Chú giải Tăng Chi Bộ Kinh

Chú giải Thái kinh Tăng Chi Bộ I – Chương 1 – 14.5. Phẩm Người Tối Thắng

อรรถกถา อังคุตตรนิกาย เอกนิบาต เอตทัคคบาลี
Giải thích kinh Anguttara Nikaya Ekakanipata Etadagga.

วรรคที่ ๑
Chương thứ 1.

หน้าต่างที่ ๕ / ๑๐
Trang số 5 / 10.

อรรถกถาสูตรที่ ๕

Giải thích bài kinh số 5.

ประวัติพระอนุรุทธเถระ

Tiểu sử của tôn giả Anuruddha.

ในสูตรที่ ๕ มีวินิจฉัยดังต่อไปนี้ :-
Trong bài kinh số 5 có những giải thích như sau:

บทว่า ทิพฺพจกฺขุกานํ ยทิทํ อนุรุทฺโธ ความว่า ตรัสว่า พระอนุรุทธเถระเป็นยอดของภิกษุทั้งหลายผู้มีจักษุทิพย์.
Câu rằng “พระอนุรุทธเถระ là người cao nhất trong các Tỳ-khưu có thiên nhãn”.

พึงทราบว่า พระอนุรุทธเถระนั้นเป็นผู้เลิศ เพราะเป็นผู้มีความชำนาญอันสั่งสมไว้แล้ว.
Nên biết rằng, Tôn giả Anuruddha nổi bật vì đã tích lũy kỹ năng tinh thông.

ได้ยินว่า พระเถระเว้นแต่ชั่วเวลาฉันเท่านั้น ตลอดเวลาที่เหลือ เจริญอาโลกกสิณตรวจดูเหล่าสัตว์ด้วยทิพยจักษุอย่างเดียวอยู่ ดังนั้น พระเถระนี้จึงชื่อว่าเป็นยอดของภิกษุทั้งหลายผู้มีทิพยจักษุ เพราะเป็นผู้มีความชำนาญอันสะสมไว้ตลอดวันและคืน.
Nghe nói rằng, tôn giả chỉ nghỉ vào thời gian dùng bữa, suốt thời gian còn lại thì tu tập ánh sáng để nhìn thấy các chúng sinh bằng thiên nhãn. Do đó, tôn giả này được xem là người cao nhất trong các Tỳ-khưu có thiên nhãn, vì đã tích lũy sự tinh thông suốt ngày đêm.

อีกอย่างหนึ่ง เป็นยอดของภิกษุผู้มีทิพยจักษุที่เหลือ เพราะปรารถนาไว้ตลอดแสนกัป.
Thêm vào đó, là người cao nhất trong số Tỳ-khưu có thiên nhãn còn lại, do nguyện vọng kéo dài suốt một trăm ngàn kiếp.

ก็ในเรื่องบุรพกรรมของท่านในข้อนั้นมีเรื่องที่จะกล่าวตามลำดับดังต่อไป.
Về câu chuyện quá khứ của tôn giả trong vấn đề đó có câu chuyện sẽ được trình bày theo thứ tự dưới đây.

ความพิสดารว่า ครั้งพระผู้มีพระภาคเจ้าพระนามว่าปทุมุตตรนั่นแล กุลบุตรแม้นี้ได้ไปกับมหาชนผู้ไปยังวิหารเพื่อฟังธรรมภายหลังภัตตาหาร.
Nội dung chi tiết rằng, vào thời Đức Phật tên Padumuttara, người con trai của gia đình này đã cùng với đông đảo quần chúng đến tu viện để nghe pháp sau buổi ăn.

ก็ครั้งนั้น กุลบุตรผู้นี้ได้เป็นกุฎุมพีผู้ยิ่งใหญ่ไม่ปรากฏชื่อคนหนึ่ง.
Lúc đó, người con trai của gia đình này là một thương gia giàu có, không rõ tên.

เขาถวายบังคมพระทศพลแล้วยืนอยู่ท้ายบริษัทฟังธรรมกถา.
Ông cúi lạy Đức Phật và đứng ở cuối hội chúng để nghe thuyết pháp.

