Thư viện

Ledi Sayādaw – Đường Tu Cho Người Trẻ Tuổi (Sukumāra Magga Dīpanī)

Ledi Sayādaw

Đường Tu Cho Người Trẻ Tuổi

Sukumāra Magga Dīpanī

Chuyển ngữ từ Anh sang Việt bởi Soṇa Thiện Kim, có dùng công cụ Gemini Advanced và ChatGPT Plus hỗ trợ

Lời Tựa

Cuốn sách này đến tay tôi cách đây hơn ba mươi năm, do anh James Patrick Stuart Ross, một người Mỹ từng nhiều lần đến Miến Điện để tìm kiếm sự giúp đỡ của những dịch giả tài năng, trao tặng. Anh Ross mong muốn phổ biến các tác phẩm của Ngài Ledi Sayādaw đến với Phật tử khắp nơi trên thế giới, những người không có điều kiện đọc bản tiếng Miến.

Kinh Thi-ca-la-việt (Siṅgāla Sutta) là bài kinh thứ ba mươi mốt trong Trường Bộ Kinh (Dīghanikāya), còn được gọi là kinh Thiện Sinh (Siṅgālovāda Sutta), lời khuyên dạy của Đức Phật dành cho chàng Thiện Sinh. Ngài Ledi Sayādaw đã giảng giải bài kinh này như một lời sách tấn cho người trẻ về trách nhiệm và bổn phận xã hội của mình. Trong bản dịch kinh Thiện Sinh, dịch giả Maurice Walshe gọi đây là “Lời Khuyên Dành Cho Cư Sĩ”. Hiện nay, chúng ta chưa rõ danh tính người dịch tác phẩm của Ngài Sayādaw cũng như thời điểm tác phẩm được xuất bản. Một số phần trong bản dịch bị thiếu hoặc sắp xếp lộn xộn. Tôi đã cố gắng bổ sung những chỗ thiếu sót và hiệu đính lại dựa trên Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga).

Sukumāra có nghĩa là một chàng trai ngoan, người thanh niên tốt. Ngài Ledi Sayādaw viết tác phẩm này như một lời khuyên dành cho giới trẻ, đồng thời cũng để cha mẹ dạy con cái những điều cơ bản về sự tôn kính Tam Bảo (Phật – Pháp – Tăng). Như lời kết luận trong sách đã viết: “Tác phẩm này được viết đặc biệt vì lợi ích của các bạn trẻ Phật tử dưới hai mươi tuổi.”

Phụ lục của sách có bao gồm các bài kinh và kệ chú hộ trì, nhưng tôi không đưa vào bản dịch này. Các bài kinh chú chính hiện đã có sẵn trên mạng, còn những bài khác như kệ Sambuddhe, bài nguyện bắt đầu bằng “Sirasmiṃ me Buddha seṭṭho…”, Chú Dharaṇa, kinh Chadisāpāla, thì chỉ được sử dụng ở Miến Điện.

Mỗi quốc gia Phật giáo có những truyền thống riêng, nhưng phần “Tôn Kính Tam Bảo” trong sách này được sử dụng rộng rãi và có giá trị tham khảo, vì dựa trên các đoạn kinh Pali. Cách thức đúng đắn để tỏ lòng tôn kính Tam Bảo, quy y Tam Bảo và thọ trì năm giới hoặc tám giới, hiểu biết về mười nghiệp bất thiện (thân, khẩu, ý), mười nghiệp thiện cần vun trồng và mười Ba-la-mật cần thực hành, tất cả những điều này nên được ghi nhớ bởi mọi trẻ em lớn lên trong gia đình Phật tử. Các em cũng nên biết cách quán Từ Bi Hỷ Xả (Tứ Vô Lượng Tâm) và ghi nhớ cả kinh văn Pali lẫn ý nghĩa các đức tính của Phật – Pháp – Tăng.

Phật tử cũng nên ghi nhớ ít nhất một trong ba bài kinh hộ trì chính – kinh Từ Bi (Metta Sutta), kinh Hạnh Phúc (Maṅgala Sutta) và kinh Báu Vật (Ratana Sutta) – sau đó nghiên cứu kỹ ý nghĩa của chúng. Cá nhân tôi yêu thích kinh Hạnh Phúc vì nó bao gồm ba mươi tám pháp lành, bắt đầu từ những điều cơ bản như tránh xa kẻ ngu si, gần gũi người trí tuệ, giữ gìn giới luật và thực hiện các bổn phận xã hội được trình bày chi tiết trong kinh Thiện Sinh, rồi đến việc trau dồi các phẩm chất tâm linh cao quý hơn như cung kính, khiêm tốn, biết đủ, tri ân, lắng nghe và thảo luận về Phật pháp, cuối cùng đạt đến những đức hạnh cao cả nhất là thanh tịnh, thiền quán và chứng ngộ Niết-bàn.

Theo tôi, nếu các Phật tử tại gia có thể học thuộc lòng thêm một vài bài kinh hộ trì hoặc những đoạn kinh quan trọng do Đức Phật dạy, thì điều đó sẽ hữu ích hơn nhiều so với việc học thuộc những bài kệ truyền thống để cúng dường đèn, hương và thức ăn lên bàn thờ. Vào thời Ngài Ledi Sayādaw, người dân thường cần được bảo vệ khỏi rắn, nhện và thú dữ, họ hiếm khi có điều kiện tiếp cận với y học hiện đại. Ngày nay, mối nguy hiểm lớn nhất mà con người phải đối mặt là những thông tin sai lệch, có thể làm suy yếu niềm tin của họ vào giáo lý của Đức Phật nếu kiến thức Phật pháp của họ chỉ hời hợt. Để bảo vệ bản thân khỏi những mối nguy hiểm này, họ nên đọc, học hỏi, chất vấn, nghiên cứu giáo lý và thực hành thiền định một cách nghiêm túc dưới sự hướng dẫn của một vị thầy uyên bác hoặc một thiền sư giàu kinh nghiệm.

Tôi hy vọng rằng ấn bản đầu tiên này sẽ giúp cho các tác phẩm của cố Sayādaw đến gần hơn với độc giả. Tôi nhận thấy nó vẫn còn nhiều thiếu sót, nhưng tôi sẽ cố gắng sửa chữa trong những lần tái bản sau, nếu thời gian cho phép.

Nếu phát hiện bất kỳ sai sót nào, xin vui lòng cho tôi biết. Tôi không thể sửa chữa những gì mình không biết, nhưng việc sửa lỗi chính tả và các lỗi khác thường chỉ mất vài phút.

Tỳ-khưu Pesala

Tháng 10 năm 2021

Chuyển ngữ từ Anh sang Việt bởi Soṇa Thiện Kim, có dùng công cụ Gemini Advanced và ChatGPT Plus hỗ trợ

Đường Lối Sống Đẹp Cho Người Trẻ Tuổi

Sukumāra Magga Dīpanī

Kinh Thiện Sinh – Siṅgālovāda Sutta

Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

Kính lạy Đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác

Lời Mở Đầu

Thuở ấy, Đức Phật, bậc Toàn Giác, thấu tri vạn pháp bằng trí tuệ và tuệ giác, bậc Đạo Sư của trời người, đang ngự tại tinh xá Trúc Lâm gần thành Vương Xá.

Bấy giờ, có một chàng trai tên là Thiện Sinh, con của một gia chủ, dậy sớm tinh mơ và đi ra khỏi thành Vương Xá. Với y phục và mái tóc còn ướt đẫm sương đêm, chàng chắp tay hướng về sáu phương (Đông, Tây, Nam, Bắc, trên, dưới) để đảnh lễ.

Sáng hôm ấy, khi Đức Phật đi khất thực trong thành Vương Xá, Ngài trông thấy chàng Thiện Sinh đang lễ bái sáu phương. Đức Phật bèn hỏi: “Này Thiện Sinh, vì sao với y phục và mái tóc ướt sũng như thế, chàng lại chắp tay đảnh lễ sáu phương?”

Thiện Sinh cung kính đáp: “Bạch Đức Thế Tôn, trước khi lâm chung, cha con có gọi con đến và dặn dò: ‘Con trai yêu quý của cha, hãy luôn luôn kính lễ sáu phương.’ Để tôn trọng và ghi nhớ lời dạy cuối cùng của cha, con chắp tay đảnh lễ sáu phương ạ.”

Nghe Thiện Sinh trả lời, Đức Phật dạy: “Này Thiện Sinh, sáu phương mà cha chàng dặn dò không phải là sáu phương Đông, Tây, Nam, Bắc, trên, dưới đâu.”

Thiện Sinh bèn thưa hỏi Đức Phật: “Bạch Đức Thế Tôn, vậy sáu phương là gì? Con phải kính lễ sáu phương như thế nào cho đúng? Xin Đức Thế Tôn từ bi chỉ dạy cho con.”

Trước lời thỉnh cầu của chàng trai, Đức Phật đã dạy về mười bốn điều bất thiện mà người cư sĩ tại gia cần tránh để trở thành người có đạo đức.

Tóm lại, sáu phương ở đây chính là: cha mẹ, thầy cô, vợ con, bạn bè, người làm công và các vị Sa-môn, Bà-la-môn. Kính lễ sáu phương nghĩa là làm tròn bổn phận đối với sáu đối tượng này.

Mười Một Câu Kệ Về Bổn Phận Người Cư Sĩ

Những bổn phận của người cư sĩ tại gia mà Đức Phật đã dạy cho chàng Thiện Sinh trong kinh Thiện Sinh thuộc Trường Bộ Kinh xin được trình bày như sau:

  1. Sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối,
  2. Hãy tránh xa bốn điều ô uế ấy.
  3. Do tham, sân, si mà điều ác phát sinh.
  4. Thoát khỏi bốn nhân tố này, hành động mới chân chánh.
  5. Say mê rượu chè, lui tới nơi ca hát, cờ bạc, la cà đêm tối. Kết giao bạn xấu, ưa lười biếng là sáu nguyên nhân
  6. Khiến tài sản tiêu tán, cần phải tránh xa.
  7. Cha mẹ như phương Đông, thầy cô như phương Nam.
  8. Vợ con như phương Tây, bạn bè như phương Bắc.
  9. Người làm công như phương dưới, Sa-môn,
  10. Bà-la-môn như phương trên.
  11. Hãy làm cho sáu phương này được an ổn, vững chắc.

