อรรถกถา อังคุตตรนิกาย เอกนิบาต เอตทัคคบาลี
Giải thích về Kinh Aṅguttara Nikāya – Ekaka Nipāta.
วรรคที่ ๑
Phần 1.
หน้าต่างที่ ๙ / ๑๐.
Cửa sổ số 9 / 10.
อรรถกถาสูตรที่ ๙
Giải thích Kinh số 9.
ประวัติพระปุณณมันตานีบุตรเถระ
Lịch sử của Tôn giả Pūṇṇamantanīputta.
พึงทราบวินิจฉัยในสูตรที่ ๙ ดังต่อไปนี้
Xin hãy biết các phán quyết trong Kinh số 9 như sau.
คำว่า ปุณณมันตานีบุตร คือพระเถระชื่อว่า ปุณณะ โดยชื่อ แต่ท่านเป็นบุตรของนางมันตานีพราหมณี (จึงชื่อว่า ปุณณมันตานีบุตร)
Danh từ Pūṇṇamantanīputta có nghĩa là Tôn giả tên là Pūṇṇa, nhưng ngài là con của bà Mantanī Bà-la-môn (nên gọi là Pūṇṇamantanīputta).
ในปัญหากรรมของท่าน มีเรื่องที่จะกล่าวตามลำดับดังต่อไปนี้.
Trong vấn đề nghiệp của ngài, có những câu chuyện sẽ được đề cập như sau.
ได้ยินว่า ก่อนที่พระทศพลพระนามว่าปทุมุตตระทรงอุบัติ ท่านปุณณะบังเกิดในตระกูลพราหมณ์มหาศาล กรุงหงสวดี ในวันขนานนามท่าน พวกญาติขนานนามว่าโคตมะ.
Nghe nói rằng, trước khi Đức Tathāgata có tên là Phatumuttara xuất hiện, ngài Pūṇṇa đã sinh ra trong một gia đình Bà-la-môn vĩ đại ở thành Hongsawadi, và vào ngày được đặt tên, họ hàng đã đặt tên ngài là Kottama.
ท่านเจริญวัยแล้ว เรียนไตรเพท เป็นผู้ฉลาดในศิลปศาสตร์ทั้งปวง มีมาณพ ๕๐๐ เป็นบริวารเที่ยวไป จึงพิจารณาไตรเพทดูก็ไม่เห็นโมกขธรรมเครื่องพ้น
Ngài trưởng thành, học tập Tam Vệ, là người thông minh trong tất cả các ngành nghệ thuật, có 500 môn đệ đi theo, do đó, khi xem Tam Vệ, ngài không thấy được pháp giải thoát.
คิดว่า ธรรมดาไตรเพทนี้เหมือนต้นกล้วย ข้างนอกเกลี้ยงเกลา ข้างในหาสาระมิได้
Ngài nghĩ rằng, Tam Vệ này giống như cây chuối, bên ngoài nhẵn nhụi, bên trong không có chất lượng gì.
การถือไตรเพทนี้เที่ยวไป ก็เหมือนบริโภคแกลบ เราจะต้องการอะไรด้วยศิลปะนี้ จึงออกบวชเป็นฤาษี ทำพรหมวิหารให้บังเกิด เป็นผู้มีฌานไม่เสื่อมก็จักเข้าถึงพรหมโลก ดังนี้ จึงพร้อมกับมาณพ ๕๐๐ ไปยังเชิงเขาบวชเป็นฤาษีแล้ว
Việc theo học Tam Vệ này đi khắp nơi cũng giống như tiêu thụ rơm, chúng ta cần gì với nghệ thuật này, do đó, ngài đã xuất gia làm ẩn sĩ, tạo ra Phạm hạnh, là người có thiền định không suy giảm, sẽ đạt được cõi Phạm thiên. Vì vậy, ngài cùng với 500 môn đệ đi đến chân núi để xuất gia làm ẩn sĩ.
ท่านมีชฎิล ๑๘,๐๐๐ เป็นบริวาร ท่านทำอภิญญา ๕ สมาบัติ ๘ ให้บังเกิดแล้วบอกกสิณบริกรรมแก่ชฎิลเหล่านั้นด้วย.
Ngài có 18.000 người Khất sĩ làm môn đệ, ngài đã thực hiện 5 phép thần thông và 8 thiền định rồi hướng dẫn các Khất sĩ đó.
