Giáo trình Theravado.com

Học kỳ 1: Lối vào Vibhaṅga Vinaya (Phần 1) – 1.4. Quy tắc Huấn Luyện Uttarimanussadhamma

Đức Phật từng trú tại hội trường Kūṭāgāra nằm trong khu rừng lớn thuộc thành Vesālī. Một nhóm tỳ kheo đang an cư mùa mưa bên bờ sông Vaggumudā. Lúc đó, tại vùng Vajji xảy ra nạn đói, khiến cho việc khất thực trở nên khó khăn đối với các tỳ kheo ở khu vực này. Để dễ dàng nhận được vật thực, các tỳ kheo đã bắt đầu tuyên bố với người dân rằng họ đạt được những trạng thái siêu việt như jhāna (thiền), abhiññā (thần thông), magga (đạo), và phala (quả) mà thực tế họ không sở hữu. Điều này khiến người dân ấn tượng và cúng dường nhiều vật thực hơn cho các tỳ kheo.

Khi biết chuyện, Đức Phật đã ban hành quy tắc huấn luyện thứ tư, pārājikā, quy định rằng nếu một tỳ kheo đánh lừa người khác bằng cách tuyên bố đã đạt được những trạng thái siêu nhân (và người nghe tin tưởng ngay lập tức) trong khi thực tế không đạt được, thì người đó đã phạm tội pārājikā.

Một số tỳ kheo đã có tiến bộ trong thiền định, nhưng chưa đạt đến mức jhāna, đã tự đánh giá sai về sự tiến bộ của mình (adhimāna) và tuyên bố: “Tôi đã đạt được jhāna.” Sau này, họ nhận ra rằng mình chưa đạt được bất kỳ trạng thái cao siêu nào. Tuy nhiên, vì quy tắc pārājikā đã được Đức Phật ban hành, họ băn khoăn không biết mình có phạm tội pārājikā hay không. Đức Phật sau đó tuyên bố rằng một tỳ kheo thành thật đánh giá sai cấp độ tu tập của mình và tuyên bố đã đạt được các trạng thái siêu nhân, trong khi thực tế không đạt, sẽ không bị coi là phạm tội pārājikā.

Sau đó, Đức Phật tái tuyên bố quy tắc huấn luyện này, bao gồm thêm một điều khoản phụ: “aññatra adhimānā” (ngoại trừ khi nói quá sự thật do tự cao).

Bản đọc Pāḷi của Quy tắc Huấn Luyện

Yo pana bhikkhu anabhijānaṃ uttarimanussadhammaṃ
attūpanāyikaṃ alamariyañāṇadassanaṃ samudācareyya
‘Iti jānāmi, iti passāmī’ti. Tato aparena samayena
samanuggāhiyamāno vā asamanuggāhiyamāno vā āpanno
visuddhāpekkho evaṃ vadeyya –
‘Ajānamevaṃ, avuso, avacaṃ jānāmi, apassaṃ passāmi, tucchaṃ
musā vilapin’ti – aññatra adhimānā ayampi pārājiko hoti asaṃvāso.

Dịch nghĩa của quy tắc:

“Nếu bất kỳ tỳ kheo nào, [dù] không thực sự biết, tuyên bố rằng mình đã đạt được trạng thái siêu việt thuộc về các bậc thánh, với sự hiểu biết và thấy rõ, [nói rằng]: ‘Tôi biết thế này! Tôi thấy thế này!’ và sau đó, vào một dịp khác, [dù] bị tra hỏi hoặc không, đã phạm lỗi và mong muốn được thanh tịnh, sẽ phải thừa nhận rằng:

‘Các bạn, [dù] không biết, tôi đã nói: “Tôi biết”; không thấy, tôi đã nói: “Tôi thấy.” Tôi đã nói khoác một cách trống rỗng và sai sự thật.’ Ngoại trừ trường hợp [nói quá do tự cao], người đó cũng bị xem là phạm pārājikā, không còn được cộng sinh.”

