra các thuộc tính của nó, ³¹ “A! đây là Chánh pháp!” Điều này quả thực là như vậy. Vì chỉ nhờ vào việc thực hành quen thuộc việc nghe Chánh pháp trong những kiếp sống trước đây ³² mà các loài động vật có bản chất tâm linh như vậy mới có thể đánh giá cao Chánh pháp khi chúng nghe nó (pasādo uppajjati). Cũng giống như trong trường hợp của những con dơi và các trường hợp tương tự, chúng cảm thấy vui thích khi nghe lời dạy và những hành động thiện lành như vậy.” ¹¹⁴

“Các trường hợp tương tự” ở đây dùng để chỉ những trường hợp của năm trăm con dơi ³³ đã chăm chú lắng nghe A-tỳ-đạt-ma khi chúng nghe nó được đọc tụng trong hang động nơi chúng sinh sống. Cũng có một câu chuyện khác, như được kể trong Sahassa-vatthu, về năm trăm con dơi đã chăm chú lắng nghe một bài giảng về bốn niệm xứ (Satipaṭṭhāna Sutta), và sau khi được tái sinh thành người, đã đạt được Tuệ đạo. Tương tự, con nai bị mũi tên của người thợ săn giết chết khi đang nghe bài giảng của Dhammaghosika đã được tái sinh thành người và, gia nhập Giáo đoàn Tỳ-khưu với tư cách là một Sa-di (sāmaṇera) ở tuổi lên bảy, đã trở thành một vị A-la-hán với sáu thần thông, ngay sau khi cạo đầu xong. Nhiều trường hợp khác như vậy cũng nên được trích dẫn ở đây.

Việc Maṇḍūka, trước khi được sinh ra là một con ếch, chắc chắn đã quen thuộc với Chánh pháp, như đã được chỉ ra bởi Vimativinodanī-ṭīkā, cũng đã được một nhà luận giải khác ủng hộ: luận giải về Vimānavatthu – có tựa đề là Maṇḍūka Devaputta Vimāna Aṭṭhakathā – mô tả sự kiện này như sau:

“Vào thời điểm đó, một con ếch nào đó từ trong hồ đi ra và tự nhủ, ‘A! Đây là âm thanh của Chánh pháp.’ Tiếp thu giọng nói của Đức Thế Tôn với sự đánh giá cao đầy đủ về các thuộc tính của nó (tức là Chánh pháp), nó đã phủ phục xuống ở một đầu của hội chúng.” ¹¹⁵

Vị luận sư ở đây nhận xét một cách đáng kể; rằng con ếch này, con ếch có thể đến và nghe Chánh pháp, đánh giá cao tính chất cao quý của nó, không phải là một trong những loài động vật bình thường; và rằng trí thông minh vượt trội của nó chắc hẳn là kết quả của nỗ lực trước đây (pubba yoga) và khuynh hướng tinh thần trước đây (pubba vāsanā) đối với những hành động lành mạnh như vậy.

Cách diễn đạt “Dutiya-tatiyevā attabhāve” – biểu thị quy luật nghiệp báo rằng cho dù sự tích lũy công đức không hướng đến tái sinh của một người có lớn đến đâu, thì người đó cũng không bao giờ có thể đạt được Giác ngộ khi là động vật, tức là được sinh ra mà không có thiện căn (ahetuka); và rằng chỉ trong kiếp sống thứ hai hoặc thứ ba sau đó, người đó mới có thể đạt được nó.

Liên quan đến lập luận thứ hai ở trên:

“Người đàn ông Saccaka này hiện không có điều kiện đủ để Giác ngộ.” (imassa idāni upanissayo natthi). Câu này nên được hiểu là Saccaka không có khả năng đạt được Tuệ đạo trong kiếp sống hiện tại; tuy nhiên, công đức trước đây của ông ta không nên bị nghi ngờ. Đối với kiếp sống hiện tại, ông ta đã trở thành một bậc thầy về kiến thức thế gian (lokāyatana paññā) đến nỗi cái tôi kiêu ngạo của ông ta, dựa trên học thức uyên bác của ông ta (paṇḍita-mānī), đã khiến ông ta trở thành một kẻ đạo đức giả, một kẻ ngu ngốc mù quáng (atibāla) không thể chữa khỏi giống như một căn bệnh phát sinh do dùng thuốc độc hại (besajjasamuṭṭhita rogā), kết quả là ông ta thấy mình không có khả năng quy y Tam Bảo.

Tuy nhiên, việc thỉnh thoảng cúng dường thức ăn và nghe các bài giảng của Đức Phật, được truyền cảm hứng bởi sự tôn kính cao quý đối với Đức Phật, chắc chắn đã mang lại lợi ích cho ông ta. Vì Đức Phật là người nhận cúng dường tối cao (anuttara-agga-dakkhiṇeyya) tạo thành nơi quan trọng nhất để gieo trồng những việc làm tốt (khettaṅgata) và là người nhận được cúng dường thanh tịnh và được đào tạo tốt nhất (paṭiggāha­katodakkhina-visuddhi), người cúng dường chắc chắn sẽ gặt hái được quả của những việc làm tốt đó, đặc biệt hơn, được định sẵn cho một số kiếp sống thuận lợi sau khi chết.

Lưu ý: Bây giờ, nếu ai đó hỏi: tại sao Saccaka thậm chí còn không quy y Tam Bảo nếu ông ta đã có đủ công đức trong quá khứ? Làm thế nào mà lợi ích có thể đến với người không quy y Tam Bảo và rõ ràng là thiếu niềm tin vào Tam Bảo? – những câu hỏi như vậy hoàn toàn không liên quan ở đây.

Những điểm cần bàn cãi:

Con ếch đó có thể đánh giá cao giọng nói ngọt ngào của Đức Phật và cảm thấy vui mừng, nhưng nó sẽ không hiểu ý nghĩa của bài giảng. Đối với Saccaka, là người ngoan cố (ādhānuggāhī) và khó từ bỏ quan điểm sai lầm của chính mình (duppaṭinissajji), ông ta không thể quy y Tam Bảo; do đó, công đức của ông ta không có lợi cho sự Giác ngộ, và như vậy không được tính là sự hoàn thành Ba-la-mật. Đây là những điểm cần bàn cãi.

Liên quan đến lập luận thứ ba:

Cách diễn đạt “Trong những kiếp sống trước đây” (atītāsu jātīsu) không có nghĩa là chỉ hai hoặc ba kiếp sống trước đây. Ngay cả trong kiếp may mắn hiện tại (được ban tặng bởi năm vị Phật), ai đó có thể bắt đầu mong muốn chấm dứt tái sinh và thực hiện các hành động thiện lành cho mục đích đó, và có thể cố gắng để trưởng thành dưới thời Đức Phật Koṇāgamana thuyết pháp, hoặc Đức Phật Kassapa hoặc trong khoảng thời gian giữa đó, hoặc dưới thời Đức Phật Gotama thuyết pháp. Những người mong muốn Giác ngộ như vậy không thể nói là đã đạt được Giác ngộ sau một khoảng thời gian hoàn thiện bao nhiêu đại kiếp, vì họ có thể trở thành A-la-hán trong cùng một kiếp. Thay vào đó, thời kỳ hoàn thiện của họ nên được tính bằng số kiếp sống. Cụm từ “Trong những kiếp sống trước đây” được vị phụ chú sử dụng để mô tả những người mong muốn Giác ngộ như vậy.

Điều đó quả thực là như vậy. Trong những câu chuyện Apadāna, chúng ta có những trường hợp những người mong muốn Giác ngộ bắt đầu cuộc tìm kiếm sự Giác ngộ của họ dưới thời Đức Phật Kassapa thuyết pháp và đạt được mục tiêu của họ dưới thời Đức Phật Gotama thuyết pháp, như đã nêu trong Theragāthā Aṭṭhakathā và Apadāna Aṭṭhakathā. ¹¹⁶

Liên quan đến lập luận thứ tư: –

Trọng tâm ở đây là các pháp hành khổ hạnh chứ không phải số kiếp sống, như đã nêu trong, “Chỉ trong một kiếp sống duy nhất” (ekissāyeva jātiyā). Do đó, lập luận này có ý nói rằng các pháp hành khổ hạnh là điều kiện thiết yếu cho sự Giác ngộ đến mức, không cần nói đến một kiếp sống duy nhất, hãy để bất kỳ số kiếp sống nào trôi qua, và hãy để bất kỳ số đại kiếp nào trôi qua, người ta không bao giờ có thể đạt được Giác ngộ mà không thực hành các pháp hành khổ hạnh vào lúc này hay lúc khác.

Theo khẳng định này trong Milindapañha, người ta có thể hỏi: Maṇḍūka và Saccaka đã thực hành các pháp hành khổ hạnh của họ khi nào, khi thấy rằng trong lần tái sinh thứ hai của họ, họ đã trở thành chư Thiên và họ đã đạt được A-la-hán quả ở kiếp sống thứ ba?

Đây là lập luận phản bác của một số người đối với khẳng định trên.

Họ trích dẫn Mahāpadāna Sutta: –

“Ngay bây giờ, không thích hợp để Ta dạy Chánh pháp do Ta khám phá ra với rất nhiều khó khăn, vì Tứ Diệu Đế (nền tảng của Chánh pháp) sẽ hoàn toàn không thể hiểu được đối với chúng sinh, những người bị ái dục và sân hận chi phối.” ¹¹⁷

Trong Luận giải về Mahāpadāna Sutta, v.v., điều này được mở rộng như sau: –

“Chánh pháp, bao gồm Tứ Diệu Đế, là sâu xa, không thể dò thấu như magma bên dưới lớp vỏ Trái đất dày hai trăm bốn mươi nghìn do tuần; nó khó nhìn thấy như một hạt mù tạt được giấu bên dưới núi Tu-di; nó khó biết như một sợi lông ngựa được cắt thành một trăm sợi hoặc tao để ghép mỗi đầu của chúng lại với nhau; Ngay cả với chúng ta (Như Lai), những người đã cố gắng thâm nhập Tứ Diệu Đế, không có loại bố thí nào mà Ta chưa thực hành; không có loại giới luật nào mà Ta chưa tuân thủ; không có loại Ba-la-mật nào mà Ta chưa hoàn thành; và bất chấp điều đó, vào thời điểm Ta xua tan các thế lực của Ma vương, Trái đất vĩ đại này, sâu hai trăm bốn mươi nghìn do tuần, không hề lay động như thể miễn cưỡng phải nỗ lực.” ¹¹⁸

Lưu ý: Trong cú pháp Pāḷi ở trên, cách diễn đạt “nirussāhaṃ viya” đã được dịch là một cụm từ trạng ngữ mô tả thái độ của Trái đất vĩ đại. Điều này phù hợp với tình huống phổ biến vào thời điểm Đức Phật chiến thắng Ma vương. Vì ở đây, dưới chân Cây Bồ-đề, có vô số chư Nāga, vô số chư Garuḷā, vô số chư Thiên, vô số chư Sakka (vua của chư Thiên) và vô số chư Phạm thiên đến từ mười nghìn thế giới (cakkavāḷa), những người, khi bị tấn công bởi đám đông của Ma vương, đã chạy tán loạn, giống như nước thoát ra khỏi một con đập bằng đất bị vỡ, bỏ mặc Đức Phật trong cảnh khốn cùng. Do đó, không phải là một thành tích tầm thường khi Đức Phật, một mình Ngài, đã đánh bại quân đội của Ma vương. Nó chắc chắn là một dịp trọng đại và hiếm hoi nhất mà Trái đất vĩ đại nên thể hiện sự tán thưởng của mình bằng một trận động đất ầm ầm. Tuy nhiên, như thể bị hôn mê, nó không hề lay động.

Cụm từ này cũng có thể được coi là một cụm từ trạng ngữ mô tả sự điềm tĩnh của Đức Phật trong việc dập tắt các thế lực kỳ lạ của Ma vương – rằng Ngài đã xua tan kẻ thù một cách dễ dàng và bình tĩnh như thể Ngài đang bảo tồn năng lượng của mình.

Cách giải thích đầu tiên trong số này, mặc dù phù hợp về mặt ý nghĩa, nhưng không hoàn toàn hoàn hảo theo các quy tắc về luật thơ, vì nó mắc phải vyākiṇṇa dosa.

“Trái đất vĩ đại đã không rung chuyển để tán thưởng khi, vào canh đầu tiên của đêm, Ta nhớ lại những kiếp sống trước đây của mình (pubbenivāsa ñāṇa); nó cũng không rung chuyển để tán thưởng khi, vào canh giữa của đêm, Ta hoàn thiện thiên nhãn (dibbacakkhu-ñāṇa). Tuy nhiên, khi, vào canh cuối của đêm, Ta thành thạo Duyên khởi (paṭiccasamuppāda), toàn bộ mười nghìn thế giới đã rung chuyển để tán thưởng. Làm thế nào mà Chánh pháp này, bao gồm Tứ Diệu Đế, do một người như Ta, sở hữu trí thông minh sắc bén, chỉ có thể đạt được thông qua những nỗi đau khổ to lớn, lại có thể được những người thế gian nắm bắt? Như vậy, bằng Tuệ giác quán chiếu của Đức Phật về sự sâu xa của Chánh pháp, Đức Phật đã nảy sinh ý nghĩ không dạy Tứ Diệu Đế cho thế gian.” ¹¹⁹

Một câu hỏi có thể được đặt ra

CÂU HỎI: Dựa trên sức mạnh của những lý do trên, giờ đây rõ ràng là bất kỳ đề xuất nào cho rằng Giác ngộ A-la-hán với tư cách là một Thánh đệ tử A-la-hán bình thường có thể được thực hiện chỉ trong vòng hai hoặc ba kiếp sống là vô lý như việc đề xuất rằng viên ngọc quý (một trong bảy báu vật) của một vị Chuyển Luân Thánh Vương có thể có được để đổi lấy một nắm trấu. Điều này là như vậy, thì thời kỳ hoàn thiện sẽ được ấn định như thế nào?

TRẢ LỜI: Có năm bổn phận mà mỗi vị Phật thực hiện trước (pubba kicca), liên quan đến điều mà luận giải nói: –

“Vào canh ba của đêm, Đức Phật, thức dậy sớm, thường ngồi dậy và khảo sát thế giới bằng Phật nhãn (Buddhacakkhu) bao gồm Tuệ giác về sự đầy đủ của sự tự chủ trong tâm trí của người khác (indriyaparopariyatti-ñāṇa) và Tuệ giác về khuynh hướng và tiềm ẩn của các loại chúng sinh khác nhau (āsayānusaya-ñāṇa) – để tìm kiếm những người đã trưởng thành (bodhaneyya puggala), những người, đã cống hiến hết mình cho các hành động thiện lành như bố thí và giới đức, dưới thời chư Phật thuyết pháp, những người đã xuất hiện trong quá khứ, đã đến hạn cho sự Giác ngộ (katādhikāra puggala). Cuộc khảo sát hàng ngày này diễn ra thường xuyên và bao gồm toàn bộ mười nghìn thế giới.” ¹²⁰

Mahāpadāna Sutta Aṭṭhakathā giải thích thêm: –

“Từ ‘Bhavissanti’ ở đây dùng để chỉ vô số chúng sinh. Nó dùng để chỉ những người đã phục vụ cho sự nghiệp của mục tiêu của họ, tức là Giác ngộ A-la-hán với tư cách là chư Thánh đệ tử A-la-hán bình thường, bằng cách thực hiện mười loại hành động thiện lành dưới thời chư Phật trước đây thuyết pháp. Cũng giống như hoa sen Paduma phát triển đầy đủ đang chờ đợi tia nắng mặt trời, thì những người đã hoàn thiện này cũng chờ đợi để nghe lời dạy của Đức Phật, và số lượng những người sẽ, vào cuối một bài kệ bốn dòng, đạt được quả vị Thánh nhân (ariya bhūmi), phải được tính không phải là một hoặc hai người, cũng không phải chỉ hàng trăm nghìn người: họ là vô số. Chính vì vô số chúng sinh đã trưởng thành đó mà thuật ngữ ‘Bhavissanti’ đang được sử dụng.” ¹²¹

Lưu ý: 1) Tác giả đã không dịch Pāḷi ở trên, nó đã được các biên tập viên thực hiện. 2) Trong Uruvela Sutta Aṭṭhakathā và Sāratthadīpanī-ṭīkā, chúng ta có cùng một lời giải thích như trên.

Như Jinālaṅkāra-ṭīkā đã nói: –

“Cách diễn đạt ‘Katāsubhajanataṃ’ được định nghĩa là những chúng sinh đã có được công đức đến mức hoàn thiện dưới thời chư Phật trước đây thuyết pháp.” ¹²²

Từ những tuyên bố trước đó, cần hiểu rõ ràng rằng người mong muốn Giác ngộ có thể đạt được mục tiêu của mình (đạt được giải thoát khỏi luân hồi) dưới thời bất kỳ vị Phật nào thuyết pháp chỉ khi người ấy đã tích lũy đủ công đức thuộc loại không tham ái (vivaṭṭanissita-kusala) tương đương với sự cống hiến cho sự nghiệp của mình (adhikāro) dưới thời chư Phật trước đây thuyết pháp. Như vậy, thời kỳ hoàn thiện cho một vị Thánh đệ tử A-la-hán bình thường nên được tính toán một cách chính xác theo khoảng thời gian xuất hiện của chư Phật (Buddhantara). Về thời lượng của những khoảng thời gian như vậy, thời lượng tối thiểu nên được đặt là một antara-kappa (xem chú thích 2 ở trang 2) cho mỗi khoảng thời gian đó. Điều đó có nghĩa là, đối với một vị Thánh đệ tử A-la-hán bình thường, sự hoàn thiện công đức của người ấy sẽ mất ít nhất một kiếp trung gian. Đây là một lập luận.

Suttanipāta Aṭṭhakathā nói: –

“Người nào đã nghe Chánh pháp, đến mức độ một bài kệ gồm bốn dòng, từ một vị Phật hoặc từ một vị Phật Độc Giác, và sau đó có cơ hội nghe Chánh pháp ở mức độ tương tự từ một vị Phật hoặc một trong những vị Thánh đệ tử A-la-hán của Ngài, có thể đạt được A-la-hán quả vào cuối bài kệ.” ¹²³

Theragāthā Aṭṭhakathā giải thích như sau: –

“Để giải thích thêm: Những người đã thực hiện công đức bằng cách thực hành các hành động lành mạnh đến mức hoàn thiện cần thiết cho sự Giác ngộ A-la-hán với tư cách là một vị Thánh đệ tử A-la-hán dưới thời chư Phật hoặc chư Phật Độc Giác thuyết pháp trong quá khứ được gọi là những người đã có được sự chỉ dạy cần thiết của một vị Thánh đệ tử A-la-hán.” ¹²⁴

Therīgāthā Aṭṭhakathā lặp lại điều đó: –

“Để giải thích thêm: Những vị tỳ kheo ni lớn tuổi đã thực hiện công đức bằng cách thực hành các hành động lành mạnh đến mức hoàn thiện cần thiết cho sự Giác ngộ A-la-hán với tư cách là một vị Thánh đệ tử A-la-hán dưới thời chư Phật hoặc chư Phật Độc Giác thuyết pháp trong quá khứ được gọi là những người đã có được sự chỉ dạy cần thiết của một vị Thánh đệ tử A-la-hán nữ.” ¹²⁵

Từ những Luận giải đó, người mong muốn Thánh đệ tử A-la-hán quả có thể đã có lúc trong quá khứ, mong muốn Giác ngộ dưới chân một vị Phật Độc Giác. Điều này đặt ra câu hỏi về khoảng thời gian giữa sự xuất hiện của một vị Phật Độc Giác và sự xuất hiện của một vị Phật sau Ngài, và vì không có vị Phật Độc Giác nào xuất hiện trong vòng một nghìn năm trước khi một vị Phật xuất hiện, khi sự kiện trọng đại được công bố trên thế giới, nhờ chư Phạm thiên, khoảng thời gian này được tính là một nghìn năm là thấp nhất. Do đó, khoảng thời gian hoàn thiện tối thiểu cho một vị Thánh đệ tử A-la-hán bình thường có thể được cố định là một nghìn năm. Đây là một lập luận khác.

Trong mọi trường hợp, khoảng thời gian Phật nên là khoảng thời gian giữa một vị Phật Chánh Đẳng Giác này với một vị Phật Chánh Đẳng Giác khác. Trong đó, hai hoặc ba khoảng thời gian như vậy nên được coi là giới hạn tối thiểu.

Một câu hỏi có thể được đặt ra

CÂU HỎI: Tại sao khoảng thời gian Phật không được tính từ một vị Phật Độc Giác trước một vị Phật, cho đến vị Phật đó?

TRẢ LỜI: Một lý do là, công đức chỉ được hoàn thiện nếu hướng đến Niết-bàn không có quả báo; và một lý do khác, công đức như vậy chỉ phát sinh từ việc nhìn thấy những nguy hiểm của tái sinh do hành động có chủ ý; và một lý do khác, nhận thức như vậy phải có nguồn gốc từ một số bài giảng có lợi cho tuệ giác, vạch trần quy luật suy tàn (khayadhammika), quy luật lão hóa (vayadhammika), sự đáng sợ (sappaṭibhaya), sự nguy hiểm (sādīnava), bản chất trống rỗng (tuccha) và vô thường (suñña) của vòng luân hồi sinh tử trong bất kỳ lĩnh vực tồn tại nào trong ba lĩnh vực tồn tại; ³⁴ và một lý do khác, một bài giảng như vậy chỉ có sẵn dưới thời một vị Phật thuyết pháp.

Suttanipāta Aṭṭhakathā mô tả chư Phật Độc Giác như sau: –

“Chư Phật Độc Giác tự mình Giác ngộ nhưng họ không thể giác ngộ người khác. Họ thấu hiểu bản chất của hạnh phúc Niết-bàn, tức là Bốn Quả của Đạo (attharasa) nhưng không thành thạo việc giảng dạy Chánh pháp, tức là Bốn Con đường, (Dhammarasa). Điều đó quả thực là như vậy. Vì họ không thể diễn đạt những gì họ biết. Họ thiếu khả năng dạy Chánh pháp xuất thế gian vì thiếu kỹ năng sử dụng ngôn ngữ quy ước. Sự hiểu biết của họ về Tứ Diệu Đế có thể được ví như một người câm không thể kể lại giấc mơ mà người đó đã có; hoặc như một người thợ săn sống trong rừng không thể kể lại những món ngon mà người đó đã nếm thử trong thành phố.” ¹²⁶

Chức năng của việc sử dụng ngôn ngữ quy ước liên quan đến xuất thế gian là xác định những điều xấu xa của các pháp hữu vi (vaṭṭa dhamma) và chỉ ra con đường để loại bỏ những điều xấu xa đó. Do đó, việc thiếu kỹ năng sử dụng ngôn ngữ quy ước có nghĩa là chư Phật Độc Giác không thể mô tả được những điều xấu xa của vòng luân hồi tái sinh đáng buồn.

Chỉ khi sự không hoàn hảo, nhân quả và điều kiện của vòng luân hồi sinh tử có thể được giải thích, thì hạnh phúc do không có vòng luân hồi tái sinh, và bản chất không vướng mắc, không nhân quả và không điều kiện của hạnh phúc đó mới có thể được giải thích. Trường hợp người ta không thể thực hiện điều trước, thì rõ ràng là điều sau nằm ngoài khả năng của người đó. Làm thế nào mà một người không biết từ Pāḷi để chỉ hổ (byaggha) hoặc kẻ cướp (cora) lại có thể mô tả một khu rừng là nơi có nhiều kẻ cướp và hổ? Do đó, làm thế nào người đó có thể nói về một khu rừng là không có kẻ cướp và hổ?

Điều này là như vậy, bên ngoài Giáo pháp của Đức Phật, chư Phật Độc Giác hoặc những vị ẩn sĩ thông thái như Sarabhaṅga, vị Bồ tát, chỉ có thể dạy nguyên lý vô thường (anicca) và nguyên lý khổ đau (dukkha) dựa trên những điều xấu xa của dục lạc và lợi ích của việc đoạn trừ dục lạc, vì đó là mức độ nhận thức và từ vựng của họ. Đối với nguyên lý về sự không tồn tại, hiện tượng hoặc vô ngã (anatta), họ không thể hiểu được, họ cũng không có từ vựng cho nó. Ngay cả khi nói đến vô thường, tất cả những gì họ có thể dạy là khái niệm thô thiển và rõ ràng về cái chết, mất người thân, mất của cải hoặc bệnh tật; và khi nói đến sự khổ đau của sự tồn tại, họ có thể không đi xa hơn việc giải thích cuộc sống khốn khổ của động vật, hoặc các cõi khổ đau khác (apāya).