Hai Mươi Tám Đoạn Giải Thích

  1. Tài sản tiêu tán, vướng vào tranh chấp, mắc phải bệnh tật, mang tiếng xấu, mất đi lòng tự trọng, trí tuệ suy giảm là sáu hậu quả xấu của việc say mê rượu chè.
  2. Bản thân, vợ con, tài sản đều không được bảo vệ. Bị nghi ngờ phạm tội và làm điều xấu. Bị vu oan giá họa và phải đối mặt với nhiều rắc rối. Đó là sáu hậu quả xấu của việc la cà đường phố vào ban đêm.
  3. Sao nhãng trách nhiệm vì mải mê xem múa hát, nghe nhạc, nghe kể chuyện, chơi đàn, đánh trống là sáu hậu quả xấu của việc lui tới những nơi giải trí.
  4. Khi thắng thì sinh thù oán, khi thua thì buồn phiền. Của cải nhanh chóng tiêu tan. Lời nói không có trọng lượng trước pháp luật. Không ai muốn kết hôn. Bị người thân và bạn bè khinh thường. Đó là sáu hậu quả xấu của người nghiện cờ bạc.
  5. Con bạc, kẻ phóng đãng, kẻ say xỉn, kẻ lừa đảo, kẻ gian lận, người hung hăng, bạo lực là sáu hạng bạn xấu cần tránh xa.
  6. Có sáu kiểu người ưa lười biếng, thường viện cớ trời quá lạnh, quá nóng, quá muộn, quá sớm, quá đói hoặc quá no.
  7. Kẻ chỉ biết nhận mà không cho, kẻ hứa suông, kẻ giả dối, kẻ xúi giục làm điều xấu là bốn hạng bạn xấu, giả dối cần tránh xa.
  8. Biết giúp đỡ, tình cảm không thay đổi dù trong lúc thuận lợi hay khó khăn; biết khuyên nhủ điều lành, thấu hiểu và cảm thông. Đó là bốn hạng bạn tốt cần trân trọng và gần gũi.
  9. Nuôi dưỡng cha mẹ để báo đáp công ơn, quản lý công việc của cha mẹ, giữ gìn danh dự và truyền thống gia đình, cố gắng xứng đáng với gia tài được thừa kế, cúng dường bố thí cho cha mẹ đã khuất. Đó là năm bổn phận của con cái đối với cha mẹ.
  10. Ngăn cản con làm điều xấu, khuyên bảo con làm điều lành, dạy dỗ con cái nên người, dạy nghề cho con, tìm kiếm hôn nhân phù hợp cho con và trao lại gia tài. Đó là năm bổn phận của cha mẹ đối với con cái.
  11. Đứng dậy chào thầy khi thầy đến, theo hầu thầy, lắng nghe và vâng lời thầy, phụng sự thầy, học hành chăm chỉ những điều thầy dạy. Đó là năm bổn phận của học trò đối với thầy.
  12. Dạy dỗ học trò phát triển toàn diện, truyền đạt kiến thức mọi lúc mọi nơi, không giấu nghề, giới thiệu học trò cho bạn bè, đồng nghiệp, bảo vệ học trò khỏi những mối nguy hiểm. Đó là năm bổn phận của người thầy đối với học trò.
  13. Gọi vợ bằng những lời yêu thương, không chê bai vợ, chung thủy với vợ, giao cho vợ quản lý tài sản và công việc gia đình, cung cấp quần áo và trang sức cho vợ. Đó là năm bổn phận của người chồng đối với vợ.
  14. Hoàn thành tốt công việc nhà, đối xử tốt với họ hàng và người làm công, chung thủy với chồng, quản lý tài sản tốt, khéo léo và siêng năng trong công việc. Đó là năm bổn phận của người vợ đối với chồng.
  15. Rộng rãi, lịch sự, thấu hiểu và giúp đỡ, đối xử bình đẳng, giữ lời hứa. Đó là năm bổn phận của người cư sĩ đối với bạn bè.
  16. Bảo vệ tính mạng cho bạn khi bạn say xỉn, bảo vệ tài sản cho bạn, che chở bạn khi bạn gặp nguy hiểm, không bỏ rơi bạn khi bạn gặp khó khăn, giúp đỡ và tôn trọng con cháu của bạn. Đó là năm bổn phận của bạn bè đối với người cư sĩ.
  17. Giao việc phù hợp với khả năng và sức khỏe, cho ăn uống đầy đủ và trả công xứng đáng, chăm sóc khi ốm đau, chia sẻ thức ăn ngon, cho phép nghỉ ngơi. Đó là năm bổn phận của người chủ đối với người làm công.
  18. Dậy sớm hơn chủ, đi ngủ sau chủ, chỉ lấy những gì được cho, làm tốt công việc được giao, giữ gìn danh dự cho chủ. Đó là năm bổn phận của người làm công đối với chủ.
  19. Làm việc thiện, nói lời hay ý đẹp, suy nghĩ với lòng từ bi, mời các vị ấy về nhà, cung cấp vật dụng cần thiết cho các vị ấy. Đó là năm bổn phận của người cư sĩ đối với các vị Sa-môn, Bà-la-môn.
  20. Ngăn cản người cư sĩ làm điều xấu, khuyên nhủ họ làm điều thiện, cảm thông với họ, dạy những điều Phật pháp mà họ chưa từng biết, giải thích những điều Phật pháp mà họ đã học và chỉ cho họ con đường dẫn đến các cõi trời. Đó là sáu bổn phận của các vị Sa-môn, Bà-la-môn đối với người cư sĩ.
  21. Chỉ biết nhận mà không biết cho, nhận nhiều mà cho ít, chỉ giúp đỡ khi không thể tránh khỏi, duy trì tình bạn chỉ vì lợi ích của bản thân. Đó là bốn đặc điểm của người bạn xấu chỉ biết nhận.
  22. Nói về những điều mình có thể làm, những điều mình sẽ làm, dỗ dành bằng những lời hứa suông, khi cần giúp đỡ thì viện cớ. Đó là bốn đặc điểm của người bạn xấu chỉ nói lời hoa mỹ.
  23. Tán thành cả việc làm tốt lẫn việc làm xấu của bạn, khen ngợi bạn trước mặt và nói xấu bạn sau lưng. Đó là bốn đặc điểm của người bạn xấu hay nịnh hót.
  24. Cùng bạn uống rượu, la cà ban đêm, lui tới những nơi giải trí, cờ bạc. Đó là bốn đặc điểm của người bạn xấu hay rủ rê làm điều sai trái.
  25. Bảo vệ tính mạng và tài sản của bạn, giúp đỡ bạn khi gặp khó khăn nguy hiểm, giúp đỡ gấp đôi những gì được yêu cầu. Đó là bốn đặc điểm của người bạn tốt biết giúp đỡ.
  26. Chia sẻ bí mật của mình, giữ bí mật cho bạn, không bỏ rơi bạn khi gặp khó khăn, liều mạng sống vì bạn. Đó là bốn đặc điểm của người bạn tốt trung thành.
  27. Khuyên bạn tránh điều xấu, khuyên bạn làm điều lành, dạy bạn những điều Phật pháp chưa từng nghe và chỉ cho bạn con đường đến các cõi trời. Đó là bốn đặc điểm của người bạn tốt biết khuyên nhủ điều lành.
  28. Không vui mừng khi bạn gặp bất hạnh, vui mừng khi bạn thành công, ngăn cản người khác nói xấu bạn, khen ngợi những người nói tốt về bạn. Đó là bốn đặc điểm của người bạn tốt biết cảm thông.

Giải thích về Hai Đoạn Kệ

Bốn Điều Ô Nhiễm

Ý nghĩa của các câu tóm tắt sẽ được giải thích như sau:

  1. Pāṇātipāta có nghĩa là giết hại hoặc tước đoạt sinh mạng của sinh vật sống, tức là từ con người và loài vật, cho đến trứng chấy, trứng rận.
  2. Adinnādāna có nghĩa là lấy của cải của người khác bằng bạo lực, đe dọa, xâm hại, hoặc những cách xấu khác, trộm cắp lén lút như những tên cướp, tên trộm, qua các hình thức lừa đảo và gian dối.
  3. Kāmesumicchācāra có nghĩa là hành vi tà dâm đối với hai mươi hạng phụ nữ không nên xâm phạm đối với nam giới; đối với nữ giới, có quan hệ tình dục với bất kỳ người đàn ông nào ngoài chồng của mình.
  4. Musāvāda có nghĩa là nói dối.

Bốn hành vi này mà những người ác, bất lương thường làm gọi là bốn điều ô nhiễm. Đức Phật dạy rằng một người nên tránh xa bốn điều ác này suốt cả cuộc đời để không trở thành một người ác và bất lương.

Với ý này, hai câu kệ đã dạy rằng:

“Giết hại sinh mạng, trộm cắp, tà dâm, nói dối, hãy xa rời bốn điều ô nhiễm này.”

Giải Thích Câu Kệ Thứ Ba Và Thứ Tư

Bốn Nhân Tố Gây Ra Điều Ác

  1. Chandāgatiṃ: Làm điều ác vì thiên vị hoặc vì nhận hối lộ.
  2. Dosāgatiṃ: Làm điều ác vì thù hận hoặc giận dữ.
  3. Mohāgatiṃ: Làm điều ác vì si mê, không hiểu biết.
  4. Bhayāgatiṃ: Làm điều ác vì sợ hãi.

Bốn hành vi xấu ác này, sai trái và không đúng đắn, thường do những kẻ tiểu nhân, thấp hèn, không coi trọng đạo đức thực hiện. Chúng được gọi là bốn nhân tố gây ra điều ác. Đức Phật dạy rằng, một người được sinh ra làm người thì nên tránh xa bốn hành vi này suốt đời, để không trở thành kẻ tiểu nhân, thấp hèn.

Chính vì vậy, kinh văn có câu:

“Do tham, sân, si mà điều ác phát sinh. Thoát khỏi bốn nhân tố này, hành động mới chân chánh.”

Giải Thích Câu Kệ Thứ Năm Đến Thứ Bảy

Sáu Thói Quen Khiến Tài Sản Tiêu Tan

  1. Surāmerayamajjappamādaṭṭhānānuyogo: Say mê rượu chè.
  2. Vikālavisikhācariyānuyogo: La cà đường phố vào những giờ không thích hợp.
  3. Samajjābhicaraṇaṃ: Lui tới những nơi ca hát, giải trí.
  4. Jūtappamādaṭṭhānānuyogo: Nghiện cờ bạc, khiến sao nhãng việc làm phước thiện và việc học hỏi, dẫn đến sự tiêu tán tài sản.
  5. Pāpamittānuyogo: Giao du với bạn xấu.
  6. Ālasayyānuyoga: Ưa lười biếng, không muốn làm việc.

Người nào vướng phải một trong sáu thói quen xấu này thì sẽ không có cơ hội để tạo dựng sự nghiệp, cũng không thể phát triển sự nghiệp đã có. Tài sản và danh vọng chỉ ngày một lụi tàn.

Chính vì vậy, kinh văn có câu:

“Say mê rượu chè, lui tới nơi ca hát, cờ bạc, la cà đêm tối. Kết giao bạn xấu, ưa lười biếng là sáu nguyên nhân Khiến tài sản tiêu tán, cần phải tránh xa.”

Giải Thích Các Đoạn Văn

Sáu Tác Hại Của Việc Say Mê Rượu Chè

  1. Sandīṭṭhikā dhanajāni: Tài sản tiêu hao ngay trong hiện tại.
  2. Kalahappavaḍḍhunī: Dễ vướng vào cãi vã, đánh nhau.
  3. Rogānaṃ āyatanaṃ: Dễ mắc bệnh tật.
  4. Akittisañjananī: Mất đi danh tiếng tốt đẹp.
  5. Kopīnaviddhaṃsanī: Mất đi sự e lệ, hành xử không đứng đắn.
  6. Paññaya dubbalīkaraṇī: Trí tuệ suy giảm.

Chính vì vậy, kinh văn có câu:

“Tài sản tiêu tán, vướng vào tranh chấp, mắc phải bệnh tật, mang tiếng xấu, mất đi lòng tự trọng, trí tuệ suy giảm là sáu hậu quả xấu của việc say mê rượu chè.”