ชฎิลเหล่านั้นตั้งอยู่ในโอวาทของท่าน บำเพ็ญจนได้อภิญญา ๕ สมาบัติ ๘ ทุกรูป.
Các Khất sĩ đó đã giữ gìn giới luật của ngài, tinh tấn hành trì cho đến khi đạt được 5 phép thần thông và 8 thiền định.
เมื่อกาลเป็นเวลานานไกลล่วงไป ในเวลาที่โคตมดาบสนั้นเป็นคนแก่ พระปทุมุตตระทศพลก็ทรงบรรลุปรมาภิสัมโพธิญาณ ทรงประกาศพระธรรมจักรอันประเสริฐ มีภิกษุแสนรูปเป็นบริวาร ทรงอาศัยกรุงหงสวดีประทับอยู่.
Khi thời gian trôi qua xa xôi, vào thời điểm mà Kottama Đạo sĩ đã già, Đức Phật Phatumuttara đã đạt được quả vị tối thượng, Ngài đã tuyên bố bánh xe của giáo pháp vĩ đại, với hàng ngàn Tỳ-khưu là môn đệ, Ngài cư ngụ tại thành Hongsawadi.
วันหนึ่ง พระทศพลนั้นทรงตรวจดูสัตวโลกในเวลาใกล้รุ่ง ทรงเห็นอรหัตตูปนิสัยของบริษัทโคตมดาบส และความปรารถนาของโคตมดาบส (ที่ปรารถนาว่า ขอเราพึงเป็นยอดของเหล่าภิกษุผู้เป็นธรรมกถึก ในศาสนาของพระพุทธเจ้าผู้จะทรงบังเกิดในกาลภายหน้าเถิด)
Một hôm, Đức Tathāgata quan sát chúng sinh vào lúc gần sáng, Ngài thấy được tâm tư chứng quả A-la-hán của đoàn thể Kottama Đạo sĩ và nguyện vọng của Kottama Đạo sĩ (là mong muốn rằng, xin cho chúng con trở thành bậc nhất trong số các Tỳ-khưu là người giảng pháp trong giáo pháp của Đức Phật sẽ xuất hiện trong tương lai).
จึงชำระเสรีระแต่เช้าตรู่ ถือบาตรและจีวรด้วยพระองค์เอง เสด็จไปโดยเพศที่ใครๆ ไม่รู้จัก ในเมื่ออันเตวาสิกของโคตมดาบสไปเพื่อแสวงหาผลหมากรากไม้ในป่า ไปประทับยืนที่ประตูบรรณศาลาของโคตมดาบส.
Do đó, Ngài đã tắm rửa vào buổi sáng sớm, tự tay cầm bát và y, Ngài đi đến một nơi mà không ai biết đến. Khi các đệ tử của Kottama Đạo sĩ đi vào rừng để tìm kiếm trái cây và củ, Ngài đứng chờ ở cửa bát-nhã của Kottama Đạo sĩ.
ฝ่ายโคตมดาบสแม้ไม่ทราบว่า พระพุทธเจ้าทรงอุบัติแล้ว เห็นพระทศพลมาแต่ไกลเทียวก็ทราบได้ว่า บุรุษผู้นี้ปรากฏ น่าจะเป็นคนพ้นโลกแล้ว
Mặc dù Kottama Đạo sĩ không biết rằng Đức Phật đã xuất hiện, nhưng thấy Đức Tathāgata từ xa, họ biết rằng người đàn ông này có thể là một người đã thoát khỏi thế gian.
เหมือนความสำเร็จแห่งสรีระของพระองค์ซึ่งประกอบด้วยจักกลักษณะ หากครองเรือนก็จักเป็นพระเจ้าจักรพรรดิ์ หากออกบวชก็จักเป็นพระสัพพัญญูพุทธเจ้าผู้มีกิเลสดุจหลังคาเปิดแล้ว
Giống như thành tựu của hình tướng của Ngài, nếu sống trong gia đình, Ngài sẽ là một vị vua, còn nếu xuất gia, Ngài sẽ là Đức Phật toàn tri với mọi phiền não đã được mở ra.
ดังนี้ จึงถวายอภิวาทพระทศพล โดยการพบครั้งแรกเท่านั้น ทูลว่า
Vì vậy, họ đã đảnh lễ Đức Tathāgata ngay lần gặp đầu tiên và nói rằng:
ข้าแต่พระผู้มีพระภาคเจ้า โปรดมาประทับทางนี้ ปูลาดอาสนะถวายแล้ว
Kính bạch Đức Thế Tôn, xin Ngài hãy ngồi ở đây, chỗ ngồi đã được chuẩn bị sẵn.