Bản chất tinh tế và sâu sắc hơn của vô thường liên quan đến ba thời kỳ quá khứ, hiện tại và tương lai, Duyên khởi của tâm và vật chất dưới các yếu tố nhân quả của vô minh, hành, v.v., quy luật nghiệp báo, các hiện tượng của nguyên nhân (āhāra), sự tiếp xúc (phassa), v.v., hai mươi tư mối quan hệ điều kiện như nguyên nhân gốc, đối tượng, v.v., tiết lộ sự vô thường và khổ đau xảy ra trong năm uẩn từng khoảnh khắc – tất cả những điều này nằm ngoài khả năng của chư Phật Độc Giác và những vị ẩn sĩ vĩ đại. Nếu sự vô thường trong từng khoảnh khắc và sự khổ đau trong từng khoảnh khắc được dạy và được những người mong muốn Giác ngộ hiểu, thì đặc tính của vô thường và khổ đau sẽ tự nhiên dẫn đến sự hiểu biết về vô ngã như là đặc tính của sự tồn tại. Như vậy, những người mong muốn Giác ngộ sẽ, với mức độ phù hợp với sự hoàn thiện trong quá khứ của họ, đạt được Đạo và Quả của nó. Tuy nhiên, không có trường hợp Giác ngộ nào như vậy được biết đến. (Để biết chi tiết, xem Sammohavinodanī Aṭṭhakathā, Mūlaṭīkā, Anuṭīkā, Visuddhimagga Aṭṭhakathā và -ṭīkā.)

Cuộc thảo luận ở trên tập trung sự chú ý vào thực tế là bên ngoài Giáo pháp của Đức Phật, không có lời dạy nào của bất kỳ ai về sự vô ích và trống rỗng của sự tồn tại liên tục trong cả ba cõi, dẫn đến sự chán ghét thế gian, có thể được nghe thấy; do đó, không có sự chán ghét đối với sự khổ đau của tái sinh có thể phát sinh như là Tuệ giác, kết quả là không có công đức nào không dẫn đến tái sinh (vivaṭṭanissita kusala) có thể đạt được.

Tuy nhiên, điều này không áp dụng cho những người đã nhận thức được lợi ích của việc không tái sinh và những bất hạnh của tái sinh dưới thời chư Phật trước đây thuyết pháp và đã phấn đấu cho sự nghiệp Giác ngộ. Vì trong trường hợp của họ, bất kỳ công đức nào họ đạt được sẽ không dẫn đến tái sinh nhờ vào ấn tượng mạnh mẽ của khuynh hướng quen thuộc đối với loại công đức cao quý hơn đó đã đạt được trước đây. Nó có thể được ví như tất cả các loại trái cây của một cây xoài mọc lên từ hạt của một quả xoài ngọt. Lập luận trên chỉ dành cho những người chưa bao giờ nuôi dưỡng thói quen tìm kiếm công đức không tạo ra tái sinh dưới thời bất kỳ vị Phật nào trước đây. Đối với những người thế gian mù quáng và ngu ngốc, việc gieo trồng những hạt giống công đức mới không dẫn đến tái sinh dưới thời một vị Phật Độc Giác, với hy vọng nở hoa thành sự giác ngộ dưới thời một vị Phật tương lai, là điều hoàn toàn không thể.

Với những người mới bắt đầu như vậy, công đức của họ dành cho việc chấm dứt tái sinh sẽ đóng vai trò như một điều kiện cần thiết cho sự tái sinh may mắn vào thời kỳ thích hợp của một vị Phật nào đó sau này, ở nơi thích hợp, nơi Chánh pháp có thể được nghe từ Đức Phật hoặc một trong những vị Thánh nhân; được thiết lập trong Chánh pháp và hành xử theo Chánh pháp. Theo cách này, họ có thể mong đợi sự Giác ngộ bởi vị Phật thứ hai hoặc thứ ba kế tiếp.

Việc những kết quả may mắn như vậy có thể được mong đợi bởi người có khuynh hướng chấm dứt tái sinh đã được thảo luận bằng cách trích dẫn Paṭisambhidāmagga Aṭṭhakathā, Dhātu Saṃyutta Aṭṭhakathā, v.v.

Theragāthā và Therīgāthā Aṭṭhakathā bao gồm chư Phật Độc Giác như những nơi để tích lũy công đức cho những người mong muốn Thánh đệ tử A-la-hán quả vì lý do hầu hạ họ cũng có lợi ích là hoàn thành điều kiện cần thiết là nền tảng của điều kiện đủ cho sự Giác ngộ.

Điều này giải thích tại sao chỉ có chư Phật nên được tính đến trong việc tính toán khoảng thời gian trôi qua giữa điểm bắt đầu và mục tiêu của A-la-hán quả, và tại sao chư Phật Độc Giác không nên được tính là điểm bắt đầu cho người mong muốn Thánh đệ tử A-la-hán quả.

Các luận giải chỉ ra rằng ít nhất hai hoặc ba khoảng thời gian Phật sẽ tạo thành khoảng thời gian hoàn thiện tối thiểu cho chư Thánh đệ tử A-la-hán bình thường. ¹²⁷

Từ Pāḷi đó, chúng ta hiểu rằng Tôn giả Migasira và Tôn giả Subhūti đã đạt được A-la-hán quả dưới thời Đức Phật Gotama sau khi có được công đức đặc biệt thuộc loại không có quả báo ³⁵ dưới thời Đức Phật Kassapa. Tuy nhiên, họ không chỉ bắt đầu làm như vậy dưới thời Đức Phật Kassapa, mà đã hầu hạ dưới thời chư Phật trước đây như Koṇāgamana và Kakusandha.

Nhân tiện, người ta không cần phải tranh luận chống lại tuyên bố này bằng cách nói rằng đó chỉ là hai trường hợp cụ thể và không nên mở rộng cho các vị Thánh đệ tử A-la-hán bình thường khác. Vì câu trả lời cho lập luận như vậy chỉ đơn giản là: đây tất nhiên chỉ là hai trường hợp cụ thể về sự cần thiết phải hoàn thiện trước đây, nhưng sau đó ai có thể đưa ra bất kỳ trường hợp cụ thể nào để bác bỏ nó?

Đây là lý do tại sao khoảng thời gian hoàn thiện tối thiểu cho Thánh đệ tử A-la-hán quả bình thường nên được đặt là hai hoặc ba khoảng thời gian Phật. Như vậy, có thể nói rằng nếu người mong muốn Thánh đệ tử A-la-hán quả bình thường, sau khi thực hiện nhiệm vụ hoàn thành Ba-la-mật dưới thời hai vị Phật kế tiếp nhau, cũng đáp ứng các điều kiện cần thiết cho việc thực hành Chánh pháp (sappurisa-upanissaya) trong khoảng thời gian đó, sẽ tiến bộ từ kiếp sống này sang kiếp sống khác về mặt tâm linh; và sự tích lũy Ba-la-mật của người ấy do đó ngày càng tăng, người ấy có thể sẽ đạt được giải thoát khỏi tái sinh dưới thời vị Phật thứ ba hoặc thứ tư kế tiếp.

Đây là dòng suy nghĩ của những người đưa ra lập luận phản bác lại khẳng định rằng hai hoặc ba kiếp sống sẽ là đủ để người mong muốn Thánh đệ tử A-la-hán quả bình thường đạt được mục tiêu của mình. Hãy để người đọc đánh giá giá trị của từng trường phái tư tưởng.

Tuy nhiên, chúng tôi xin đưa ra nhận xét cuối cùng của mình về câu hỏi này như sau: –

“Ai khác ngoài Đức Phật, được trời phú cho kiến thức về phẩm chất nghiệp báo của tất cả chúng sinh hiện tại, quá khứ và tương lai, có thể xác định chắc chắn thời kỳ hoàn thiện cho Thánh đệ tử A-la-hán quả bình thường? Vấn đề này thuộc về thẩm quyền hợp pháp của ai, và ai có cơ sở vững chắc trong vấn đề này? ¹²⁸


Hết phần Giải đáp Câu hỏi Thứ Mười Hai

Giải Đáp Câu Hỏi Thứ Mười Ba

Thánh đệ tử A-la-hán quả (chính thuật ngữ này đã chỉ ra điều này) chỉ có thể đạt được khi một vị Phật dạy Chánh pháp. Vì vậy, người mong muốn Thánh đệ tử A-la-hán quả phải chờ đợi sự xuất hiện của một vị Phật bất kể khoảng thời gian chờ đợi. Nếu một kiếp tình cờ là một kiếp trống rỗng không có bất kỳ vị Phật nào (suñña-kappa), thì người mong muốn Giác ngộ sẽ không có bất kỳ cơ hội nào để đạt được mục tiêu của mình.

Trong Peṭakopadesa, chúng ta có: –

“Có hai điều kiện hoặc nguyên nhân cho sự giác ngộ hoặc sự phát sinh của Tuệ đạo đối với một vị Thánh đệ tử A-la-hán, đó là: lời nói của người khác về Tứ Diệu Đế và sự chú ý có hệ thống.” ¹²⁹

Cùng một tuyên bố được tìm thấy trong Verañjaka Sutta, ¹³⁰ Mūlapaṇṇāsa.

Trong luận giải về Verañjaka Sutta, nó đã được giải thích như sau: –

(a) “Sự phát sinh của chánh kiến ​​(sammādiṭṭhiyā uppadāya), có nghĩa là tuệ giác và Tuệ đạo. Đối với sự phát sinh của nó, lời nói của người khác (parato ghoso) có nghĩa là lắng nghe ai đó dạy Chánh pháp, điều này đánh trúng tâm lý (sappāyadhamma). Sự chú ý có hệ thống (yoniso manasikāro) có nghĩa là sự chú ý cởi mở, có phương pháp. Hai yếu tố đó áp dụng cho mọi vị Thánh đệ tử A-la-hán, ngay cả Tôn giả Sāriputta (Dhammasenāpati) cũng không ngoại lệ.

(b) “Điều đó quả thực là như vậy. Tôn giả Sāriputta, bất chấp việc đã hoàn thành Ba-la-mật trong một A-tăng-kỳ kiếp và một trăm nghìn đại kiếp, hoàn toàn không thể, tự nhiên (dhammatāya), loại bỏ một phần nhỏ các phiền não về mặt đạo đức. Chỉ khi nghe bài kệ bắt đầu bằng những từ, “Ye dhammā hetuppabhavā” do Tôn giả Assaji đọc, Ngài mới thấu hiểu Chân lý, tức là đạt được Tuệ đạo. Tuy nhiên, trong trường hợp của chư Phật Độc Giác và chư Phật, không cần phải nghe ai đó nói ra Chân lý; dựa trên (ṭhatvā) sự chú ý thích hợp của họ, họ đạt được giác ngộ tương ứng.

Xét về những cuộc thảo luận ở trên, có thể suy ra rằng thời kỳ hoàn thiện được đặt ra cho chư Thánh đệ tử A-la-hán – tức là một A-tăng-kỳ kiếp và một trăm nghìn đại kiếp cho chư Thánh đệ tử A-la-hán Thượng thủ và một trăm nghìn đại kiếp cho chư Thánh đệ tử A-la-hán bình thường – thực sự chỉ liên quan đến những vị Thánh đệ tử A-la-hán đã đạt được giác ngộ dưới thời Đức Phật Gotama. Vì, nếu vào cuối những khoảng thời gian quy định đó, có một kiếp không có bất kỳ vị Phật nào (suñña-kappa), hoặc về vấn đề đó, có nhiều hơn một kiếp trống rỗng như vậy xen vào, thì cơ hội đạt được mục tiêu của họ sẽ bị đình chỉ.

Trong Câu hỏi hiện tại, thuật ngữ “Buddha suñña kappa” – chứ không chỉ là Suññakappe – là đáng kể. Nó nhấn mạnh ý nghĩa thực sự của một kiếp trống rỗng: những thuật ngữ này phải được hiểu liên quan đến sự xuất hiện hoặc không xuất hiện của một vị Phật trong một kiếp nhất định, chứ không phải sự xuất hiện của chư Phật Độc Giác hoặc chư Chuyển Luân Thánh Vương. Như Ñāsa đã định nghĩa nó: –

“Một kiếp trống rỗng có thể chứng kiến ​​sự xuất hiện của chư Phật Độc Giác và chư Chuyển Luân Thánh Vương, nhưng nếu nó không có bất kỳ vị Phật nào thì nó vẫn được gọi là trống rỗng (Siddhesatyārabbho atthantarassa ñāpanāya hoti).”

Trong Apadāna, chúng ta có các từ: “Ito dutiyake, v.v.… ¹³¹ cho thấy rằng trong một kiếp trống rỗng, nơi không có Đức Phật nào xuất hiện, chư Phật Độc Giác có thể xuất hiện và tương tự, chư Chuyển Luân Thánh Vương cũng có thể xuất hiện. ¹³² Theragāthā Aṭṭhakathā và Apadāna Aṭṭhakathā cũng chứa các đoạn văn có cùng hiệu lực.

Mặt khác, có nhiều nhà luận giải khác nhau cho rằng trong một kiếp trống rỗng, không có chư Phật Độc Giác hoặc chư Chuyển Luân Thánh Vương xuất hiện.

Trong Dīghanikāya Aṭṭhakathā, luận giải về Mahāpadāna Sutta đã nói điều này: –

“Tuy nhiên, mặt khác, bất cứ khi nào có một kiếp mà chư Phật xuất hiện, thì chỉ khi đó chư Chuyển Luân Thánh Vương mới xuất hiện, và sự xuất hiện của chư Phật chỉ diễn ra trong những khoảng thời gian dài: đó là một dịp rất hiếm hoi để nhìn thấy một vị Phật. Do đó, Đức Phật được gọi là ‘Báu vật (ratana).’” ¹³³

Buddhavaṃsa Aṭṭhakathā nói: –

“Có hai loại kiếp: kiếp trống rỗng và kiếp không trống rỗng. Trong loại thứ nhất, không có Đức Phật, Đức Phật Độc Giác hoặc Chuyển Luân Thánh Vương xuất hiện; nó được gọi là kiếp trống rỗng vì nó không có những cá nhân đạo đức.” ¹³⁴

Suttanipāta Aṭṭhakathā nói: –

“Chư Phật Độc Giác thấp kém hơn chư Phật (Buddhe apatvā) và họ chỉ xuất hiện trong thời gian chư Phật xuất hiện.” ¹³⁵

Và theo Sotattakī:

(a) “Một kiếp (kappa) có hai loại: kiếp trống rỗng (suñña-kappa) và kiếp không trống rỗng (asuñña-kappa). Trong số đó, những kiếp được ban tặng bởi sự xuất hiện của chư Phật được gọi là kiếp không trống rỗng.

(b) “Trong những kiếp trống rỗng, không có cá nhân nào có quyền năng to lớn như chư Phật hoặc chư Phật Độc Giác, chư Thánh đệ tử A-la-hán của Đức Phật hoặc chư Chuyển Luân Thánh Vương xuất hiện.” ¹³⁶

Những đoạn trích đó nêu ra quan điểm rằng trong một kiếp trống rỗng, nơi không có chư Phật xuất hiện, thì chư Phật Độc Giác và chư Chuyển Luân Thánh Vương cũng không xuất hiện.

Một câu hỏi có thể được đặt ra

CÂU HỎI: Những luận giải và kinh văn đó có mâu thuẫn với kinh điển và một số luận giải khác không?

TRẢ LỜI: Tác giả của Samantacakkhu Dīpanī đã dung hòa các quan điểm được đưa ra bởi Buddhavaṃsa Aṭṭhakathā và Sotattakī với kinh điển bằng cách nói rằng một kiếp không trống rỗng là một kiếp mà một vị Phật xuất hiện; hoặc ngay cả khi không có Đức Phật nào xuất hiện, thì có một vị Phật Độc Giác xuất hiện; hoặc ngay cả khi không có Đức Phật Độc Giác nào xuất hiện, thì có một vị Chuyển Luân Thánh Vương xuất hiện. Do đó, nếu bất kỳ ai trong ba cá nhân vĩ đại đó xuất hiện trong một kiếp nhất định, thì kiếp đó được gọi là kiếp không trống rỗng.

Tác giả của Sāratthasaṅgaha đã dung hòa quan điểm của Suttanipāta Aṭṭhakathā và tuyên bố chứa đựng trong kinh điển như sau: –

“Liên quan đến tuyên bố: ‘Chư Phật Độc Giác thấp kém hơn chư Phật và họ chỉ xuất hiện trong thời gian chư Phật xuất hiện’ ¹³⁷ thuật ngữ ‘Thời gian chư Phật xuất hiện’ chỉ đề cập đến một khoảng thời gian trong phạm vi tuổi thọ một trăm nghìn năm và tuổi thọ một trăm năm, trong thời gian đó chư Phật xuất hiện. Nó không đề cập đến đại kiếp và A-tăng-kỳ kiếp. Điều này là do chúng ta có bằng chứng về sự xuất hiện của chư Phật Độc Giác trong kiếp áp chót từ kiếp hiện tại của chúng ta, kiếp được ban tặng bởi năm vị Phật và do đó được gọi là một kiếp may mắn, trong các kinh văn như Upāli thera Apadāna.” ¹³⁸

Tác giả, khi trích dẫn đoạn trích từ Suttanipāta Aṭṭhakathā, đã định nghĩa cách diễn đạt, “Buddhānaṃ uppajjanakāle yeva” là biểu thị sự tiếp tục của việc khôi phục trật tự thế giới (vivaṭṭathāyī asaṅkhyeyya kappa), và trong khoảng thời gian đó, nó cũng bị giới hạn trong khoảng thời gian mà tuổi thọ của con người nằm trong khoảng từ một trăm năm đến một trăm nghìn năm, trong thời gian đó chư Phật Độc Giác xuất hiện. Xét về khía cạnh này, không có mâu thuẫn giữa những gì kinh điển nói và những gì các nhà luận giải tuyên bố.

Về luận giải về Mahāpadāna Sutta, ¹³⁹ trong đó nói: “Yasmiṃ kappe…” không có nỗ lực dung hòa nào được thực hiện; tuy nhiên, Phụ chú giải thích chi tiết về nó như sau: –

“Nhờ không có những tội ác đen tối như giết chóc, v.v., dựa trên lòng hổ thẹn khi làm điều sai trái; và theo đuổi công đức dựa trên các đối tượng của cảm xúc tôn giáo; khoảng thời gian bao gồm tuổi thọ từ một trăm năm đến một trăm nghìn năm là khoảng thời gian của đỉnh cao của sự thanh tịnh tâm linh (maṇḍabhūto), bản chất của nó cho phép sự xuất hiện của chư Phật. Chỉ trong những thời điểm thuận lợi như vậy, bao gồm những khoảng thời gian tuổi thọ cụ thể đó, mà chư Chuyển Luân Thánh Vương cũng xuất hiện, và đó là lý do tại sao người ta đã nói rằng, ‘Bất cứ khi nào có một kiếp mà chư Phật xuất hiện, thì chỉ khi đó chư Chuyển Luân Thánh Vương cũng xuất hiện.’ Hơn nữa, tuyên bố này chỉ được đưa ra trên cơ sở nguyên tắc chung; có thể có một số trường hợp khác với quy tắc chung này.”

Điều đó có nghĩa là, trong một số trường hợp nhất định, quy tắc chung chỉ có thể áp dụng một phần.

Như vậy, trong khi chư Phật chỉ xuất hiện trong những khoảng thời gian rất dài, thì điều này không đúng với chư Chuyển Luân Thánh Vương. ³⁶

Trong hai câu trên của Phụ chú, cách diễn đạt “Nhờ không có những tội ác đen tối (pāpajucchanena vigatakāḷako)” chỉ ra tuổi thọ của con người là một trăm năm trở lên. Cách diễn đạt “Theo đuổi công đức được truyền cảm hứng bởi các đối tượng của cảm xúc tôn giáo (puñña pasutāya maṇḍabhūto)” chỉ ra tuổi thọ của con người là một trăm nghìn năm trở xuống. Ý nghĩa kết hợp của những cách diễn đạt đó là chư Chuyển Luân Thánh Vương, giống như chư Phật, chư Phật Độc Giác và chư Thánh đệ tử A-la-hán, thường chỉ xuất hiện trong khoảng thời gian mà tuổi thọ của con người dao động từ một trăm năm đến một trăm nghìn năm. Các trường hợp của một số vị Chuyển Luân Thánh Vương như Mandhātu Mahāsudassana, vị Chuyển Luân Thánh Vương vĩ đại đã xuất hiện trong khoảng thời gian mà tuổi thọ của con người trên một trăm nghìn năm, là những ngoại lệ.

Có liên quan đến các trường hợp ngoại lệ lặp lại khác thuộc loại này, ví dụ, trong Cakkavatti Sutta, vị phụ chú đã thêm các từ “Đây chỉ là một ví dụ hoặc nguyên tắc chung (upamāna vasena cetaṃ vuttaṃ).”

Do đó, trong cách diễn đạt của vị luận sư “Bất cứ khi nào có một kiếp mà Đức Phật xuất hiện (yasmiṃ kappe uppajjanti),” từ “Kappa” có nghĩa là tuổi thọ hoặc thời gian sống (āyu-kappa) và phù hợp với kinh văn. ¹⁴⁰

Theo đó, kiếp ở đây không có nghĩa là một A-tăng-kỳ kiếp bằng một phần tư đại kiếp như được sử dụng trong kinh văn (Anekepi saṃvaṭṭakappe anekepi vivaṭṭakappe), nó cũng không biểu thị một đại kiếp như được sử dụng trong kinh văn như: “Cattārimāni bhikkhave kappassa asaṅkhyeyyāni.”

Hơn nữa, āyu-kappa trong bối cảnh này có nghĩa là không phải một loại tuổi thọ duy nhất như một trăm nghìn năm, chín mươi nghìn năm, tám mươi nghìn năm, một nghìn năm, một trăm năm, v.v.; đúng hơn, nó biểu thị một nhóm các tuổi thọ nhất định, tức là những tuổi thọ dao động từ một trăm nghìn đến một trăm năm, trong thời gian đó chư Phật xuất hiện. Đây là cách vị phụ chú cố gắng dung hòa quan điểm của những nhà luận giải đó với tinh thần của kinh điển.

Một cách giải thích khác: –

Kiếp cũng có thể được hiểu là khoảng thời gian tiếp tục đổi mới của thế giới (vivaṭṭaṭhāyi asaṅkhyeyya kappa). ¹⁴¹ Như vậy, kết hợp ba cách giải thích trên, không có mâu thuẫn giữa các tuyên bố chứa đựng trong Thera Apadāna, Therī Apadāna, Theragāthā Aṭṭhakathā, Therīgāthā Aṭṭhakathā, Apadāna Aṭṭhakathā, một mặt, và những tuyên bố của Mahāpadāna Sutta Aṭṭhakathā, Buddhavaṃsa Aṭṭhakathā, Suttanipāta Aṭṭhakathā và Sotattakī, mặt khác.

Do đó, như Aṅguttaranikāya Aṭṭhakathā và Sāratthadīpanī-ṭīkā đã chỉ ra: –

“Trong một A-tăng-kỳ kiếp, khi không có chư Phật xuất hiện, thì không một chúng sinh nào có thể đạt được Niết-bàn. Tuy nhiên, ngay cả trong những kiếp trống rỗng không có chư Phật đó, thì yếu tố Niết-bàn không thể nói là đã mất hoàn toàn giá trị của nó.” ¹⁴² Trong đoạn văn đó, cụm từ “không một chúng sinh nào (ekasattopi)” chỉ đề cập đến chư Thánh đệ tử A-la-hán bình thường, và chư Phật Độc Giác và những người mong muốn Thánh đệ tử A-la-hán quả thuộc hai hạng bậc cao hơn nên được loại trừ.


Hết phần Giải đáp Câu hỏi Thứ Mười Ba

Giải Đáp Câu Hỏi Thứ Mười Bốn

Đức Phật, chư Phật Độc Giác và chư Thánh đệ tử A-la-hán nhận được những lời tiên tri tương ứng của họ có các yếu tố khác nhau. Có tám yếu tố cần thiết để một vị Phật tương lai nhận được lời tiên tri, đó là:

“Ngài là một con người; Ngài chắc chắn là nam giới; Ngài được trời phú cho Ba-la-mật đến mức, nếu Ngài mong muốn, Ngài có thể đạt được A-la-hán quả ngay tại đó; Ngài có cơ hội được gặp Đức Phật trực tiếp; Ngài là một Tỳ-khưu hoặc một ẩn sĩ; Ngài sở hữu thần thông, đã đạt được thiền định; Ngài sẵn sàng từ bỏ mạng sống của mình vì sự Giác ngộ hoàn hảo; Ngài có ý chí kiên định để đạt được mục tiêu của mình ngay cả khi Ngài phải đi ngang qua toàn bộ vũ trụ chứa đầy than hồng, hoặc gai sắt, hoặc bụi tre hoặc nước. Khi kết hợp những tám yếu tố đó, lời cầu nguyện vĩ đại cho Phật quả sẽ được đảm bảo.”

Luận giải nói như vậy. ¹⁴³

Suttanipāta Aṭṭhakathā trình bày như sau: “Abhinīharoti… v.v.” ¹⁴⁴

Cariyāpiṭaka Aṭṭhakathā nói: “Evaṃ aṭṭhaṅgasamannāgato… v.v.” ¹⁴⁵

Buddhavaṃsa Aṭṭhakathā định nghĩa thuật ngữ “Abhinīharo” bằng những từ này: “Abhinīhāroti… v.v.” ¹⁴⁶

Paṭisambhidāmagga Gaṇṭhi nói thêm: – “Abhinīhāroti… v.v.” ¹⁴⁷

Đối với chư Phật Độc Giác: –

“Được sinh ra là con người; là nam giới; đã được gặp Đức Phật hoặc Đức Phật Độc Giác hoặc A-la-hán trực tiếp; đã hoàn thành Ba-la-mật như bố thí, v.v.; và một mong muốn hoặc ý chí mãnh liệt để trở thành một vị Phật Độc Giác – năm yếu tố này đi đến sự thỏa mãn của lời cầu nguyện vĩ đại.”