Sáu Tác Hại Của Việc La Cà Đường Phố Vào Ban Đêm

  1. Atta agutta: Bản thân không được bảo vệ, dễ gặp nguy hiểm.
  2. Puttadāra agutta: Vợ con không ai trông nom, dễ sa ngã vào điều xấu.
  3. Sāpateyya agutta: Tài sản không được bảo vệ, dễ bị mất cắp.
  4. Saṅkiya: Dễ bị nghi ngờ là kẻ xấu, phạm tội.
  5. Abhūtavacanaṃ ruhati: Dễ bị vu oan giá họa, khó minh oan cho bản thân, có thể bị kết tội oan.
  6. Bahū dukkhadhammānaṃ purakkhata: Gặp phải nhiều rắc rối, phiền phức.

Chính vì vậy, kinh văn có câu:

“Bản thân, vợ con, tài sản đều không được bảo vệ.

Bị nghi ngờ phạm tội và làm điều xấu.

Bị vu oan giá họa và phải đối mặt với nhiều rắc rối.

Đó là sáu hậu quả xấu của việc la cà đường phố vào ban đêm.”

Sáu Tác Hại Của Việc Lui Tới Những Nơi Giải Trí

  1. Kva naccaṃ: Mải mê xem múa hát, ngày đêm la cà nơi vũ trường, sao nhãng việc làm phước thiện, việc học hỏi để trau dồi bản thân và việc làm ăn kinh tế.
  2. Kva gītaṃ: Mải mê nghe ca nhạc, ngày đêm la cà nơi ca hát, sao nhãng việc làm phước thiện, việc học hỏi để trau dồi bản thân và việc làm ăn kinh tế.
  3. Kva vāditaṃ: Mải mê nghe nhạc cụ, ngày đêm la cà nơi hòa nhạc, sao nhãng việc làm phước thiện, việc học hỏi để trau dồi bản thân và việc làm ăn kinh tế.
  4. Kva akkhānaṃ: Mải mê nghe kể chuyện, ngày đêm la cà nơi kể chuyện hoang đường, vô bổ, chẳng hạn như chuyện Rāmayana, E-naung, Ngwetaung, Bharata, v.v., sao nhãng việc làm phước thiện, việc học hỏi để trau dồi bản thân và việc làm ăn kinh tế.
  5. Kva pāṇissaraṃ: Mải mê xem biểu diễn chũm chọe, ngày đêm la cà nơi biểu diễn, sao nhãng việc làm phước thiện, việc học hỏi để trau dồi bản thân và việc làm ăn kinh tế.
  6. Kva kumbhathunaṃ: Mải mê xem biểu diễn đánh trống, ngày đêm la cà nơi biểu diễn, sao nhãng việc làm phước thiện, việc học hỏi để trau dồi bản thân và việc làm ăn kinh tế.

Chính vì vậy, kinh văn có câu:

“Sao nhãng trách nhiệm vì mải mê xem múa hát, nghe nhạc, nghe kể chuyện, chơi đàn, đánh trống là sáu hậu quả xấu của việc lui tới những nơi giải trí.”

Trong các câu kệ trên, “lui tới” có nghĩa là thường xuyên lui tới bất cứ nơi nào có tổ chức giải trí. Trong câu “Kva naccaṃ”, “Kva” có nghĩa là “ở đâu”, “Naccaṃ” có nghĩa là “múa hát”, v.v., chỉ ra rằng người đó dành toàn bộ thời gian để tìm kiếm nơi có biểu diễn ca nhạc, giải trí, rồi đến đó xem, vì thế mà sao nhãng trách nhiệm của mình.

Sáu Tác Hại Của Cờ Bạc

  1. Jaya veraṃ pasavati: Người thắng sinh ra oán thù với người thua.
  2. Jino vittamanusocati: Người thua buồn khổ vì mất của.
  3. Sandīṭṭhikā dhanajāni: Của cải thất thoát ngay trong hiện tại.
  4. Vacanaṃ na rūhati: Lời nói của con bạc không có trọng lượng, không ai tin tưởng.
  5. Mittāmaccaānaṃ paribhūto: Con bạc bị người thân, bạn bè khinh thường.
  6. Āvāha vivāhakānaṃ apatthito: Không ai muốn kết hôn với con bạc.

Chính vì vậy, kinh văn có câu:

“Khi thắng thì sinh thù oán, khi thua thì buồn phiền.

Của cải nhanh chóng tiêu tan.

Lời nói không có trọng lượng.

Không ai muốn kết hôn.

Bị người thân và bạn bè khinh thường.

Đó là sáu hậu quả xấu của người nghiện cờ bạc.”

Sáu Hạng Bạn Xấu

  1. Dhuttā mitta: Bạn bè nghiện cờ bạc.
  2. Soṇḍā mitta: Bạn bè phóng đãng, trụy lạc.
  3. Pipāsā mitta: Bạn bè nghiện rượu.
  4. Nekatikā mitta: Bạn bè làm giả, lừa đảo (ví dụ như làm vàng giả, bạc giả).
  5. Vañcanikā mitta: Bạn bè lừa gạt, chiếm đoạt.
  6. Sāhasikā mitta: Bạn bè hung hăng, côn đồ.

Chính vì vậy, kinh văn có câu:

“Con bạc, kẻ phóng đãng, kẻ say xỉn, kẻ lừa đảo, kẻ gian lận, người hung hăng, bạo lực là sáu hạng bạn xấu cần tránh xa.”

Bốn Hạng Bạn Xấu

  1. Aññadatthuharo amitto: Người bạn xấu chỉ biết nhận mà không cho đi.
  2. Vacīparamo amitto: Người bạn xấu chỉ nói lời hoa mỹ, hứa hẹn suông.
  3. Anuppiyabhāṇī amitto: Người bạn xấu hay nịnh hót.
  4. Apāyasahāya amitto: Người bạn xấu rủ rê làm điều sai trái, ví dụ như cùng nhau giết người, cướp của, trộm cắp.

Bốn hạng bạn này chẳng mang lại lợi ích gì, thực chất là những kẻ thù đội lốt bạn bè, chúng ta nên tránh xa.

Chính vì vậy, kinh văn có câu:

“Kẻ chỉ biết nhận mà không cho, kẻ hứa suông, kẻ giả dối, kẻ xúi giục làm điều xấu là bốn hạng bạn xấu, giả dối cần tránh xa.”

Bốn Đặc Điểm Của Người Bạn Xấu Chỉ Biết Nhận

  1. Chỉ biết nhận mà không biết cho đi.
  2. Nhận nhiều mà cho ít.
  3. Chỉ giúp đỡ khi không thể từ chối.
  4. Duy trì tình bạn chỉ vì lợi ích của bản thân.

Chính vì vậy, kinh văn có câu:

“Chỉ biết nhận mà không biết cho đi, nhận nhiều mà cho ít, chỉ giúp đỡ khi không thể tránh khỏi, duy trì tình bạn chỉ vì lợi ích của bản thân. Đó là bốn đặc điểm của người bạn xấu chỉ biết nhận.”

Bốn Đặc Điểm Của Người Bạn Xấu Chỉ Nói Lời Hoa Mỹ

  1. Nói về những điều mình đã làm cho bạn trong quá khứ.
  2. Nói về những điều mình sẽ làm cho bạn trong tương lai.
  3. Dỗ dành bạn bằng những lời hứa suông.
  4. Viện cớ khi bạn thực sự cần giúp đỡ.

Chính vì vậy, kinh văn có câu:

“Nói về những điều mình có thể làm, những điều mình sẽ làm, dỗ dành bằng những lời hứa suông, khi cần giúp đỡ thì viện cớ. Đó là bốn đặc điểm của người bạn xấu chỉ nói lời hoa mỹ.”

“Nói về những điều mình đã làm cho bạn trong quá khứ” có nghĩa là khi bạn gặp khó khăn, đến vay tiền hoặc nhờ giúp đỡ, dù có khả năng nhưng người đó lại không muốn giúp, họ nói rằng giá như bạn đến sớm hơn thì họ đã vui vẻ giúp đỡ rồi. Tuy nhiên, bây giờ họ không có tiền, thật không may, và họ rất tiếc vì không thể làm gì được, dù họ rất muốn giúp.

“Nói về những điều mình sẽ làm cho bạn trong tương lai” có nghĩa là dù có khả năng giúp đỡ bạn, nhưng người đó lại không muốn làm. Họ nói rằng thật không may là bạn đến đúng lúc họ đang kẹt tiền, và họ rất tiếc vì không thể giúp được. Tuy nhiên, họ rất hy vọng sẽ có thể giúp đỡ bạn trong tương lai.

“Dỗ dành bạn bằng những lời hứa suông” có nghĩa là khi biết chắc chắn bạn đang giàu có, không cần sự giúp đỡ về tài chính, họ nói: “Bạn à, tôi đang có dư chút ít. Nếu cần giúp đỡ về tài chính thì cứ nói với tôi nhé.” Khi biết chắc chắn bạn không có khẩu vị hoặc không đói, họ mời bạn ăn. Khi bạn đói và muốn ăn, họ lại giấu thức ăn đi. Khi bạn không cần sự giúp đỡ, họ thường xuyên đến và đề nghị giúp đỡ. Khi bạn cần sự giúp đỡ, họ lại tránh mặt và chỉ quay lại khi bạn không còn cần nữa, rồi nói rằng thật không may vì chuyện xảy ra đúng lúc họ đi vắng. Những lời nói và hứa hẹn giả dối, vô ích, xảo trá, sáo rỗng như vậy rất phổ biến trên đời. Chúng phát ra từ miệng lưỡi của những kẻ bất lương, gian xảo.

“Viện cớ khi bạn thực sự cần giúp đỡ” có nghĩa là khi bạn đến nhờ giúp đỡ, họ giả vờ bị đau đầu, đau bụng hoặc bị mất tiền, v.v.

Bốn Đặc Điểm Của Người Bạn Xấu Hay Nịnh Hót

  1. Khi được hỏi ý kiến về việc làm xấu, họ tán thành.
  2. Khi được hỏi ý kiến về việc làm tốt, họ cũng tán thành.
  3. Nói tốt về bạn trước mặt.
  4. Nói xấu bạn sau lưng.

Chính vì vậy, kinh văn có câu:

“Tán thành cả việc làm tốt lẫn việc làm xấu của bạn, khen ngợi bạn trước mặt và nói xấu bạn sau lưng. Đó là bốn đặc điểm của người bạn xấu hay nịnh hót.”

Bốn Đặc Điểm Của Người Bạn Xấu Hay Rủ Rê Làm Điều Sai Trái

  1. Rủ rê bạn uống rượu.
  2. Rủ rê bạn la cà ban đêm.
  3. Rủ rê bạn lui tới những nơi giải trí.
  4. Rủ rê bạn đánh bạc.

Chính vì vậy, kinh văn có câu:

“Cùng bạn uống rượu, la cà ban đêm, lui tới những nơi giải trí, cờ bạc. Đó là bốn đặc điểm của người bạn xấu hay rủ rê làm điều sai trái.”

Hết phần giải thích về bốn hạng bạn xấu cần tránh

Bốn Hạng Bạn Tốt

  • Upakāra mitto: Người bạn biết giúp đỡ.
  • Samānasukhadukka mitto: Người bạn có tình cảm không thay đổi dù trong lúc thuận lợi hay khó khăn.
  • Atthakkhāyī mitto: Người bạn biết khuyên bạn tránh điều xấu, làm điều lành.
  • Anukampako mitto: Người bạn đối xử với bạn như con cái, biết thấu hiểu và cảm thông.