พระตถาคตประทับนั่งแสดงธรรมแก่โคตมดาบส.
Đức Thế Tôn ngồi xuống và thuyết pháp cho Kottama Đạo sĩ.
ขณะนั้น พวกชฎิลเหล่านั้นมาด้วยหมายว่า จักให้ผลหมากรากไม้ในป่าที่ประณีตๆ แก่อาจารย์ ส่วนที่เหลือจักบริโภคเอง ดังนี้ เห็นพระทศพลประทับนั่งบนอาสนะสูง แต่อาจารย์นั่งบนอาสนะต่ำ ต่างสนทนากันว่า
Lúc đó, các đệ tử Khất sĩ đến với ý định sẽ dâng những trái cây và củ từ rừng cho vị thầy, còn phần còn lại họ sẽ tự tiêu thụ. Thấy Đức Tathāgata ngồi trên chỗ ngồi cao, còn vị thầy ngồi trên chỗ thấp, họ đã bàn luận với nhau rằng:
พวกเราคิดกันว่า ในโลกนี้ไม่มีใครที่ยิ่งกว่าอาจารย์ของเรา แต่บัดนี้ปรากฏว่า บุรุษนี้ผู้เดียวให้อาจารย์ของเรานั่งบนอาสนะต่ำ ตนเองนั่งบนอาสนะสูง มนุษย์นี้ทีจะเป็นใหญ่หนอ ดังนี้ ต่างถือตระกร้าพากันมา.
Chúng ta đã nghĩ rằng trong thế giới này không có ai vĩ đại hơn vị thầy của mình, nhưng bây giờ chỉ có người đàn ông này khiến thầy của chúng ta ngồi trên chỗ thấp trong khi chính mình ngồi trên chỗ cao, người này thật là vĩ đại. Vì vậy, họ cùng nhau cầm giỏ đến.
โคตมดาบสเกรงว่า ชฎิลเหล่านี้จะพึงไหว้เราในสำนักพระทศพล จึงกล่าวว่า
Kottama Đạo sĩ lo ngại rằng những Khất sĩ này sẽ thờ lạy mình trong sự hiện diện của Đức Tathāgata, nên đã nói rằng:
พ่อทั้งหลายอย่าไหว้เรา บุคคลผู้เลิศในโลกพร้อมทั้งเทวโลกเป็นผู้ควรที่ท่านทุกคนพึงไหว้ได้ ท่านทั้งหลายจงไหว้บุรุษผู้นี้.
Hỡi các vị, đừng thờ lạy tôi, mà hãy thờ lạy người đàn ông này, người mà trong cả thế giới và cõi trời đều đáng để các vị tôn kính.
ดาบสทั้งหลายคิดว่า อาจารย์ไม่รู้คงไม่พูด จึงถวายบังคมพระบาทแห่งพระตถาคตเจ้าหมดทุกองค์.
Các Đạo sĩ nghĩ rằng, thầy không biết chắc sẽ không nói gì, nên họ đã đồng loạt đảnh lễ chân của Đức Thế Tôn.
โคตมดาบสกล่าวว่า พ่อทั้งหลาย เราไม่มีโภชนะอย่างอื่นที่สมควรถวายแด่พระทศพล เราจักถวายผลหมากรากไม้ในป่านี้ จึงเลือกผลาผลที่ประณีตๆ บรรจงวางไว้ในบาตรของพระพุทธเจ้า ถวายแล้ว.
Kottama Đạo sĩ nói rằng, các vị, chúng tôi không có món ăn nào khác để dâng lên Đức Tathāgata, chúng tôi sẽ dâng trái cây và củ từ rừng, nên đã chọn những sản phẩm tinh tế, đặt cẩn thận vào bát của Đức Phật và dâng lên.
พระศาสดาเสวยผลหมากรากไม้ในป่าแล้ว ต่อจากนั้น แม้ดาบสเองกับอันเตวาสิกจึงฉัน.
Đức Thế Tôn đã ăn trái cây và củ từ rừng, sau đó, cả các Đạo sĩ và đệ tử cũng ăn.