Mô tả về Quy tắc Huấn Luyện

Sự giàu có của một tỳ kheo nằm ở các giá trị tinh thần như giới (sīla), kiên nhẫn, từ bi, định (samādhi), thần thông (abhiññā)trí tuệ. Một tỳ kheo thực sự sống đời tâm linh không chỉ được người cư sĩ kính trọng mà còn được các tỳ kheo khác tôn vinh. Do đó, nếu một tỳ kheo tuyên bố rằng mình sở hữu những phẩm chất cao quý mà thực ra không có, đó là hành vi lừa dối nhằm tìm kiếm sự kính trọng. Trong số các giá trị này, những trạng thái được đánh giá cao nhất là jhāna (thiền), abhiññā (thần thông), magga (đạo), và phala (quả). Đây được gọi là các trạng thái siêu việt. Người đạt được những trạng thái này sẽ là một cá nhân tối thượng, xứng đáng nhận sự tôn kính của tất cả chúng sinh trên thế gian, bao gồm cả chư thiên.

Một tỳ kheo tuyên bố mình đạt được các trạng thái siêu việt khi thực sự không đạt là hành vi lừa dối nhằm tìm kiếm sự kính trọng một cách xảo trá. Vì thế, việc tuyên bố sở hữu những trạng thái siêu việt khi không đạt được là một sai lầm nghiêm trọng, có thể dẫn đến mất đi tư cách thọ giới cao cấp, như Đức Phật đã tuyên bố.

Giải Thích Một Số Thuật Ngữ Pāḷi trong Quy Tắc Huấn Luyện

Trong quy tắc pārājikā thứ tư, các cụm từ sau cần được hiểu rõ:

  1. Yo pana bhikkhu anabhijānaṃ uttarimanussadhammaṃ attūpanāyikaṃ alamariyañāṇadassanaṃ samudācareyya ‘Iti jānāmi, iti passāmī’ti.

Trong câu:
“anabhijānaṃ uttarimanussadhammaṃ alamariyañāṇadassanaṃ katvā ‘iti jānāmi, iti passāmī’ti samudācareyya”,

Phần “alamariyañāṇadassanaṃ uttarimanussadhammaṃ anabhijānaṃ” có nghĩa là biết rằng mình không sở hữu bất kỳ trạng thái siêu việt nào. Những trạng thái siêu việt này bao gồm jhāna, abhiññā, maggaphala.

Vì những lý tưởng này đại diện cho các trạng thái trí tuệ thanh tịnh có khả năng loại bỏ phiền não theo các cách: đè nén (vikkhambhana), diệt trừ (samuccheda), và an tịnh (paṭippassaddhi), nên chúng được gọi là alamariyañāṇadassana.

Giải Thích Các Thuật Ngữ Khác

  1. Taṃ asantaṃ uttarimanussadhammaṃ anabhijānaṃ attūpaṇāyikaṃ katvā ‘iti jānāmi, iti passamī’ti samudacareyya
    Biết rằng mình không sở hữu các trạng thái siêu việt nhưng lại ám chỉ rằng mình có hoặc đã đạt được những trạng thái đó, đồng thời tuyên bố: “Tôi biết, tôi đã thấy”, và cố tình nói sai sự thật, hành vi này sẽ dẫn đến việc phạm tội pārājikā.
  2. Aññatra adhimānā
    Cụm từ “aññatra adhimānā” có nghĩa là tội pārājikā chỉ được xem là phạm phải nếu một người tuyên bố về các trạng thái siêu việt mà mình không đạt được, mà không phải do sự đánh giá sai lầm về sự tiến bộ của bản thân. Nếu một tỳ kheo chưa đạt đến magga hoặc phala mà lại tự tin tin rằng mình đã đạt được, điều này được gọi là adhimāna (tự đánh giá quá cao).Một tỳ kheo phạm adhimāna chỉ đơn thuần là đánh giá sai sự tiến bộ của mình và không có ý định lừa dối người khác. Do đó, việc tuyên bố sở hữu các trạng thái siêu việt vì adhimāna, trong khi thực tế không đạt được, không bị xem là phạm tội theo quy tắc này. Tội lỗi chỉ được coi là phạm phải nếu ai đó cố tình nói dối rằng mình sở hữu những trạng thái siêu việt mà thực tế không có.