Chính vì vậy, kinh văn có câu:

“Biết giúp đỡ, tình cảm không thay đổi dù trong lúc thuận lợi hay khó khăn; biết khuyên nhủ điều lành, thấu hiểu và cảm thông. Đó là bốn hạng bạn tốt cần trân trọng và gần gũi.”

Đức Phật cũng dạy rõ hơn về đặc điểm của bốn hạng bạn tốt này như sau:

Bốn Đặc Điểm Của Người Bạn Tốt Trung Thành

  1. Chia sẻ bí mật của mình cho bạn.
  2. Giữ bí mật cho bạn.
  3. Không bỏ rơi bạn khi gặp khó khăn, nguy hiểm.
  4. Thậm chí liều mạng sống vì bạn.

Chính vì vậy, kinh văn có câu:

“Chia sẻ bí mật của mình, giữ bí mật cho bạn, không bỏ rơi bạn khi gặp khó khăn, liều mạng sống vì bạn. Đó là bốn đặc điểm của người bạn tốt trung thành.”

Bốn Đặc Điểm Của Người Bạn Tốt Biết Khuyên Nhủ Điều Lành

  1. Khuyên bạn tránh điều xấu.
  2. Khuyên bạn làm điều lành.
  3. Dạy bạn những điều Phật pháp mà bạn chưa từng nghe.
  4. Chỉ cho bạn con đường đến các cõi trời (bằng cách bố thí, giữ giới, v.v.).

Chính vì vậy, kinh văn có câu:

“Khuyên bạn tránh điều xấu, khuyên bạn làm điều lành, dạy bạn những điều Phật pháp chưa từng nghe và chỉ cho bạn con đường đến các cõi trời. Đó là bốn đặc điểm của người bạn tốt biết khuyên nhủ điều lành.”

Bốn Đặc Điểm Của Người Bạn Tốt Biết Cảm Thông

  1. Không vui mừng khi bạn gặp bất hạnh, mà lo lắng cho bạn.
  2. Vui mừng khi bạn thành công, hạnh phúc.
  3. Ngăn cản người khác nói xấu bạn.
  4. Khen ngợi những người nói tốt về bạn.

Chính vì vậy, kinh văn có câu:

“Không vui mừng khi bạn gặp bất hạnh, vui mừng khi bạn thành công, ngăn cản người khác nói xấu bạn, khen ngợi những người nói tốt về bạn. Đó là bốn đặc điểm của người bạn tốt biết cảm thông.”

Bốn Đặc Điểm Của Người Bạn Tốt Biết Giúp Đỡ

  1. Bảo vệ tính mạng cho bạn khi bạn sơ ý, lơ là.
  2. Bảo vệ tài sản cho bạn.
  3. Giúp đỡ bạn khi bạn gặp khó khăn, nguy hiểm.
  4. Khi bạn cần, giúp đỡ gấp đôi những gì bạn yêu cầu.

Chính vì vậy, kinh văn có câu:

“Bảo vệ tính mạng và tài sản của bạn, giúp đỡ bạn khi gặp khó khăn nguy hiểm, giúp đỡ gấp đôi những gì được yêu cầu. Đó là bốn đặc điểm của người bạn tốt biết giúp đỡ.”

(Kết thúc phần trình bày về mười bốn điều bất thiện mà người cư sĩ tại gia muốn sống tốt cần phải tránh)

Hết phần giải thích về bốn hạng bạn tốt

Sáu Kiểu Người Lười Biếng

  1. Ati sītaṃ: Không chịu làm việc, viện cớ trời quá lạnh.
  2. Ati uṇhaṃ: Không chịu làm việc, viện cớ trời quá nóng.
  3. Ati sāyaṃ: Không chịu làm việc, viện cớ đã quá muộn.
  4. Ati pāto: Không chịu làm việc, viện cớ còn quá sớm.
  5. Ati chāto: Không chịu làm việc, viện cớ quá đói.
  6. Ati dhāto: Không chịu làm việc, viện cớ quá no.

Chính vì vậy, kinh văn có câu:

“Có sáu kiểu người ưa lười biếng, thường viện cớ trời quá lạnh, quá nóng, quá muộn, quá sớm, quá đói hoặc quá no.”

Sáu Phương

  1. Cha mẹ là phương Đông.
  2. Thầy cô là phương Nam.
  3. Vợ con là phương Tây.
  4. Bạn bè là phương Bắc.
  5. Người làm công là phương dưới.
  6. Sa-môn, Bà-la-môn là phương trên.

Chính vì vậy, kinh văn có câu:

“Cha mẹ như phương Đông, thầy cô như phương Nam.

Vợ con như phương Tây, bạn bè như phương Bắc.

Người làm công như phương dưới, Sa-môn, Bà-la-môn như phương trên.

Hãy làm cho sáu phương này được an ổn, vững chắc.”

Kính Lễ Sáu Phương

Năm Bổn Phận Của Con Cái

  1. Nuôi dưỡng cha mẹ để báo đáp công ơn khi cha mẹ già yếu.
  2. Quản lý công việc giúp cha mẹ.
  3. Giữ gìn danh dự và truyền thống gia đình.
  4. Cố gắng sống xứng đáng với những gì cha mẹ để lại (cả về vật chất lẫn tinh thần).
  5. Làm việc phước thiện hồi hướng công đức cho cha mẹ đã khuất.

Chính vì vậy, kinh văn có câu:

“Nuôi dưỡng cha mẹ để báo đáp công ơn, quản lý công việc của cha mẹ, giữ gìn danh dự và truyền thống gia đình, cố gắng xứng đáng với gia tài được thừa kế, cúng dường bố thí cho cha mẹ đã khuất. Đó là năm bổn phận của con cái đối với cha mẹ.”

Năm Bổn Phận Của Cha Mẹ

  1. Ngăn cản con cái làm điều xấu ngay từ khi còn nhỏ.
  2. Dạy dỗ con cái vun trồng thói quen tốt đẹp, chẳng hạn như kính trọng cha mẹ và người lớn tuổi.
  3. Cho con cái học hành và dạy nghề.
  4. Tìm kiếm hôn nhân phù hợp cho con cái khi đến tuổi trưởng thành.
  5. Trao lại tài sản cho con cái.

Chính vì vậy, kinh văn có câu:

“Ngăn cản con làm điều xấu, khuyên bảo con làm điều lành, dạy dỗ con cái nên người, dạy nghề cho con, tìm kiếm hôn nhân phù hợp cho con và trao lại gia tài. Đó là năm bổn phận của cha mẹ đối với con cái.”

Năm Bổn Phận Của Học Trò

  1. Khi thầy đến, đứng dậy chào đón thầy, cầm dù, dép cho thầy, dọn chỗ ngồi và mời thầy ngồi; quạt mát cho thầy khi trời nóng.
  2. Đến thăm hỏi và hầu hạ thầy ít nhất ba lần mỗi ngày.
  3. Lắng nghe và vâng lời thầy.
  4. Phụng sự thầy chu đáo khi thầy khỏe mạnh lẫn khi thầy đau ốm, ví dụ như lấy nước uống, nước rửa mặt cho thầy.
  5. Cố gắng học cho thuộc những điều mới được dạy, ôn tập những điều đã học.

Chính vì vậy, kinh văn có câu:

“Đứng dậy chào thầy khi thầy đến, theo hầu thầy, lắng nghe và vâng lời thầy, phụng sự thầy, học hành chăm chỉ những điều thầy dạy. Đó là năm bổn phận của học trò đối với thầy.”

Năm Bổn Phận Của Người Thầy

  1. Dạy dỗ học trò nên người, có văn hóa, có kỷ luật cả về thể chất lẫn tinh thần.
  2. Truyền đạt kiến thức bổ ích cho học trò bất cứ khi nào có dịp.
  3. Không giấu nghề, dạy cho học trò tất cả những gì cần thiết.
  4. Khen ngợi những học trò đã hoàn thành khóa học trước mặt cha mẹ và người thân của họ, cho họ biết những gì học trò đã học được.
  5. Dạy cho học trò các bài thần chú, kinh chú hộ trì và những bài kệ Pali về công đức của Phật – Pháp – Tăng để các em trì tụng suốt đời, phòng tránh tai họa, nguy hiểm và điều xấu.

Chính vì vậy, kinh văn có câu:

“Dạy dỗ học trò phát triển toàn diện, truyền đạt kiến thức mọi lúc mọi nơi, không giấu nghề, giới thiệu học trò cho bạn bè, đồng nghiệp, bảo vệ học trò khỏi những mối nguy hiểm. Đó là năm bổn phận của người thầy đối với học trò.”

Năm Bổn Phận Của Người Chồng

  1. Gọi vợ bằng những lời yêu thương.
  2. Không chê bai vợ.
  3. Chung thủy với vợ.
  4. Giao cho vợ quản lý tài sản và công việc gia đình.
  5. Cung cấp quần áo và trang sức cho vợ phù hợp với địa vị xã hội.

Chính vì vậy, kinh văn có câu:

“Gọi vợ bằng những lời yêu thương, không chê bai vợ, chung thủy với vợ, giao cho vợ quản lý tài sản và công việc gia đình, cung cấp quần áo và trang sức cho vợ. Đó là năm bổn phận của người chồng đối với vợ.”

Năm Bổn Phận Của Người Vợ

  1. Hoàn thành tốt công việc nhà một cách siêng năng, chăm chỉ.
  2. Đối xử tốt với họ hàng nhà chồng và người làm công.
  3. Chung thủy với chồng.
  4. Giữ gìn tài sản của chồng.
  5. Khéo léo và siêng năng trong công việc.

Chính vì vậy, kinh văn có câu:

“Hoàn thành tốt công việc nhà, đối xử tốt với họ hàng và người làm công, chung thủy với chồng, quản lý tài sản tốt, khéo léo và siêng năng trong công việc. Đó là năm bổn phận của người vợ đối với chồng.”

Năm Bổn Phận Của Người Cư Sĩ Đối Với Bạn Bè

  1. Thỉnh thoảng mời bạn bè đến nhà chơi và tặng quà cho bạn bè.
  2. Nói năng lịch sự với bạn bè.
  3. Chân thành thấu hiểu và giúp đỡ bạn bè.
  4. Đối xử với bạn bè như với chính mình.
  5. Giữ lời hứa với bạn bè.

Chính vì vậy, kinh văn có câu:

“Rộng rãi, lịch sự, thấu hiểu và giúp đỡ, đối xử bình đẳng, giữ lời hứa. Đó là năm bổn phận của người cư sĩ đối với bạn bè.”

Năm Bổn Phận Của Bạn Bè

  1. Bảo vệ bạn khi bạn sơ ý, lơ là, gặp nguy hiểm.
  2. Bảo vệ tài sản cho bạn khi bạn sơ ý.
  3. Che chở cho bạn khi bạn sợ hãi.
  4. Không bỏ rơi bạn khi bạn gặp khó khăn.
  5. Tôn trọng và giúp đỡ con cháu của bạn.

Chính vì vậy, kinh văn có câu:

“Bảo vệ tính mạng cho bạn khi bạn say xỉn, bảo vệ tài sản cho bạn, che chở bạn khi bạn gặp nguy hiểm, không bỏ rơi bạn khi bạn gặp khó khăn, giúp đỡ và tôn trọng con cháu của bạn. Đó là năm bổn phận của bạn bè đối với người cư sĩ.”