พระศาสดาเสวยเสร็จแล้วทรงพระดำริว่า พระอัครสาวกทั้ง ๒ จงพาภิกษุแสนรูปมา ในขณะนั้น พระมหาวิมลเถระอัครสาวกรำลึกว่า พระศาสดาเสด็จไปที่ไหนหนอ ก็ทราบว่า พระศาสดาทรงประสงค์ให้เราไปจึงพาภิกษุแสนรูปไปเฝ้าถวายบังคมอยู่.
Khi Đức Thế Tôn ăn xong, Ngài suy nghĩ rằng, hai vị Thượng Tọa hãy đưa hàng ngàn Tỳ-khưu đến đây. Lúc đó, Tôn giả Mahāvimala, Thượng Tọa nhớ rằng Đức Thế Tôn đã đi đâu, và biết rằng Ngài muốn mình đến, nên đã đưa hàng ngàn Tỳ-khưu đến để dâng lễ.
พระดาบสกล่าวกะอันเตวาสิกว่า พ่อทั้งหลาย พวกเราไม่มีสักการะอื่น (ทั้ง) ภิกษุสงฆ์ก็ยืนอยู่ลำบาก เราจักปูลาดบุปผาสนะถวายภิกษุสงฆ์มีพระพุทธองค์เจ้าเป็นประธาน ท่านทั้งหลายจงไปนำเอาดอกไม้ที่เกิดทั้งบนบกทั้งในน้ำมาเถิด.
Kottama Đạo sĩ nói với các đệ tử rằng, các vị, chúng ta không có lễ vật nào khác (các Tỳ-khưu đứng đây cũng thật khó chịu), chúng ta sẽ trải hoa lên chỗ ngồi cho các Tỳ-khưu với Đức Phật là người đứng đầu. Các vị hãy đi lấy hoa mọc ở cả trên đất và dưới nước.
ในทันใดนั้นเอง ดาบสเหล่านั้นจึงนำเอาดอกไม้อันสมบูรณ์ด้วยสีและกลิ่นมาจากเชิงเขาด้วยอิทธิฤทธิ์ ปูลาดอาสนะทั้งหลายโดยนัยที่กล่าวไว้ในเรื่องของพระสารีบุตรเถระนั่นแล.
Ngay lập tức, các Đạo sĩ đã mang những hoa đầy màu sắc và hương thơm từ chân núi bằng quyền năng của mình, trải những chỗ ngồi như đã đề cập trong câu chuyện về Tôn giả Sāriputta.
การเข้านิโรธสมาบัติก็ดี การกั้นฉัตรก็ดี ทุกเรื่องพึงทราบโดยนัยที่กล่าวแล้วนั่นแล.
Việc vào Niết-bàn cũng như việc che ô đều phải được hiểu theo cách đã đề cập ở trên.
ในวันที่ ๗ พระศาสดาทรงออกจากนิโรธสมาบัติ ทรงเห็นดาบสทั้งหลายยืนล้อมอยู่ จึงตรัสเรียกพระสาวกผู้บรรลุเอตทัคคะในความเป็นพระธรรมกถึกตรัสว่า
Vào ngày thứ 7, Đức Thế Tôn ra khỏi Niết-bàn, thấy các Đạo sĩ đứng vây quanh, Ngài gọi vị Thượng Tọa đã đạt được ưu việt trong việc giảng pháp và nói rằng:
ดูก่อนภิกษุ หมู่ฤาษีนี้ได้กระทำสักการะใหญ่ เธอจงกระทำอนุโมทนาบุปผาสนะแก่หมู่ฤาษีเหล่านี้.
Hãy xem, các Tỳ-khưu, đoàn Đạo sĩ này đã thực hiện lễ cúng dường lớn, ngài hãy chúc phúc cho việc trải hoa này cho nhóm Đạo sĩ này.
ภิกษุนั้นรับพระพุทธดำรัสแล้วพิจารณาพระไตรปิฎกกระทำอนุโมทนา เวลาจบเทศนาของภิกษุนั้น พระศาสดาทรงเปล่งพระสุระเสียงดุจเสียงพรหมแสดงธรรมด้วยพระองค์เอง.
Vị Tỳ-khưu đó nhận lời của Đức Phật rồi suy nghĩ về giáo điển để thực hiện lời chúc phúc. Khi vị Tỳ-khưu kết thúc bài thuyết pháp, Đức Thế Tôn phát ra âm thanh như tiếng của chư thiên để tự mình giảng pháp.