พระศาสดาทรงสืบต่อพระธรรมเทศนาตามอนุสนธิแล้วทรงสถาปนาภิกษุผู้มีทิพยจักษุรูปหนึ่งไว้ในตำแหน่งเอตทัคคะ.
Đức Thế Tôn tiếp tục bài pháp và phong cho một vị Tỳ-khưu có thiên nhãn vào vị trí cao quý nhất.

ลำดับนั้น กุฎุมพีได้มีดำริดังนี้ว่าภิกษุนี้ใหญ่หนอ พระศาสดาทรงตั้งไว้ในความเป็นยอดของภิกษุผู้มีทิพยจักษุเอง ด้วยประการอย่างนี้ โอหนอ แม้เราก็พึงเป็นยอดของภิกษุผู้มีจักษุทิพย์ในพระศาสนาของพระพุทธเจ้าผู้จะอุบัติในอนาคต ดังนี้แล้วเกิดความคิดดังนี้ขึ้น เดินเข้าไประหว่างบริษัท ทูลนิมนต์พระผู้มีพระภาคเจ้ากับพระภิกษุแสนหนึ่ง เพื่อเสวยในวันพรุ่งนี้.
Khi đó, thương gia suy nghĩ rằng: “Vị Tỳ-khưu này thật cao quý, Đức Phật đã tự mình chọn người này làm đứng đầu các Tỳ-khưu có thiên nhãn. Ôi, mong rằng ta cũng sẽ là người đứng đầu các Tỳ-khưu có thiên nhãn trong giáo pháp của một vị Phật tương lai.” Với suy nghĩ này, ông tiến vào giữa hội chúng và thỉnh Đức Phật cùng một trăm nghìn Tỳ-khưu dùng bữa vào ngày mai.

ในวันรุ่งขึ้น ถวายมหาทานแก่ภิกษุสงฆ์มีพระพุทธเจ้าเป็นประมุข คิดว่า เราปรารถนาตำแหน่งใหญ่ จึงทูลนิมนต์ในวันนี้ เพื่อเสวยวันพรุ่งนี้แล้วทำมหาทานให้เป็นไปถึง ๗ วัน โดยทำนองนั้นนั่นแล ถวายผ้าอย่างดีเยี่ยมแด่พระผู้มีพระภาคเจ้าพร้อมทั้งบริวารแล้วทำความปรารถนาว่า ข้าแต่พระผู้มีพระภาคเจ้า ข้าพระองค์ทำสักการะนี้เพื่อประโยชน์แก่ทิพยสมบัติหรือมนุษยสมบัติก็หามิได้ ก็พระองค์ทรงตั้งภิกษุใดไว้ในตำแหน่งเป็นยอดของภิกษุผู้มีทิพยจักษุใน ๗ วันที่แล้วมาจากวันนี้ แม้ข้าพระพุทธเจ้าก็พึงเป็นยอดของภิกษุผู้มีทิพยจักษุเหมือนภิกษุองค์นั้น ในพระศาสนาของพระพุทธเจ้าพระองค์หนึ่งในอนาคตกาล ดังนี้แล้วหมอบลงแทบพระบาทของพระศาสดา.
Vào ngày hôm sau, ông cúng dường đại thí cho hội chúng Tỳ-khưu với Đức Phật làm chủ. Nghĩ rằng mình mong muốn có vị trí cao quý, ông đã thỉnh cầu từ hôm nay để được cúng dường trong 7 ngày tiếp theo. Ông dâng tấm vải tốt nhất lên Đức Phật và hội chúng, rồi cầu nguyện rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, con không cúng dường này vì mong muốn tài sản thiên giới hay tài sản nhân loại. Nhưng như Ngài đã chọn một vị Tỳ-khưu làm đứng đầu trong các Tỳ-khưu có thiên nhãn trong 7 ngày qua, xin hãy cho con cũng sẽ là người đứng đầu trong các Tỳ-khưu có thiên nhãn như vị ấy, trong giáo pháp của một Đức Phật trong tương lai.” Nói xong, ông quỳ sát dưới chân Đức Phật.