Suttanipāta Aṭṭhakathā trình bày như sau: “Vigatāsavadassananti… v.v.” ¹⁴⁸

Hai yêu cầu đối với chư Thánh đệ tử A-la-hán, như được chứa đựng trong các đoạn văn trên, là Ba-la-mật và ý chí.

Hết phần Giải đáp Câu hỏi Thứ Mười Bốn

Giải Đáp Câu Hỏi Thứ Mười Lăm

Xét về cụm từ “Được gặp Đức Phật trực tiếp”, điều kiện thứ tư trong số tám điều kiện đủ điều kiện cho lời tiên tri đối với một vị Phật tương lai, có thể lưu ý rằng một vị Phật tương lai luôn luôn chỉ nhận được lời tiên tri từ một vị Phật. Pāṭha Jātaka Aṭṭhakathā ³⁷ nói: –

“Ngay cả khi một vị Phật tương lai đã hoàn thành đầy đủ Ba-la-mật và đã đủ điều kiện cho mình về điều kiện thứ ba, thì sự đảm bảo của Ngài chỉ có thể thực hiện được trước sự hiện diện của một vị Phật còn sống. Sau khi Đức Phật nhập diệt, một vị Bồ tát đã trưởng thành không thể có được lời cầu nguyện của mình được đáp ứng bằng cách tiên tri trước một ngôi chùa thờ Phật hoặc trước một Cây Bồ-đề.” ¹⁴⁹

Cariyāpiṭaka Aṭṭhakathā cũng giải thích như sau: –

“Cụm từ ‘Satthāradassananti’ có nghĩa là sự hiện diện của một vị Phật còn sống. Điều đó quả thực là như vậy. Lời cầu nguyện của một vị Bồ tát được đáp ứng bằng cách tiên tri nếu Ngài có cơ hội được gặp Đức Phật trực tiếp. Trong trường hợp Đức Phật đã nhập diệt, lời cầu nguyện của một vị Bồ tát không thể được hoàn thành trước một ngôi chùa, hoặc tại Cây Bồ-đề hoặc trước một bức tượng Phật, hoặc trước một vị Phật Độc Giác hoặc một vị Thánh đệ tử A-la-hán. Điều này là do sự hầu hạ được thực hiện cho Chánh Biến Tri là quá lớn đối với bất kỳ vị Thánh nhân nào khác ngoài Đức Phật để có thể đưa ra lời tiên tri.” ¹⁵⁰

Trong đó, cách diễn đạt “chỉ trước sự hiện diện của Đức Phật mới có thể có được lời tiên tri (Buddhānaṃ eva pana santike samijjhati) có thể được hiểu tương tự như trường hợp của một vị Chuyển Luân Thánh Vương, người duy nhất có thể trao quyền và danh hiệu Chuyển Luân Thánh Vương cho người thừa kế của mình.

Một câu hỏi có thể được đặt ra

CÂU HỎI: Tại sao chư Phật Độc Giác và chư Thánh đệ tử A-la-hán lại không đủ năng lực trong vấn đề này?

TRẢ LỜI: Như Buddhavaṃsa Aṭṭhakathā đã giải thích: –

Chư Phật Độc Giác và chư Thánh đệ tử A-la-hán không đủ năng lực để ban sự đảm bảo của họ cho một vị Phật tương lai bởi vì họ thiếu trí tuệ để đánh giá giá trị thực sự của công đức và quả báo của nó mà một vị Bồ tát đã tích lũy. ¹⁵¹

Nhân tiện, lời tiên tri về Phật Độc Giác Bồ-đề nằm trong khả năng của một vị Phật Độc Giác hoặc thậm chí một vị Thánh đệ tử A-la-hán. Xem các Luận giải về Suttanipāta và Apadāna, trong đó nói: “Sự đảm bảo cho một vị Thánh đệ tử A-la-hán rõ ràng có thể nằm trong khả năng của một vị Phật Độc Giác hoặc một vị Thánh đệ tử A-la-hán.” ¹⁵²

Hết phần Giải đáp Câu hỏi Thứ Mười Lăm

Giải Đáp Câu Hỏi Thứ Mười Sáu

Chư Thánh đệ tử A-la-hán Thượng thủ (Aggasāvaka)

Sāriputta và Moggallāna là hai vị Thánh đệ tử A-la-hán Thượng thủ (Aggasāvaka).

Chư Thánh đệ tử A-la-hán Đại đệ tử (Mahāsāvaka)

Aññāta Koṇḍañña, Vappa, Bhaddiya, Mahānāma, Assaji, Nālaka, Yasa, Vimala, Subāhu, Puṇṇaji, (10);

Gavampati, Uruvela-Kassapa, Nadī-Kassapa, Gayā-Kassapa, Mahā-Kassapa, Mahā-Kaccāna, Mahā-Koṭṭhika, Mahā-Kappina, Mahā-Cunda, Anuruddha, (10);

Kaṅkhā-Revata, Ānanda, Nanda, Bhagu, Nandiya, Kimbila, Bhaddiya, Rāhula, Sīvalī, Upāli, (10);

Dabba, Upasena, Khadiravaniya-Revata, Puṇṇa Mantāṇiputta, Puṇṇa of Sunā­paranta, Soṇa Kuṭikaṇṇa, Soṇa Koḷivisa, Rādha, Subhūti, Aṅgulimāla, (10);

Vakkali, Kāludāyī, Mahā-Udāyī, Piliṇḍavaccha, Sobhita, Kumāra-Kassapa, Raṭṭhapāla, Vaṅgīsa, Sabhiya, Sela, (10);

Upavāṇa, Meghiya, Sāgata, Nāgita, Lakuṇḍaka-Bhaddiya, Piṇḍola-Bhāradvāja, Mahāpanthaka, Cūḷapanthaka, Bākula, Koṇḍadhāna, (10);

Bāhiya Dārucīriya, Yasoja, Ajita, Tissametteyya, Puṇṇaka, Mettagū, Dhotaka, Upasīva, Nandaka, Hemaka, (10);

Todeyya, Kappa, Jātukaṇṇika, Bhadrāvudha, Udaya, Posāla, Mogharāja, Piṅgiya, (8).

Đây là Bảy mươi tám vị Thánh đệ tử A-la-hán Đại đệ tử.

Mặc dù chỉ có bảy mươi tám vị, nhưng họ thường được đề cập trong các Luận giải và Phụ chú là “Tám mươi vị Thánh đệ tử A-la-hán Đại đệ tử (asītimahā­sāvakā).” Đó là một cách thực hành phổ biến trong văn học Pāḷi; ví dụ: đối với 547 câu chuyện về tiền kiếp của Đức Phật, chúng ta có “Năm trăm năm mươi câu chuyện về tiền kiếp;” khoảng thời gian sáu tháng mười lăm ngày được gọi là khoảng thời gian sáu tháng (cha-māsa-kāla), v.v.

Hoặc nhìn nhận nó theo một cách khác: –

Như Theragāthā Aṭṭhakathā đã giải thích: “Tathāpi,…” ¹⁵³ hai vị Thánh đệ tử A-la-hán Thượng thủ được tính là chư Thánh đệ tử A-la-hán Đại đệ tử.

Số lượng chư Thánh đệ tử A-la-hán Đại đệ tử này phù hợp với những gì được đề cập trong Theragāthā Aṭṭhakathā, Aṅguttaranikāya-ṭīkā, Dvādasama­nipāta Jātaka-ṭīkā. Tuy nhiên, không có đề cập đến việc tám mươi vị được chia thành bốn mươi vị ở bên phải và bốn mươi vị ở bên trái của Đức Phật.

Trong số tám mươi vị đó, chỉ có bốn mươi ba vị được xướng danh là xuất sắc (etadagga) trong Aṅguttaranikāya, Etadagga Vagga. Trong Apadāna Aṭṭhakathā, Tôn giả Bhāgineyya-Upāli, cháu trai của Tôn giả Upāli, cũng được xướng danh là xuất sắc trong việc tuân thủ giới luật Tỳ-khưu. Trong số 120 vị Trưởng lão đã bắt đầu mong muốn Thánh đệ tử A-la-hán quả từ thời Đức Phật Padumuttara, chỉ có một số ít trở thành chư Thánh đệ tử A-la-hán Đại đệ tử dưới thời Đức Phật Gotama, và trong số 206 vị Trưởng lão được bao gồm trong Theragāthā, chỉ có 58 vị là chư Thánh đệ tử A-la-hán Đại đệ tử. Những vị Trưởng lão lỗi lạc như Adhimutta, người đã nhận được lời tiên tri từ Đức Phật Padumuttara, không nằm trong số Tám mươi vị Thánh đệ tử A-la-hán Đại đệ tử. Điều này chỉ ra thực tế rằng việc hoàn thành Ba-la-mật vượt quá một trăm nghìn đại kiếp sau khi nhận được lời tiên tri cho Thánh đệ tử A-la-hán quả không đảm bảo một vị Thánh đệ tử A-la-hán được tính là một vị Thánh đệ tử A-la-hán Đại đệ tử hoặc được Đức Phật vinh danh là người đứng đầu về một khía cạnh hoặc phẩm chất nhất định. Trong vấn đề này, người ta nên đặt niềm tin tuyệt đối vào các nhà luận giải và không cần tìm kiếm bất kỳ điều kiện tiên quyết độc đáo nào để tạo nên một vị Thánh đệ tử A-la-hán Đại đệ tử. Điều này đã được giải thích trong Theragāthā Aṭṭhakathā như sau: –

“Thuật ngữ ‘Thánh đệ tử A-la-hán Đại đệ tử’ được gán cho những vị Thánh đệ tử A-la-hán của Đức Phật, những người đã cống hiến hết mình cho sự nghiệp mong muốn của họ từ xa xưa như thời Đức Phật Padumuttara, và do đó có địa vị vượt trội về quyết tâm; và có hành động trước đây vượt trội (pubbayoga); nhờ đó được trời phú cho sự phân biệt xuất sắc (paṭisambhidā) và đạt được các tầng thiền định, họ được gọi là chư Thánh đệ tử A-la-hán Đại đệ tử. Tương tự, những người được trời phú cho kiến thức tuyệt vời nhờ vào sự hoàn thành Ba-la-mật tuyệt vời được gọi là chư Thánh đệ tử A-la-hán Thượng thủ.” ¹⁵⁴

Về vấn đề này, nhiều khía cạnh thú vị liên quan đến chư Thánh đệ tử A-la-hán Thượng thủ và chư Thánh đệ tử A-la-hán Đại đệ tử, chẳng hạn như sự vượt trội trong việc thực hiện sự hầu hạ hoặc cống hiến tột độ của họ, cách thức số lượng của họ được ấn định, các thuộc tính đặc biệt và dấu hiệu cát tường của họ, v.v., có thể được thu thập từ Các quyết định linh tinh (Pakiṇṇaka Vinicchaya) của Theragāthā Aṭṭhakathā.

Tất cả các vị Thánh đệ tử A-la-hán nam khác ngoài Tám mươi vị Thánh đệ tử A-la-hán Đại đệ tử ở trên, bao gồm chư Tỳ-khưu và chư Sa-di, cần được lưu ý là chư Thánh đệ tử A-la-hán bình thường (pakati sāvaka).

Chư Thánh đệ tử A-la-hán nữ (Sāvikā)

Có hai vị Thánh đệ tử A-la-hán nữ đứng đầu: –

  • Tôn giả Ni Khemā, người đứng đầu về kiến thức; và
  • Tôn giả Ni Uppalavaṇṇa, người đứng đầu về thần thông.

Họ được gọi là Aggasāvikā.

Có hơn mười vị tỳ kheo ni đứng đầu như Tôn giả Ni Mahāpajāpatī Gotamī, xuất sắc về sự trưởng thành của trí tuệ (rattaññū), ³⁸ Tôn giả Ni Bhaddakaccānā (Bimbā Yasodharā), xuất sắc về thần thông (abhiññā), Tôn giả Ni Dhammadinnā, xuất sắc về giảng dạy Chánh pháp, v.v. Họ được gọi là Mahāsāvikā.

Tất cả các vị Thánh đệ tử A-la-hán nữ khác ngoài chư Thánh tỳ kheo ni lớn tuổi ở trên, bao gồm chư Tỳ-khưu Ni, chư Sa-di Ni và chư Thức-xoa-ma-na (người mới vào đạo), được gọi là chư Thánh đệ tử A-la-hán nữ bình thường (pakatisāvikā).

Mặc dù Therīgāthā Aṭṭhakathā đề cập đến ba hạng bậc Thánh đệ tử A-la-hán nữ – Aggasāvikā, Mahāsāvikā và Pakatisāvikā – nhưng chỉ có hai vị Aggasāvikā được nêu tên cụ thể, còn số lượng và tên của hai hạng bậc còn lại thì không được đưa ra.

Ngoài chư Tỳ-khưu, chư Tỳ-khưu Ni, chư Sa-di, chư Sa-di Ni và chư Thức-xoa-ma-na thuộc về sáu hạng bậc Thánh đệ tử A-la-hán đó, tức là Aggasāvaka, Mahāsāvaka, Pakatisāvaka, Aggasāvikā, Mahāsāvikā, Pakatisāvikā, cha của Đức Phật và mẹ của Đức Phật, những người đã đạt được Tuệ đạo và Tuệ quả cuối cùng giống như tất cả những người đạt được Đạo khác của thế giới loài người, chư Thiên hoặc chư Phạm thiên, đã phải hoàn thành Ba-la-mật cho địa vị đáng kính của họ trong hơn một trăm nghìn đại kiếp, cùng thời lượng cần thiết cho Thánh đệ tử A-la-hán Đại đệ tử.

Mười nam cư sĩ hộ trì (Upāsaka)

Hai anh em Tapussa và Bhallika, hai vị cư sĩ hộ trì đứng đầu trong việc quy y Đức Phật và Chánh pháp; ³⁹ gia chủ Anāthapiṇḍika, người đứng đầu về bố thí; gia chủ Citta của Macchikāsaṇḍika, người đứng đầu về giảng dạy Chánh pháp; Hatthaka Āḷavaka, người tuân thủ giới luật, đứng đầu trong bốn đối tượng hòa hợp; ⁴⁰ Mahānāma người Thích Ca, người đứng đầu về việc cúng dường những món ăn ngon; gia chủ Ugga, người đứng đầu về việc từ bỏ những thứ đáng yêu và phục vụ nhu cầu của Tăng đoàn; Sūrambaṭṭha, người đứng đầu về sự kiên định của niềm tin; Jīvaka thầy thuốc, người đứng đầu về sự tôn kính cá nhân; Nakulapitā, người đứng đầu về sự quen thuộc với Đức Phật.

Mười nữ cư sĩ hộ trì (Upāsikā)

Sujāta con gái của phú ông, người đứng đầu trong việc quy y Tam Bảo; Visākhā, người đứng đầu về bố thí, Khujjuttarā, người đứng đầu về học tập; Sāmāvatī, người đứng đầu về an trú trong thiền định về từ bi; Uttarā, người đứng đầu về năng lực đạt được thiền định; Suppavāsā, người đứng đầu về việc cúng dường những món ăn ngon; Suppiyā, người đứng đầu về việc chăm sóc chư Tỳ-khưu bị bệnh; Kātiyānī, người đứng đầu về sự kiên định của niềm tin; Nakulamātā, người đứng đầu về sự quen thuộc với Đức Phật; Kāḷī, người đứng đầu về sự kiên định của niềm tin ngay cả khi nghe nói.

Tất cả những vị cư sĩ hộ trì đó đã bắt đầu mong muốn, bằng lời nói, cho sự giác ngộ của họ từ thời Đức Phật Padumuttara, một trăm nghìn đại kiếp trước tính từ Kiếp hiện tại của chúng ta. Trong hai anh em Tapussa và Bhallika, người thứ hai đã trở thành một Tỳ-khưu và đạt được A-la-hán quả, nhưng vì ông đã giành được vinh dự đứng đầu trong số những người cư sĩ hộ trì trong việc quy y Đức Phật và Chánh pháp ngay cả trước khi trở thành một Tỳ-khưu, nên ông đã được liệt kê trong số mười người cư sĩ hộ trì lỗi lạc. Tapussa đã chứng đắc Nhập lưu với tư cách là một cư sĩ.

Xem chi tiết trong Bhallika Theragāthā Aṭṭhakathā.

Tất cả chúng sinh, cho dù là người, chư Thiên, chư Phạm thiên hay Sakka, hoặc những người hộ trì nổi tiếng như vua Bimbisāra và Visākhā, cũng phải hoàn thành Ba-la-mật một cách thích đáng.

Về vấn đề này, chúng ta phải xem xét Buddhavaṃsa, đặc biệt là trong phần Sumedha nhận được lời tiên tri, nơi nó được kể như sau: –

“Chúng tôi (những người đã tập trung tại đây, đến từ mười nghìn thế giới, có thể bỏ lỡ cơ hội đạt được giác ngộ dưới thời Đức Phật (Dīpaṅkara) hiện tại, nhưng chúng tôi sẽ đạt được giải thoát trong tương lai, tức là sau bốn A-tăng-kỳ kiếp và một trăm nghìn đại kiếp, trước sự hiện diện của Đức Phật Gotama khi vị Phật tương lai này đạt được Phật quả.

“Cũng giống như khi vượt sông, khi người ta bỏ lỡ một số điểm đánh dấu trên bờ bên kia, thì người ta có thể lấy một điểm khác ở hạ lưu làm điểm đến của mình, thì chúng ta cũng có thể bỏ lỡ sự giác ngộ dưới thời Đức Phật hiện tại; tuy nhiên, chúng ta sẽ, bốn A-tăng-kỳ kiếp và một trăm nghìn đại kiếp sau, đạt được giác ngộ trước sự hiện diện của (sammukhā) Đức Phật Gotama khi vị ẩn sĩ vĩ đại (Sumedha) đạt được Phật quả.” ¹⁵⁵

Như Pāṭha Jātaka Aṭṭhakathā trong Jātattakī Nidāna đã nói: –

“Khi nghe lời tiên tri của Đức Phật Dīpaṅkara, vô số người, chư Thiên và chư Phạm thiên đã vui mừng khi nghĩ đến vị ẩn sĩ vĩ đại Sumedha như là một vị Phật tương lai, một vị Phật sơ sinh, và họ rất vui mừng trước viễn cảnh giác ngộ của chính họ. Vì nếu một người muốn vượt sông, thì người đó có thể không thể bơi thẳng đến bờ bên kia của con sông đối diện với mình, nhưng người đó hoàn toàn có thể cập bến tại một số điểm ở hạ lưu sông. Cũng như vậy, ngay cả khi chúng ta không đạt được Đạo và Quả của nó dưới thời Đức Phật Dīpaṅkara, thì chúng ta sẽ có thể làm được như vậy trước sự hiện diện của Ngài khi Ngài, Sumedha, trở thành Đức Phật trong tương lai. Cầu mong chúng ta có thể làm được điều đó! Vì vậy, đám đông đã cầu nguyện.” ¹⁵⁶

Như mong muốn trong hai đoạn văn trên, đám đông thuộc về mười nghìn thế giới sau khi trải qua bốn A-tăng-kỳ kiếp và một trăm nghìn đại kiếp, đã đạt được giải thoát khỏi luân hồi dưới dạng một Tỳ-khưu hoặc là những người cư sĩ hộ trì, tức là với tư cách là người, chư Thiên và chư Phạm thiên.

Ý nghĩa của mong muốn được đám đông bày tỏ đã được Theragāthā Aṭṭhakathā bình luận như sau: –

“ Mong muốn của họ được thể hiện bằng những thuật ngữ như: ‘Chúng ta sẽ đạt được giác ngộ trước sự hiện diện của Đức Phật Gotama khi vị ẩn sĩ vĩ đại ở đây đạt được Phật quả,’ phát sinh từ tâm thức lành mạnh nhằm giải thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử, không thể nói là không đạt đến mức trở thành một điều kiện đủ cho Tuệ đạo ngay cả sau một khoảng thời gian dài như bốn A-tăng-kỳ kiếp và một trăm nghìn đại kiếp, tức là nó là một điều kiện đủ.” ¹⁵⁷

Mahāpadāna Sutta-ṭīkā giải thích thêm: –

“Buddhavaṃsa được Đức Phật Gotama thuyết giảng bắt đầu từ Đức Phật Dīpaṅkara thông qua (vasena) những vị chư Thiên và chư Phạm thiên, những người, đã tích lũy công đức bằng cách hoàn thành Ba-la-mật trong những khoảng thời gian tương đương với những khoảng thời gian của chư Thánh đệ tử A-la-hán Thượng thủ và chư Thánh đệ tử A-la-hán Đại đệ tử, đã không được hưởng lợi từ Đại trí tuệ của Đức Phật. Tuy nhiên, đối với Mahāpadāna Sutta này, Đức Phật Gotama đã kể lại câu chuyện về bảy vị Phật trước đây bắt đầu từ Vipassī, thông qua những vị chư Thiên và chư Phạm thiên đã có được công đức bằng cách hoàn thành Ba-la-mật trong những khoảng thời gian tương đương với những khoảng thời gian của chư Thánh đệ tử A-la-hán bình thường.” ¹⁵⁸

Buddhavaṃsa bắt đầu từ thời Đức Phật Dīpaṅkara và kết thúc với Đức Phật Kassapa, tổng cộng 25 vị Phật; trong khi Mahāpadāna Sutta bắt đầu từ Đức Phật Vipassī đến Đức Phật Kassapa, chỉ có 7 vị Phật. Tập trước bao gồm khoảng thời gian bốn A-tăng-kỳ kiếp và một trăm nghìn đại kiếp, trong khi tập sau chỉ bao gồm khoảng thời gian 91 đại kiếp. Lý do cho sự khác biệt này là phần lớn thính giả tại bài giảng về Buddhavaṃsa được tạo thành từ chư Thiên và chư Phạm thiên, những người đã bắt đầu mong muốn giác ngộ của họ và hoàn thành Ba-la-mật từ thời Đức Phật Dīpaṅkara bốn A-tăng-kỳ kiếp và một trăm nghìn đại kiếp trước đó, phù hợp để giác ngộ với tư cách là chư Thánh đệ tử A-la-hán Thượng thủ hoặc là chư Thánh đệ tử A-la-hán Đại đệ tử; trong khi phần lớn thính giả tại bài giảng về Mahāpadāna Sutta bao gồm chư Thiên và chư Phạm thiên, những người đã bắt đầu mong muốn giác ngộ của họ và hoàn thành Ba-la-mật chỉ từ thời Đức Phật Vipassī, 91 đại kiếp trước đó.

Xem xét tuyên bố trên, chúng ta có thể nói rằng trong số những người, chư Thiên và chư Phạm thiên đã bắt đầu thực hiện mong muốn giác ngộ của họ từ thời Đức Phật Dīpaṅkara, chắc hẳn đã có nhiều người đạt được giải thoát khỏi luân hồi dưới dạng một Tỳ-khưu hoặc là những người cư sĩ hộ trì, tức là với tư cách là người, chư Thiên hoặc chư Phạm thiên dưới thời Đức Phật Gotama thuyết pháp.

Theo đó, cần lưu ý rằng thực tế không có sự khác biệt về thời lượng hoàn thành Ba-la-mật đối với người mong muốn đạt được giác ngộ với tư cách là một Tỳ-khưu hoặc là một người cư sĩ hộ trì. Cả hai người mong muốn Giác ngộ chỉ cần hoàn thành thời lượng tối thiểu là hai hoặc ba khoảng thời gian Phật.

Một điểm quan trọng: Có một số vị Thánh đệ tử A-la-hán đã trở thành Tỳ-khưu ngay lập tức, tức là được trang bị đầy đủ các vật dụng cần thiết của một Tỳ-khưu khi được Đức Phật gọi, “Hãy đến, này Tỳ-khưu!” (ehi bhikkhu). Bây giờ, nếu ai đó mong muốn sự thuận lợi hạnh phúc như vậy, thì người đó phải trong những kiếp sống trước đây đã cúng dường ít nhất một bộ ba y vàng (ticīvara), nếu không phải là đủ bộ tám vật dụng cần thiết ⁴¹ cho một Tỳ-khưu, cho Đức Phật hoặc cho một vị Phật Độc Giác, hoặc cho một vị Thánh đệ tử A-la-hán, hoặc cho một người thế gian đạo đức (kalyāṇa puthujjana) hoặc cho một bảo tháp (cetiya) hoặc cho một Cây Bồ-đề. Bất kỳ ai thực hiện một sự cúng dường như vậy với mong muốn được Đức Phật gọi vào Giáo đoàn đều có thể có được lời cầu nguyện của mình được đáp ứng.

Về điểm này, chúng ta có thể tham khảo luận giải về Mahāpadāna Sutta, ¹⁵⁹ Mahāvagga và Phụ chú về nó. ¹⁶⁰

Việc một người phụ nữ không bao giờ có thể được gọi để gia nhập Giáo đoàn với tư cách là một Tỳ-khưu Ni ngay lập tức đã được ghi nhận trong Therīgāthā Aṭṭhakathā và Sāratthadīpanī-ṭīkā.