เมื่อจบเทศนา (เว้น) โคตมดาบสเสีย ชฎิล ๑๘,๐๐๐ รูปที่เหลือได้บรรลุพระอรหัต.
Khi bài thuyết pháp kết thúc (trừ Kottama Đạo sĩ ra), 18.000 người Khất sĩ còn lại đã đạt được quả A-la-hán.
ส่วนโคตมดาบสไม่อาจทำการแทงตลอดโดยอัตภาพนั้น จึงกราบทูลพระผู้มีพระภาคเจ้าว่า ข้าแต่พระผู้มีพระภาคเจ้า ภิกษุผู้ที่แสดงธรรมก่อนนี้ ชื่อว่าอย่างไรในศาสนาของพระองค์.
Còn Kottama Đạo sĩ không thể tự mình chứng đắc, nên đã thưa với Đức Thế Tôn rằng: Kính bạch Đức Thế Tôn, Tỳ-khưu đã thuyết pháp trước đây tên gì trong giáo pháp của Ngài?
พ. ตรัสว่า โคตมดาบส ภิกษุนี้เป็นยอดของเหล่าภิกษุผู้เป็นธรรมกถึกในศาสนาของเรา.
Đức Phật nói: Kottama Đạo sĩ, vị Tỳ-khưu này là người vĩ đại nhất trong số các Tỳ-khưu là người giảng pháp trong giáo pháp của chúng ta.
โคตมดาบสหมอบแทบบาทมูล กระทำความปรารถนาว่า ข้าแต่พระองค์ผู้เจริญ ด้วยผลแห่งบุญกุศลที่ข้าพระองค์ทำมา ๗ วันนี้ ข้าพระองค์พึงเป็นยอดของเหล่าภิกษุผู้เป็นธรรมกถึกในศาสนาของพระพุทธเจ้าพระองค์หนึ่งในอนาคต เหมือนดังภิกษุรูปนี้.
Kottama Đạo sĩ quỳ lạy dưới chân Ngài và bày tỏ nguyện vọng rằng: Kính bạch Ngài, với công đức mà con đã tạo ra trong 7 ngày này, con mong rằng con sẽ trở thành người vĩ đại nhất trong số các Tỳ-khưu là người giảng pháp trong giáo pháp của một Đức Phật trong tương lai, giống như vị Tỳ-khưu này.
พระศาสดาทรงตรวจดูอนาคตกาล ก็ทรงทราบว่า ความปรารถนาของโคตมดาบสนั้นสำเร็จโดยหาอันตรายมิได้ แล้วทรงพยากรณ์ว่า ในที่สุดแห่งแสนกัปในอนาคตกาล พระพุทธเจ้าพระนามว่าโคตม จักทรงอุบัติขึ้น ท่านจักเป็นยอดของเหล่าภิกษุผู้เป็นธรรมกถึกในศาสนาของพระองค์
Đức Thế Tôn xem xét tương lai và biết rằng nguyện vọng của Kottama Đạo sĩ sẽ thành hiện thực mà không gặp trở ngại gì. Ngài đã tiên đoán rằng, vào cuối thời gian của một trăm ngàn kiếp trong tương lai, sẽ có một Đức Phật tên là Kottama xuất hiện, và Ngài sẽ là người vĩ đại nhất trong số các Tỳ-khưu là người giảng pháp trong giáo pháp của Ngài.
แล้วตรัสกะดาบสผู้บรรลุพระอรหัตว่า เอถ ภิกฺขโว จงเป็นภิกษุมาเถิด
Sau đó, Ngài nói với các Đạo sĩ đã đạt được quả A-la-hán rằng: Hãy đến đây, các Tỳ-khưu, hãy trở thành Tỳ-khưu.
ดังนี้ ดาบสทุกรูปมีผมและหนวดอันตรธานไป ทรงบาตรและจีวรอันสำเร็จด้วยฤทธิ์ ได้เป็นเช่นกับพระเถระ ๑๐๐ พรรษา.
Nghe vậy, tất cả các Đạo sĩ liền biến mất tóc và râu, và với sức mạnh, họ đã trở thành giống như các Tôn giả 100 tuổi.
พระศาสดาทรงพาภิกษุสงฆ์เสด็จกลับพระวิหาร.
Đức Thế Tôn dẫn các Tỳ-khưu trở về chùa.