Adhimāna (Tự Đánh Giá Quá Cao Về Thành Tựu)

Ngay cả khi chưa đạt được jhāna hoặc magga phala, một số người có thể tự tin sai lầm rằng mình đã đạt được. Đây được gọi là adhimāna. Sự tự tin sai lệch này không xảy ra ở những người không mong muốn đạt đến các trạng thái siêu việt, và cũng không xuất hiện ở những người đạo đức nhưng không thực hành thiền định samatha hoặc vipassanā. Những thiền sinh tu tập với giới luật nghiêm ngặt và tinh tấn thiền định đôi khi có thể mắc sai lầm này.

Tuy nhiên, bậc Thánh sẽ không bao giờ có adhimāna. Chẳng hạn, một sotāpanna sẽ không bao giờ nhầm rằng mình đã đạt đến sakadāgāmī, anāgāmī, hay arahant. Những người đã phát triển samatha hoặc vipassanā đôi khi có thể tự đánh giá sai về việc đạt được đạo và quả thấp hơn, nhưng họ sẽ không bao giờ nghĩ rằng mình đã trở thành arahant nếu không phải vậy.

Các chú giải ghi nhận rằng một số Mahātheras trong thời kỳ đầu đã sống nhiều năm với adhimāna, nghĩ rằng mình đã đạt đến arahant. Tuy nhiên, vì việc tuyên bố trạng thái siêu việt do adhimāna không bao hàm sự lừa dối, nó sẽ không dẫn đến việc phạm tội.

Trường Hợp Phạm Tội

Dưới đây là các trường hợp phạm tội liên quan đến quy tắc này:

  1. Khi ai đó tuyên bố rằng mình sở hữu các trạng thái siêu việt mà thực sự không có, và người nghe tin rằng: “Vị tỳ kheo này tuyên bố mình đã đạt được jhāna, là một người cao quý”, thì tội pārājikā sẽ được xem là đã phạm phải.Trường hợp này có thể xảy ra ngay cả khi người nghe không hiểu rõ về jhāna, nhưng chỉ cần biết các từ như jhānavimokkha, và hiểu đơn giản rằng: “Vị tỳ kheo này dường như có thể đạt đến jhāna, sở hữu vimokkha”, thì tỳ kheo sẽ bị phạm tội pārājikā.Các ví dụ cụ thể:
    i. Cố ý tuyên bố sai sự thật: “Tôi đã đạt được sơ thiền (nhị thiền/tam thiền/tứ thiền hoặc cấp độ phala nào đó).”
    → Phạm tội pārājikā.ii. Cố ý tuyên bố sai sự thật: “Tôi đang đạt được sơ thiền (nhị thiền/tam thiền/tứ thiền hoặc cấp độ phala nào đó).”
    → Phạm tội pārājikā.iii. Cố ý tuyên bố sai sự thật: “Tôi sẽ đạt được sơ thiền (nhị thiền/tam thiền/tứ thiền hoặc cấp độ phala nào đó).”  (Đã đạt được)
    → Phạm tội pārājikā.iv. Cố ý tuyên bố sai sự thật: “Tôi thường xuyên đạt được sơ thiền (nhị thiền/tam thiền/tứ thiền hoặc cấp độ phala nào đó).”
    → Phạm tội pārājikā.

Các Trường Hợp Phạm Tội Khác

v. Cố ý tuyên bố sai sự thật: “Tôi đã làm chủ sơ thiền (nhị thiền/tam thiền/tứ thiền hoặc cấp độ phala nào đó).”
→ Phạm tội pārājikā.

vi. Cố ý tuyên bố sai sự thật: “Tôi đã hoàn toàn thấu hiểu sơ thiền (nhị thiền/tam thiền/tứ thiền hoặc cấp độ phala nào đó).”
→ Phạm tội pārājikā.