Tuyên bố này chỉ áp dụng cho những người phụ nữ mong muốn Giác ngộ đã đạt được giác ngộ với tư cách là phụ nữ trong kiếp sống cuối cùng của họ; đối với họ, việc cúng dường y vàng đã dẫn đến một số lợi ích đặc biệt trong kiếp sống cuối cùng, như được thể hiện qua câu chuyện về Visākhā và Hoàng hậu Mallikā, những người đã sở hữu bộ trang sức bằng ngọc độc đáo được gọi là “Cây nho lớn” (mahālatā). ⁴² Đó là quả báo tối đa có thể tích lũy từ công đức trong quá khứ của họ bằng cách cúng dường y. Tuy nhiên, nếu một người phụ nữ mong muốn Giác ngộ từ bỏ sự luyến ái của mình đối với giới tính của chính mình và mong muốn kiếp sống là nam giới dẫn đến vinh dự được gọi vào Giáo đoàn, với tư cách là ehi-bhikkhu, thì người đó có thể cúng dường tám vật dụng cần thiết của một Tỳ-khưu, trong trường hợp đó, mong muốn của người đó có thể được đáp ứng.

Có một số người đã trích dẫn sai một đoạn văn nhất định từ Āyatana Yamaka Mūla-ṭīkā ¹⁶¹ và nói rằng những người phụ nữ mong muốn Giác ngộ trong kiếp sống trước đây của họ không bao giờ đạt được A-la-hán quả và Niết-bàn, mà họ sẽ phải thay đổi giới tính của họ khi đó. Những tác giả này cho rằng việc thay đổi giới tính như vậy là điều kiện tự nhiên đối với tất cả những người phụ nữ mong muốn Giác ngộ trong kiếp sống cuối cùng của họ.

Khẳng định đó chỉ là một sự trích dẫn sai. Nó không đánh giá đúng đoạn văn: “Yā ca itthiyo…” ¹⁶² trong Indriya Yamaka, và đoạn văn: “Bhavantare hi tassa…” ¹⁶³ trong Phụ chú liên quan đến đoạn trích dẫn. Điều mà những đoạn văn đó muốn nói là những người phụ nữ mong muốn Giác ngộ không phải lúc nào cũng đạt được Niết-bàn với tư cách là phụ nữ bởi vì có quy luật tự nhiên mà theo đó một người nam có thể, do một số tội lỗi nghiêm trọng trong kiếp sống hiện tại của mình, biến thành phụ nữ, và một người phụ nữ có thể, do công đức to lớn của người đó trong kiếp sống hiện tại của mình, biến thành nam giới. Điều này là như vậy, một người phụ nữ mong muốn Giác ngộ, nếu được trời phú cho công đức đặc biệt trong kiếp sống cuối cùng của người đó, thì chắc chắn phải biến thành nam giới (chỉ ngụ ý những trường hợp hiếm hoi).

Để biết chi tiết, xem Niruttimañjūsā.

Trong đoạn trích dẫn hiện tại, cụm từ: “Buddhasāvakāviya devamanussa­brahmāṇo” chỉ ra rằng trong khi thực tế chỉ có năm hạng bậc đệ tử của Đức Phật là những người Thánh đệ tử A-la-hán của Đức Phật (Buddhasāvaka) và chư Thánh nhân (ariyasāvaka), tức là chư Tỳ-khưu, chư Tỳ-khưu Ni, chư Thức-xoa-ma-na, chư Sa-di và chư Sa-di Ni, những người đã đạt được Đạo và là những vị Thánh nhân thực sự, thì theo nghĩa rộng, những người chưa đạt được Đạo và chỉ là những người thế gian, tức là chư Tỳ-khưu, chư Tỳ-khưu Ni, chư Thức-xoa-ma-na, chư Sa-di, chư Sa-di Ni và những người cư sĩ, cho dù là người hay chư Thiên hay chư Phạm thiên, cũng được gọi là “chư Thánh đệ tử A-la-hán của Đức Phật” và “chư Thánh nhân.”

Như Luận giải về Aṅguttaranikāya (Nhất Tụ) đã giải thích: –

“Liên quan đến thuật ngữ ‘Ariyasāvaka’ này, có những người chỉ là chư Thánh nhân chứ không phải là chư Thánh đệ tử A-la-hán như chư Phật và chư Phật Độc Giác; có những người là chư Thánh đệ tử A-la-hán, nhưng không phải là chư Thánh nhân như những người hộ trì đã thiết lập niềm tin vào Tam Bảo nhưng chưa đạt được Quả của Đạo; có những người không phải là chư Thánh đệ tử A-la-hán cũng không phải là chư Thánh nhân như số lượng lớn những người không có niềm tin (titthiya); và có những người vừa là chư Thánh đệ tử A-la-hán vừa là chư Thánh nhân như những người con thực sự của Đức Phật (Sakyaputtiyo), những người đã hiểu Giáo pháp và đã đạt được Quả của Đạo. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện tại của Kinh này, thuật ngữ ‘Ariyasāvaka’ bao gồm tất cả những người đó, cho dù là Tỳ-khưu hay không, những người, do đã thông hiểu Chánh pháp (sutavā), được xếp vào loại chư Thánh đệ tử A-la-hán.” ¹⁶⁴

Những người cư sĩ hộ trì đã đạt được Đạo cũng được gọi là chư Thánh đệ tử A-la-hán theo nghĩa rộng của nó, như được giải thích trong Milindapañha: –

“Hỡi Đại vương! Trong thành Sāvatthi, có những người nam và nữ hộ trì đã đạt đến tầng thứ ba của Giác ngộ, đã đạt được Quả Bất lai (anāgāmi), với số lượng năm mươi triệu, năm trăm năm mươi ba nghìn người, tất cả đều chỉ sống cuộc sống cư sĩ; và trong thành Rājagaha, có những vị Thánh nhân, không ai trong số họ là Tỳ-khưu, mà chỉ là những người cư sĩ hộ trì thuộc cả hai giới, lên tới năm triệu ba trăm nghìn người.” ¹⁶⁵

Một câu hỏi có thể được đặt ra

CÂU HỎI: Kích thước của đám đông được chứng minh là có thể tiếp cận được với sự chỉ dạy như được chỉ ra bởi hai thuật ngữ được sử dụng trong cụm từ “Buddha­savāka viya devamanussabrahmānopi” là bao nhiêu?

TRẢ LỜI: Phụ chú về Sīlakkhandha Vagga, giải thích Soṇadaṇḍa Sutta nói: –

Vì trong hai mươi tư lần, có vô số người, chư Thiên và chư Phạm thiên đã có đặc ân được uống thuốc trường sinh bất tử của Quả của Đạo; và vì có một nghìn tỷ người, chư Thiên và chư Phạm thiên đã có đặc ân được uống thuốc trường sinh bất tử của Quả của Đạo, trong vô số lần, nên Đức Thế Tôn, do sự đào tạo vô song mà Ngài đã mở ra cho chúng sinh, được gọi là bậc Thầy của chúng sinh, những người đã sẵn sàng tiếp nhận sự chỉ dạy của Ngài và do đó đã chín muồi cho sự giác ngộ.” ¹⁶⁶

Theo lời giải thích của vị phụ chú đó, tổng số hai mươi tư A-tăng-kỳ người đã đạt được giác ngộ trong hai mươi tư dịp trọng đại và vô số chúng sinh đã có may mắn được hiện diện trong vô số lần Đức Phật thuyết pháp, đại diện cho quy mô của những người đã được chứng minh là có thể tiếp cận được với sự chỉ dạy.

Trong Samantabhaddikā, còn được gọi là Anāgatavaṃsa, người ta nói rằng trong khi Đức Phật đang trú ngụ trong Nhà Báu vật (Ratanāghara) trong bảy ngày ngay sau khi đạt được Phật quả, Ngài đã thấy trước rằng hai mươi tư A-tăng-kỳ, bốn nghìn tỷ và bảy trăm chúng sinh dễ bảo sẽ đạt được giải thoát khỏi luân hồi. ¹⁶⁷

Trong Sotattakī và Tathāgatuppatti, người ta nói rằng thông thường đối với tất cả các Giáo pháp của Đức Phật, mỗi Giáo pháp đều dẫn đến sự giải thoát của hai mươi tư A-tăng-kỳ, sáu nghìn tỷ và một trăm nghìn chúng sinh. ¹⁶⁸

Jinālaṅkāra, và Phụ chú của nó cũng nói rằng hai mươi tư A-tăng-kỳ chúng sinh đạt được giải thoát dưới thời mỗi vị Phật thuyết pháp. ¹⁶⁹

Không thành vấn đề nếu một số nhất định ít hơn hoặc nhiều hơn một chút – Appakamūnamadhikaṃ vā gaṇanūpagaṃ na hoti. Tuy nhiên, bản thân thuật ngữ A-tăng-kỳ (asaṅkhyeyya) cần được xem xét kỹ lưỡng.

Có một số trường phái tư tưởng cho rằng thuật ngữ này biểu thị cùng một số lượng vô hạn như được sử dụng liên quan đến thời lượng thời gian (kālavāsī). Do đó, họ coi một A-tăng-kỳ giống như thuật ngữ mô tả khoảng thời gian vô hạn trong Sotattakī và Apadāna Aṭṭhakathā, là một số nhất định đạt được dưới dạng bội số của mười (dasaguṇita). Quan điểm này bị Cariyāpiṭaka Aṭṭhakathā bác bỏ, trong đó nói rằng A-tăng-kỳ là một số lượng không thể tính toán được chứ không phải là một giá trị số có ý nghĩa đặc biệt như một số người nói. ¹⁷⁰

Quan điểm này về A-tăng-kỳ như một con số không thể tính toán được (gaṇanapathavītivatta) cũng đã được Jinālaṅkāra-ṭīkā ủng hộ. ¹⁷¹

Udana Aṭṭhakathā và các luận giải khác cũng mô tả số lượng đạt được Đạo trong những dịp trọng đại đó chỉ đơn thuần là “Không thể đếm được” (gaṇanā natthi), “Vô lượng” (gaṇana paricchedo natthi), “Không thể tính toán được” (gaṇanapatham vitivattā), “Vượt quá khả năng đếm” (gaṇanapathaṃ attikkantā), v.v. ¹⁷² Trong Milindapañha, người ta nói: “Vô số chư Thiên đã nhìn thấy ánh sáng của Chánh pháp (gaṇanapathamatītānaṃ devatānaṃ dhammābhisamayo).”

Trong Aṅguttaranikāya Aṭṭhakathā, cùng một ý tưởng về một số lượng không thể tính toán được được thể hiện là vô hạn (asaṅkhyeyya), ¹⁷³ như trường hợp của Suttanipāta Aṭṭhakathā và Khuddakapāṭha Aṭṭhakathā về Maṅgala Sutta. ¹⁷⁴ Do đó, cần lưu ý rằng các thuật ngữ “Gaṇanaparicchedo natthi,” v.v., được đề cập ở trên, là từ đồng nghĩa của asaṅkhyeyya. Điều này là như vậy, một ví dụ về những con số không thể đếm được như vậy được biểu thị là một A-tăng-kỳ, hai ví dụ là hai A-tăng-kỳ, v.v., khi có dịp.

Một câu hỏi có thể được đặt ra

CÂU HỎI: Những dịp đó phát sinh khi nào?

TRẢ LỜI: Vì Milindapañha trích dẫn nhiều luận giải và phụ chú khác nhau về chủ đề này, nên chúng ta có thể tham khảo danh sách mười hai dịp sau đây khi Đức Phật thuyết giảng các bài kinh được đề cập trong đó: –

  • Mahārāhulovāda Sutta
  • Mahāmaṅgala Sutta
  • Samacitta Sutta
  • Parābhava Sutta
  • Purābheda Sutta
  • Kalahavivāda Sutta
  • Cūḷabyūha Sutta
  • Tuvaṭaka Sutta
  • Sāriputta Sutta
  • Dhammacakka Sutta
  • Buddhavaṃsa-desanā
  • Mahāsamaya Sutta.

Chúng ta có thể thêm ba bài kinh sau đây như được đề cập trong Aṭṭhakathā: nhân dịp: –

  • Cūḷarāhulovāda Sutta
  • Mahābyūha Sutta
  • Sammāparibbājanīya Sutta

Như vậy, có tổng cộng mười lăm dịp mà vô số chúng sinh đạt được giác ngộ, tức là mười lăm A-tăng-kỳ chúng sinh.

Sau đó, có sáu dịp sau đây, nơi hàng chục triệu người đạt được giác ngộ: –

  • Trình bày các năng lực thần kỳ của Đức Phật tại Cây Xoài của Kanda: hai trăm triệu;
  • Thuần hóa voi Dhanapāla: chín trăm triệu;
  • Pārāyana Sutta: mười bốn trăm triệu;
  • Sakkapañha Sutta: tại hang Indasāla, tám trăm triệu;
  • Khi A-tỳ-đạt-ma được dạy: tám trăm triệu;
  • Khi Đức Phật giáng trần từ Tāvatiṃsa: ba trăm triệu.

Sau đó, có mười lăm dịp sau đây mà tám mươi tư nghìn người nghe đã đạt được giác ngộ: –

  • Bài giảng cho Sumana người bán hoa;
  • Bài giảng cho Garahadinna;
  • Bài giảng cho gia chủ Ānanda;
  • Bài giảng cho Jambuka;
  • Bài giảng cho Maṇḍūka, con trai của vị Thiên;
  • Bài giảng cho Maṭṭhakuṇḍali, con trai của vị Thiên;
  • Bài giảng cho Sulassā;
  • Bài giảng cho Sirimā;
  • Bài giảng cho con gái người thợ dệt;
  • Bài giảng cho Cūḷasubhaddā;
  • Bài giảng cho Sāketa Bà-la-môn;
  • Bài giảng tại Sunāparanta;
  • Bài giảng cho Sakka để trả lời các câu hỏi của Ngài;
  • Bài giảng cho những con ma đói bên ngoài các bức tường (Tirokuḍḍa Sutta). ⁴³
  • Khi Ratana Sutta (Paritta) được dạy.

Lưu ý: Số lượng những người đạt được giác ngộ khác nhau một chút giữa những gì được đưa ra trong Milindapañha và những gì được đưa ra trong các luận giải khác nhau về Kinh tạng.

Có thể thấy rằng tất cả những danh sách đó không lên đến hai mươi tư A-tăng-kỳ như Sīlakkhandha-ṭīkā và các kinh văn tương tự đã tuyên bố, tuy nhiên, tuyên bố của họ về số lượng không thể tính toán được những người đạt được giác ngộ không nên bị bác bỏ ngay lập tức. Vì ngay cả trong các luận giải cũng có những gợi ý ủng hộ tuyên bố đó. Cụ thể là: –

Trong Mahāpadāna Sutta Aṭṭhakathā, chúng ta có: –

(a) “Cũng giống như có bốn loại hoa sen, có bốn loại người (puggala), đó là: ugghaṭitaññū, vipañcitaññū, neyya và padaparama.

(b) “Trong bốn người đó, người có thể nắm bắt Tứ Diệu Đế chỉ bằng cách nghe Chánh pháp về bản chất được gọi là ‘ugghaṭitaññū.’

(c) “Người có thể nắm bắt Tứ Diệu Đế chỉ bằng cách nghe một bài thuyết giảng ngắn gọn về Chánh pháp được gọi là ‘vipañcitaññū.’

(d) “Người có thể nắm bắt Tứ Diệu Đế một cách dần dần sau khi được dạy kinh văn hoặc luận giải về nó; và suy ngẫm về Chánh pháp với sự chú ý thích hợp; được hỗ trợ bởi một số người bạn có năng lực trong Chánh pháp, người dạy pháp hành và người mà người đó hầu hạ ngày đêm; được gọi là ‘neyya.’

(e) “Người mà, bất chấp việc học nhiều kinh văn và luận giải, và phụ chú, ghi nhớ chúng nhiều, nghe nhiều bài thuyết giảng về chúng và tự mình dạy và viết nhiều về chúng, không thể nắm bắt Tứ Diệu Đế, được gọi là ‘padaparama.’

(f) “Khi Đức Phật xem xét bốn loại đó, họ đang sống trong mười nghìn thế giới, giống như những bông hoa sen trong ao, trong đó ‘ugghaṭitaññū’ giống như những bông hoa đã nở; ‘vipañcitaññū’, giống như những bông hoa sắp nở vào ngày hôm sau; ‘neyya’, giống như những bông hoa sắp nở vào ngày sau đó; và ‘padaparama’, giống như những bông hoa sắp bị cá và rùa ăn thịt.

(g) “Khi Đức Phật xem xét chúng sinh như vậy, Ngài cũng biết rằng một số chúng sinh chỉ có một ít bụi bẩn của phiền não che khuất tầm nhìn của họ về Chân lý, và một số chúng sinh khác bị che khuất một cách dày đặc. Ngài cũng đã thấy bằng mọi cách có thể (sabbākārato) mức độ của những người dễ dàng tiếp thu lời dạy của Ngài, tức là ‘ugghaṭitaññū.’

(h) “Trong số chúng sinh, ba loại, tức là ugghaṭitaññū, vipañcitaññū và neyya, có khả năng nhận được lợi ích của Giáo pháp bằng cách đạt được Quả của Tuệ đạo ngay tại đây và bây giờ; trong khi đối với loại padaparama, Giáo pháp sẽ đóng vai trò như một số ấn tượng mạnh mẽ trong tâm trí của họ (vāsanā) để nó có thể dẫn đến sự giác ngộ trong hai hoặc ba kiếp sống tiếp theo: Đức Phật đã thấy như vậy. Khi Ngài thấy như vậy, Ngài đã có ý định dạy Chánh pháp. Sau đó, Ngài đã chia tất cả chúng sinh trong ba cõi (bhūmi) là người, chư Thiên và chư Phạm thiên thành hai loại: những người sẽ đạt được giác ngộ ngay tại đây và bây giờ, và những người sẽ không làm được như vậy ngay tại đây và bây giờ.

(i) “Trong số chúng sinh đó, sau khi loại bỏ những người không xứng đáng được giải thoát khỏi luân hồi ngay tại đây và bây giờ, Đức Phật đã xem xét kỹ lưỡng bằng Phật tuệ những người đã chín muồi cho sự giác ngộ theo đặc điểm đạo đức của họ (carita) và tính toán rằng rất nhiều người trong số họ có ái dục (rāga) là bản chất nổi bật của họ; rất nhiều người có sân hận (dosa); rất nhiều người có si mê (moha); rất nhiều người có sự lan man (vitakka); rất nhiều người có niềm tin (saddhā); và rất nhiều người có trí thông minh (buddhi), tương ứng. Sáu loại tính khí đó, Đức Phật cho rằng nên làm cơ sở để giảng dạy Chánh pháp.” ¹⁷⁵

Trong đoạn trích dẫn trên, thuật ngữ “Etattakā” như được chứa đựng trong cụm từ, “Etaṃ parimānaṃ etesanti ettatākā,” Đức Phật đã thấy trước số lượng thực tế thuộc về mỗi nhóm hoặc loại người. Cần lưu ý rằng việc tính toán này của Đức Phật chắc hẳn là điều mà Sīlakkhandha-ṭīkā và các kinh văn tương tự đã dựa vào như là thẩm quyền của họ. Do đó, người ta không cần phải nghi ngờ về tính chính xác của chúng.

Hết phần Giải đáp Câu hỏi Thứ Mười Sáu

Giải Đáp Các Câu Hỏi Còn Lại

Bốn câu hỏi, từ câu thứ mười sáu đến câu thứ hai mươi, sẽ được trả lời cùng nhau. Về nơi xuất hiện của chư Phật, chư Phật Độc Giác và chư Thánh đệ tử A-la-hán, một vị Phật tương lai đã nhận được lời tiên tri chỉ xuất hiện trong thế giới của chúng ta; có mười tám nơi mà một vị Phật tương lai như vậy không xuất hiện, theo luận giải, trong đó nói: “Họ không bao giờ xuất hiện trong bất kỳ thế giới nào khác ngoài thế giới này” (Na aññaṃ cakkavāḷaṃ saṅkamanti). Điều đó có nghĩa là một vị Bồ tát đã nhận được lời tiên tri sẽ không được tái sinh trong bất kỳ thế giới nào khác.

Trước khi nhận được lời tiên tri, một vị Bồ tát có thể được sinh ra trong một thế giới khác, có lẽ trong những kiếp sống trước đó.

Về việc liệu một vị Bồ tát sau khi nhận được lời tiên tri, cho đến kiếp sống cuối cùng của mình, có thể được tái sinh ở các châu lục khác ngoài Jambudīpa hay không, các bậc thầy đều im lặng. Tuy nhiên, do sức mạnh của công đức tích lũy từ nỗ lực tối cao (Mahābhinīhāra) và sự kiên định của mục đích của vị Bồ tát để hoàn thành Ba-la-mật – các châu lục khác không phù hợp với mục đích đó – nên rất khó có khả năng Ngài được tái sinh ở bất kỳ châu lục nào trong số đó, ngay cả trong thế giới này.

Sự kiên định của vị Bồ tát trong việc hoàn thành Ba-la-mật được vị luận sư nói đến liên quan đến Mahāpadāna Sutta như sau: –

“Ngoại trừ kiếp sống áp chót khi một vị Bồ tát được tái sinh vào cõi trời Tusita, bất cứ khi nào Ngài được tái sinh vào cõi trời hoặc cõi Phạm thiên, nơi mà tuổi thọ là vô cùng lớn, thì Ngài không bao giờ sống đến hết tuổi thọ được ấn định, mà mong muốn chết ⁴⁴ để trở lại thế giới loài người. Lý do chỉ đơn giản là: hầu như không có cơ hội nào trong những cõi vô cùng may mắn đó để Ngài hoàn thành Ba-la-mật. Tuy nhiên, trong quá trình hoàn thành Ba-la-mật, một vị Bồ tát có thể hành xử theo những cách thiện lành đến mức có lúc Ngài tự đánh giá rằng kiếp sống áp chót hiện đã đến với Ngài; và theo đó, trước kiếp sống cuối cùng là một con người khi Ngài sắp trở thành Đức Phật, Bồ tát Vipassī đã trú ngụ trong cõi trời Tusita đến hết tuổi thọ ở đó.” ¹⁷⁶

Cariyāpiṭaka Aṭṭhakathā giải thích thêm: –

(a) Bắt đầu từ kiếp sống đó của vị Bồ tát khi Ngài bắt đầu mong muốn Phật quả cho đến kiếp sống cuối cùng của Ngài, không có một kiếp sống nào mà Ngài hoàn toàn không hoàn thành Ba-la-mật bắt đầu từ bố thí. Đây là quy luật tự nhiên chi phối mọi vị Bồ tát đã nhận được lời tiên tri chắc chắn (niyatipatitānaṃ).

(b) Hơn nữa, chừng nào vị Bồ tát chưa thành thạo các hành động có chủ ý và hậu quả của chúng, thì những nỗ lực của họ trong việc hoàn thành Ba-la-mật vẫn còn thiếu sót ở mức độ ít nhiều. Tuy nhiên, khi họ đã thành thạo hoàn toàn các hành động có chủ ý và ý nghĩa của chúng, bắt đầu từ điểm đó, những nỗ lực của họ luôn được đánh dấu bằng sự thực hiện nghiêm túc, kiên trì với sự kỹ lưỡng mà sự giác ngộ yêu cầu.” ¹⁷⁷

Từ những lời giải thích trước đó, có thể lưu ý rằng ba châu lục khác không phải là nơi thích hợp cho sứ mệnh tích lũy công đức của một vị Bồ tát; do đó, chúng không phải là loại nơi mà chư Thánh nhân phát triển, nơi chư Phật xuất hiện, nơi chư Phật tương lai được sinh ra.

Liên quan đến Valāhaka Jātaka (Dukanipāta), Đức Phật Gotama tương lai đã được tái sinh ở Sīhala (Sri Lanka), điều này chỉ ra rằng một vị Bồ tát có thể được tái sinh ở bất kỳ nơi nào của Jambudīpa, chẳng hạn như trên một hòn đảo nhỏ hoặc trong Rừng Himavanta, v.v. Quy luật tương tự cũng nên được áp dụng trong trường hợp của chư Phật Độc Giác tương lai, chư Thánh đệ tử A-la-hán Thượng thủ tương lai và chư Thánh đệ tử A-la-hán Đại đệ tử tương lai đã nhận được lời tiên tri.

Điều này cũng được nêu trong Mahāpadāna Sutta-ṭīkā là: “Yasmā purima­buddhānaṃ, v.v.” ¹⁷⁸

Một câu chuyện được kể, trong sáu câu kệ, chẳng hạn như: “Sāmākapattodana mattameva, v.v.” trong Kinh, về một vị Thánh đệ tử A-la-hán tương lai nào đó đã cúng dường một lượng nhỏ gạo thô làm thức ăn bố thí cho một vị Phật Độc Giác, và được truyền cảm hứng bởi kiến thức xuất thế gian của vị Phật Độc Giác, ông ta đã mong muốn rằng mình được tái sinh cùng với một vị Thánh nhân như vậy, và rằng ông ta sẽ không còn bất kỳ sự luyến ái nào đối với ba cõi. Lời cầu nguyện này, chỉ hướng đến sự giải thoát khỏi luân hồi, đã dẫn đến việc ông ta được tái sinh ở Uttarakuru, lục địa phía bắc trong một nghìn kiếp sống và cũng trong cõi trời Tāvatiṃsa trong một nghìn kiếp sống, sau đó ông ta đã đạt được giải thoát dưới thời Đức Phật Gotama. Câu chuyện này chỉ ra rằng nếu một châu lục nhất định là sở thích của một vị giác ngộ tương lai, chẳng hạn như một vị Thánh đệ tử A-la-hán tương lai, thì việc tái sinh ở đó là có thể xảy ra. Hơn nữa, không có bậc thầy nào loại trừ khả năng tái sinh ở các châu lục khác miễn là họ còn khá non nớt, tức là trước khi nhận được lời tiên tri.