ฝ่ายโคตมดาบสก็บำรุงพระตถาคตจนตลอดชีวิต บำเพ็ญแต่กัลยาณกรรมตามกำลัง เวียนว่ายอยู่ในเทวดาและมนุษย์ทั้งหลายแสนกัป
Kottama Đạo sĩ đã chăm sóc Đức Thế Tôn cho đến cuối đời, thực hành những việc thiện theo sức của mình, luân chuyển trong cõi trời và loài người suốt hàng trăm ngàn kiếp.
ครั้งพระผู้มีพระภาคเจ้าของเรา จึงมาเกิดในตระกูลพราหมณ์มหาศาล ในหมู่บ้านพราหณ์ชื่อโทณวัตถุ ไม่ไกลกรุงกบิลพัสดุ์ ในวันขนานนามของท่าน พวกญาติขนานนามท่านว่า ปุณณมาณพ.
Khi Đức Thế Tôn của chúng ta ra đời trong một gia đình Bà-la-môn vĩ đại, tại làng Bà-la-môn có tên là Thonawatu, không xa thành phố Kapilavatthu, vào ngày đặt tên, họ hàng đã đặt tên ngài là Pūṇṇa.
ครั้งเมื่อพระศาสดาทรงบรรลุอภิสัมโพธิญาณ ทรงประกาศธรรมจักรอันประเสริฐ เสด็จดำเนินมาโดยลำดับ เข้าอาศัยอยู่ยังกรุงราชคฤห์
Khi Đức Thế Tôn đạt được giác ngộ tối thượng, Ngài đã tuyên bố bánh xe của giáo pháp vĩ đại, từ từ đi vào thành Rajagaha.
พระอัญญาโกณฑัญญเถระมายังกรุงกบิลพัสดุ์ ให้ปุณณมาณพหลานชายของตนบวชแล้ว รุ่งขึ้นจึงมาเฝ้าพระทศพล ถวายบังคมแล้วก็ทูลลาไปยังฉัททันตสระ เพื่อพักผ่อนกลางวัน.
Tôn giả Ānanda Kottama đã đến thành Kapilavatthu, cho Pūṇṇa, cháu trai của mình xuất gia. Sáng hôm sau, ngài đến gặp Đức Tathāgata, dâng lễ và sau đó xin phép đến hồ Chattāntā để nghỉ ngơi giữa ngày.
ฝ่ายพระปุณณมันตานีบุตรมาเฝ้าพระทศพลพร้อมกับพระอัญญาโกณฑัญญเถระผู้ลุง คิดว่า เราจักทำกิจแห่งบรรพชิตของเราให้ถึงที่สุดแล้ว จึงจักไปเฝ้าพระทศพล ดังนี้ จึงถูกละไว้ในกรุงกบิลพัสดุ์นั่นเอง กระทำโยนิโสมนสิการกรรมฐาน ไม่นานนักก็บรรลุพระอรหัตมีกุลบุตรออกบวชในสำนักของท่านถึง ๕๐๐ รูป
Pūṇṇamantanīputta đến gặp Đức Tathāgata cùng với Tôn giả Ānanda Kottama, suy nghĩ rằng mình sẽ hoàn thành nhiệm vụ của một người xuất gia trước khi đến gặp Đức Tathāgata. Vì vậy, ngài đã ở lại trong thành Kapilavatthu, thực hành thiền quán, không lâu sau đó đã đạt được A-la-hán, và có 500 cậu bé được xuất gia dưới sự hướng dẫn của ngài.
พระเถระเองได้กถาวัตถุ ๑๐ จึงสอนแม้แก่บรรพชิตเหล่านั้นด้วยกถาวัตถุ ๑๐ บรรพชิตเหล่านั้นดำรงอยู่ในโอวาทของท่านก็ได้บรรลุพระอรหัตทุกรูปเทียว.
Tôn giả đã giảng dạy cho các người xuất gia đó về 10 chủ đề giảng pháp, và tất cả các người xuất gia đã giữ gìn giới luật của ngài và đều đạt được A-la-hán.
ภิกษุเหล่านั้นรู้ว่า กิจแห่งบรรพชิตของตนถึงที่สุดแล้ว จึงเข้าไปหาพระอุปัชฌาย์กล่าวว่า ท่านผู้เจริญ กิจของพวกกระผมและผู้ได้มหากถาวัตถุ ๑๐ ถึงที่สุดแล้ว เป็นสมัยที่พวกกระผมจะเฝ้าพระทศพล.