  1. Nếu người nghe không hiểu ngay lập tức ý nghĩa của tuyên bố và đặt câu hỏi: “Anh ta đang nói gì vậy?” hoặc chỉ hiểu được sau khi tìm hiểu, thì tỳ kheo đó sẽ phạm tội thullaccaya, nhưng không bị coi là phạm tội pārājikā.
  2. Nếu được nói gián tiếp: Ví dụ: “Người cư ngụ trong chùa của các vị là người đã đạt đến jhāna,” và người nghe hiểu ngay ý nghĩa này, thì tỳ kheo sẽ phạm tội thullaccaya. Theo chú giải Kaṅkhāvitaraṇī Abhinavaṭīkā, vì tỳ kheo không trực tiếp tuyên bố rằng: “Tôi đã đạt đến jhāna,” nên không bị coi là phạm tội pārājikā.
  3. Nếu tuyên bố gián tiếp không được người nghe hiểu ngay lập tức, thì tỳ kheo sẽ phạm tội dukkatta. Theo chú giải Abhinavaṭīkā, tội dukkatta sẽ được coi là đã phạm vì có sự cố gắng lừa dối người khác bằng lời nói sai sự thật.
  4. Nếu với ý định được người khác tôn trọng, tỳ kheo cư xử theo cách đặc biệt hoặc sống tại một ngôi chùa trong rừng, thì sẽ phạm tội dukkatta.
  5. Nếu muốn tuyên bố một trạng thái siêu việt nhưng nhầm thành trạng thái khác và biết rằng đó là lời nói sai sự thật, và người nghe hiểu ngay lập tức, thì sẽ phạm tội pārājikā. Ví dụ, nếu muốn nói: “Tôi đang đạt đến sơ thiền,” nhưng lại nói: “Tôi đang đạt đến nhị thiền,” và người nghe hiểu ngay ý nghĩa, thì tỳ kheo sẽ bị phạm tội pārājikā.

Các Trường Hợp Không Phạm Tội

Dưới đây là các trường hợp không phạm tội liên quan đến quy tắc pārājikā thứ tư:

  1. Adhimanena: Nếu các trạng thái siêu việt được tuyên bố do adhimāna (đánh giá sai) mà không thực sự có, sẽ không bị phạm tội.
  2. Anullapanādhippāyassa: Nếu không có ý định ám chỉ với người khác về các trạng thái siêu việt của mình, sẽ không phạm tội. Ví dụ, khi giải thích về một vấn đề Dhamma liên quan đến arahant, nếu một người nói: “Hãy coi tôi là một arahant. Vậy thì những ai mắng tôi như thế này sẽ phạm tội ariyopavāda,” với mục đích làm rõ vấn đề, sẽ không phạm tội.
  3. Ummattakassa: Không phạm tội nếu tỳ kheo bị mất trí.
  4. Khittacittassa: Không phạm tội nếu tỳ kheo bị ảnh hưởng tâm lý do ngoại lực.
  5. Vedanaṭṭassa: Không phạm tội nếu tỳ kheo chịu đau đớn cực độ và không còn tỉnh táo.
  6. Ādikammikassa: Không phạm tội nếu là người đầu tiên vi phạm trước khi quy tắc này được ban hành.

Yếu Tố (Câu Hỏi Thi)

Để tội pārājikā liên quan đến uttarimanussadhamma xảy ra, cần phải thỏa mãn năm yếu tố sau:

  1. Không sở hữu bất kỳ trạng thái siêu việt nào.
  2. Tuyên bố rằng mình có những trạng thái siêu việt không thực sự sở hữu, với ý đồ tìm kiếm danh tiếng và lợi ích.
  3. Tuyên bố trực tiếp, không ám chỉ.
  4. Người được nghe là con người.
  5. Người nghe phải hiểu ngay lập tức, không phải về sau.

Năm Tên Trộm Lớn (Mahācora)

Nguyên nhân chính dẫn đến việc ban hành quy tắc pārājikā thứ tư là việc các tỳ kheo sống bên sông Vaggumudā tuyên bố đã đạt được các trạng thái siêu việt mà thực tế không có, và nhờ đó họ nhận được lợi ích cùng sự đối xử đặc biệt từ người dân bằng cách lừa dối. Hành vi này bị Đức Phật nghiêm khắc chỉ trích. Ngài nhấn mạnh rằng có năm tên trộm lớn trên thế gian.

  1. Tên trộm lớn thứ nhất là tỳ kheo tập hợp nhiều tỳ kheo khác và tạo thành một nhóm lớn do mình lãnh đạo; sử dụng sức mạnh số lượng của nhóm này để giành được lợi ích và sự đối xử từ cả cư sĩ lẫn các tỳ kheo khác.