Năm Bổn Phận Của Người Chủ Đối Với Người Làm Công

  1. Giao việc phù hợp với khả năng và sức khỏe của người làm.
  2. Cho người làm ăn uống đầy đủ và trả công xứng đáng.
  3. Chăm sóc người làm chu đáo khi họ ốm đau.
  4. Chia sẻ thức ăn ngon cho người làm.
  5. Cho người làm nghỉ lễ và nghỉ phép khi có việc đột xuất.

Chính vì vậy, kinh văn có câu:

“Giao việc phù hợp với khả năng và sức khỏe, cho ăn uống đầy đủ và trả công xứng đáng, chăm sóc khi ốm đau, chia sẻ thức ăn ngon, cho phép nghỉ ngơi. Đó là năm bổn phận của người chủ đối với người làm công.”

Năm Bổn Phận Của Người Làm Công

  1. Dậy sớm trước chủ.
  2. Làm xong việc nhà rồi mới đi ngủ, sau khi chủ đã ngủ.
  3. Chỉ nhận những gì chủ cho.
  4. Làm tốt công việc được giao.
  5. Giữ gìn danh dự cho chủ.

Chính vì vậy, kinh văn có câu:

“Dậy sớm hơn chủ, đi ngủ sau chủ, chỉ lấy những gì được cho, làm tốt công việc được giao, giữ gìn danh dự cho chủ. Đó là năm bổn phận của người làm công đối với chủ.”

Năm Bổn Phận Của Người Cư Sĩ Đối Với Sa-môn, Bà-la-môn

  1. Làm việc thiện, giúp đỡ các vị Sa-môn, Bà-la-môn với lòng từ bi.
  2. Nói lời hay ý đẹp với các vị Sa-môn, Bà-la-môn với lòng từ bi.
  3. Suy nghĩ về các vị Sa-môn, Bà-la-môn với lòng từ bi.
  4. Mời các vị Sa-môn, Bà-la-môn về nhà và nói: “Các vị cứ tự nhiên đến nhà con bất cứ lúc nào, nếu cần gì xin cứ cho con biết.”
  5. Cung cấp vật dụng cần thiết cho các vị ấy.

Chính vì vậy, kinh văn có câu:

“Làm việc thiện, nói lời hay ý đẹp, suy nghĩ với lòng từ bi, mời các vị ấy về nhà, cung cấp vật dụng cần thiết cho các vị ấy. Đó là năm bổn phận của người cư sĩ đối với các vị Sa-môn, Bà-la-môn.”

Sáu Bổn Phận Của Sa-môn, Bà-la-môn Đối Với Người Cư Sĩ

  1. Ngăn cản người cư sĩ làm điều xấu.
  2. Khuyên nhủ họ làm điều lành (chẳng hạn như giữ gìn giới luật).
  3. Cảm thông với họ.
  4. Dạy những điều Phật pháp mà họ chưa từng biết.
  5. Giải thích những điều Phật pháp mà họ đã học.
  6. Chỉ cho họ con đường dẫn đến các cõi trời.

Chính vì vậy, kinh văn có câu:

“Ngăn cản người cư sĩ làm điều xấu, khuyên nhủ họ làm điều thiện, cảm thông với họ, dạy những điều Phật pháp mà họ chưa từng biết, giải thích những điều Phật pháp mà họ đã học và chỉ cho họ con đường dẫn đến các cõi trời. Đó là sáu bổn phận của các vị Sa-môn, Bà-la-môn đối với người cư sĩ.”

“Kính lễ sáu phương” có nghĩa là người cư sĩ tại gia cần làm tròn bổn phận của mình đối với sáu đối tượng kể trên.

Chính vì ý nghĩa này mà người cha Bà-la-môn của Thiện Sinh đã khuyên con trai mình phải kính lễ sáu phương. Làm tròn bổn phận của mình đối với sáu đối tượng này được gọi là “kính lễ sáu phương”, hay “bảo vệ sáu phương”, “làm cho sáu phương được an ổn”.

Vì vậy, kinh văn có câu: “Hãy làm cho sáu phương này được an ổn, vững chắc.” “An ổn, vững chắc” có nghĩa là không bị bản thân khiển trách hoặc bị người khác chê bai. Khi con cái không làm tròn năm bổn phận đối với cha mẹ, phương Đông trở nên “không an ổn” và chúng sẽ bị bản thân hoặc người khác khiển trách. Đối với những người con làm tròn bổn phận, phương ấy sẽ “an ổn”. Họ không còn lo sợ hai mối nguy hiểm – tự trách mình và bị người khác chê trách. Như vậy, làm tròn bổn phận chính là làm cho bản thân được an ổn.

“Tự trách mình” (attānuvāda) là mối nguy hiểm khi tự khiển trách bản thân, nghĩ rằng: “Mình đã không làm tròn bổn phận.”

“Bị người khác chê trách” (parānuvāda) là bị người khác khiển trách vì không làm tròn bổn phận. Những người khiển trách có thể là bậc trí giả, Sa-môn, Bà-la-môn, thần linh hộ vệ con người, nhà cửa, thị trấn, làng mạc, hoặc xã hội nói chung, vì người đó đã làm trái với lời Phật dạy.

Khi con người qua đời mà vẫn luyến tiếc, dằn vặt vì đã không làm tròn bổn phận, tự trách mình, họ sẽ bị đọa vào ác đạo. Những người bị người khác chê trách vì không làm tròn bổn phận sẽ không được chấp nhận trong hàng ngũ chư vị Sa-môn, Bà-la-môn và chư Thiên đạo đức, vì vậy họ không thể trở thành Phật, Độc Giác Phật hay Thánh đệ tử.

Người nào không làm tròn bổn phận đối với thầy cô giáo thì phương Nam sẽ “không an ổn”, và hai mối nguy hiểm sẽ phát sinh từ phương ấy.

Người nào không làm tròn bổn phận đối với vợ con thì phương Tây sẽ “không an ổn”, hai mối nguy hiểm và vô số rắc rối sẽ phát sinh từ phương ấy.

Người nào không làm tròn bổn phận đối với bạn bè thì phương Bắc sẽ “không an ổn”, khi gặp khó khăn, họ sẽ không tìm được nơi nương tựa.

Người nào không làm tròn bổn phận đối với người làm công thì phương dưới sẽ “không an ổn”, tài sản của họ có thể sẽ tiêu tan.

Người nào không làm tròn bổn phận đối với Sa-môn, Bà-la-môn thì phương trên sẽ “không an ổn”, họ có thể sẽ bị đọa vào ác đạo hoặc địa ngục.

Người nào làm tròn bổn phận của mình thì sáu phương đều “an ổn”, mối nguy hiểm không thể phát sinh. Họ được mọi người và chư Thiên yêu quý, kính trọng. Họ có thể phát nguyện trở thành Phật, Độc Giác Phật và Thánh đệ tử. Họ có triển vọng tốt đẹp để thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử (saṃsāra) và tiến gần đến con đường dẫn đến Niết-bàn.

.Hết phần trình bày về việc kính lễ sáu phương.

Mười Nghiệp Bất Thiện

  1. Pāṇātipāta: Sát sinh.
  2. Adinnādāna: Trộm cắp.
  3. Kāmesumicchācāra: Tà dâm.
  4. Musāvāda: Nói dối.
  5. Pisuṇavācā: Nói lời chia rẽ.
  6. Pharusavācā: Nói lời hung ác.
  7. Samphappalāpa: Nói lời vô ích.
  8. Abhijjhā: Tham lam.
  9. Byāpāda: Sân hận.
  10. Micchā-diṭṭhi: tà kiến (không tin nhân quả).

Kinh văn có dạy:

Sát sinh, trộm cắp, tà dâm, ấy là ba nghiệp ác về thân. Nói dối, chia rẽ, hung ác, vô ích, ấy là bốn nghiệp ác về khẩu. Tham lam, sân hận, tà kiến, ấy là ba nghiệp ác về ý.

Mười Nghiệp Thiện

  1. Pāṇātipāta-virati: Tránh sát sinh.
  2. Adinnādāna-virati: Tránh trộm cắp.
  3. Kāmesumicchācāra-virati: Tránh tà dâm.
  4. Musāvāda-virati: Tránh nói dối.
  5. Pisuṇavācā-virati: Tránh nói lời chia rẽ.
  6. Pharusavācā-virati: Tránh nói lời hung ác.
  7. Samphappalāpa-virati: Tránh nói lời vô ích.
  8. Anabhijjhā: Không tham lam, không mong muốn chiếm đoạt của người khác.
  9. Abyāpāda: Không sân hận.
  10. Sammā-diṭṭhi: Chánh kiến (hiểu đúng về nhân quả).

Kinh văn có dạy:

Tránh ba nghiệp ác về thân thì có ba nghiệp thiện về thân. Tránh bốn nghiệp ác về khẩu thì có bốn nghiệp thiện về khẩu. Không tham lam, gây dựng lòng từ ái và chánh kiến là ba nghiệp thiện về ý.

Trong số những bổn phận của cha mẹ đối với con cái, có hai bổn phận sau:

  1. Ngăn cản con cái làm điều xấu.
  2. Khuyên bảo con cái làm điều lành.

Ở đây, “điều xấu” bao gồm tất cả các điều xấu ác, như sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, bốn nhân tố dẫn đến điều ác (tham lam, sân hận, sợ hãi, si mê), uống rượu, cờ bạc, lui tới những nơi giải trí, la cà ban đêm, bốn hạng bạn xấu, và ưa lười biếng.

Sát sinh, trộm cắp và tà dâm là ba nghiệp ác về thân. Nói dối, nói lời chia rẽ, nói lời hung ác, nói lời vô ích là bốn nghiệp ác về khẩu. Tham lam, sân hận và tà kiến là ba nghiệp ác về ý.

Trong những câu kệ trên, “tà dâm” có nghĩa là tà hạnh trong các mối quan hệ luyến ái, “nói lời chia rẽ” có nghĩa là gây mất đoàn kết giữa bạn bè, “nói lời vô ích” có nghĩa là kể những chuyện hoang đường, như chuyện Rāmāyana, Enaung, truyền thuyết Ngwetaung, Mahābhārata và những chuyện tương tự, không có thật.

“Tham lam” có nghĩa là mong muốn chiếm hữu những thứ thuộc về người khác.

“Sân hận” có nghĩa là mong muốn người khác gặp rắc rối hoặc chết.

Mười tà kiến, chẳng hạn như cho rằng bố thí, cúng dường không có phước báu, v.v., đều là tà kiến (micchā-diṭṭhi).

“Làm điều lành” có nghĩa là chỉ kết bạn với bốn hạng bạn tốt và làm tròn bổn phận đối với sáu phương như đã giải thích ở trên.

Okāsa – Lễ Bái

blank

Đối với các bạn Phật tử từ năm, sáu, bảy tuổi trở lên, Tam quy, Ngũ giới, Bát quan trai giới (giữ vào những ngày Uposatha), mười nghiệp thiện, Tứ vô lượng tâm (từ, bi, hỷ, xả) và mười Ba-la-mật là những điều cao quý. Những điều này sẽ được trình bày ở đây để các bạn ghi nhớ suốt đời.