Các Tỳ-khưu đó biết rằng nhiệm vụ của mình đã hoàn thành, nên đã vào gặp vị thầy và nói rằng: Kính bạch Ngài, nhiệm vụ của chúng con và những người đã học về 10 chủ đề giảng pháp đã hoàn thành, đã đến lúc chúng con sẽ gặp Đức Tathāgata.
พระเถระฟังถ้อยคำของภิกษุเหล่านั้นแล้วจึงคิดว่า พระศาสดาทรงทราบว่า เราได้กถาวัตถุ ๑๐ เมื่อเราแสดงธรรมก็แสดงไม่พ้นกถาวัตถุ ๑๐ เมื่อเราไปภิกษุทั้งหมดนี้ก็จะแวดล้อมไป ก็การไปด้วยคลุกคลีด้วยหมู่คณะอย่างนี้เข้าเฝ้าพระทศพลของเราก็ไม่ควร
Nghe lời của các Tỳ-khưu, Tôn giả suy nghĩ rằng Đức Thế Tôn biết rằng chúng ta đã học về 10 chủ đề giảng pháp. Khi chúng ta thuyết pháp, cũng không ngoài 10 chủ đề này, và nếu chúng ta đi cùng nhau như thế này, việc gặp Đức Tathāgata là không thích hợp.
ภิกษุเหล่านี้จงไปเฝ้าก่อน ดังนี้ จึงกล่าวกะภิกษุเหล่านั้นว่า อาวุโส ท่านทั้งหลายจงเดินล่วงหน้าไปเฝ้าพระตถาคต และจงกราบพระบาทของพระองค์ตามคำของเรา แม้เราก็จักไปตามทางที่ท่านไปแล้ว ดังนี้.
Vì vậy, ngài đã nói với các Tỳ-khưu rằng: Các vị hãy đi trước để gặp Đức Thế Tôn và hãy cúi lạy chân Ngài theo lời chúng ta. Chúng ta cũng sẽ đi theo con đường mà các vị đã đi.
ภิกษุเหล่านั้นทุกรูปล้วนอยู่ในรัฐที่เป็นชาติภูมิเดียวกับพระทศพล ทั้งหมดเป็นพระขีณาสพ ได้กถาวัตถุ ๑๐ หมดทุกรูป ยินดียิ่งซึ่งโอวาทของอุปัชฌาย์ของตน ไหว้พระเถระแล้วเที่ยวจาริกไปโดยลำดับ ล่วงหนทางถึง ๖๐ โยชน์จนถึงพระเวฬุวันมหาวิหารในกรุงราชคฤห์
Tất cả các Tỳ-khưu đều đến từ cùng một vùng đất với Đức Tathāgata. Tất cả đều là những bậc thánh nhân, đã học về 10 chủ đề giảng pháp, rất vui mừng với lời dạy của vị thầy của mình. Họ đã kính lễ Tôn giả rồi đi tiếp, đi qua quãng đường 60 do tuần cho đến khi đến được Venuvana Mahāvihāra ở thành Rajagaha.
ถวายบังคมพระบาทของพระทศพล แล้วพากันนั่งอยู่ ณ ที่สมควรส่วนหนึ่ง
Họ đã dâng lễ chân Đức Tathāgata và cùng nhau ngồi ở chỗ thích hợp.
ก็นี่เป็นอาจิณณวัตรของพระผู้มีพระภาคเจ้าทั้งหลายที่จะทรงชื่นชอบตอบกับอาคันตุกะภิกษุทั้งหลาย ดังนั้น พระผู้มีพระภาคเจ้าจึงทรงกระทำปฏิสันถารด้วยมธุรวาจากับภิกษุเหล่านั้น โดยนัยมีอาทิว่า กจฺจิ ภิกฺขเว ขมนียํ พอทนได้หรือภิกษุทั้งหลาย
Đây là thói quen thường nhật của các Đức Thế Tôn để thể hiện sự hoan hỉ khi gặp gỡ các Tỳ-khưu đến từ nơi khác. Vì vậy, Đức Thế Tôn đã nói chuyện với các Tỳ-khưu bằng những lời ngọt ngào, với nội dung như sau: Các Tỳ-khưu, điều này có thể chịu đựng được không?
แล้วตรัสถามว่า พวกเธอมาแต่ไหน เมื่อภิกษุเหล่านั้นทูลตอบว่าจากชาติภูมิ
Rồi Ngài hỏi rằng: Các vị đến từ đâu? Khi các Tỳ-khưu đó trả lời rằng: Chúng con đến từ quốc gia.