Có một đoạn trích nhất định trong các kinh văn như Mahāparinibbāna Sutta, ¹⁷⁹ mô tả cách Đức Phật đôi khi đến thăm các thế giới khác để dạy Chánh pháp, và các luận giải về Mahāvagga Suttanta, Majjhimapaṇṇāsa và Aṅguttaranikāya giải thích ý nghĩa của đoạn trích đã nói như sau: –

“Mục tiêu của Đức Phật khi đi và dạy Chánh pháp cho cư dân của các thế giới khác là gì, khi thấy rằng họ không có chút ý niệm nào về việc vị thầy đó là ai – cho dù Ngài là con người hay là chư Thiên? Câu trả lời cho câu hỏi này là: Đức Phật đã làm như vậy để cho những cư dân đó ít nhất có được một số ấn tượng trong tâm trí của họ. Vì, ngay cả khi nghe bài giảng mà không hiểu ý nghĩa của nó, thì chính trải nghiệm đó sẽ, vào một thời điểm nào đó trong tương lai, tức là những kiếp sống tương lai của họ, giúp ích cho họ như một ấn tượng mạnh mẽ giúp ích cho việc hiểu Chánh pháp. Vì vậy, Đức Phật đã dạy vì lợi ích tương lai của họ.”

Được truyền cảm hứng bởi những lời dạy của Đức Phật, những cư dân đó sẽ qua đời và được sinh lên cõi trời, từ đó, trong kiếp sống tiếp theo, họ sẽ, vào đúng thời điểm, được tái sinh ở Jambudīpa, và, sau khi có được những điều kiện cần thiết để trở thành những người đạo đức, họ sẽ hoàn thành Ba-la-mật cho đến khi họ đạt được giác ngộ, với tư cách là chư Thánh đệ tử A-la-hán, chư Phật Độc Giác hoặc chư Phật, tùy theo mong muốn và công đức của họ.

Điều đó quả thực là như vậy. Trong luân hồi vô thủy, không một chúng sinh nào có thể nói là thuộc về thế giới này hay thế giới khác. Tất cả chỉ là trôi dạt khắp nơi khi sự luyến ái của họ đối với sự tồn tại (bhavanikanti) quy định cho họ.

Tuyên bố trên đã được chứng minh bằng câu chuyện về Rohitassa, người đã lên đường tìm kiếm điểm kết thúc của thế giới. Ông ta đã bay bằng thần thông và sau khi đi qua một số thế giới, tuổi thọ của ông ta đã cạn kiệt; sau khi chết, ông ta được tái sinh trong thế giới này mà ông ta đã luyến ái.

Bình luận về Anamatagga Saṃyutta, vị luận sư nói: “Chúng sinh khi chết có thể đi từ thế giới này sang thế giới khác, và ngược lại.” ¹⁸⁰

Đây là một cuộc khảo sát quan trọng về khả năng hoặc không có khả năng của ba hạng bậc mong muốn Giác ngộ, tức là đối với Thánh đệ tử A-la-hán quả, đối với Phật Độc Giác Bồ-đề và đối với Chánh Biến Tri để họ tái sinh sau lời tiên tri, ở những nơi khác ngoài thế giới này và châu lục này, đặc biệt hơn là tiểu lục địa này được gọi là Trung Quốc (Majjhimadesa).

Có ba khu vực của Đức Phật, đó là:

  • Visaya-khetta, nơi mà Tuệ giác của Đức Phật có thể mở rộng, đó là một thế giới vô hạn;
  • Āṇā-khetta, bao gồm một nghìn tỷ thế giới mà lời nói của Đức Phật có tác dụng mạnh mẽ, đặc biệt là các bài kinh Paritta;
  • Jātikhetta, khu vực bao gồm mười nghìn thế giới, nơi một vị Phật có thể được tái sinh trong kiếp sống cuối cùng của mình.

Trong số ba khu vực đó, chỉ có ở khu vực cuối cùng mà một vị Bồ tát trong kiếp sống cuối cùng của mình mới có thể được sinh ra, và trong số mười nghìn thế giới đó, chỉ có Jambudīpa này là nơi thích hợp, và trong châu lục này, chỉ có Trung Quốc với chu vi chín do tuần là Ariya-bhūmi, nơi chư Phật, chư Phật Độc Giác, chư Thánh đệ tử A-la-hán Thượng thủ, một số vị Thánh đệ tử A-la-hán Đại đệ tử và chư Thánh đệ tử A-la-hán bình thường có thể được sinh ra.

Điều này được nêu trong các luận giải về Dīghanikāya, Majjhimanikāya, Aṅguttaranikāya và Saṃyuttanikāya như sau: “Manussaloke pi… v.v.” ¹⁸¹

Có một số vị Thánh đệ tử A-la-hán Đại đệ tử, trong số tám mươi vị, được sinh ra bên ngoài Trung Quốc, chẳng hạn như Tôn giả Puṇṇa của Sunāparanta và Tôn giả Mahākappina. Đối với chư Thánh đệ tử A-la-hán bình thường, hiển nhiên là một số vị có thể được sinh ra bên ngoài Trung Quốc.

Bây giờ, cái gọi là Trung Quốc có nghĩa là gì?

Theo Vinaya Mahāvagga ¹⁸² đó là vùng đất có ranh giới: –

  • Phía Đông giáp cây Sa la lớn mọc ở ngoại ô thị trấn Gajaṅgala;
  • Phía Đông Nam giáp sông Sallavatī;
  • Phía Nam giáp thị trấn Setakaṇṇika;
  • Phía Tây giáp làng Bà-la-môn Thūṇa; và
  • Phía Bắc giáp núi Usīraddhaja.

Tuy nhiên, các luận giải gọi toàn bộ Jambudīpa bao gồm cả Sīhala và các đảo nhỏ là Trung Quốc. Ví dụ, Aṅguttaranikāya Aṭṭhakathā nói: “Api ca upādāya… v.v.,” ¹⁸³ và Phụ chú về nó giải thích thêm: “Upādāyā pi… v.v.” ¹⁸⁴

Suttanipāta Aṭṭhakathā, Khuddakapāṭha Aṭṭhakathā, bình luận về Maṅgala Sutta, nói: “Patirūpadesavāso nāma… v.v.” ¹⁸⁵

Từ các luận giải trên, chúng ta có thể trả lời Câu hỏi này bằng cách nói rằng tất cả chư Phật, chư Phật Độc Giác, chư Thánh đệ tử A-la-hán Thượng thủ, chư Thánh đệ tử A-la-hán Đại đệ tử và chư Thánh đệ tử A-la-hán bình thường chỉ được sinh ra ở Trung Quốc. Điều này được nói liên quan đến cõi người hoặc thế giới loài người, tức là đối với con người. Vì liên quan đến cõi trời và cõi Phạm thiên, Trung Quốc là một thuật ngữ dùng để chỉ mười thế giới tạo thành Jāti-khetta. Jāti-khetta của mười nghìn thế giới đã được đề cập trong văn học luận giải, ghi lại những trường hợp sau đây. Chư Thiên và chư Phạm thiên sống trong mười nghìn thế giới: –

  • Tập trung nhân dịp Đức Phật Gotama tương lai nhận được lời tiên tri;
  • Tập trung khi vị Bồ tát thực hiện mong muốn Phật quả của mình; và khi Ngài được thụ thai trong bụng mẹ của Hoàng hậu Māyā Devī;
  • Trong thời kỳ mang thai chín tháng, bốn mươi nghìn vị vua của chư Thiên Caturmahārājika đã canh giữ người mẹ hoàng gia;
  • Chư Thiên và chư Phạm thiên sống trong mười nghìn thế giới tập trung tại nơi sinh của Hoàng tử Siddhattha, vị Bồ tát, tại thời điểm từ bỏ vĩ đại và tại thời điểm đạt được Phật quả;
  • Chư Thiên và chư Phạm thiên sống trong mười nghìn thế giới đứng đầu là Phạm thiên Sahampati đã cùng nhau đến trước Đức Phật, đang trú ngụ dưới gốc Cây Bồ-đề của Người chăn gia súc, để thỉnh cầu Ngài dạy Chánh pháp cho thế gian;
  • Từ thời điểm bài giảng đầu tiên, tức là Dhammacakka Sutta, và tất cả các bài giảng sau đó, cho đến thời điểm cuối cùng của sự tồn tại của Giáo pháp của Đức Phật khi xá lợi của Đức Phật sẽ bị tan rã bởi yếu tố lửa hiện tượng, chư Thiên và chư Phạm thiên sống trong mười nghìn thế giới, thường tập trung và đạt được tuệ đạo với số lượng lớn trong mỗi dịp như vậy.

Hết phần Giải đáp các câu hỏi còn lại

Sau khi đã đặt ra hai mươi câu hỏi như trên, như đã cam kết lúc ban đầu, vị đại sư đã kết thúc bài luận của mình bằng cách khuyên nhủ những người trả lời tương lai hãy đào sâu vào tất cả các loại kinh điển bao gồm Kinh, Luận giải, Phụ chú, v.v., và nỗ lực hết mình, gác lại mọi công việc khác. Trong đó, Ngài cũng giải thích vị trí của mình bằng những thuật ngữ như: –

“Thông thường, người hỏi… (Mayaṃ codakānāma…)”

Ngoài ra, đó là thói quen của những người khôn ngoan là khen ngợi người đáng khen và chê trách người đáng chê, do đó, người hỏi ca ngợi người trả lời có năng lực bằng những thuật ngữ đầy hào hứng như “người mang ngọn cờ Giáo pháp của Đức Phật”, v.v., và chê bai kẻ giả danh bằng những thuật ngữ sôi nổi như “gốc cây”, v.v.

Hết phần Giải thích về Con đường của Người khôn ngoan

Kết Luận

Hiện nay có chư Tỳ-khưu Trưởng lão, tức là những vị đã thọ giới trên 10 năm, chư Tỳ-khưu trung niên từ 5 đến 10 năm tuổi đạo và chư Tỳ-khưu mới thọ giới dưới 5 năm, những người thông thạo Tam tạng, tức là Kinh tạng, Luật tạng và A-tỳ-đạt-ma; và hầu hết trong số họ đều có được kiến thức uyên bác (pabhāva nibaddhā) nhờ vào sức mạnh trí tuệ (byattibala) của vị đại sư của chúng ta, Ngài Sankyaung Sayādaw, người được ban tặng danh hiệu hoàng gia Sudassanavara-dhammasāmi-mahādhamma-rājādhirājaguru.

Là một trong những vị Tỳ-khưu uyên bác thuộc ba cấp bậc thâm niên từng là học trò của vị đại sư, người đã quen với việc giải quyết những vấn đề hóc búa chứa đựng trong kinh, luận giải, phụ chú, v.v., và là người không nao núng trước những thăng trầm của cuộc sống.

Tôi, Ñāṇābhivaṃsa, giảng sư cao cấp nhất về Tam tạng trong tu viện của chúng ta, đã cung kính hầu hạ dưới chân vị đại sư, trong những trang trước, đã giải quyết hai mươi câu hỏi uyên bác do vị đại sư đặt ra. Đối với tác phẩm này của tôi, được viết vào năm 1241 theo lịch Miến Điện khi tôi đã hoàn thành 14 tuổi hạ (vassa) trong đời sống xuất gia, tôi đã tạo được công đức to lớn. Nhờ công đức đó: –

Cầu mong tất cả những người cai trị, được thúc đẩy bởi mối quan tâm chân thành về phúc lợi của người dân, hãy mở rộng sự bảo vệ của họ trên toàn thế giới phù hợp với chánh nghĩa. Cầu mong chúng sinh luôn có chánh niệm, cẩn thận về hành vi tốt và đạt được, tùy theo nghiệp của họ, mục tiêu của họ bằng cách giác ngộ trong bất kỳ hạng bậc nào trong ba hạng bậc. Đây là lời cầu nguyện cuối cùng của tôi. ¹⁸⁶

Hết kinh Sách Chỉ Nam Ba-la-mật (Pāramī Dīpanī)

Chuyển ngữ từ Anh sang Việt bởi Soṇa Thiện Kim, có dùng công cụ Gemini Advanced và ChatGPT Plus hỗ trợ

Chú thích

  1. Vui lòng xem Tài liệu tham khảo Kinh văn Pāḷi. Sau đây, tất cả các tài liệu tham khảo về kinh văn Pāḷi trong chú thích cuối trang được đưa ra là 001, 002, 003, v.v.

  2. Asaṅkhyeyya: không thể tính toán được, vô số; một khoảng thời gian mênh mông.

  3. Kappa: một chu kỳ thời gian, được tính toán liên quan đến sự sống của cá nhân và vũ trụ. Các kiếp (kappa) thuộc ba loại chính, đó là: antara-kappa, asaṅkhyeyya-kappa và mahā-kappa. Khoảng thời gian mà tuổi thọ của con người tăng từ mười năm (do hành vi tốt và lòng tốt) đến vô cùng và sau đó giảm (do vô đạo đức và xấu xa) xuống còn mười năm, được tính là một kiếp trung gian (antara-kappa). Sáu mươi tư antara-kappa của thế giới loài người được gọi là một A-tăng-kỳ kiếp (asaṅkhyeyya-kappa); bốn A-tăng-kỳ kiếp tạo thành một đại kiếp (mahā-kappa). Trong bối cảnh này, mahā-kappa được hiểu là đại kiếp.

  4. Vyākaraṇa: Bất cứ khi nào một người tìm kiếm Chân lý nghiêm túc đạt đến một giai đoạn phát triển tâm linh nhất định, Đức Phật đương thời thường tiên tri khi nào và trong hoàn cảnh nào người đó sẽ đạt được giác ngộ; điều này là không thể sai lầm và mang lại sự đảm bảo cho những người giác ngộ tương lai.

  5. Jambudīpa: lục địa cát tường nơi cây Hồng táo (Jambu) mọc. Nó là một trong bốn châu lục lớn, tạo thành thế giới, ba châu lục còn lại là Uttarakuru, phía Bắc, Pubbavideha, phía Đông và Aparagoyana, châu lục phía Tây.

  6. Tài liệu tham khảo là về Kinh trước đó, Dhammacetiya Sutta (ed.).

  7. Tôn giả Mahā-Raṭṭhasāra của Ava, nhà thơ và nhà văn của thế kỷ 15, nổi tiếng với những câu thơ về các câu chuyện kinh điển. Kogan-pyo, một bài thơ giống như ballad gồm chín phần dựa trên Hatthipāla Jātaka, Vīsati-nipāta trong Jātaka, Những câu chuyện về tiền kiếp của Đức Phật.

  8. Akaṇhaṃ asukkanti kammakkhayakaraṃ catumaggacetanākammaṃ adhippetaṃ. (MA.iii.103).

  9. Akaṇhaṃ asukkanti kammakkhayakaraṃ catumaggañāṇaṃ adhippetaṃ (AA.ii.230).

  10. “Câu hỏi giả định:” (laddhaguṇasambhava puccha), theo nghĩa đen là “Một câu hỏi có thể phát sinh do những câu trả lời trước đó.”

  11. Theo nghĩa đen là “Đặt pháp hành tốt lên đầu của một người.” Xem Phụ chú sau đây.

  12. MA.iv.416.

  13. Patirūpadesa: được định nghĩa bởi một nơi được ban phước với bốn phước lành này (sampatti): 1) được sinh ra trong một kiếp sống may mắn, tức là trong thế giới loài người và sáu cõi trời dục giới (gati sampatti); 2) có một vóc dáng đẹp (upadhi sampatti); 3) đã đến vào thời điểm tốt (kāla-sampatti); 4) có điều kiện thuận lợi cho các hành động tốt (payoga sampatti).

  14. So eva puggalo attānaṃ sammā-ṭhapeti: theo nghĩa đen là “Người đó tự đặt mình vào vị trí tốt.”

  15. Kinh văn Pāḷi gần giống với Paṭisambhidāmagga ở trên.

  16. Paramatthajotikā, Luận giải về Suttanipāta.

  17. Patitasiṅgā: Theo nghĩa đen là “đã để rơi chiếc sừng (của nỗ lực).”

  18. Santabhūtaṅgupatthaddhā: theo nghĩa đen là “Cái gì đó tồn tại, có phẩm chất cố hữu có thể đứng vững như một sự thật tích cực.”

  19. Tambadāṭhika: Dhammapada Aṭṭhakathā, về câu 100.

  20. Trong câu kệ này, cách diễn đạt “Sambharāpi yathābahu” nên được hiểu theo nguyên tắc ngữ pháp để giải thích cách diễn đạt “Tivaggo yassa saṅgaho.” Một số kinh văn đọc là “Saṃbharāpi katā bahu”, trong trường hợp đó, ý nghĩa nên được thay đổi cho phù hợp.

  21. Sammāsambuddhassa sammukhā: Theo nghĩa đen là “Trước sự hiện diện của một bậc Chánh Đẳng Giác.”

  22. Lưu ý: Về việc diễn giải câu kệ này, hãy tham khảo các quy tắc ngữ pháp trong Maṇidīpa.

  23. Ap.219, câu 174.

  24. Ap.i.31.

  25. Yasmā: các vị hoàng tử Licchavī là những người theo Saccaka lúc bấy giờ.

  26. Bhāṇavāra: một phần của kinh điển chứa 8.000 từ.

  27. Theo nghĩa đen là “Không tự thiết lập mình trong ba ngôi Tam bảo.”

  28. Aniṭṭhapasaṅga: Theo nghĩa đen là “Khuynh hướng không mong muốn.”

  29. Sare nimittaṃ aggahesīti: Theo nghĩa đen là “Nắm bắt dấu hiệu của giọng nói.”

  30. Saddhammassavana paricayena.

  31. Sare āhāraṃ gaṇhati: “Tiếp thu nó”, tức là nhận ra các thuộc tính của nó: “A, đây là Chánh pháp!”

  32. Pubbābhiyogavasena: Thói quen nghe Chánh pháp trong những kiếp sống trước đây.

  33. “Năm trăm con dơi.” Những con dơi này đã được tái sinh – sau một số kiếp sống xen kẽ – thành người khi chúng trở thành Tỳ-khưu và, khi nghe A-tỳ-đạt-ma từ Tôn giả Sāriputta, đã hiểu rõ nó do chúng đã nghe nó trong kiếp sống trước đây của mình.

  34. Tebhūmaka: Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới, còn được gọi là sự tồn tại của dục giới (kāma-bhava), sự tồn tại của Sắc giới (rūpa-bhava) và sự tồn tại của Vô sắc giới (arūpa bhava).

  35. Puñña visesa: một cách diễn đạt đồng nghĩa với vivaṭṭanissita kusala.

  36. Chú thích của tác giả: Athakho tādise kappe laddhokāse sati sabbakālampi uppajjauti yeva.

  37. JA.i.14.

  38. Rattaññū: Theo nghĩa đen, người đã biết nhiều đêm, ám chỉ một vị Tỳ-khưu Ni lâu năm và có kinh nghiệm và trí tuệ nhất.

  39. Quy y Đức Phật và Chánh pháp – Tăng đoàn chưa tồn tại khi hai anh em gặp Đức Phật.

  40. Bốn đối tượng hòa hợp (saṅgahavatthūni): bố thí (dāna), lời nói tử tế (peyyavajja), sự giúp đỡ (atthacariyā) và sự công bằng (samānattatā).

  41. Tám vật dụng cần thiết: ba y, bát, dao cạo, kim, thắt lưng, lưới lọc nước.

  42. Mahālatā: bộ trang sức này là độc nhất vô nhị, vì ngoài hai người phụ nữ được đề cập ở đây, chỉ có một người phụ nữ thứ ba (của Rājagaha) được cho là sở hữu nó. Nó được làm bằng vàng và châu báu có trọng lượng đến mức chỉ có thể được đeo bởi một người phụ nữ có sức khỏe thể chất phi thường.

  43. Tirokuḍḍa Sutta: Một Peta, theo nghĩa đen là “Người đã khuất”, là một trong bốn kiếp sống khổ sở, đặc trưng bởi sự khát nước và đói khát liên tục. Những con ma đói trong câu chuyện này, trong kiếp sống trước đây của họ là con người, đã cản trở người khác trong các hoạt động bố thí của họ, mà khi chết, họ đã rơi vào các cõi bị tra tấn không ngừng (niraya). Họ được tái sinh thành những con ma đói sau chín mươi hai kiếp vào thời Đức Phật Kassapa. Sau khi chịu khổ như những con ma đói từ đó cho đến thời Đức Phật Gotama, vua Bimbisāra, người thân của họ trong kiếp sống trước đây của họ, đã cúng dường thức ăn cho Đức Phật và hồi hướng việc làm tốt đó cho họ, kết quả là họ ngay lập tức có được trạng thái tuyệt vời.

  44. Một vị Bồ tát đã nhận được lời tiên tri được trời phú cho năng lực để chấm dứt kiếp sống của mình là một vị Thiên chỉ bằng cách mong muốn điều đó.

Tài liệu tham khảo Kinh văn Pāḷi

Namo Tassa Bhagavato Arahanto Sammāsambuddhassa

  1. Câu hỏi thứ nhất: Yo lokiya-lokuttara-sukhāni patthetvā dānādipāramiyo pureti. So lokiya-sukhameva vā labheyyakiṃ. Lokuttara-sukhameva vā udāhu tādubhaya-sukhampi kiṃ vā neva tadubhaya sukhaṃ.

  2. Câu hỏi thứ hai: Yo vā pana lokiya-sukhamevā patthetvā dānādipāramiyo pureti. So lokiya sukhameva labheyyakim. Atha lokuttara-sukhampi.

  3. Câu hỏi thứ ba: Yo vā pana lokuttara-sukhameva patthetvā dānādipāramiyo pureti. So lokuttara-sukhameva labheyyakim. Atha lokiya-sukhampi.

  4. Câu hỏi thứ tư:

(a) Ye ca sammasambuddhā kappa-satasahassādhikāni cattāri vā asaṅkhyeyyāni aṭṭha vā asaṅkhyeyyāni soḷasavā asaṅkhyeyyāni dānādipāramiyo puretvā sammā sambodhiṃ pāpuṇanti.

(b) Ye ca paccekabuddhā kappa-satasahassadhikāni dve-asaṅkhyeyyāni dānādipāramiyo puretvā paccekabodhiṃ pāpuṇanti.

(c) Ye ca aggasāvakā kappa-satasahassādhikaṃ ekaṃ asaṅkhyeyyaṃ dānādipāramiyo puretvā aggasāvakabodhiṃ pāpuṇanti.

(d) Ye ca mahāsāvakā kappa-satasahassāni dānādipāramiyo puretvā mahāsavakabodhiṃ pāpuṇanti.

(e) Ye ca pakatisāvakā kappa-satamvā vā dānādipāramiyo puretvā pakatisāvakabodhiṃ pāpuṇanti. Tesaṃ taṃ taṃ kālaparicchedā taṃ taṃ icchita-bodhi-paṭṭhānato paṭṭhāya gaṇanupagā kiṃ udahu laddha-vyākaraṇato.

  1. Câu hỏi thứ năm: Taṃ taṃ bodhininnā laddha-vyākaraṇāva pāramiyo puretvā bujjheyyuṃ kiṃ atha laddha-vyākaraṇāpi.

  2. Câu hỏi thứ sáu: Teca laddha-vyākaraṇā aññadā aññaṃaññaṃ bodhi-pattheyyuṃ kiṃ atha na pattheyyuṃ.

  3. Câu hỏi thứ bảy: Yo taṃ taṃ bodhiṃ aniyametvā magga-phala-nibbānameva patthetvā dānādiparamiyo pureti. So katamāya bodhiyā bujjheyya. Sace sāvakabodhi-parami-puṇṇakāle bujjhitukāmo hoti so sāvakabodhiyā bujjheyya kiṃ. Sace paccekabodhi puṇṇakāle bujjhitukāmo hoti so paccekabodhiyā bujjheyya kiṃ. Sace sammāsambodhi-pārami-puṇṇakāle bujjhitukāmo hoti so sammāsaṃbodhiyā bujjheyya kiṃ.

  4. Câu hỏi thứ tám: Yo sāvakabodhiṃ patthetvā dānādipāramiyo pureti so savāka-pāramīnaṃ puṇṇā puṇṇa-kāle aññaṃbodhiṃ pattheyya kiṃ. No vā pattheyya. Yadi pattheyya so labheyya kiṃ. No vā labheyya. Yadi labheyya so apari puṇṇapāramiyova puretvā labheyya kiṃ. Athanavānavā pāramiyo puretvā labheyya.

  5. Câu hỏi thứ chín: Yo paccekabodhiṃ patthetvā dānādiparamiyo pureti so paccekabodhipāramīnaṃ puṇṇāpuṇṇakāle aññaṃbodhiṃ pattheyya kiṃ. No vā pattheyya. Yadi pattheyya so labheyya kiṃ no vā labheyya. Yadi labheyya so aparipuṇṇa-paramiyova puretvā labheyya kiṃ. Atha navā navā pāramiyo puretvā labheyya.

  6. Câu hỏi thứ mười: Yo sammāsambodhiṃ patthetvā dānādipāramiyo pureti so sammā sambodhi-pāramīnaṃ puṇṇāpuṇṇa-kāle aññaṃ bodhim pattheyya kiṃ na vā pattheyya. Yadi pattheyya so labheyya kiṃ. No vā labheyya. Yadi labheyya so aparipuṇṇa pāramiyova puretvā labheyya kiṃ. Atha navā navā pāramiyo puretvā labheyya.