พระศาสดาทรงตรวจดูในอนาคต ทรงทราบว่าความปรารถนาของเขาสำเร็จ จึงตรัสอย่างนี้ว่า ดูก่อนบุรุษผู้เจริญ ในที่สุดแสนกัปในอนาคต พระพุทธเจ้าพระนามว่าโคดม จักอุบัติขึ้น ท่านจักมีชื่อว่าอนุรุทธะเป็นยอดของภิกษุผู้มีทิพยจักษุในพระศาสนาของพระโคดมพุทธเจ้านั้น.
Đức Phật nhìn vào tương lai và biết rằng nguyện vọng của ông sẽ thành hiện thực, nên Ngài phán: “Này người thiện nam, vào cuối một trăm ngàn kiếp trong tương lai, một vị Phật có tên là Cồ-đàm sẽ xuất hiện, và ông sẽ mang tên Anuruddha, là người cao nhất trong các Tỳ-khưu có thiên nhãn trong giáo pháp của Đức Phật Cồ-đàm đó.”

ก็แหละครั้นตรัสอย่างนี้แล้วทรงกระทำภัตตานุโมทนาเสด็จกลับไปพระวิหาร.
Sau khi nói như vậy, Ngài đã ban phúc và trở về tu viện.

ฝ่ายกุฏุมพีทำกรรมงามไม่ขาดเลย ตราบที่พระพุทธเจ้ายังทรงพระชนม์อยู่ เมื่อพระศาสดาปรินิพพานแล้ว เมื่อสร้างเจดีย์ทองประมาณ ๗ โยชน์สำเร็จแล้ว จึงเข้าไปหาภิกษุสงฆ์ถามว่า อะไรเป็นบริกรรมของทิพยจักษุ ขอรับ.
Thương gia luôn tạo những thiện nghiệp tốt đẹp khi Đức Phật còn tại thế. Khi Đức Thế Tôn nhập Niết-bàn, ông xây dựng một bảo tháp vàng cao khoảng 7 do-tuần và hỏi chư Tỳ-khưu rằng: “Phép tu nào để đạt thiên nhãn?”

ภิกษุสงฆ์บอกว่า ควรให้ประทีปนะ อุบาสก.
Các Tỳ-khưu đáp rằng: “Nên dâng đèn cúng, thưa cư sĩ.”

อุบาสกกล่าวว่า ดีละขอรับ ผมจักทำ จึงให้สร้างต้นประทีปพันต้นเท่ากับประทีปพันดวงก่อน ถัดจากนั้นสร้างให้ย่อมกว่านั้น ถัดจากนั้นสร้างให้ย่อมกว่านั้น รวมความว่าได้สร้างต้นประทีปหลายพันต้น. ส่วนประทีปที่เหลือประมาณไม่ได้.
Cư sĩ nói: “Tốt lắm, tôi sẽ làm.” Sau đó, ông cho xây dựng một nghìn cột đèn, mỗi cột có một nghìn ngọn đèn, rồi tiếp tục xây các cột nhỏ hơn, và cứ như vậy tạo ra hàng ngàn cột đèn. Số đèn còn lại thì không thể đếm hết.

เขาทำกัลยาณกรรมอย่างนี้ตลอดชีวิต ท่องเที่ยวไปในเทวดาและมนุษย์ทั้งหลาย ล่วงไปแสนกัป ในกาลแห่งพระกัสสปสัมมาสัมพุทธเจ้า บังเกิดในเรือนกุฎมพีใกล้กรุงพาราณสี.
Ông đã làm các thiện nghiệp như vậy suốt cuộc đời, chu du giữa các cõi trời và loài người, trôi qua một trăm ngàn kiếp. Đến thời Đức Phật Kassapa, ông sinh ra trong gia đình thương gia gần thành Ba-la-nại.