แล้วจึงตรัสถามภิกษุผู้ได้กถาวัตถุ ๑๐ ว่า ดูก่อนภิกษุทั้งหลาย พวกภิกษุผู้เป็นเพื่อนพรหมจรรย์ชาวชาติภูมิกันได้สรรเสริญใครหนอแลอย่างนี้ว่า ตนเองก็ปรารถนาน้อยด้วย สอนภิกษุทั้งหลายเรื่องปรารถนาน้อยด้วย ดังนี้
Sau đó, Ngài đã hỏi vị Tỳ-khưu đã học về 10 chủ đề giảng pháp rằng: Hỡi các Tỳ-khưu, những Tỳ-khưu nào trong cùng quê hương này có thể ca ngợi ai rằng bản thân cũng ước muốn ít ỏi? Hãy dạy cho các Tỳ-khưu về việc ước muốn ít ỏi như vậy.
ภิกษุทั้งหลายกราบทูลว่า พระเจ้าข้า ท่านชื่อว่าท่านปุณณมันตานีบุตร พระเจ้าข้า.
Các Tỳ-khưu thưa rằng: Kính bạch Ngài, ngài có tên là Pūṇṇamantanīputta, Kính bạch Ngài.
ท่านพระสารีบุตรได้ฟังถ้อยคำนั้น จึงเป็นผู้ใคร่เพื่อจะพบพระเถระ.
Tôn giả Sāriputta nghe những lời đó, nên mong muốn gặp Tôn giả.
ครั้งนั้น พระศาสดาได้เสด็จออกจากกรุงราชคฤห์ไปสู่กรุงสาวัตถี พระปุณณเถระได้ยินว่าพระทศพลเสด็จมากรุงสาวัตถี จึงคิดว่าเราจักเฝ้าพระศาสดา จึงออกเดินไปจนทันเฝ้าพระตถาคตที่ภายในพระคันธกุฎีทีเดียว.
Lúc đó, Đức Thế Tôn đã rời thành Rajagaha để đến thành Sāvatthi. Tôn giả Pūṇṇamantanīputta nghe rằng Đức Tathāgata đã đến thành Sāvatthi, nên nghĩ rằng mình sẽ đi gặp Đức Thế Tôn. Ngài đã đi cho đến khi gặp Đức Tathāgata trong Khandhaka của Ngài.
พระศาสดาทรงแสดงธรรมแก่ท่าน พระเถระสดับธรรมแล้ว ถวายบังคมพระทศพลแล้วไปยังป่าอันธวันเพื่อหลีกเร้น จึงนั่งพักกลางวันที่โคนไม้ต้นหนึ่ง.
Đức Thế Tôn đã thuyết pháp cho ngài, Tôn giả lắng nghe pháp rồi dâng lễ Đức Tathāgata, sau đó đến rừng Andhavana để tránh xa, và ngồi nghỉ giữa ngày dưới gốc cây.
แม้พระสารีบุตรเถระทราบว่าท่านมา มองหาทิศทางแล้วเดินไปกำหนดโอกาสเข้าไปยังโคนไม้นั้นแล้วสนทนากับพระเถระ ถามถึงลำดับแห่งวิสุทธิ ๗
Tôn giả Sāriputta biết rằng ngài đã đến, tìm hướng đi rồi đi đến gốc cây đó, nói chuyện với Tôn giả và hỏi về thứ tự của 7 sự thanh tịnh.
แม้พระเถระก็พยากรณ์ที่ท่านถามแล้วถามเล่าถวายท่าน พระเถระทั้งสองนั้นต่างอนุโมทนาสุภาษิตของกันและกัน.
Tôn giả cũng đã giải thích về những gì ngài hỏi và hỏi lại, Tôn giả cả hai đều hoan hỉ với lời dạy của nhau.
ต่อมาภายหลัง พระศาสดาทรงประทับนั่งท่ามกลางภิกษุสงฆ์ ทรงสถาปนาพระเถระไว้ในตำแหน่งเป็นยอดของเหล่าภิกษุผู้เป็นธรรมกถึกแล.
Sau đó, Đức Thế Tôn đã ngồi giữa các Tỳ-khưu và công nhận Tôn giả là người vĩ đại nhất trong số các Tỳ-khưu là người giảng pháp.
จบอรรถกถาสูตรที่ ๙
Kết thúc phần giải thích Kinh số 9.