  7. Câu hỏi thứ mười một: Paccekabuddha buddhasāvakāpi sammāsambuddhāviya paripuṇṇā tiṃsa pāramiyo puretvāva bujjheyyuṃ kiṃ atha aparipuṇṇā ekaccā paramiyova puretvā bujjheyyuṃ.

  8. Câu hỏi thứ mười hai: Pakatisāvakā sabbantima-paricchedena kittakaṃ pāramiyo puretvāva bujjheyyuṃ. Yathā vuttakala-paricchedameva pāramiyo puretvā bujjheyyuṃ kiṃ.

  9. Câu hỏi thứ mười ba: Purita pāramitā sāvakā bahumhi buddha-suñña-kappe uppannā sayameva bujjheyyuṃ kiṃ. Udāhu taṃ kappaṃ atikkamitvā buddhuppāda-kappaṃ Āgamayamānā bujjheyyuṃ.

  10. Câu hỏi thứ mười bốn: Buddha paccekabuddha buddhasāvakā samānaṅga-sampannāva vyākaraṇaṃ labheyyuṃ kiṃ. Udāhu visadisa-aṅgasampannā va vyākaraṇaṃ labheyyuṃ.

  11. Câu hỏi thứ mười lăm: Buddhā eva vyākaraṇaṃ kittayiṃsu kiṃ atha paccekabuddha buddhasāvakā pi.

  12. Câu hỏi thứ mười sáu: Buddhasāvakā viya deva-manussa-brahamānopi yathā vuttakāla-paricchedameva pāramiyo puretvā bujjheyyuṃ kiṃ. Atha tatūnā pāramiyo pūretvā bujjeyyuṃ.

  13. Câu hỏi thứ mười bảy: Imasmiṃ yeva cakkavāḷe buddha paccekabuddha buddhasāvakā uppajjeyyuṃ kiṃ. Atha aññasmimpi cakkavāḷe.

  14. Câu hỏi thứ mười tám: Teca imasmiṃ yeva cakkavāḷe jāyamānā pāramiyo pūresuṃ kiṃ atha aññasmimpi cakkavāḷe.

  15. Câu hỏi thứ mười chín: Teca imasmiṃ cakkavāḷe pi jambudīpeyeva jāyamānā pāramiyo pūresuṃ kiṃ. Udāhu sesadīpesupi.

  16. Câu hỏi thứ hai mươi: Teca imasmiṃ yeva jambudīpe majjhimadese yeva jāyamānā pāramiyo pūresuṃ kiṃ. Atha paccantadesepi.

  17. Paṇḍita-dhammatā Vākya:

(a) Mayaṃ codakānāma ekadesapekkhakā no sakalapekkhakā. Sace sakalapekkhakā bhaveyyāma esā pucehā na siyā. Bhavati ca etāya pucchāya diṭṭhāya taṃ vissajjanaṃ vattaritabbaṃ.

(b) Kasmā pucchāvissajjanānaṃ aññamaññaṃ avinābhāvībhāvato.Yattha yattha pade sveva, diṭṭhe vissajjane satiTattha tatthuddharitabba, pucchā tāva vibhāvinā tiEtissā gāthāya ekapassadassanena nayabhāvato ca.Yattha yattha padesveva diṭṭhā tu pucchanā yadi tattha tatthuddharitabbā visajjana vinhavinā.

(c) Tasmā sāsanadhajupamā Jambudīpakajūpamā paṇḍitā sace tumhe nītatthe paḷi-Aṭṭhakathā-ṭīkāyo āharitvā no kāṅkhaṃ vinodetuṃ sakkotha. Anaññavisayaṃ tumhākaññeva visayaṃ etaṃ vīsati-pucchaṃ vissajjetha.

(d) No ce vuttanayena vinodetuṃ sakkotha. Khānukāviya ca indakhīta viya ca acalā pajjhāyantā patakkhandhā tuṇhi bhāta hotha.

(e) Kasmā hi tuṇhibhūtā tumhādesehi atissayapaññavā taṃ vissajjana samattho sīhanādesu kesarasīhoviya pariyattiyaṃ ativisarado bahussuta-kittisaddo purisavisesova vibhajja-vyākaraṇa-vissajjanena vissajjissati.

  1. Vissajjavaka ganthārambha:

(a) Subuddabodhi sambhāro, bodhesi bodhimuttamaṃbodhaneyyaṃ subuddhena, boddho so detu me jayaṃ,

(b) Yā katā vīsatipucchā, thereva thiracetasātassātthaṃ kathayissāmi, sampuṇṇaṃ savissajjananti.

  1. Paṭisambhidāmagga Gaṇṭhi: Gānthārambhe satamatthaya-paṇāmaṃ yathārabhita-ganthassa anantarāyena pariya pāpanatthaṃ evaṃ niṭṭhānampi ca buddhe katapaṇāmeneva hessatīti tinnannassati matibahumānā pacitipasada bahulattā buddhasseva namo kato.

  2. Ibid. Ratanatthayassavā tathāgata-guṇena ekatthattā buddhe katapanāmo avasesadvayassāpi katovāti taṃ dvayassa savūpato paṇāmaṃ na karoti.

  3. Luận giải về Dhammacetiya Sutta: Tīsu hi ratanesu yattha katthaci cittīkāre kate sabbattha katoyeva hoti. (MA.iii.355)

  4. Luận giải về Aṅguttaranikāya: Desanā sīsameva cetaṃ, iminā pana aṅgena tīsupi ratanesu saddhā adhippetā. Yassa hi buddhādīsu pasādo balavā, tassa padhānavīriyaṃ ijjhati. (AA.iii.257)

  5. Udāna: “Bāhitvā pāpake dhamme, Ye caranti saddhā satā. Khīṇasaṃyojanā buddhā, te ve lokasmi brāhmaṇā’’ti. (Ud.4)

  6. Paramatthadīpanī, Luận giải về Udāna: Buddhāti catucassasammodhena buddhā te ca pana sāvakebuddhā, paccekabuddhā, sammāsambidhāti tividhā, tesu idha sāvakabuddhā adhippetā. (UdA.58)

  7. Phụ chú về Mahavagga, Dīghanikāya: Buddharatana saṅgharatanupaṭṭhāne heva dhammaratanupaṭṭhānasiddhīti. (MT.342)

  8. Paṭisambhidāmagga Gaṇṭhi: Giải thích thêm về lời giải thích trong Luận giải: Abhivādetvā ti pañcapatiṭṭhitena vanditvā định nghĩa hành động quỳ lạy đúng cách trong thờ phượng như sau: Pañcapaṭiṭṭhitenā ti dvijāṇu dvihatthanalaṭeti pañcahi patiṭṭhaṃ katvā.

  9. Sāratthadīpanī-ṭīkā về Bhikkhunovāda Vagga: Antogāme vāti ādīsu yattha pañca aṅgāni bhūmiyaṃ patiṭṭhāpetvā vandituṃ na sakkā hoti, tattha ṭhitāya eva kāyaṃ purato nāmetvā ‘‘Vandāmi ayyā’’ti añjaliṃ paggayha gantumpi vaṭṭati.

  10. Vinayālaṅkāra-ṭīkā, trích dẫn Parivāra: Navakatarenupāli, bhikkhunā vuḍḍhatarassa bhikkhuno pāde vandantena pañca dhamme ajjhattaṃ upaṭṭhāpetvā pādā vanditabbā.

  11. Luận giải về Theragāthā: Vandissaṃ bahukaṃ jananti puthumahājanaṃ diṭṭhadiṭṭhakāle vandiṃ sirasi añjaliṃ karonto paṇāmiṃ. (ThagA.ii.264)

  12. Therīgāthā: Nihacca jāṇuṃ vanditvā sammukhā añjaliṃ akaṃ. (Thig.134) Luận giải về đoạn văn trên: Nihacca jāṇuṃ vanditvā ti jāṇudvayaṃ pathaviyaṃ nihantvā patiṭṭhapetvā pañcapatiṭṭhitena vanditvā. Sammukhā añjaliṃ akanti satthu sammukhā dasanakhasamodhānasamujjalaṃ añjaliṃ akāsiṃ. (ThigA.107)

  13. Nidāna, Luận giải: Dasanakhasamodhānasamujjalaṃ jalajamālāvikalakamala. Maṅgala Buddhavaṃsa Luận giải: Dasanakhasamodhānasamujjalaṃ vimalaka malamakuḷasamamañjaliṃ sirasi katvā vanditvā. (BuA.146)

  14. Buddhavaṃsa: Abhivādanaṃ thomanañca, vandanañca pasaṃsanaṃ; Namassanañca pūjañca, sabbaṃ arahasī tuvaṃ. (Bu.4)

  15. Luận giải về Buddhavaṃsa: Tatha abhivādananti aññehi attano abhivādanakārāpanaṃ. Thomananti parammukhato thuti. Vandananti paṇāmanaṃ. Pasaṃsananti sammukhato pasaṃsanaṃ. Namassananti añjalikaraṇaṃ, manasā namassanaṃ vā. Pūjananti mālāgandhavilepanādīhi pūjanañca. (BuA.44)

  16. Luận giải về Ākaṅkheyya Sutta, Mūlapaṇṇāsa: Mahantaṃ vā lokiyasukhaṃ phalantīti mahapphalā. Mahato lokuttarasukhassa ca paccayā hontīti mahānisaṃsā. Sīlādiguṇayuttassa hi kaṭacchubhikkhāpi pañcaratanamattāya bhūmiyā paṇṇasālāpi katvā dinnā anekāni kappasahassāni duggativinipātato rakkhati, pariyosāne ca amatāya parinibbāna dhātuyā paccayo hoti. (MA.i.159)

  17. Bhūridatta Jātaka, Mahānipāta: Taṃ vimānaṃ abhijjhāya, amarānaṃ sukhesinaṃ; Uposathaṃ upavasanto, semi vammikamuddhanī’’ti. (JA.vi.174) Tattha abhijjhāyāti patthetvā.

  18. Cariyāpiṭaka, Bhūridattacariya: Tattha passitvāhaṃ deve, ekantaṃ sukhasamappite;
    Taṃ saggagamanatthāya, sīlabbataṃ samādiyiṃ. (Cp.85)

    1. Campeyya Jātaka:
      “Na puttahetu na dhanassa hetu, na āyuno cāpi janinda hetu;
      Manussayoniṃ abhipatthayāno, tasmā parakkamma tapo karomī’’ti. (JA.iv.466)
      Campeyya Jātaka and Saṅkhapāla Jātaka:
      Ahañca laddhāna manussayoniṃ, kāhāmi jātimaraṇassa antaṃ. (JA.iv.467; JA.v.173)

    2. Cariyāpitaka, Bhūridattacariya, Luận giải: “… bodhiparipācanaṃ hoti, imasmiṃ devaloke uppattikāraṇaṃ bhavissatī”ti cintetvā nāgabhavanaṃ gantvā mātāpitaro āha: “Ammatātā, ahaṃ uposathakammaṃ karissāmī”ti. (CpA.116)

    3. Jinālaṅkāra-ṭīkā: Parāmiyoti pāraṃ nibbānaṃ ayanti gacchanti etātīti pāramiyo. Nibbūnasādhakā hi dānacetanā dayo dhammā pāramīti vuccanti.

    4. Manorathapūraṇī, Luận giải về Aṅguttaranikāya:

    (a) Appamattakaṃ tiṇamuṭṭhi mattadānakusalaṃ vā hotu, mahantaṃ velāmadānādikusalaṃ vā, sace vaṭṭasampattiṃ patthetvā vaṭṭasannissitavasena micchā ṭhapitaṃ hoti, vaṭṭameva āharituṃ sakkoti, no vivaṭṭaṃ. (AA.i.55)

    Sāratthopakāsanī, Luận giải về Saṃyuttanikāya:

    (a) “Idaṃ me dānaṃ āsavakkhayāvahaṃ hotū”ti evaṃ pana vivaṭṭaṃ patthantena vivaṭṭavasena sammā ṭhapitaṃ arahattampi paccekabodhiñāṇampi sabbaññutañāṇampi dātuṃ sakkoti yeva. (SA.ii.19)

    1. Luận giải về Dhammadāyāda Sutta của Majjhimanikāya và Itivuttaka: Yaṃ panidaṃ vivaṭṭūpanissitaṃ kusalaṃ, seyyathidaṃ, idhekacco vivaṭṭaṃ patthento dānaṃ deti, sīlaṃ samādiyati, uposathakammaṃ karoti, gandhamālādīhi vatthupūjaṃ karoti, dhammaṃ suṇāti deseti jhānasamāpattiyo nibbatteti, evaṃ karonto anupubbena nippariyāyadhammaṃ amataṃ nibbānaṃ paṭilabhati, ayaṃ pariyāyadhammo. (MA.i.89; ItA.ii.144)

    046. Luận giải về Aṅguttaranikāya, Nhất Tụ: Vivaṭṭavasena uppannacittameva cittaṃ. Tañhi mānusakasukhato dibbasukhaṃ, dibbasukhato jhānasukhaṃ, jhānasukhato vipassanāsukhaṃ, vipassanāsukhato maggasukhaṃ, maggasukhato phalasukhaṃ, phalasukhato nibbānasukhaṃ adhivahati āharatīti sukhādhivahaṃ nāma hoti. (AA.i.53)

    047. Luận giải về Paṭṭhāna:

    (a) Parittarammaṇattike appamāṇārammaṇā cetanāti sekkhānaṃ gotrabhu cetanā paccavekkhaṇā cetanātipi vatthuṃ vaṭṭati.

    (b) Vipākānaṃ parittārammaṇānanti paṭisandhiyaṃ kammam ārammanaṃ katvā pavatte cakkhuviññāṇādivasena rupādiārammanaṃ katvā tadārammaṇavasena javanena gatita­paritt7ārammaṇañca ārammaṇaṃ katvā uppannānaṃ.

    Ye pena gotrabhu cittena natthi paṭisandhīti vadanti te iminā suttena paṭisedhetabbā.

    1. Saddhanapakāsanī, Luận giải về Paṭisambhidāmagga:

    (a) Āyatiṃ paṭisandhiyā paceayo hotīti sankhārupekkhā sampayuttakammassa balavattā teneva sugati paṭisandhiyā diyyamānāya abhinandana saṅkhāto lobha kileso anāgate kāmāvacarasugati paṭisandhiyā paccayo hoti. Yasmā kilesa sahāyaṃ kammam vipākaṃ janeti tasmā kammaṃ janakapaccayo hoti kilesā upatthambhkapaccayā.

    (b) Sekkhassa pana uttari paṭivedhassāti sakadāgāmi maggādivasena saccappaṭivedhassa. Āyatiṃ paṭisandhiyā paccayo hotīti sekhesu sotāpannasakadāgāmīnaṃ anadhigatajhānānaṃ saṅkhārupekkhākammena diyyamānāya kāmāvacara sugaṭipatisandhiyā abhinandanakileso paccayo hoti.

    (c) Jhānalābhīnaṃ pana sotāpanna sakadāgāmīnaṃ anāgāmissaca brahmalokeyeva paṭisandhidānato paccyo na hoti. Anulomagotrabhūhi ca diyyamānāya paṭisandhiyā ayameva kileso paccayo hotīti veditabbo.

    1. Laddhaguṇasambhava Pucchā: Yo vā pana lokiya lokuttarasukhesu kiñeipi apatthetvā dānsdipāramiyo pūreti. Kiṃ so lokiyasukhameva lokuttara sukhameva vā labheyya udāhu tadubhayasukhampi labheyya no vā labheyya tatubhayasukhaṃ.

    050. Luận giải về Cakkavatti Sutta: Mātapitūnaṃ puttadhītāsu sinehavasena muducittaṃ pattadhitā naṃ mātāpitūsu sinehavasena muducittañca gāmikusalaṃ nāma. Tassa pariyosānaṃ manussaloke cakkavattino sirīvibhava ppaṭilābho.

    1. Saṃsāravaṭṭadukkhato mocanatthāya pabbajjaṃ yācāmi. Ullumpatu maṃ, bhante, saṅgho anukampaṃ upādāyā.

    052.10 Luận giải về Mūlapaṇṇasa và Itivuttaka: Tattha jānanā bahuvidhā. Dabbajātiko eva hi koci bhikkhu chattaṃ kātuṃ jānāti, koci cīvarādīnaṃ aññataraṃ, tassa īdisāni kammāni vattasīse ṭhatvā karontassa sā jānanā “maggaphalānaṃ padaṭṭhānaṃ na hotī”ti na vattabbā. Yo pana sāsane pabbajitvā vejjakammādīni kātuṃ jānāti, tassevaṃ jānato āsavā vaḍḍhantiyeva. (ItiA. ii.150).

    1. Phụ chú về điều trên: Vattasīse ṭhatvāti vattaṃ uttamaṅgaṃ duraṃavā katvā parisuddhājño kātuṃ ajānantānaṃ sabrahmacarīnaṃ attano vā vātātapādipaṭibāhanatthaṃ chattādīni karoti. So vattasīse ṭhatvā karotināma. Padaṭṭhānaṃ na hotīti navattabbaṃ nāthakaraṇadhammabhāvena upanissayabhāvato vattañhiyāni tāni sabrahmacārīnaṃ uccāvacāni kiccakaraṇīyāni. Yattha dakkho hotīti ādi.

    2. Luận giải về Saṅkhārūpapatti Sutta, Uparipaṇṇāsa:

    (a) Yassa saddhā sīla suta cāga paññā sankhātā pañcadhammā atthi, na patthanā tassa gati anibaddhā. Yassa patthanā atthi, na pañca dhammā tassapi gati anibaddhāva. Yesaṃ ubhayampi atthi tesaṃ gati nibaddhā.

    (b) Yathā hi ākāse khittadaṇḍo aggena vā khandena (v.l. majjhena) vā bundenavā (v.l. mūlena) nipatissatīti niyamo natthi. Evaṃ satthānaṃ paṭisandhiggahaṇaṃ aniyataṃ. Tasmā kusalaṃ kammaṃ katvā ekasmiṃ ṭhāne patthanaṃ kātuṃ vaṭṭati.

    1. Paṭisambhidāmagga Aṭṭhakathā: Pubbe ca katāpuññā’ti pubbe upacitakusalakatā. Idameva cettha pamāṇaṃ. Yena hi ñāṇasampayutta­cittena kusalakammaṃ kataṃ hoti, tadeva kusalaṃ taṃ purisaṃ patirūpedese upaneti sappurise bhajāpeti, so eva puggalo attānaṃ sammā ṭhapeti.

    056. Luận giải về Dhātu Saṃyuttā: Ñāṇasampayuttacittena pana katakusalakammaṃ taṃ sattaṃ patirupadese upaneti sappurisaṃ bhajapeti so eva puggalo attānaṃ sammā ṭhapeti.

    1. Luận giải về Cariyapitaka: Tayo pete vinā kālabhedena katābhinīhārā buddhānaṃ samtike laddhavyakaraṇā ca anukkamena pāramiyo paripūrentā yathākkamaṃ yathā vuttakāle bhedena kālena sammāsambodhiṃ pāpunaṇti.

    2. Các luận giải về Suttanipāta và Theragāthā: Tesaṃ hi satipi paññādhikabhāve dve asaṅkyeyyāni kappasatasahassañcd bodhisambhāra sambharaṇaṃ icchitabbaṃ na tato oraṃ. Saddhādhika viriyādhikā pi vutta paracehedato paraṃ katipaye eve kappe atikkamitvā sambodhiṃ abhisamujjhanti na tatiyaṃ asaṅcheyyanti.

    059. Luận giải về Theragāthā: Manusaattaṃ liṅgasampatti vigatāsavadassanaṃ. Adhikāro ca chandatā ete abhinīhārakāraṇāti. Ime pañcadhamme samodhānetvā katābhinīhārānaṃ paccekabodhisattānaṃ adhikāro chandatā ti. Dvayaṅgasamannāgatāya patthanāya vasena katapaṇidhānānaṃ sāvakabodhisattānañca tattha tattha vuttakala paricchedaṃ asampatvā antarāeva paccekabodhiyā yathāvutta sāvakabodhiyā ca adhigamo natthi. Kasmā ñāṇassa aparipaccanato va.

    1. Samantabhaddikā, Luận giải về Anāgatavaṃsa: Dhammatā eso bodhisattānaṃ abhinīhārato pubbeva tisso. Sampattiyo vuttaparicchedakālaṃ puretvā kappasatasahassa pārami pūreṇam.

    2. Paṭisambhidāmagga, Gaṇṭhi: Ayampi bhagavā ati-uḷārajjhāsayatāya pubbeva taṃ sambodhā hirottappāgama sampattipūraneṇa aṭṭhaguṇa samodhānatāya samiddhābhinīhāro.

    3. Sotattakī, Tathāgatuppatti, v.v. Cintetaṃ sattasaṅcheyyaṃ navasancheyya vācakaṃ kāyavācā catuchātaṃ buddhattaṃ paripūritaṃ.

    4. Phụ chú về Mahāvagga Saṃyutta: Cattāri aṭṭha soḷasavā asaṅcheyyānīti idaṃ mahābodhisattānaṃ santāne bodhiparipācaka dhammānaṃ tikkhamajjhima mudubhāva siddhakāle visesadassanaṃ na ca kho mahābhinīharato paṭṭhayāti vadanti.

    5. Buddha Apādāna: Ahampi pubbabuddhesu sambodhimabhipatthayiṃ. Manussāyeva hutvāna dhammarājā asankhaya.

    6. Mahantaguṇa: Khīṇāsavā asaṅkhyeyyā, paccekā catusaṭṭhi koṭiyo Sammāsambuddhā dvilakkhaṃ, chanahutañca tisataṃ asītisattakoṭiyo.

    066. Luận giải về Ghaṭikāra Sutta: Bodhisattā hi buddhānaṃ sammukhe pabbajjanti. Pabbajjitvā ca pana ittarasattā viya patitasiṅgā na honti, catupārisuddhisīle pana supatiṭṭhāya tepiṭakaṃ buddhavacanaṃ uggaṇhitvā terasa dhutaṅgāni samādāya araññaṃ pavisitvā gatapaccāgatavattaṃ pūrayamānā samaṇadhammaṃ karontā vipassanaṃ vaḍḍhetva yāva anuloma­ñāṇaṃ āhacca tiṭṭhanti. Maggaphalatthaṃ vāyānaṃ na karonti.

    1. Các luận giải về Pañcapakaraṇa và Puggalapaññatti: Tato purinapurimesu pana bhavesu sabbaññubodhisattā buddhasāsane pabbajitvā tīṇi piṭakāni uggahetvā gatapaccāgatavattaṃ āruyha kammaṭṭhānaṃ anulomaṃ gotrabhuṃ āhacca ṭhapenti.

    2. Jinālankāra-ṭikā: Udayabbayānupassanā ñāṇaṃ bhaṅgānupassanā ñāṇaṃ bhyayānupassanā ñāṇaṃ ādīnavānupassanā ñāṇaṃ muccatukamyatā ñāṇaṃ paṭisankhānupassanā ñāṇaṃ saṅkhārupekkhā ñāṇanti imāni aṭṭhañāṇāni pāpuṇi. Tāni pana aṭṭhañāṇāni tena pubba buddhānaṃ santike pabbajitvā piṭattayaṃ uggahetvā vipassanā maggaṃ ogāhetvā paṭiladdhāni bhavitāni kuṭiyabbhantare jalamānapadīpaṃ viya ṭhitāni ahesuṃ appaṭikippameva āgatāni. Nevaṃ saccānulomikameva tasmā laddhapubbaṃ ṭhitam.

    3. Paṭisambhidamagga, Gaṇṭhi: Anuloma gotrabhusamīpanti anuloma gotrabhunaṃ samīpe asanne pavattaṃ sankhārupekkhaṃ tañca na sabbantima javanavāra pariyāpannaṃ tampattassa anivattanato. Tena mandatikkha taravasena pavattaṃ muccitukamyatādi ñāṇattayaṃ vuttaṃ hoti. Mandapañño hi tesu paṭhanaṃ patvā nivattati tikkhapañ ño dutiyaṃ tikkhatarapañño tatiyaṃ patvā ti.

    4. Paccekabuddha Apādāna: Suññaṃ paṇīdañca yathā nimittaṃ, Āsevayitvā jinasāsanamhi Ye sāvakattaṃ na vajanti dhīrā, Bhavanti paccekajinā sayambhū.

    5. Theragāthā Aṭṭhakathā: Ekamante samaṇadhammaṃ katvā dukkhassantaṃ karissāmāti nisseṇiṃ banditvā uccaṃ pabbatasikharaṃ āruhitvā … (Pe) … samaṇadhammaṃ ārabhiṃsu.

    072. Liên quan đến Câu hỏi 7: Kiñcāpi dubbalā yutti nītatthāgama vajjitā Santabhūtangupatthaddhā pāḷiva niccalā siyā.

  1. Luận giải về Puggalapaññatti: Katamo panesa puggalo ti osaṭṭhavīriyapuggalo. So hi kiṃ me imasmiṃ buddhakāle parinibbānena anāgate metteyyasammāsambuddhakāle parinibbāyissamīti visuddhisīlo paṭipattiṃ na pūreti so pi kimatthaṃ āyasmā pamattho viharati puthujjanassa gatināma anibaddhā. Āyasmāhi metteyyasammāsambuddassa1 sammukhibhāvaṃ labheyyasi na labheyyāsi. Arahattatthāya vipassanaṃ bhāvehīti ovāditabbo.