Khi lễ bái Tam bảo – Phật, Pháp, Tăng – chúng ta phải quỳ xuống, chắp tay và cúi đầu sát đất ba lần. Sau đó, ngồi dậy, chắp tay và đọc: “Okāsa, okāsa, okāsa! Con xin thành kính đảnh lễ Phật, Pháp, Tăng bằng thân, khẩu, ý.

Nhờ công đức đảnh lễ Tam bảo này, nguyện cho con trong tất cả các đời sống từ nay về sau, sẽ không bị đọa vào bốn ác đạo, thoát khỏi ba tai họa lớn, tám cảnh giới khổ đau, năm kẻ thù và bốn điều bất hạnh, sớm được chứng ngộ Niết-bàn, nơi không còn mười một thứ lửa – tham (rāga), sân (dosa), si (moha), sinh (jāti), già (jarā), chết (maraṇaṃ), buồn (soka), than khóc (parideva), khổ (dukkhaṃ), ưu (domanassa) và não (upāyāsa).

Các bạn hãy học thuộc lòng bài Okāsa này nhé.

Ý Nghĩa Của Câu “Namo Tassa”

Namo tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

  • Arahato: Bậc A-la-hán, người đã viên mãn những phẩm chất cao quý về giới (sīla), định (samādhi), tuệ (paññā), giải thoát (vimutti) và có tuệ giác vô biên nhờ đạt được trí tuệ giải thoát (vimutti-ñāṇadassana), vì vậy, Ngài xứng đáng được chư Thiên và loài người tôn kính.
  • Sammāsambuddhassa: Bậc Chánh Đẳng Chánh Giác, người đã tự mình giác ngộ trọn vẹn chân lý.
  • Tassa Bhagavato: Đức Thế Tôn.
  • Namo: Con xin đảnh lễ.

Trong bộ Saddanīti, lời đảnh lễ Đức Phật này được gọi là “mahānamakkara” (lời kính lễ cao cả). Lời này đã được dùng để đảnh lễ Đức Phật từ thời Đức Phật còn tại thế. Các bạn hãy học thuộc lòng nhé.

Ý Nghĩa Của Tam Quy

Buddhaṃ Saraṇaṃ Gacchāmi. Dhammaṃ Saraṇaṃ Gacchāmi. Saṅghaṃ Saraṇaṃ Gacchāmi.

  • Buddhaṃ: Đức Phật.
  • Saraṇaṃ: Nơi nương tựa, che chở, hỗ trợ để diệt trừ khổ đau và đạt được hạnh phúc.
  • Gacchāmi: Con xin quy y.
  • Dhammaṃ: Mười chân lý bao gồm Tứ Thánh Đạo, Tứ Thánh Quả, Niết-bàn và Tam tạng kinh điển.
  • Saṅghaṃ: Các vị xuất gia có giới đức và trí tuệ, và các bậc Thánh đã chứng đắc Thánh Đạo.

Các bạn hãy học thuộc lòng nhé.

Ý Nghĩa Của Ngũ Giới

Pāṇātipāta veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi; Adinnādānā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi; Kāmesumicchācārā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi; Musāvādā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi; Surāmeraya-majja-pamādaṭṭhānā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi.

  • Pāṇātipāta: Sát sinh.
  • veramaṇī sikkhāpadaṃ: Giới điều tránh xa.
  • samādiyāmi: Con xin thọ trì.
  • Adinnādānā: Trộm cắp.
  • Kāmesu: Tà hạnh.
  • micchācārā: Hành vi sai trái.
  • Musāvādā: Nói dối.
  • Surā-meraya-majja-pamādaṭṭhānā: Uống rượu, bia và các chất say có cồn.

Ý Nghĩa Của Bát Quan Trai Giới

Pāṇātipāta veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi; Adinnādānā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi; Abrahmacariya veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi; Musāvādā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi; Surā-meraya-majja-pamādaṭṭhānā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi; Vikālabhojanā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi; Nacca-gīta-vādita-visūkadassana-mālā-gandha-vilepanadhāraṇa-maṇḍana-vibhūsanaṭṭhānā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi; Uccāsayana-mahāsayanā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Ý Nghĩa Của Các Giới Không Có Trong Ngũ Giới

3. Abrahmacariya: Tránh xa các hành vi tà dâm.

6. Vikālabhojanā: Không ăn sau giờ ngọ cho đến sáng hôm sau.

7. Nacca-gīta-vādita-visūkadassana-mālā-gandha-vilepanadhāraṇa-maṇḍana-vibhūsanaṭṭhānā: Không xem (hoặc biểu diễn) múa hát, ca nhạc, và các trò chơi không lành mạnh (ví dụ như đấu võ, đấu vật, cho voi đấu nhau, đua ngựa, v.v.), không đeo hoa, dùng nước hoa, mỹ phẩm và trang sức.

8. Uccāsayana-mahāsayanā: Không dùng giường chiếu sang trọng, cao rộng, nệm, ga trải giường sang trọng.

Tránh Xa Mười Nghiệp Ác

Tránh ba nghiệp ác về thân là ba nghiệp thiện về thân. Tránh bốn nghiệp ác về khẩu là bốn nghiệp thiện về khẩu. Tránh tham lam, sân hận và tà kiến là ba nghiệp thiện về ý.

Đó là mười con đường hành thiện (dasa-kusala-kammapathā). Không tham lam của cải của người khác gọi là không tham lam (anabhijjhā). Từ bi (mettā) chính là không sân hận (abyāpāda). Mười chánh kiến, chẳng hạn như tin rằng “bố thí sẽ mang lại phước báu trong đời sau”, đó là chánh kiến (sammā-diṭṭhi).

Mười Pháp Hành Thiện

  1. Dānaṃ: Bố thí (rộng rãi, hào phóng).
  2. Sīlaṃ: Giữ giới thường xuyên (nicca sīla), hoặc giữ giới vào những ngày Uposatha.
  3. Bhāvanā: Thiền chỉ (samatha bhāvanā) và thiền quán (vipassanā).
  4. Apacāyanaṃ: Tôn kính những người đáng kính.
  5. Veyyavaccaṃ: Giúp đỡ người khác.
  6. Paṭṭidānaṃ: Hồi hướng công đức cho người khác.
  7. Pattanumodanaṃ: Tùy hỷ với việc lành của người khác.
  8. Dhammassavanaṃ: Lắng nghe Phật pháp với lòng cung kính.
  9. Dhammadesanā: Giảng dạy Phật pháp mà mình đã học.
  10. Diṭṭhi-ujukammaṃ: Làm sáng tỏ chánh kiến (sammā-diṭṭhi-ñāṇa).

Mười Ba-la-mật

  1. Dāna: Ba-la-mật bố thí.
  2. Sīla: Ba-la-mật trì giới.
  3. Nekkhamma: Ba-la-mật xuất ly.
  4. Paññā: Ba-la-mật trí tuệ.
  5. Vīriya: Ba-la-mật tinh tấn.
  6. Khantī: Ba-la-mật nhẫn nhục.
  7. Sacca: Ba-la-mật chân thật.
  8. Adhiṭṭhāna: Ba-la-mật quyết tâm.
  9. Mettā: Ba-la-mật từ bi.
  10. Upekkhā: Ba-la-mật xả.

Tứ Vô Lượng Tâm

Bốn tâm cao thượng, gửi gắm thiện ý đến tất cả chúng sinh. Còn được gọi là Tứ vô lượng tâm (appamaññā).

  1. Mettā: Từ.
  2. Karuṇā: Bi.
  3. Muditā: Hỷ.
  4. Upekkhā: Xả.

Ba Loại Giác Ngộ

  1. Sāvaka Bodhi: Giác ngộ của Thánh đệ tử.
  2. Paccekabodhi: Giác ngộ của Độc Giác Phật.
  3. Sammāsambodhi: Giác ngộ của Đức Phật.

Gieo trồng những lời dạy trên – từ Tam quy cho đến Ba loại giác ngộ – vào tâm trí của con trẻ để các em hiểu rõ và có niềm tin vào những điều này là một trong những bổn phận của cha mẹ.

Chín Đức Tính Của Đức Phật

“Itipi so bhagavā arahaṃ, sammāsambuddho, vijjācaraṇa sampanno, sugato, lokavidū, anuttaro purisadhammasārathi, sattā devamanussānaṃ, buddho, bhagavā.”

Itipi: Quả thật như vậy; so Bhagavā: Đức Thế Tôn, bậc Đạo Sư của chúng con.

  1. Arahaṃ: Vì có đầy đủ giới đức, định lực, trí tuệ, giải thoát và tuệ giác giải thoát nên Ngài xứng đáng được chư Thiên và loài người cung kính, vì vậy gọi là “bậc A-la-hán”.
  2. Sammāsambuddho: Vì đã tự mình giác ngộ chân lý bằng trí tuệ và tuệ giác nên gọi là “bậc Chánh Đẳng Chánh Giác”.
  3. Vijjā-caraṇa sampanno: Vì có đầy đủ trí tuệ và mười lăm hạnh thanh tịnh nên gọi là “người có trí tuệ và đức hạnh”.
  4. Sugato: Vì đã đến được nơi tốt đẹp nên gọi là “bậc Thiện Thệ”. Ngoài ra, Ngài nói những lời hay ý đẹp, tránh những lời nói gây tổn hại đến người khác, vì vậy cũng gọi là “người nói lời chân thật”.
  5. Lokavidū: Vì đã thấu hiểu thế giới hữu tình, vô tình và thế giới không gian nên gọi là “người hiểu biết thế gian”.
  6. Anuttaro purisadamma sārathi: Vị thầy dẫn đường vô song của những người có khả năng tu tập.
  7. Satthā devamanussānaṃ: Vì là bậc Đạo Sư được chư Thiên và loài người trong vô số thế giới tôn kính nên gọi là “bậc Đạo Sư của trời người”.
  8. Buddho: Vì đã tự mình giác ngộ Tứ Diệu Đế và giảng giải cho chư Thiên và loài người nên gọi là “bậc Giác Ngộ”.
  9. Bhagavā: Vì có đầy đủ công đức, trí tuệ, quyền năng vô hạn và được chúng sinh trong tam giới cung kính, lễ bái nên gọi là “Đức Thế Tôn”.
    • Taṃ: Đức Phật ấy, người có chín đức tính kể từ A-la-hán cho đến Thế Tôn.
    • Ahaṃ: Con.
    • Vandāmi: Xin đảnh lễ.

Sáu Đức Tính Của Phật Pháp

Svākkhāto bhagavatā dhammo, sandiṭṭhiko, akāliko, ehipassiko, opaneyyiko, paccattaṃ veditabbo viññūhī’ti.

  • Svākkhato: Phật pháp (Dhammo) do Đức Thế Tôn (Bhagavatā) tuyên thuyết, tuyệt hảo từ đầu đến cuối.
  • Sandiṭṭhiko: Những ai thực hành Phật pháp sẽ tự mình chứng nghiệm được lợi ích ngay trong hiện tại.
  • Akāliko: Những ai thực hành Phật pháp sẽ gặt hái được lợi ích ngay lập tức, không bị trì hoãn.
  • Ehipassiko: Phật pháp xứng đáng được nghiên cứu và kiểm chứng.
  • Opaneyyiko: Phật pháp xứng đáng được vun trồng và thực hành để tự mình trải nghiệm lợi ích.
  • Paccattaṃ veditabbo viññūhi: Những bậc trí tuệ, những bậc Thánh sẽ tự mình chứng ngộ được lợi ích của Phật pháp khi thực hành.
  • Taṃ: Phật pháp ấy.
  • Ahaṃ: Con.
  • Vandāmi: Xin đảnh lễ.