เมื่อพระศาสดาปรินิพพาน เมื่อสร้างเจดีย์ประมาณ ๑ โยชน์สำเร็จแล้วให้สร้างภาชนะสำริดเป็นอันมากบรรจุเนยใสจนเต็ม ให้วางใส้ตะเกียงเว้นระยะองคุลีหนึ่งๆ ในท่ามกลาง ให้จุดไฟขึ้นให้ล้อมพระเจดีย์ ให้ขอบปากต่อขอบปากจดกัน ให้สร้างภาชนะสำริดใหญ่กว่าเขาทั้งหมดสำหรับตนใส่เนยใสเต็ม จุดใส้ตะเกียงพันดวงรอบๆ ขอบปากภาชนะสำริดนั้น เอาผ้าเก่าที่เป็นจอมหุ้มไว้ตรงกลาง ให้จุดไฟเทินภาชนะสำริด เดินเวียนเจดีย์ประมาณ ๑ โยชน์ตลอดคืนยังรุ่ง.
Khi Đức Phật nhập Niết-bàn, ông xây một bảo tháp cao khoảng 1 do-tuần và làm nhiều đèn đồng đầy dầu ghee, đặt bấc đèn cách nhau mỗi một ngón tay, rồi đốt sáng bao quanh bảo tháp, nối liền từng mép đèn. Ông còn làm một đèn đồng lớn nhất cho mình, đốt bấc ngàn ngọn xung quanh và phủ một lớp vải cũ lên trên, đốt sáng đèn và đi quanh bảo tháp trong suốt đêm cho đến sáng.

เขาทำกัลยาณกรรมตลอดชีวิตด้วยอัตตภาพแม้นั้น ด้วยอาการอย่างนี้ แล้วบังเกิดในเทวโลก.
Ông đã tạo thiện nghiệp suốt cuộc đời với thân phận ấy, và sau đó sinh vào cõi trời.

เมื่อพระพุทธเจ้ายังไม่อุบัติขึ้น เขาถือปฏิสนธิในเรือนของตระกูลเข็ญใจในนครนั้นนั่นแลอีก เป็นคนหาบหญ้า อาศัยสุมนเศรษฐีอยู่ เขาได้มีชื่อว่าอันนภาระ.
Khi Đức Phật chưa xuất hiện, ông tái sinh trong một gia đình nghèo ở thành phố đó, làm nghề gánh cỏ và nương tựa vào triệu phú Suman. Ông được gọi là Annabhara.

ฝ่ายสุมนเศรษฐีนั้นให้มหาทานที่ประตูบ้านแก่คนกำพร้า คนเดินทางวณิพกและยาจกทุกวันๆ.
Về phần triệu phú Suman, ông phát tâm bố thí lớn ở cửa nhà mỗi ngày, giúp đỡ người mồ côi, khách lữ hành, và người ăn xin.

ภายหลัง ณ วันหนึ่ง พระปัจเจกพุทธเจ้านามว่าอุปริฏฐะ เข้านิโรธสมาบัติที่ภูเขาคันธมาทน์ ออกจากสมาบัตินั้นแล้วพิจารณาว่า วันนี้ควรจะทำการอนุเคราะห์ใคร.
Sau đó, vào một ngày nọ, Đức Phật Độc Giác tên là Uparittha nhập định nirodha trên núi Gandhamadana. Khi xuất định, Ngài suy xét xem hôm nay nên giúp đỡ ai.

ก็ธรรมดาพระปัจเจกพุทธเจ้าทั้งหลายย่อมเป็นผู้อนุเคราะห์คนเข็ญใจ ท่านคิดว่าวันนี้เราควรทำการอนุเคราะห์นายอันนภาระ ทราบว่า นายอันนภาระจักออกจากดงมายังบ้านตน จึงถือบาตรและจีวรจากภูเขาคันธมาทน์ เหาะขึ้นสู่เวหาสมาปรากฏเฉพาะหน้านายอันนภาระที่ประตูบ้านนั่นเอง.
Thông thường, các Đức Phật Độc Giác thường giúp đỡ những người khó khăn. Ngài nghĩ rằng hôm nay mình nên giúp đỡ ông Annabhara, biết rằng ông sẽ đi từ khu rừng về nhà. Ngài liền mang bát và y từ núi Gandhamadana, bay lên không trung và xuất hiện ngay trước cửa nhà ông Annabhara.