  2. Các luận giải về Brahmāyu Sutta và Aṅguttaranikāya: Mahāpurisalakkhaṇanti mahāpurisānaṃ buddhādīnaṃ lakkhaṇadīpakaṃ lakkhaṇadīpakaṃ dvadassa-sahassa-ganthappamāṇaṃ satthaṃ. Yattha soḷasa-sahassa-gāthā parimāṇāya buddhamantā nāma ahesuṃ. Yesaṃ vasena “Iminā lakkhaṇena samannāgatā buddhā nāma honti, iminā Paccekabuddhā nāma honti, iminā dve aggasāvakā, asītimahāsāvakā, buddhamātā, buddhapitā, aggupaṭṭhāko, aggupaṭṭhāyikā, rājā cakkavattī”ti ayaṃ viseso ñāyati.

Mantesūti vedesu. Tathāgato kira uppabbajjissatīti paṭikacceva suddhāvāsa devā vedesu lakkhaṇāni pakkhipitvā buddhamantā nāma ete”ti brahmaṇavesena vedevācenti. “Tadanusārena mahesakkhā sattā Tathāgataṃ jānissantī”ti. Tena pubbe vedesu mahāpurisalakkhaṇāni āgacchanti. Parinibbute pana Tathāgate anukkamena antaradhāyanti, tena etarahi natthi.

  1. Sotattakī: Evampi bodhisattānaṃ sambharāmpi kataṃ bahuṃAladdhaṃ vyākaraṇaṃ yāva niyataṃ na bhavissati.

  2. Sāmaññaphala Sutta Ṭīkā:

(a) Etthā ha yadirañño kammantarāyā bhāve tasmiṃ yeva āsane dhammacakkhu uppajjissati kathaṃ anāyatase paccekabuddho hutvā parinibbāyissati atha paccekabuddho hutvā parinibbayissati kathaṃ tadā dhammacakkhu uppajjissati nanuime sāvakabodhi paccekabodhi upanissayā bhinno nissayāti.

(b) Nāyaṃ virodho. Ito pavato evassa paccekabodhisambhārānam sambhārāṇīyato sāvakabodhiyā bujjhanakasattā pi hi asati tassā samavāyekālantare paccekabodhiyā bujjhissanti katābhinihāra sambhavato.

(a) Apare pana bhaṇaṅti “Paccekabodhiyā yevāyaṃ katābhinīhāro. Katābhinīharāpi hi tattha niyataṃ appattā tassa ñāṇassa paripākaṃ anupagatatthā satthu sammukhībhāve sāvakabodhiṃ pāpuṇissantīti bhagavā ‘sacāyaṃ bhikkhave rājā’ti ādimāha.

(b) Mahābodhisattānaṃ eva ca ānantariyaparimutti na itara bodhisattānaṃ tathāhi paccekabodhiyaṃ niyato samāno devadatto cirakālasambhutena lokanāthe āgātena garutarāni ānantariyāni pasavi.

(c) Tasmā kammantarāyenāyamidāni asamavetadassanābhisamaye rājā paccekabodhiniyāmena anāgate paccekabuddho hutvā parinibbāyissatīti daṭṭhabbaṃ.2

  1. Luận giải về Suttanipāta: Hetūti arahattassa upanissayasampatti. Yo hi tasmiṃ attabhāve vāyanamto arahattaṃ pāpuṇituṃ samattho, tassa samijjhati, no itarassa, yathā sumedhapaṇḍitassa.

078. Luận giải về Jātaka, v.v.

Purisassāpi tasmiṃ attabhāve arahattappattiyā hetusampannasseva patthanā samijjhati, no itarassa.

  1. Luận giải về Cariyāpiṭaka::

(a) Evaṃ sampannūpanissaya panassa imāni upanissayasampattiyā liṅgāni bhavanti. Ye hi samannāgatassa sāvakabodhisattehi ca paccekabodhisattehi ca mahāviseso mahantaṃ nānākaraṇaṃ paññāyati indriyato paṭipattito kosallato ca.

(b) Idha upanissayasampanno mahāpuriso yathā visadindriyo hoti visadañāṇo na tathā itare. Parahitāya paṭipanno hoti na attahitāya.

(c) Tatha hi so yathā bahujanahitāya bahujanasukhāya lokānukampāya atthāya hitāya sukhāya devamanussānaṃ paṭipajjati na itare.

(d) Tattha ca kosallaṃ āvahati ṭhanuppattipaṭibhānena ṭhānāṭhānakusalatāya ca.

080. Luận giải về Jātaka:

(a) Guṇasampannenāpi yena attano jīvitaṃ buddhānaṃ pariccattaṃ hoti, tassa iminā adhikārena adhikārasampannasseva samijjhati, na itarassa. Adhikārasampannassāpi yassa buddhakārakadhammānaṃ atthāya mahanto chando ca ussāho ca vāyāmo ca pariyeṭṭhi ca, tasseva samijjhati, na itarassa.

(b) Tatridaṃ chandamahantāya opammaṃ

  1. Sace hi evamassa yo sakalacakkavāḷagabbhaṃ ekodakībhūtaṃ attano bāhubalena uttaritvā pāraṃ gantuṃ samattho so buddhattaṃ pāpuṇāti.

  2. Yo vā pana sakalacakkavāḷagabbhaṃ veḷughumbasanchannaṃ vyūhetvā nadditvā padasā gacchanto pārani gantuṃ samattho so buddhattaṃ pāpuṇāti.

  3. Yo vā pana sakalacakkavāḷagabbhaṃ sattiyā akoṭetvā nirantaraṃ sattiphalaramākiṇṇaṃ padasā akkamamāno pāraṃ gentuṃ samattho so buddhattaṃ pāpuṇāti.

  4. Yo vā pana sakalacakkavāḷagabbhaṃ vitacci taṅgarabhariṭaṃ pādeti maddamāno pāraṃ gantuṃ samattho so buddhattaṃ pāpuṇāti. Yo etesu ekasmimpi attano dukkaraṃ na maññati. Ahaṃ etampi taritvāvā gantvāvā pāraṃ gamissāmīti evaṃ mahantena chandena ca ussāhena ca vāyāmena ca pariyeṭṭhiyā ca samannāgato hoti. Tassa patthanā samijjhati na itarassa.

081. Một câu tục ngữ cổ: Yaṃ vā taṃvā paramparā codako pana codeti so hi sabbaṃ na passati.

  1. Kathāvatthu, Anuṭīkā: Mahābhinīhārato paṭṭhāya hi mahāsattā niyatāti vuccanti. Yathāha “Evaṃ sabbaṅgasampannā, bodhiyā niyatā narā”ti, “Dhuvaṃ buddho bhavissatī”ti ca.

  2. Sotattakī, v.v.: Evampi bodhisattānaṃ sambhārampi kataṃ bahum. Aladdhaṃ vyākaraṇaṃ yāva niyataṃ nabhavissati. Devadatto yathā aāāe sambhārāpi yathā bahu. Pacehā akusalussannā parihāyanti bodhiya.

Lưu ý: Trong dòng thứ ba, ‘Yathā bahu’ đôi khi xuất hiện dưới dạng ‘Katā bahu.’

  1. Cariyāpiṭaka Aṭṭhakathā; Sīlakkhandhavagga-ṭīkā:

(a) Tesu yo ugghaṭitaññū so sammāsambuddhassa sammukhā catuppadikaṃ gāthaṃ suṇanto gāthāya tatiyapade apariyosite eve chahi abhiññāhi saha paṭisambhidāhi arahattaṃ adhigantuṃ samatthūpanissayo hoti. Sace sāvakabodhiyaṃ adhimutto siyā.

(b) Dutiyo bhagavato sammukhā catuppadikaṃ gāthaṃ suṇanto apariyosite eva gāthāya catutthapade chahi abhiññāhi arahattaṃ adhigantuṃ samatthūpanissayo hoti. Yade sāvakabodhiyaṃ adhimutto siyā.

(c) Itaro pana bhagavato sammukhā catuppadikaṃ gāthaṃ sutvā pariyositāya gāthāya chahi abhiññāhi arahattaṃ pattuṃ samatthūpanissayo hoti. Atha sāvakabodhiyaṃ adhinutto siyā.

  1. Suttanipāta Aṭṭhakathā: “Cātuppadikaṃ gāthaṃ sutvā tassā atthaṃ vibhajitvā pariyosite …”

086. Theo tài liệu tham khảo kinh văn không xác định: Kim me aññātavasena dhammaṃ sacchikate nidha. Theo các Luận giải: Sacāhaṃ iccheyyaṃ sabbakilese jhāpetvā samphanavako hutvā rammanagaraṃ paviseyyaṃ ahaṃ aññātavasena pana kilese jhāpatvā nibbānapattiyā kiccaṃ natthi.

  1. Luận giải về Mora Jātaka: Paccekabuddhato ti sabbaññubodhisattānaññeva upāyapariggahe ñāṇaṃ mahantataraṃ hoti.

  2. Phụ chú về Mahāpadāna Sutta: Tattha “Aññātavesenā”ti sadevakaṃ lokaṃ unnādento buddho ahutvā kevalaṃ buddhānaṃ sāvaka bhāvūpagamanavasena aññātarūpena.

  3. Kiṃ me ekena tiṭṭena purisena thāmadassinā sabbaññutaṃ pāpuṇitvā saṃtāressaṃ sadevakaṃ.

  4. Cariyāpiṭaka Aṭṭhakathā: Tatrāyaṃ mahāpurisassa upanissayasampadā. Ekantenevassayathā ajjhāsayo sambodhininno hoti sambodhi poṇo sambodhi pabbhāro tathāsattānaṃ hitacariyā. Yatocānena purimabuddhānaṃ santike sammasambodhiyā paṇidhānaṃ kataṃ hoti manasā vācāya ca. Ahampi ediso sammāsambuddho hutvā samma deva sattānaṃ hitasukhaṃ nipphādeyyanti. Liên quan đến ba loại Ba-la-mật (Pāramī): Cittapaṇidhito yāva vacipaṇidhi tāva pavattā sambhārāpāramiyo. Vacipaṇidhito yāva kāyapaṇidhi tāva pavattā upapāramiyo.āyapaṇidhito pabhuti paramatthapāramiyo ti apare. Lưu ý: Sīlakkhandha-ṭīkā cũng nói như vậy.

  5. Apadāna: Ahampi pubbabuddhesu sambodhimabhipatthayiṃ. Manasā yeva hutvāna dhammarājā asaṅkhayā.

  6. Maṇisāramañjūsā: Yaṃ yaṃ bhagavātā tiṇṇo tāreyyanti ādinā mano vaci kāya paṇidhānavasena icchitaṃ attahitaṃ perahitaṃ vā. Tassa paṇidhānānurūpameva nipphādane.

  7. Nhận xét kết luận trong Sotattakī: Imanca pakaraṇaṃ nāma dhammarājena desitaṃ sotattakītīnāmanti veditabbaṃ hi viññunā. Về quyền tác giả: Garuhi dinnnāmena Buddhaghosati vissuto kato therena tenāyaṃ nidāna buddhagocaro.

  8. Imesaṃ sattānaṃ maraṇaṃnāma ekantikaṃ meyā ekaṃ pabbajjaṃ upagantvā mokkhhamaggo gavesitabbo.

  9. Các luận giải: Theragāthā Aṭṭhakathā 2: Saradatāpaso pana “Ahovatāhampi ayaṃ nisabhatthero viya anāgate ekassa buddhassa aggasāvako bhaveyyan”ti satthu desanākāle uppannaparivitakkatāya aññavihito hutvā maggaphalāni paṭivijjhituṃ nāsakkhi.

  10. Apādāna về Tôn giả Moggallāna: Anomadassī bhagavā lokajeṭṭho narāsabho, vihāsi himavantamhi devasaṅghapurakkhato varuṇo nāma nāmena nāgarājā ahaṃ tadā. Kāmarupī vikubbāmi mahodadhi nivāsahaṃ.

  11. Apādāna về Tôn giả Subhūti: Kosiyo nāma nāmena jaṭilo uggatāpaso Ekiyeva adutiyo vasami nisabhe tadā.

  12. Về Mười Ba-la-mật (Pāramī): Dasa kho sāriputta buddhakārakā dhammā. Katame dasa dānaṃ kho sāriputta buddhakārako dhammo sīlaṃ nekkhamaṃ paññā viriyaṃ khanti saccaṃ adhiṭṭhānaṃ mettā upekkhā buddhakārako dhammo. Ime kho dasa sāriputta buddhakārako dhammā.

099. Luận giải về Theragāthā:

(a) Imesampi hi yathā mahābodhisattānaṃ dānādipāramīhi paribyūhitā paññāpāramī anukkamena gabbhaṃ gaṇhantī paripākaṃ gacchantī buddhañānaṃ paripūreti.

(b) Dānaparicayena hete tatthatattha bhave alobhajjhāsayatāya sabbattha asaṅga mānasā anapekkhacitta hutvā sīlapariccyana saṃvutakāyavācatāya parisuddhakāyavacikammantā parisuddhājīvā indriyesu guttadvārā bhojanemattaññuno hutvā jāgariyanuyogena samāpadahanti svāyaṃ tesaṃ jāgariyānuyogo gatapaccāgatikavatta vasena dīpetabbo.

(c) Evaṃ pana paṭipajjantānaṃ adhikārasampattiyā appakasireneva aṭṭhasamāpattiyo pañcābhiññā chaḷabhiññā adhiṭṭhānabhūtā pubbabhāga vipassanā ca hatthagatāyeva honti. Vīryādayopana tadantogadhāeva.

(d) Yañhyi paccekabuddhiyā sāvakabodhiyā vā atthāya dānādipuññasambharaṇe abbhussahanaṃ. Idaṃ vīriyaṃ yaṃ tadanuparodhassa sahanaṃ ayaṃ khanti. Yaṃ dāna sīḷādisamādānāvisaṃvādanaṃ idaṃ saccam. Sabbatthakameva acalasamādānādhiṭṭhānaṃ idaṃ adhiṭṭhānaṃ. Yā dānasīlādīnaṃ pattiṭṭhānabhūtesu sattesu hitesita ayaṃ mettā. Yaṃ sattānaṃ katavikāresu ajjhapekkhanaṃ ayaṃ upekkhāti evaṃ dāna sīla bhāvanāsu sīla samādhi paññāsu ca sijjhamānāsu vīriyādayo siddhāeva honti.

  1. Cariyāpiṭaka AṭṭhakathāSīlakkhandha-ṭīkā: Lajjāsatimānāpassayānaṃ lokuttaradhammadhipatīnaṃ sīla samādhi paññā garukānaṃ tārita tarita tārayitūnaṃ anubuddha paccekabuddha sammāsambuddhānaṃ pāramī upapāramī paramatthapāramī hi bodhittayappattito yathā vuttavibhāgoti kcci.

101. Sách như trên: Aññe pana parapuññanumodana vasena pavattā sambhārā pāramiyo paresaṃ kārāpana vasena pavattā upapāramiyo sayaṃ karaṇavasena pavattā paramattha pāramiyoti vadanti.

  1. Ekevāda: Tathā bhavasukhāvaho puññañāṇasambhāro pāramī. Attano nibbānasukhāvaho upapāramī. Paresaṃ tadubhayasukhāvaho paramatthapāramīti eke.

  2. Cariyāpiṭaka AṭṭhakathāSīlakkhandha-ṭīkā: Puttadaradhanādi upakaraṇa pariccāgo pana dāna pāramī. Attano aṅgapariccāgo dānaupapāramī. Attano jīvitapariccāgo dānaparamatthapāramī ti.

  3. Buddhavaṃsa Aṭṭhakathā: Dānapāramiyaṃ tāva aṅgapariccāgo dānapāramī nāma. Bāhirabhaṇḍapariccāgo dānaupapāramī nāma. īvitapariccāgo dānaparamatthapāramī nāma. Eseva nayo sesapāramīsupi.

  4. Trả lời theo Visuddhuddhimagga Aṭṭhakathā:

(a) Imañhi pubbenivāsaṃ cha janā anussaranti titthiyā pakatisāvakā mahāsāvakā aggasāvakā paccekabuddhā buddhāti.

(b) Tattha titthiyā cattālīsaṃyeva kappe anussaranti na tato paraṃ. Kasmā dubbala puññattā. Tesañhyi nāmarūpapariccheda virahitattā dubbalapaññoti.

(c) Pakatisāvakā kappasatampi kappasahassampi anussaranti yeva balavapaññattā. Asīti mahāsāvakā satasahassakappe anussaranti. Dve aggasāvakā ekaṃ asaṅcheyyaṃ satasahassañca.

(d) Paccekabuddhā dveasancheyyāni satasahassañca. Ettakohi etesaṃ abhinīharo. Buddhānaṃ pana paricchedonāma natthi.

  1. Các luận giải về Kinh tạng: Tesu pana mandapaññātitthiyā anekajāti sahassamattaṃ anussaranti. Majjhimapaññā dasa saṃvaṭṭakappāni. Jikkhapaññā cattālīsaṃyeva kappe anussaranti. Natato paraṃ.

  2. Theragāthā Aṭṭhakathā: Ayampi purimabuddhesu katādhikāro. Tatthatatthabhave puññāni upacinanto kassapa dasabalassakāle.

  3. Samantapasadika AṭṭhakathāVisuddhimagga Aṭṭhakathā: Bhagavā pana tiricchānagatānampi anusāsanippadānena satthāyeva tepi hi bhagavato dhammassavanena upanissaya sampattiṃ patvā tāya eva upanissaya sampattiyā dutiye tatiyevā attabhāve maggaphalabhāgino honti. Maṇḍūkadevaputtādayo hi cetthanidassanaṃ.

  4. Mūlapaṇṇāsa Aṭṭhakathā về Cūḷasaccaka Sutta: Atha bhagavā yasmā licchavīhi saccakassa dinnaṃ, na bhagavato. Saccakena pana bhagavato dinnaṃ, tasmā tamatthaṃ dīpento yaṃ kho, aggivessanātiādimāha. Iti bhagavā nigaṇṭhassa matena vināyeva attano dinnaṃ dakkhiṇaṃ nigaṇṭhassa niyyātesi, sā cassa anāgate vāsanā bhavissatīti.

  5. Mūlapaṇṇāsa Aṭṭhakathā về Mahāsaccaka Sutta:

(a) Bhagavatā imassa nigaṇṭhassa dve suttāni kathitāni. Purimasuttaṃ eko bhāṇavāro, idaṃ diyaḍḍho, iti aḍḍhatiye bhāṇavāre sutvāpi ayaṃ nigaṇṭho neva abhisamayaṃ patto, na pabbajito, na saraṇesu patiṭṭhito. Kasmā etassa bhagavā dhammaṃ desesīti? Anāgate vāsanatthāya.

(b) Passati hi bhagavā, ‘‘imassa idāni upanissayo natthi, mayhaṃ pana parinibbānato samadhikānaṃ dvinnaṃ vassasatānaṃ accayena tambapaṇṇidīpe sāsanaṃ patiṭṭhahissati. Tatrāyaṃ kulaghare nibbattitvā sampatte kāle pabbajitvā tīṇi piṭakāni uggahetvā vipassanaṃ vaḍḍhetvā saha paṭisambhidāhi arahattaṃ patvā kāḷabuddharakkhito nāma mahākhīṇāsavo bhavissatī’’ti. Idaṃ disvā anāgate vāsanatthāya dhammaṃ desesi.

  1. Milindapañha: Na mahārāja dhutanguṇesu pubbāsevanaṃ vinā ekissāyeva jātiyā arahatta sacchikiriyā hoti.

  2. Mahāsatipaṭṭhāna Sutta Ṭīkā: Paccekabodhiyā upanissayasampadā kappānaṃ dve asaṅcheyyāni satasahassañca tajjāpuññañāṇasambhāra sambharanam. Sāvakabodhiyā aggasāvakānaṃ ekaṃ asaṅcheyyaṃ kappasatasahassañca mahāsāvakānaṃ kappasatasahassameva. Itaresaṃ atītasu jātīsu vivaṭṭasannissayavasena nibbattitaṃ nibbedhabhāgiyaṃ kusalaṃ.

  3. Ṭīkā: Upanissaya sampattanti tihetuka paṭisandhiādikaṃ maggaphalādhigamanassa balavakāranaṃ.

  4. Vimativinodamī Ṭīkā: Sare nimittaṃ aggahesīti pubbabuddhuppādesu saddhammassavanaparicayena dhammo eso vuccatīti sereākāraṃ gaṇhi. Pubbābhiyogavaseneva hi īdisānaṃ tiricehānānaṃ dhammassavanādīsu pasādo uppajjati vaggulitādīnaṃ viya.

  5. Vimānavatthu Aṭṭhakatha về Maṇḍūkadevaputta: Tasmiṃ khaṇe eko maṇḍūko pokkharaṇiyo āgantvā dhammo eso vuccatīti dhammasaññāya sarenimittaṃ gaṇhanto parisapariyanle nippajji.

  6. Theragāthā Aṭṭhakathā và Apadāna Aṭṭhakathā: Ayampi purimabuddhesu katādhikāro tatthatatthabhave puññāni upacinanto kassapadasabalassa kāle kulaghare nibbatto.

  7. Mahāpadāna Sutta, Dīghanikāya: Kicchena me adhigataṃ, halaṃ dāni pakāsituṃ; Rāga dosaparetehi, nāyaṃ dhammo susambudho.

  8. Luận giải về Mahāpadāna Sutta: Ayañca dhammo pathavīsandhāraka udakakkhandho viya gambhīro. Pabbatena paṭicchādetvā ṭhapito sāsapo viya duddaso. Satadhābinnassa vālassa koṭiyā koṭiṃ paṭipādanaṃ viya duranubodho. Nanu mayā hi imaṃ dhammaṃ paṭivijjhituṃ vāyamantena adinna danaṃ nāma natthi. Arakkhitaṃ sīlam nāma natthi. Aparipūritā kāci pāramī nāma natthi. Tassa me nirussāhaṃ viya mārabalaṃ vidha mantassāpi pathavī na kampittha. Pathamayāme pubbanivasaṃ anussaarantassāpi na kampittha, majjhimayāme dibbacakkhuṃ visodhentassāpi na kampittha, pacchimayāme pana paṭiccasamuppādaṃ paṭivijjhantasseva me dasasahassi lokadhātu kampittha.

  1. Iti mādisenāpi tikkhañāṇena kicchenevāyaṃ dhammo paṭividdho taṃ lokiya mahājanā kathaṃ paṭivijjhissantī”ti dhamma gambhīratā paccavekkhaṇānubhāvenāpi evaṃ cittaṃ namīti veditabbaṃ.
  2. Trả lời theo Luận giải: Tatiyakoṭṭhāse paccuṭṭhāya nisīditvā purima buddhānaṃ santike dānasīlādivasena katādhikāra puggala dassanatthaṃ buddha cakkhunā lokaṃ voloketi.
  1. Luận giải về Mahāpadāna Sutta: Bhavissantīti purimabuddhesu dasa puññakiriyavatthu vasena katādhikārā paripākagata padumāni viya suriyasmisamphassaṃ dhammadesanaṃ yeva ākaṅkhamānā catuppadika gāthā vasāne ariyabhūmiṃ okkamanārahā na eko, na dve, anekasatasahassā dhammassa aññātāro bhavissantīti dassehi

Xem thêm: Uruvela Sutta và Sāratthadīpanī-ṭīkā.

  1. Jinālaṅkāra-ṭīkā: Katasubhajanatanti pubbabuddhānaṃ santike katapuññajanasamohaṃ.

  2. Suttanipāta Aṭṭhakathā: Buddha paccekabuddha sammukhato cātuppādika gāthaṃ sutvā buddhānaṃ buddhasāvakānaṃ vā sammukhā sutāya cātuppādikāyapi gāthāya pariyosāne arahattaṃ pāpeti.

  3. Theragāthā Aṭṭhakathā: Yesañhi purimesu sammāsambuddhesu paccekabuddha buddhasāvakesu pi puññakiriye vasena pavattitaṃ sāvaka pāramita saṅkhātaṃ atthi apadānaṃ, te sāpadāna.

  4. Therīgāthā Aṭṭhakathā: Yāsañhi purimesu sammāsambuddhesu paccekabuddhesu sāvaka buddhesu vā puññakiriyavasena katādhikāratāsaṅkhātaṃ atthi apadānaṃ, tā sāpadānā.

  5. Suttanipāta Aṭṭhakathā: Paccekabuddhā sayameva bujjhanti, na pare bodhenti. Attharasameva paṭivijjhanti, na dhammarasaṃ. Na hi te lokuttaradhammaṃ paññattaṃ āropetvā desetuṃ sakkonti. Mūgena diṭṭhasupino viya vanacarakena nagare sāyitabyañjanaraso viya ca nesaṃ dhammābhisamayo hoti.

  6. Các luận giải: Api purimabuddhesu katādhikāro tattha tattha bhave puññāni upacinanto kassapadasabalassa kāle kulaghare nibbatto.