Chín Đức Tính Của Tăng Già

Suppaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho, ujuppaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho, ñāyappaṭipanno bhagavato sāvaka­saṅgho, sāmīcippaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho, yādidaṃ cattāri purisayugāni aṭṭha purisapuggalā, esa bhagavato sāvakasaṅgho, āhuneyyo, pāhuneyyo, dakkhiṇeyyo, añjali­karaṇīyo, anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassā’ti.

  1. Suppaṭipanno: Có những hạnh thanh tịnh về giới, định, tuệ, sāvakasaṅgho: Tăng già (sāvakasaṅgho) là những đệ tử của Đức Thế Tôn (Bhagavato), bao gồm những người bình thường có giới đức và trí tuệ (sammuti Saṅgha) và tám hạng Thánh nhân (Paramattha Saṅgha).
  2. Ujuppaṭipanno: Thực hành chân chánh về giới, định, tuệ.
  3. Ñāyappaṭipanno: Có chánh hạnh về giới, định, tuệ.
  4. Sāmicippaṭipanno: Thực hành đúng đắn về giới, định, tuệ.
  5. Yādidaṃ cattāri purisayugāni, esa bhagavato sāvaka saṅgho: Bốn cặp Thánh đệ tử: Āhuneyyo = Xứng đáng được cúng dường những vật phẩm mang đến từ phương xa, vì các Ngài có giới đức và trí tuệ cao quý.
  6. Pāhuneyyo: Xứng đáng được tiếp đãi, vì các Ngài có giới đức và trí tuệ cao quý.
  7. Dakkhineyyo: Xứng đáng được cúng dường để cầu phước báu, vì các Ngài có giới đức và trí tuệ cao quý.
  8. Añjalikaranīyo: Xứng đáng được chúng sinh cung kính, chắp tay đảnh lễ, vì các Ngài có giới đức và trí tuệ cao quý.
  9. Anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassa: Ruộng phước (khettaṃ) vô thượng (anuttaraṃ) để gieo trồng hạt giống công đức (puñña) cho thế gian (lokassa).
    • Taṃ: Tăng già ấy.
    • Ahaṃ: Con.
    • Vandāmi: Xin đảnh lễ.

Nếu không học thuộc lòng chín đức tính của Đức Phật, sáu đức tính của Phật pháp và chín đức tính của Tăng già, cùng với ý nghĩa của chúng, thì không thể gọi là hiểu biết cách thức tôn kính Tam bảo. Vì vậy, người Phật tử chân chính cần phải ghi nhớ những đức tính của Tam bảo (tiratana).

Trong Kinh tạng Nikāya, Đức Phật đã nhiều lần dạy về tầm quan trọng của việc đọc tụng những đức tính này khi đảnh lễ Phật, Pháp, Tăng. Các vị A-la-hán cũng thường xuyên làm như vậy. Không có cách thức đảnh lễ nào cao quý hơn cách này. Khi đảnh lễ, trước tiên hãy đọc “Namo Tassa…” cùng với ý nghĩa, sau đó đọc Pāli và ý nghĩa của Tam quy, rồi đến Pāli và ý nghĩa của những đức tính của Phật, Pháp, Tăng.

Lời Nguyện Cho Các Chàng Trai

Nhờ công đức này, nguyện cho con được sống lâu trong hiện tại, không bệnh tật, không gặp nguy hiểm, không bị chê trách, mọi dự định và kế hoạch trong cuộc sống đều thành công. Trong những đời sống vị lai, nguyện cho con được sinh ra trong những gia đình quyền quý, giàu sang hoặc cõi trời, ba nghiệp tham, sân, si chỉ còn rất ít để con có thể dễ dàng tu tập, có trí tuệ sáng suốt, có nhiều tài sản và quyền lực, có niềm tin, có lòng biết xấu hổ và sợ hãi tội lỗi, được học rộng hiểu nhiều, thích bố thí, giữ giới và thiền định. Trong đời sống cuối cùng, nguyện cho con đạt được Tứ thông, Ngũ nhãn, các tầng thiền và chứng đắc A-la-hán quả.

  • Iminā Puññena: Nhờ công đức này.
  • Diṭṭha Dhamme: Trong hiện tại.
  • Dighāyuko: Sống lâu.
  • Bhavāmi: Nguyện cho con được.
  • Arogo: Không bệnh tật.
  • Avero: Không gặp nguy hiểm.
  • Anavajjesu: Không bị chê trách.
  • Ṭhānesu: Trong mọi việc.
  • Cinta siddho: Mọi dự định và kế hoạch đều thành công.
  • Samparāye: Trong những đời sống vị lai.
  • Uccakulesu: Trong những gia đình quyền quý, giàu sang hoặc cõi trời.
  • Tihetuko: Ba nghiệp tham (lobha), sân (dosa), si (moha) chỉ còn rất ít để con có thể dễ dàng tu tập.
  • Mahaddhano: Có nhiều tài sản.
  • Mahiddhiko: Có quyền lực.
  • Saddhā sampanno: Có niềm tin.
  • Sukkadhammo: Có lòng biết xấu hổ và sợ hãi tội lỗi.
  • Bahussuto: Được học rộng hiểu nhiều.
  • Dānābhirato: Thích bố thí.
  • Sīlābhirato: Thích giữ giới.
  • Bhāvanābhirato: Thích thiền định.
  • Antimabhave: Trong đời sống cuối cùng.
  • Guṇagaṇaparivāraṃ: Đạt được Tứ thông (paṭisambhidā), Ngũ nhãn (abhiññā), các tầng thiền (jhāna).
  • Arahatta magga-phala: Và chứng đắc A-la-hán quả.
  • Labhāmi: Nguyện cho con đạt được.

Lời Nguyện Cho Các Cô Gái

Nhờ công đức đảnh lễ Tam bảo này, nguyện cho con được an toàn, thoát khỏi mọi tai ương, nguy hiểm trong hiện tại, mỗi ngày đều có thể thực hành Phật pháp, vun trồng mười Ba-la-mật và làm mười việc thiện, được sống lâu. Trong những đời sống vị lai, nguyện cho con không bị đọa vào bốn ác đạo, tám cảnh giới khổ đau, được sinh ra trong thời kỳ Phật pháp hưng thịnh, trong những gia đình quyền quý, giàu sang hoặc cõi trời, không còn tham, sân, si, danh tiếng và uy tín lan tỏa như ánh trăng rằm, có trí tuệ, niềm tin, giới đức và học vấn, được mọi người biết đến nhờ những phẩm chất này, noi theo hạnh của người tốt, có chánh hạnh, luôn rộng rãi, hào phóng, có thể giữ Bát quan trai giới vào những ngày Sabbath và thực hành Tứ vô lượng tâm (từ, bi, hỷ, xả). Nguyện cho con được diện kiến Đức Phật Di Lặc, bậc Đạo Sư của trời người, và quy y Ngài khi Ngài chiến thắng năm Ma vương (thân ngũ uẩn, phiền não, chết, nghiệp và ma chướng) và ngồi trên bảo tọa dưới cội Bồ đề, và khi ấy, nguyện cho con được chứng đắc Thánh quả.

Con xin thành kính đảnh lễ Đức Phật, bậc Đạo Sư của trời người, Pháp và Thánh Tăng bằng cách đọc tụng những đức tính của Tam bảo. Con xin hồi hướng công đức này đến cha mẹ, thầy cô, người thân, bạn bè, tất cả chúng sinh và chư Thiên. Nguyện cho tất cả đều nhận được phần công đức này và cùng nhau hoan hỷ. Sadhu! Sadhu! Sadhu!

Theo lời dạy: “Ngăn cản con cái làm điều xấu ngay từ khi còn nhỏ…”, những điều này cần được cha mẹ dạy dỗ cho con cái ngay từ thuở ấu thơ.

Điều Cần Lưu Ý

Trong số những bổn phận của người thầy, có việc dạy dỗ cho học trò những phương pháp đúng đắn, được thực hành trên thế gian và phù hợp với lời Phật dạy, để sống lâu, phòng tránh bệnh tật, tai ương, nguy hiểm, để các em noi theo suốt đời. Người Miến Điện còn có tục lệ học thuộc lòng các bài kinh chú hộ trì (paritta) để phòng tránh những điều xấu ác và bất hạnh theo bổn phận này.

Ngày nay, dịch bệnh hoành hành khắp nơi, người thầy cần đặc biệt chú ý đến bổn phận này. Học thuộc lòng tất cả các bài kinh chú hộ trì có thể là một gánh nặng đối với một số người, nhưng nếu mỗi ngày trì tụng để tạo thành thói quen thì chỉ cần một bài kinh, chẳng hạn như kinh Báu Vật (Ratana Sutta), kinh Từ Bi (Metta Sutta) hoặc kinh Ngũ Uẩn (Khandha Sutta) là đủ. Chỉ khi trì tụng thường xuyên và tạo thành thói quen thì khi tụng niệm lúc gặp nguy hiểm mới có hiệu quả. Nếu nguy hiểm lớn thì nên tụng nhiều lần. Nếu không thể học thuộc lòng thì có thể đọc từ kinh sách. Khi đã học thuộc lòng, các bạn sẽ có thể đọc rõ ràng và chính xác hơn.

Ba tai họa – nạn đói, ác quỷ và dịch bệnh – đã xảy ra ở thành Vesāli, nhưng đã được dập tắt khi Tôn giả A-nan tụng kinh Báu Vật suốt ba thời kinh hành đêm. Bài kinh này được Đức Phật dạy chỉ với mục đích diệt trừ những tai họa như vậy. Vì thế, khi tai họa xảy ra ở làng mạc, thị trấn, cả Tăng chúng lẫn cư sĩ nên tụng bài kinh này như một lời phát nguyện của Tăng đoàn (kammavācā).

Khi tụng kinh chú hộ trì theo nhóm ở làng mạc, thị trấn, một người trong nhóm nên đọc từ kinh sách và hai mươi đến ba mươi người khác tụng theo. Nhóm nên vừa tụng niệm vừa đi dọc theo các con đường, từ khu vực này sang khu vực khác cho đến khi bao phủ khắp nơi. Cứ tiếp tục tụng niệm mỗi đêm cho đến khi tai họa qua đi. Trong nhà, tất cả các thành viên trong gia đình cũng nên cùng nhau tụng kinh chú hộ trì khi mặt trời lặn.

Kinh Āṭānāṭiya trong Trường Bộ Kinh được dạy để phòng tránh nguy hiểm từ ma quỷ và các loài ác thần. Kinh Mahāsamaya cũng là một bài kinh để phòng tránh nguy hiểm.

Khi dịch bệnh xảy ra ở Thaton (Miến Điện), hai vị A-la-hán là Tôn giả Soṇa và Tôn giả Uttara đã tụng kinh Phạm Võng (Brahmajāla Sutta) và dịch bệnh đã được ngăn chặn. Điều này được ghi lại trong kinh sách Phật giáo.

Kệ Uppātasanti cũng để diệt trừ dịch bệnh. Có lần dịch bệnh bùng phát ở Chengmai (Đông Dương), bài kệ này đã được tụng niệm khắp nơi và dịch bệnh đã được kiểm soát.

