Một lần khi Đức Phật đang cư trú tại Ghositārāma ở Kosambi. Vào thời điểm đó, một trong những thí chủ của Tôn giả Channa đã báo tin về mong muốn xây dựng một kuṭi cho Tôn giả Channa; “Thưa Ngài, xin hãy chỉ cho tôi một mảnh đất phù hợp để tôi có thể xây một kuṭi cho Ngài”. Sau khi nhận được yêu cầu này, Tôn giả Channa đã chuẩn bị một khu đất phù hợp cho nơi ở tương lai của mình và yêu cầu công nhân chặt một cây thiêng được dân chúng vô cùng tôn kính. Khi biết về hành động này, người dân bắt đầu chỉ trích rằng: “Làm sao Tôn giả Channa có thể chặt một cái cây được dân chúng tôn kính như vậy”. Khi nghe tin này, Đức Phật đã ban hành một giới luật, quy định các quy trình cần tuân theo khi một tỳ kheo xây dựng một kuṭi với sự hỗ trợ của thí chủ. Giới luật này được biết đến là giới luật vihārakāra.
Giới luật bằng Pali
Mahallakaṃ pana bhikkhunā, vihāraṃ kārayamānena sassāmikaṃ attuddesaṃ bhikkhu abhinetabbā vatthudesanāya, tehi bhikkhūhi vatthu desetabbaṃ anārambhaṃ saparikkamanaṃ. Sārambe ce bhikkhu vathusmiṃ aparikkamane mahallakaṃ vihāraṃ kāreyya bhikkhū vā anabhineyya vatthudesanāya, saṃghādiseso.
Dịch giới luật:
Một vị tỳ kheo đang xây dựng một vihāra lớn có thí chủ, được chỉ định cho chính mình, phải mời các vị tỳ kheo đến để chỉ định vị trí xây dựng. Những tỳ kheo đó phải chỉ định một vị trí không gây hại cho sinh vật sống và có không gian xung quanh. Nếu một tỳ kheo để cho vihāra được xây dựng tại một vị trí gây hại cho sinh vật sống hoặc không có không gian xung quanh, hoặc nếu vị ấy không mời các tỳ kheo đến để chỉ định vị trí, vị ấy sẽ phạm tội saṅghādisesa.
Mô tả về giới luật:
Qua giới luật vihārakāra, Đức Phật đã chỉ ra các bước cần tuân theo khi một tỳ kheo được một thí chủ nam hay nữ xây dựng một kuṭi làm nơi cư trú cho mình, khi có thí chủ.
Kuṭi được định nghĩa theo giới luật vihārakāra:
Kuṭi được xem xét theo giới luật vihārakāra chỉ khác với kuṭi trong giới luật kuṭikāra ở hai yếu tố:
- Giới luật này chỉ áp dụng cho một kuṭi được chuẩn bị hoặc xây dựng bởi người khác cho tỳ kheo. Kuṭi này được gọi là mahallaka vihāra (vihāra lớn). Người xây dựng hoặc nhờ người khác xây kuṭi có thể là người tại gia hoặc một tỳ kheo. Khác với saññācika kuṭi, vihāra lớn không được xây dựng hoặc nhờ người khác xây cho một tỳ kheo sở hữu.
- Vì mahallaka kuṭi được xây dựng bởi thí chủ, nên không có kích thước tối đa nào được Đức Phật quy định. Bất kể công trình lớn đến mức nào, cũng sẽ không phạm tội.
Chất lượng ullitta và avalitta của kuṭi được xem xét trong giới luật này phải được hiểu như đã nêu trong giới luật kuṭikāra. Hơn nữa, sự hiện diện hoặc vắng mặt của các nguy cơ (sārambha và anārambha) trong khu đất (kuṭi vatthu) và việc có đủ không gian hay không (saupacāra và anupacāra) cũng phải được hiểu đúng theo giới luật kuṭikāra.
Một vihāra lớn cũng là một kuṭi được xây dựng cho tỳ kheo. Tuy nhiên, nếu một kuṭi được xây dựng để làm nơi hành lễ uposatha, làm phòng ăn hoặc nhà bếp, ngoài việc sử dụng như một nơi ở, thì kuṭi đó sẽ không được coi là thuộc giới luật này.
Các yếu tố:
Các tội sẽ bị phạm khi giới luật này bị vi phạm xảy ra với năm yếu tố:
- Kuṭi là ullitta, avalitta hoặc ullittāvalitta.
- Không giảng về kuṭi vatthu.
- Một kuṭi được xây dựng cho chính mình.
- Một kuṭi được xây dựng để ở.
- Vữa của các bức tường và mái nhà, dù là bên trong hay bên ngoài, phải được kết hợp và gắn kết với nhau.