  1. Kesaṃ hi visayo esa patiṭṭhaṃ ke labhissare vinā kammasamādāna ñāṇasāmimahesinā.

  2. Peṭakopadesa: Duve hetū duve paccayā sāvakassa sammādiṭṭhiyā uppādāya. Paratoca ghoso saccānusandhi ajjhattañca yonisomanisikāro. xem thêm Verañjaka Sutta, Mūlapaṇṇāsa:

  3. Luận giải về Verañjaka Sutta, Mūlāpaṇṇāsa Aṭṭhakathā:

(a) Sammādiṭṭhiyā uppādāyāti vipassanāsammādiṭṭhiyā ca maggasammā diṭṭhiyā ca. Paratoghoso ti sappāyadhammassavanaṃ yoniso manasikāroti attano upāya manasikāro, tattha sāvakesu dhammasenāpatino pi dve paccayā laddhuṃ vaṭṭantiyeva.

(b) Thero hi kappasatasahassādhikaṃ ekaṃ asaṅkhyeyyaṃ pāramiyo pūretvāpi attano dhammatāya aṇumattampi kilesaṃ pajahituṃ nāsakkhi. “Ye dhammā hetuppabhavā”ti assajittharato imaṃ gāthaṃ sutvāvassa paṭivedho jāto. Paccekabuddhānaṃ pana sabbaññubuddhānañca paratoghosa kammaṃ natthi, yonisomanasikārasmiṃ yeva ṭhatvā paccekabodhiñca sabbaññutaññāṇañca nibbattenti.

  1. Apadāna: Ito dutiyake kappe … devilonāma sambuddhā agiñchi purato mama.

  2. Anantare ito kappe rājā huvara dassano sattaratanasampanno sakkavatti mahapphala.

  3. Luận giải về Mahāpadāna Sutta của Dīghanikāya: Yasmā capana yasmiṃ kappe buddhā uppajjanti tasmiṃ yeva cakkavattino uppajjanti buddhā ca kadāci karahaci uppajjanti, tasmā dullabhadassanaṭṭhenāpi ratanaṃ.

  4. Buddhavaṃsa Aṭṭhakathā: Duvidho kappo suññakappo asuññakappo cāti. Tattha suññakappe buddhapaccekabuddhā ca cakkavattino ca na uppajjanti. Tasmā guṇavantapuggala suññattā suññakappoti vuccati.

  5. Suttanipāta Aṭṭhakathā: Paccekabuddhā buddhe apatvā buddhānaṃ uppajjana kūleyeva uppajjanti.

  6. Sotattakī:

(a) Suññā asuññā duvidhā asaṅcheyyā pakāsitā. Asuññā ca asaṅcheyyā buddhuppādehi maṇḍitā.

(b) Buddhā paccekabuddhāca sāvakā cakkavattino suññasmiṃ asaṅcheyye nuppajjanti mahiddhikā.

  1. Sāratthasaṅgaha: Paccekabuddhā buddhe apatvā buddhānaṃ uppajjanakāleyeva uppajjantīti idaṃ vassasatasahassato heṭṭhimaṃ vassasatato uparimaṃ buddhānaṃ uppajjitabbakālaṃ.
    Kālaṃ: Sandhāya vuttaṃ. Kasmā upālittherāpadanādīsu ito dutiyakappepi paccekabuddhānaṃ uppapattipaññāyanato.

  1. Suttanipāta Aṭṭhakathā: Sabbabuddhā saṃvaṭṭamāne kappe na uppajjanti. Vivaṭṭamāne kappe uppajjanti. Paccekabuddhā buddhānaṃ antarā uppajjanakāle yeva uppajjanti.

  2. Mahāpadāna Sutta Aṭṭhakathā: Yasmiṃ kappe buddhā uppajjanti tasmiṃ yeva cakkavattino uppajjanti.

  3. “Saṅghaṃ samaggaṃ bhetvāna kappaṃ nirayamhi paccati. Saṅgaṃ samaggaṃ katvāna kappaṃ saggamhi medati.”

141. Phụ chú về Mahāpadāna Sutta: Sattānaṃ pāpajigucchanena vigatakāḷako puññapasutatāya maṇḍabhūto yādiso kālo buddhuppādāraho. Tādiso eva cakkavattīnasampi sambhavoti āha yasmā panātiādiṃ. Upamānavasena cetaṃ vuttaṃ. Upamāno pameyyānañca na accantameva sadisatā. Tasmā yathā buddhā kadāci karahaci uppajjanti. Na kathā cakkavattino. Evaṃ santepi cakkavattivattapūraṇassapi dukkarabhāvato dullabhuppādāyevāti imina dullabhuppādālā sāmaññena tesaṃ dullabhadassanatā vuttāti veditabbaṃ.

  1. Aṅguttara Aṭṭhakathā, Sāratthadīpanī-ṭīkā: Asaṅkhyeyyepi kappe buddhesu anuppajjentesu ekasattopi parinibbātuṃ na sakkoti. Tadāpi tucchā nibbānadhātūti na sakkā vattuṃ.

143. Liên quan đến Câu hỏi 14:

Tám yếu tố cần thiết cho lời tiên tri chắc chắn là một vị Phật tương lai:

(a) Manusattaṃ liṅgasampatti hetu satthāradassanaṃ pabbajjā gunasampatti adhikāro ca chandatā. Aṭṭhadhamma samodhanā abhinīhāro samijjhati.

Năm yếu tố cần thiết cho lời tiên tri chắc chắn là một vị Phật Độc Giác tương lai:

(b) Manussataṃ liṅgasampatti vigatāsavadassanaṃ adhikāroca chandatā ete abhinīhārakāraṇā.

Hai yếu tố cần thiết cho lời tiên tri chắc chắn là một vị Thánh đệ tử A-la-hán tương lai (Sāvaka):

(c) Adhikāro ca chandatā.

  1. Suttanipāta Aṭṭhakathā: “Abhinīhāro”ti mūla padānassetaṃ adhivacanaṃ.

  2. Cariyāpiṭaka: Aṭṭhakathā: Evaṃ aṭṭhaṅgasamannāgato panāyaṃ abhinīhāro atthato tesaṃ aṭṭhannaṃ aṅgānaṃ samodhānavasappavatto cittuppādoti veditabbo.

  3. Buddhavaṃsa Aṭṭhakathā: “Abhinīhāro”ti abhinīhāro nāma buddhabhāvatthaṃ mānasaṃ banditvā vyākaranaṃ aladdhā na uṭṭhahissāmī ti vīriyaṃ adhiṭṭhaya nippajjanaṃ.

  4. Paṭisambhidāmagga, Gaṇṭhi: Abhinīharoti mūlapanīdhi paribhāvita puññupayoca.

  5. Suttanipāta Aṭṭhakathā: Vigatāsavadassananti buddha paccekabuddha buddhasāvakānaṃ yassa kassaci dassananti attho.

  6. Pāṭha Jātaka Aṭṭhakathā: Hetusampannassāpi jīvamānaka buddhasseva santike patthentassa patthanā samijjhati, parinibbhute buddhe cetiyasantike vā bodhimūle vā patthentassa na samijjhati.

  7. Cariyāpiṭaka: Aṭṭhakathā: Satthāradassananti satthusammukhībhāvo. Dharamānakabuddhasseva hi santike patthentassa patthanā samijjhati, parinibbute pana bhagavati cetiyassa santike vā bodhimūle vā paṭimāya vā paccekabuddhabuddhasāvakānaṃ vā santike patthanā na samijjhati. Kasmā? Adhikārassa balavabhāvābhāvato. Buddhānaṃ eva pana santike patthanā samijjhati, ajjhāsayassa uḷārabhāvena tadadhikārassa balavabhāvāpattito.

  8. Buddhavaṃsa Aṭṭhakathā: Bhabbābhabbake ñatvā kammavipākaparicchedañāṇena paricchinditvā vyākātuṃ asamatthattā.

  9. Suttanipāta AṭṭhakathāApadāna Aṭṭhakathā: Tattha vigatāsavadassananti buddhapaccekabuddhabuddhasāvakānaṃ yassa kassaci dassananti attho.

  10. Theragāthā Aṭṭhakathā: Tathāpi dve aggasāvakāpi mahāsāvakesu antogathā. Tehi sāvaka pāramiñāṇassa matthaka pattiyā sāvakesu aggadhammādhigamena aggaṭṭhane ṭhitāpi abhinīhāramahantatā sāmaññena mahāsāvakātipi vuccanti.

  11. Theragāthā Aṭṭhakathā: Itare pana pakatisāvakehi sātisaya mahābhinīhārā. Tathā hi te padumuttarassa bhagavato kāle katapaṇidhānā. Tato eva sātisayaṃ abhiññāsamāpattīsu vasino pabhinnapaṭisambhidā ca. Kāmaṃ sabbepi arahanto sīlavisuddhiādike sampādetvā catūsu satipaṭṭhānesu patiṭṭhitacittā satta bojjhaṅge yathābhūtaṃ bhāvetvā maggapaṭipāṭiyā anavasesato kilese khepetvā aggaphale patiṭṭhahanti, tathāpi yathā saddhāvimuttato diṭṭhippattassa, paññāvimuttato ca ubhatobhāgavimuttassa pubbabhāga bhāvanāviseso addhā icchito viseso, evaṃ abhinīhāramahantatāpubbayogamahantatāhi attasantāne sātisayaguṇavisesassa nipphāditattā sīlādiguṇehi mahantā sāvakāti mahāsāvakā.

  12. Buddhavaṃsa: Yadimassa lokanāthassa virijjhissāma sāsanaṃ. Anāgatamhi addhāne hessāma sammukhā imam. Yathā manussā nadiṃ tarantā paṭititthaṃ virajjhiya. Heṭṭhā titthaṃ gahetvāna uttaranti mahānadim. Evameva mayaṃ sabbe yade muñcāmi maṃ jinam. Anāgatāmhi addhāṇe hessāma sammukhā imaṃ.

  13. Pāṭha Jātaka Aṭṭhakathā, Jātattaki Nidāna: Mahājano dipaṅkaradasabalassa vacamaṃ sutvā sumedhatāpaso kira buddhabījaṃ buddhaṅkuroti haṭṭhatuṭṭho ahosi. Yathānāma puriso nadiṃ taranto ujukena titthena uttarituṃ asakkonti heṭṭhā titthena uttarati. Evameva mayaṃ dipaṅkaradasabalassa sāsane maggaphalaṃ alabhamānā anāgate yadā tvaṃ buddho bhavissasi. Tadā tava sammukhā maggaphalaṃ sacchikātuṃ samatthā bhaveyyāmāti patthanaṃ patthayiṃsu.

  14. Theragāthā Aṭṭhakathā: Evaṃ vivatta udissa uppaditakusalacittaṃ satāshassadhika catu asaṅkhyijjya kāḷantrepi vimokkhadhigamassa upanissayo na hotiti na sakkā vatthuṃ.

  15. Mahāpadāna Sutta Ṭīkā: Yasmā ca buddhānaṃ desanā nāma desanāya bhājanabhūtānaṃ puggalānaṃ ñāṇabalānurūpā. Na attano ñāṇabalānurūpā. Tasmā tattha aggasāvakānaṃ mahāsāvakānaṃ tādisānañca devabrahmānaṃ vasena desanā vitthāritā. Idapana pakatisāvakānaṃ tādisānañca devatānaṃ pubbenivasaṃ kathento sattānnameva buddhānaṃ pubbenivāsaṃ katheti.

159. Luận giải về Mahāpadāna Sutta, Mahā Vagga: Bhagavā kira tesaṃ iddhimaya pattha cīvarassupanissayaṃ olokanto anekāsu jātīsu cīvaradānādīni disvā etha bhikkhavoti ādimāha.

160. Phụ chú về điều trên: Cīvarā dīni ticīvarādi aṭṭhaparikkhāradānaṃ sandhāyāha. Yo hi cīvarādike aṭṭhaparikkhāre patthacīvarameva vā sotāpannādiariyassa upthujjanasseva vā sīlasampannassa datvā idaṃ parikkhāradānaṃ anāgate ehibhikkhubhāvaya paccayo hotūti patthanaṃ patthapesi. Tassa ca sati adhikārasampattiyaṃ buddhanaṃ sammukhibhāve iddhimayaparikkhāra lābhāya samvattatīti veditabbaṃ.

  1. Āyatana Yamaka, Mūlaṭīkā: Na hi tāsaṃ sabbāsaṃ tasmiṃ bhave pavatte purisindriyaṃ na uppajjissati liṅgaparivattana­sambhāvā.

  2. Indriya Yamaka: Yā ca itthiyo eteneva bhāvena katicibhave dassetvā parinibbāyissanti tāsaṃ upapajjantīnam. Tāsaṃ itthindriyaṃ uppajjissati. No ca tāsaṃ purisindriyaṃ uppajjissati.

  3. Mūla-ṭīkā được đề cập ở trên: Bhavantare tassa tassa āyatanasantānassa yo ādi uppādo paṭisandhiyaṃ pavatteca bhavissati. So anāgatuppādo tabbhāve na vuccati. Addhā paccuppannānantogadhattā.

  4. Aṅguttaranikāya Ekanipāta Aṭṭhakathā: Ariyasāvakoti atthi ariyo na sāvako. Seyyathāpi buddhā paccekabuddhā ca. Atthi sāvako na ca ariyo. Seyyathāpi gihi anāgataphalo. Atthi neva ariyo na sāvako. Seyyathāpi puthū titthiyā. Atthi ariyoceva sāvakoea. Seyyathāpi samaṇo sakyaputtiyo āgataphato viññātasāsano. Idha pana gihivā hetu pabbajitovā. Yo koci sutavāti ettha vuttassa atthassa vasena sutasampanno. Ayaṃ ariyasāvakoti veditabbo.

  5. Milindapañha: Nagare mahārāja sāvatthiyā pañcakoṭimattā ariyasāvakā bhagavato upāsakaupāsikāyo sattapaṇṇāsadasasahassāni-tīṇi ca sahassāni anāgāmiphale patiṭṭhitā. Te sabbe pi gihī yeva. Na pabbajjitā. Nagare rājajahe paññāsasatasahassāni tīṇi ca satasahassāni ariyasāvakā bhagavato upāsakaupāsikāyo.

166. Phụ chú về Soṇadaṇḍa Sutta, Sīlakkhandha-ṭīkā: Yasmā catuvīsatiyā ṭhānesu asaṅcheyyā aprimeyyā devamanussā maggaphalāmataṃ piviṃsu. Koṭisatasahassa pamāṇenāpi bahūeva. Tasmā anuttarācarāsikkhāpana vasena bhagavā bahūnaṃ ācariyo.

  1. Samantabhaddikā hoặc Anāgatavaṃsa: Catuvīsati asaṅkhyeyya sattacattālīsa koṭisatasahassasaṅkhā paricchinne veneyya passi.

  2. Sotattakī, Tathāgatuppatti: Catuvīsati asaṅcheyyā, Saṭṭhiceva ca koṭiyo Pāṇānisatasahassāni, eko buddho pamocati.

  3. Jinālaṅkāra: Catuvīsati asaṅcheyyappamāṇe satte mārabandanato mocetvā anupādā parinibbānapattā buddhāyeva gaṇana visesoti eke.

  4. Cariyāpiṭaka Aṭṭhakathā: Asaṅkhyeyyeti ettha saṅkhātuṃ na sakkoti asaṅkhyeyyā. Gaṇanaṃ atikkantāti attho. Asaṅkhkeyyanti eko gaṇana visesoti eke.

  5. Jinālaṅkāra-ṭīkā: Asaṅkhiyānanti gaṇanapathaṃ atītānaṃ ida saṅchāsaddho aparimeyye vattati.

  6. Udāna Aṭṭhakathā: Tassa bhagavato hi dhammasakkapavattana suttantadesanāya aññātakoṇḍuññapamukhā aṭṭhārassa brahma koṭiyu dhammaṃ paṭivijjhiṃsu. Evaṃ yāva subhaddhaparibbājaka vinayanā dhammapaṭividdhasattānaṃ gaṇanā natthi. Mahāsamayasuttaṃ mangalasuttaṃ caḷarāhulovādasuttaṃ samacittasuttanti imesaṃ catunnaṃ suttānaṃ desanākāle abhisamayapatta sattānaṃ paricchedo natthi.

  7. Aṅguttara Aṭṭhakathā: Buddhakāle ca pana ekekasmiṃ asaṅcheyyāpi sattā amataṃ āvādenti.

  8. Sutta Nipāta Aṭṭhakathā, Khuddakapātha Aṭṭhakathā về Maṅgala Sutta: Evañca bhagavatā niṭṭhāpitāya desanāya pariyosāne koṭisatasahassadevatāyo arahattaṃ pāpuṇiṃsu, sotāpatti sakadāgāmi anāgāmiphala sampattānaṃ gaṇanā asaṅkhyeyyā ahosi.

  9. Mahapadāna Sutta Aṭṭhakathā:

(a) Yatheva hi tāni catubbidhāni pupphāni evameva ugghaṭitaññū vipañcitaññū neyyo padaparamoti cattāro puggalā.

(b) Tattha yassa upggalassa saha udahaṭavelāya dhammāghisamayo hoti. Ayaṃ vuccati puggalo ugghaṭitaññū

(c) Yassa puggalassa saṃkittena bhāsitassa vitthārena atthe vibhajīyamāne dhammābhisamayo hoti. Ayaṃ vuccati puggalo vipañcitaññū

(d) Yassa puggalassa uddesato paripucchato yonisomanasikaroto kalyāṇamitte sevato bhajato payirupāsato anupubbena dhammābhisamayo hoti. Ayaṃ vuccati puggalo neyyo.

(e) Yassa puggalassa bahumpi bhaṇantassa bahumpi suṇato bahumpi gaṇhato bahumpi dhārayato bahumpi vācayato na tāya jātiya dhammābhisamayo hoti. Ayaṃ vuccati puggalo padaparamo.

(f) Tattha bhagavā uppalavanādi sadisaṃ dasasahassilokadhātuṃ olokento ajjapupphanakāni viya ugghaṭitaññū. Sve pupphanakāni viya vipañcitaññū. Tatiyadivase pupphakāniviya neyyo. Macchakacchapa bhakkhāni viya padaparamoti addasa.

(g) Passanto ca ettakā apparajakkhā. Ettakā mahārajakkhā. Tatrāpi ettakā ugghaṭitaññūti evaṃ sabbā kārato addasa.

(h) Tattha tiṇṇaṃ puggalānaṃ imasmiṃyeva attabhāve bhagavato chammadesanā atthaṃ sādheti. Padaparamaṃ anāgate vāsanatthāya hoti. Atha bhagavā imesaṃ catunnaṃ puggalānaṃ atthāvahaṃ dhammadesanaṃ disvā desetukāmataṃ uppaditvā puna sabbesupi tīsu bhavesu sabbe satte bhabbā bhabbavasena dve koṭṭhāse akāsi.

(i) Tattha sabbepi abhabbapuggale pahāya bhabbapuggale eva ñāṇena parigga hetvā ettakā rāgacaritā ettakā dosa moha vitakka saddhā buddhi caritāti cha koṭṭhāse akāsi. Evaṃ katvā dhammaṃ desessāmīti cintesi.

176. Liên quan đến các Câu hỏi 17-20: Mahāpadāna Sutta Aṭṭhakathā: Aññadā pana dīghāyukadevaloke nibbattā na yāvatāyukaṃ tiṭṭhanti. Kasmā tattha pāramīnaṃ duppūraṇīyatthā. Te adhimuttikālaṃ kariyaṃ katvā manussāpathe yeva nibbattanti. Paramīnaṃ pūrentā pana yathā idāni ekena attabhāvena sabbaññutaṃ upanetuṃ sakkon ti. Evaṃ sabbaso pūritatthā tadāpi vipassibodhisatto tattha yavatāyukaṃ aṭṭhāsi.

  1. Cariyāpiṭaka: Aṭṭhakathā:

(a) Yassaṃ hi jātiyaṃ mahābodhisattena mahāpaṇidhānaṃ nibbattanti. Tato paṭṭhāya yāva carimattabhāvā na sānāma jāti upalabbhati. Yā sabbena sabbaṃ bodhisambhāra tārahitā siyā antamaso dāmapāramimattaṃ upādāya. Ayampi niyatipatitānaṃ bodhisattānaṃ dhammatā.

(b) Yāva ca te kammādīsu vasībhavaṃ na pāpuṇanti. Tāva sappadesampi sambhāresu payoga­māppajjanti. Yadā pana sabbaso kammādīsu vasībhāvapattā honti. Atha tato paṭṭhāya nippadesato eva bodhisambhāresu samīhanasātaccakiriyā sampajjati. Sakkaccakāritā pana sabbakālaṃ hoti.

  1. Mahāpadāna Sutta-ṭīkā: Yasmā purimabuddhānaṃ mahābodhisattānaṃ paccekabuddhānañca nibbattiyā sāvakabodhisattānaṃ sāvakābodhiyā abhinīhāro sāvakapāramiyā sambharaṇaṃ paripācanañca buddhakkhattabhūte imasmiṃ cakkavāḷe jambudīpe eva ijjhati na aññattha. Vineyyānaṃ vinayattho ca buddhuppādoti aggasāvaka mahāsavakādi vineyya visesā pekkhāya etasmim jambudīpe eva buddhā nibbattanti. Na sesadīpesu.

  2. Mahāparinibbāna Sutta: Abhijānāmi kho panāhaṃ, ānanda, anekasataṃ khattiyaparisaṃ upasaṅkamitā. Tatrapi mayā sannisinnapubbaṃ ceva sallapitapubbañca sākacchā ca samāpajjitapubbā. Tattha yādisako tesaṃ vaṇṇo hoti, tādisako mayhaṃ vaṇṇo hoti. Yādisako tesaṃ saro hoti, tādisako mayhaṃ saro hoti. Dhammiyā kathāya sandassemi samādapemi samuttejemi sampahaṃsemi. Bhāsamānañca maṃ na jānanti — ‘Ko nu kho ayaṃ bhāsati devo vā manusso vā’ti? Dhammiyā kathāya sandassetvā samādapetvā samuttejetvā sampahaṃsetvā antaradhāyāmi. Antarahitañca maṃ na jānanti – ‘Ko nu kho ayaṃ antarahito devo vā manusso vā’ti?

  3. Anamataggasaṃyuttaṃ Aṭṭhakathā: Imamhā cakkavāḷā sattā paracakkavāḷaṃ, paracakkavāḷā ca imaṃ cakkavāḷaṃ saṃsaranti. Tesu imasmiṃ cakkavāḷe

  4. Các luận giải về Dīgha, Majjhima, Aṅguttara và Saṃyuttanikāya: Manussaloke pi na aññasmiṃ cakkavāḷe imasmiṃ yeva cakkavāḷe uppajjati. Tatrāpi na sabbaṭhānesu. Inratthimāyadisāya jaṅgalaṃnāma nigamo … (Pe) … Orato majjhe. Evaṃ paricchinnena āyāmato tileaguesate vitthārato aḍḍhatileaguesate parikkhepato navayojana sate majjhimadese uppajjati. Na kevalañca Tathāgato. Paccekabuddhā aggasavaka asītimahātherā aññepi guṇavantā uppajjanti. Buddhamāta buddhapitā cakkavattirājā aññeca sārapattā brahmāṇa gahapatikā ettheva uppajjānti.

  5. Vinaya Mahāvagga (V.i.197): Tatrime paccantimā janapadā – puratthimāya disāya gajaṅgalaṃ [kajaṅgalaṃ (sī. syā.)] nāma nigamo, tassa parena mahāsālā, tato parā paccantimā janapadā, orato majjhe; puratthimadakkhiṇāya disāya sallavatī [salalavatī (sī.)] nāma nadī, tato parā paccantimā janapadā, orato majjhe; dakkhiṇāya disāya setakaṇṇikaṃ nāma nigamo, tato parā paccantimā janapadā, orato majjhe; pacchimāya disāya thūṇaṃ nāma brāhmaṇagāmo, tato parā paccantimā janapadā, orato majjhe; uttarāya disāya usīraddhajo nāma pabbato, tato parā paccantimā janapadā, orato majjhe.

  6. Aṅguttara Aṭṭhakathā: Api ca upādāya majjhimadeso labbhati. Sakalopi hi jambudīpo majjhimadeso nāma. Sesadīpā paceantimajanapadā. Tampadīpe anurādhapuraṃ majjhimadeso nāma. Seso paccantoti veditabbo.

  7. Phụ chú về điều trên: Upādāyā pi majjhimadeso babbhati. Yatha gati bhikkhūnaṃ bhikkhunīnaṃ upasakānaṃ upāsikānaṃ aññesampi kammavādi kiriyavādi viññujātikānaṃ. So patirūpadesavāsoti vuccati. Tenāha sakalopīti ādiṃ.

  8. Suttanipāta Aṭṭhakathā, Khuddakapāthā Aṭṭhakathā, về Maṅgala Sutta: Patirūpadesavāso nāma yattha catasso parisā vicaranti. Dānādīni puññakiriyavatthūnica vattanti. Navaṅgasatthusāsanaṃ dibbati.

186. Kết luận:

  1. Sāsane dāni yaneke, dhammavinaya kovidā. Yassa pabhāvanibaddhā, subba te pāyaso janā.

  2. Tesa maññatare nassa, gaṇṭhipada visodhino. Pādamūlamhi therassa, nippacca dhammagāhinā.

  3. Mayā Ñāṇābhivaṃsena, takkatāyattha nissayaṃ. Saṅkharontena yaṃ laddhaṃ, vipulaṃ tassa tejasā.

  4. Dhammena rājāno bhūmiṃ, rakkhantu hitacetasā. Appamattā janā hontu, sambhodhittayabhāgino ti.

Hộp bình luận Facebook