Năm Tên Trộm Lớn (Mahācora)

  1. Tên trộm lớn thứ hai là tỳ kheo học Pháp (Dhamma) từ lời giảng của Đức Phật, sau đó giảng lại cho đại chúng. Khi mọi người nghe và cảm thấy thích thú, họ nói với sự kính phục: “Bạch thầy, bài giảng của thầy thật tuyệt vời. Thầy đã học Pháp này từ ai?” Tỳ kheo này không nhắc đến vị thầy của mình và đáp lại: “Ai có thể dạy chúng tôi được?”, ngụ ý rằng ông tự mình khám phá ra Pháp. Một tỳ kheo như vậy được coi là tên trộm lớn thứ hai của giáo pháp.
  2. Tên trộm lớn thứ ba là tỳ kheo chiếm đoạt giá trị của người khác bằng cách vu khống một bậc Thánh hoặc một tỳ kheo kalyāṇa puthujjana (người đạo hạnh và giữ giới thanh tịnh) rằng họ đã phạm tội pārājikā thứ nhất, tức là quan hệ tình dục.
  3. Tên trộm lớn thứ tư là tỳ kheo cho đi những vật dụng không được phép phân chia cá nhân (avebhaṅgiya garu bhaṇḍa) như ruộng lúa, vườn cây, đồ nội thất, hoặc các vật dụng bằng thép thuộc sở hữu của Tăng đoàn, với mục đích làm hài lòng cư sĩ.
    • Tỳ kheo nào sử dụng các vật dụng thuộc về Tăng đoàn để đối đãi với cư sĩ sẽ phạm tội kuladūsana dukkaṭa. Người đó sẽ phải chịu hình phạt pabbājanīyakamma – tức là bị trục xuất khỏi chùa.
    • Nếu các vật dụng của Tăng đoàn bị cho đi dưới quyền lực của tỳ kheo, và nếu tỳ kheo đó có ảnh hưởng lớn trong Tăng đoàn, thì sẽ phạm tội thullaccaya.
    • Nếu việc này được thực hiện với ý đồ bí mật, thì sẽ phạm tội pārājikā.
  4. Tên trộm lớn nhất là tỳ kheo lừa dối thế gian, tuyên bố rằng mình sở hữu các trạng thái siêu việt trong khi thực tế không đạt được gì. Đây là tên trộm nguy hiểm nhất đối với toàn thế gian, bao gồm cả chư thiên.
Hộp bình luận Facebook

Soṇa Thiện Kim

Panha.org là trang web chuyên sâu về Pháp học của Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Tông), nơi cung cấp kiến thức và tài liệu quý báu về kinh điển, giáo lý, và triết học Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Tông). Tại đây, bạn có thể tìm hiểu về các giáo pháp truyền thống, kinh nghiệm tu tập, và những bài giảng từ các vị tôn sư hàng đầu trong cộng đồng Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Tông). Với mục tiêu giúp người học hiểu sâu hơn về con đường giác ngộ và sự giải thoát, Panha.org mang đến nguồn tài nguyên phong phú, chính xác và cập nhật để hỗ trợ hành giả trên hành trình tu tập Pháp học.

Bài viết liên quan

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.

0 Góp ý
Được bỏ phiếu nhiều nhất
Mới nhất Cũ nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Back to top button
Close

Phát hiện trình chặn quảng cáo

Hãy hùn phước với trang web Panha.org bằng cách vô hiệu hoá trình chặn quảng cáo (Thêm vào danh sách ngoại lệ được hiển thị quảng cáo), xem quảng cáo và nhấn vào quảng cáo trên Panha.org. Trang web Panha.org cần chi phí để duy trì hoạt động, để dịch chú giải, phụ chú giải, dịch lại Tam Tạng Theravadā từ Pāli, Thái Lan sang tiếng Việt, và để phát triển các nội dung bổ ích cho Pháp Học và Pháp Hành của Phật giáo Nguyên thủy (Theravadā). Ngoài ra, nếu sau các chi phí đó mà có dư, thì Soṇa Thiện Kim sẽ dùng số tiền dư để làm thiện pháp đến Tam Bảo. Do đó Soṇa Thiện Kim cần đặt quảng cáo để có các chi phí này. Mong Quý vị tu sĩ, cư sĩ hoan hỷ! Sādhu sādhu sādhu!