Việc đọc tụng bộ Paṭṭhāna trong Pāli cũng có thể ngăn chặn dịch bệnh. Khi tụng niệm cho làng mạc, thị trấn, nên chia thành từng nhóm nam nữ cho mỗi khu vực. Số lượng mỗi nhóm không nên quá đông vì khi có nhiều người trong một nhóm, việc tụng niệm sẽ bị lộn xộn và không rõ ràng. Nếu tụng niệm rõ ràng, sẽ tốt hơn nhiều. Các nhóm từ 20, 25 hoặc 35 người nên bắt đầu tụng niệm đồng thời khi có hiệu lệnh bằng súng, đại bác, cồng hoặc trống. Việc tụng niệm cũng nên dừng lại cùng lúc khi có hiệu lệnh. Tiếp tục như vậy cho đến khi dịch bệnh qua đi.

Các con đường, lối đi mà những người tụng niệm sẽ đi qua cần được quét dọn sạch sẽ. Các bình nước nên được đặt ở những ngã tư đường. Toàn bộ thị trấn hoặc làng mạc nên được thắp sáng đèn ngay khi trời tối. Làm theo các bước được nêu trong “nghi thức xả giới” (pabbājaniya-kammavācā) của tôi.

Trong Tam tạng kinh điển, có rất nhiều bài kinh dài ngắn, kệ dài ngắn của Đức Phật để phòng tránh hoặc xua tan tai họa. Hầu hết mọi người không thể học thuộc lòng. Vì theo truyền thống là phải tụng niệm từ trí nhớ nên những bài kinh này không thể được sử dụng khi cần thiết. Tuy nhiên, hầu hết mọi người đều có thể phát âm Pāli và tụng niệm bằng cách nhìn vào kinh sách. Cách này tốt hơn nhiều so với việc tụng niệm từ trí nhớ vì có thể đọc rõ ràng và chính xác hơn.

Ở một quốc gia Phật giáo, những bài kinh và kệ đã đề cập ở trên nên được trích ra từ Tam tạng kinh điển và in thành sách để mỗi gia đình đều có sẵn, phòng khi tai họa, bất hạnh xảy ra. Bậc trí giả nên lưu ý điều này.

Thực Hành Hằng Ngày Để Phòng Tránh Nguy Hiểm

  1. Đọc tụng bài “Namo Tassa…” có thể giúp phòng tránh nguy hiểm từ ma quỷ và ác thần.
  2. Đọc tụng Tam quy (Buddhaṃ Saraṇaṃ Gacchāmi…) có thể giúp phòng tránh hoặc thoát khỏi nguy hiểm và bất hạnh.
  3. Đọc tụng chín đức tính của Đức Phật cũng rất tốt để bảo vệ bản thân khỏi nguy hiểm và bất hạnh.
  4. Đọc tụng bài kệ Sambuddhe cũng có thể giúp phòng tránh nguy hiểm và bất hạnh.
  5. Bài nguyện “Sirasmiṃ me Buddha seṭṭho” hay “Ratanā Shwechaik” trong tiếng Miến là một bài nguyện đặc biệt để phòng tránh nguy hiểm. (Trong bài nguyện này, Đức Phật được ví như một chiếc lồng vàng, nơi chúng sinh nương tựa để tránh khỏi nguy hiểm và bất hạnh).
  6. Bài nguyện ca ngợi tám chiến thắng vĩ đại của Đức Phật cũng là một bài nguyện đặc biệt để bảo vệ bản thân khỏi nguy hiểm.
  7. Những đức tính đặc biệt (āveṇika) của Đức Phật, còn được gọi là Dhāraṇa Paritta, cũng rất mạnh mẽ và hiệu quả trong việc phòng tránh nguy hiểm từ ma quỷ và ác thần.
  8. Kinh Chadisāpāla là một bài kinh truyền thống để bảo vệ bản thân khỏi nguy hiểm.

Cách Thức Tụng Niệm Kinh Chú Hộ Trì

Khi tụng niệm kinh chú hộ trì chỉ để tạo công đức thì nên đọc với lòng thành kính, giọng nhẹ nhàng, êm dịu. Khi tụng niệm để phòng tránh nguy hiểm, bất hạnh thì nên đọc với giọng mạnh mẽ, dứt khoát. Nếu nguy hiểm lớn thì nên dồn thêm sức mạnh vào giọng đọc tùy theo mức độ nghiêm trọng của nguy hiểm và nên tụng đi tụng lại nhiều lần.

Lời Kết

Tác phẩm “Sukumāra Magga Dīpanī” được viết đặc biệt vì lợi ích của các bạn trẻ Phật tử dưới hai mươi tuổi đến đây là kết thúc. Cuốn sách này được gọi là “Sukumāra Magga Dīpanī” vì nó đưa ra những lời khuyên hữu ích cho những người trẻ tuổi “thuộc về thiện và cao thượng”, những người con Phật hoàn hảo, những người mong muốn đạt được giác ngộ (Bồ-đề).

Sau khi học xong cuốn sách này, những ai muốn học ngữ pháp Pāli và luận Dhamma Saṅgaha một cách dễ dàng thì có thể học cuốn “Ngữ pháp Pāli súc tích” và cuốn “Paramattha súc tích” do tôi viết.

Hết kinh Sukumāra Magga Dīpanī.

Chú Thích

  1. Dāsa-kammakarā: Từ điển PTS dịch “dāsa” là “nô lệ”, nhưng trên thực tế, họ dường như là những người làm công theo khế ước. Họ làm việc cho gia đình chủ. Bài kinh nói rõ rằng chủ phải lo chỗ ăn ở, lương bổng, thời gian nghỉ ngơi và chăm sóc y tế khi người làm ốm đau. Người làm công có chỗ ở riêng. (người hiệu đính)
  2. Phần này theo sát kinh văn Pāli. (người hiệu đính)
  3. Những điều này sẽ được đề cập trong những chương sau.
  4. Cư sĩ sống như người xuất gia, giữ gìn phạm hạnh, chỉ ăn vào buổi sáng, mặc đồ trắng hoặc đồ giản dị, không dùng nước hoa, mỹ phẩm, trang sức, ngủ và ngồi trên sàn nhà hoặc giường thấp. Có ngoại lệ cho người già yếu hoặc người khuyết tật. (người hiệu đính)
  5. Tôi đã bổ sung những chi tiết còn thiếu trong phần này, dựa trên Thanh Tịnh Đạo. (người hiệu đính)
  6. Những người đã chứng đắc Tứ Thánh Đạo và Tứ Thánh Quả. (người hiệu đính)
  7. Phần tóm tắt lời nguyện không có trong bản dịch gốc. Tôi đã chắt lọc chúng từ phần giải thích (nissaya). (người hiệu đính)
  8. Từ “nguyện” ở đây được dùng với nghĩa là dâng lên lời tán thán, tôn kính Đức Phật, Pháp và Tăng. Nó không phải là lời cầu xin, khẩn thiết hay sự giao cảm tâm linh với đối tượng thờ phụng.
  9. Người ta nói rằng bài nguyện này đã được sử dụng từ thời các vị vua Pagan. Ban đầu, đây là bài nguyện để đảnh lễ 512.028 vị Phật đã xuất hiện và nhập diệt trong hai mươi a-tăng-kỳ kiếp (asaṅkheyya), tính từ kiếp hiện tại (bhadda kappa). Kể từ thời Đức Phật Brahmādeva, vị Phật đã xuất hiện cách đây hai mươi a-tăng-kỳ kiếp, vị Bồ-tát đã phát nguyện trong tâm bảy a-tăng-kỳ kiếp để trở thành Phật. Sau đó, Ngài phát nguyện bằng lời nói trong chín a-tăng-kỳ kiếp. Các vị Phật xuất hiện trong hai giai đoạn này (mười sáu a-tăng-kỳ kiếp) là 512.000 vị – 500.000 vị trong giai đoạn trước và 12.000 vị trong giai đoạn sau. Sau đó, vào thời Đức Phật Dīpaṅkara, vị Bồ-tát đã được thọ ký rằng Ngài sẽ thành Phật trong Bhaddakappa, bốn a-tăng-kỳ kiếp và 100.000 chu kỳ thế giới kể từ đó. Trong giai đoạn đó, 28 vị Phật đã xuất hiện. Vậy tổng cộng là 512.028 vị. Sau đó, vô số vị Phật, nhiều hơn số hạt cát dọc theo bờ sông Hằng, đã được thêm vào bài nguyện. Đây là những gì người dịch đã học được và chia sẻ ở đây để thông tin cho độc giả.
  10. Tám chiến thắng của Đức Phật là chiến thắng: (1) Ma vương và con voi dữ tợn Girimekhalā khi hắn đến để đuổi Đức Phật ra khỏi tòa giác ngộ dưới cội Bồ đề ngay sau khi Đức Phật thành đạo; (2) yêu quái Āḷāvaka; (3) con voi dữ tợn Nāḷāgiri; (4) tên cướp Aṅgulimāla, kẻ đã giết tất cả những người hắn gặp và cắt một ngón tay của mỗi người; (5) người đàn bà độc ác Ciñcamāṇa, người đã giả vờ mang thai và vu khống Đức Phật là cha đứa bé; (6) nhà tu khổ hạnh Saccaka, kẻ rất tự hào về học vấn của mình, thách thức tất cả những người uyên bác mà hắn gặp để tranh luận và bác bỏ học thuyết của họ; (7) con rồng Nandopananda, và (8) vị Phạm thiên Baka, chúng sinh sống lâu nhất trong cõi Phạm thiên, người đã lầm tưởng rằng mình sẽ sống mãi mãi. Xem bài kệ Jayamaṅgala. (người hiệu đính)
  11. Giống như Dhāraṇa Paritta, đây dường như là một đoạn trích từ kinh Āṭānāṭiya. (người hiệu đính)
  12. Từ danh sách trên, có thể thấy rằng có rất nhiều bài kinh chú hộ trì và những đức tính của Tam bảo để tụng niệm nhằm phòng tránh nguy hiểm và bất hạnh. Nếu tụng niệm những bài này nhiều lần trước khi đi ngủ mỗi đêm, chúng sẽ ngày càng linh nghiệm hơn. (người dịch)
Hộp bình luận Facebook

Soṇa Thiện Kim

Panha.org là trang web chuyên sâu về Pháp học của Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Tông), nơi cung cấp kiến thức và tài liệu quý báu về kinh điển, giáo lý, và triết học Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Tông). Tại đây, bạn có thể tìm hiểu về các giáo pháp truyền thống, kinh nghiệm tu tập, và những bài giảng từ các vị tôn sư hàng đầu trong cộng đồng Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Tông). Với mục tiêu giúp người học hiểu sâu hơn về con đường giác ngộ và sự giải thoát, Panha.org mang đến nguồn tài nguyên phong phú, chính xác và cập nhật để hỗ trợ hành giả trên hành trình tu tập Pháp học.

Bài viết liên quan

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.

0 Góp ý
Được bỏ phiếu nhiều nhất
Mới nhất Cũ nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Back to top button

Phát hiện trình chặn quảng cáo

Trang web Panha.org không có đặt quảng cáo, nên bạn không cần bật chặn quảng cáo trên trang web của chúng tôi. Xin cảm ơn!