นายอันนภาระเห็นพระปัจเจกพุทธเจ้า ถือบาตรเปล่าจึงอภิวาทพระปัจเจกพุทธเจ้าแล้วถามว่า ท่านได้ภิกษาบ้างไหมขอรับ.
Ông Annabhara thấy Đức Phật Độc Giác cầm bát không, nên kính lễ và hỏi: “Ngài đã nhận được đồ ăn chưa, thưa ngài?”

พระปัจเจกพุทธเจ้ากล่าวว่า จักได้ ผู้มีบุญมาก.
Đức Phật Độc Giác đáp: “Sẽ có thôi, hỡi người nhiều phước.”

เขากล่าวว่า โปรดรออยู่ที่นี้ก่อนเถิดขอรับ แล้วรีบไป ถามแม่บ้านในเรือนของตนว่า นางผู้เจริญ ภัตอันเป็นส่วนเก็บไว้เพื่อเรามีหรือไม่. นางตอบว่า มีจ้ะนาย.
Ông nói: “Xin hãy đợi ở đây một chút,” rồi vội vã đi vào hỏi người phụ nữ trong nhà: “Nàng ơi, có phần cơm nào dành cho chúng ta không?” Người phụ nữ đáp: “Có, thưa ông.”

เขาไปจากที่นั้นรับบาตรจากมือพระปัจเจกพุทธเจ้ามากล่าวว่า นางผู้เจริญ เพราะค่าที่ไม่ได้ทำกัลยาณกรรมไว้ในชาติก่อน เราทั้ง ๒ จึงหวังได้อยู่แต่การรับจ้าง เมื่อความปรารถนาจะให้ของพวกเรามีอยู่ แต่ไทยธรรมไม่มี เมื่อไทยธรรมมีก็ไม่ได้ปฏิคาหก วันนี้เราพบพระอุปริฏฐปัจเจกพุทธเจ้าเข้าพอดี และภัตอันเป็นส่วนแบ่งก็มีอยู่ เจ้าจงใส่ภัตที่เป็นส่วนของฉันลงในบาตรนี้.
Ông ra ngoài và nhận bát từ tay Đức Phật Độc Giác, nói: “Nàng ơi, vì kiếp trước chúng ta không làm việc thiện nên kiếp này chỉ dựa vào việc làm thuê. Khi chúng ta muốn cúng dường thì không có đồ cúng, khi có đồ cúng thì không có người nhận. Hôm nay, chúng ta đã gặp được Đức Phật Độc Giác Uparittha và có phần cơm, nàng hãy đặt phần cơm của ta vào bát này.”

หญิงผู้ฉลาดคิดว่า เมื่อใดสามีของเราให้ภัตซึ่งเป็นส่วนแบ่ง เมื่อนั้นแม้เราก็พึงมีส่วนในทานนี้ จึงวางแม้ภัตอันเป็นส่วนของตนลงในบาตรถวายแก่อุปริฏฐปัจเจกพุทธเจ้า.
Người phụ nữ khôn ngoan nghĩ rằng: “Khi nào chồng ta cúng phần cơm của mình, thì ta cũng nên góp phần vào việc cúng này.” Vì thế, nàng cũng đặt phần cơm của mình vào bát để cúng dường cho Đức Phật Độc Giác Uparittha.

นายอันนภาระนำบาตรอันบรรจุภัตมาวางในมือของพระปัจเจกพุทธเจ้า แล้วกล่าวว่า ขอให้พวกข้าพเจ้าพ้นจากความอยู่อย่างลำบากเห็นปานนี้เถิดขอรับ.
Ông Annabhara mang bát đầy cơm đặt vào tay Đức Phật Độc Giác và nói: “Xin cho chúng con được thoát khỏi cuộc sống khó khăn như thế này.”

พระปัจเจกพุทธเจ้าอนุโมทนาว่า จงสำเร็จอย่างนั้นเถิด ผู้มีบุญมาก.
Đức Phật Độc Giác hoan hỷ và nói: “Hãy thành tựu như vậy nhé, hỡi người nhiều phước.”

เขาลาดผ้าห่มของตนลง ณ ที่ส่วนหนึ่งแล้วกล่าวว่า ขอจงนั่งฉันที่นี้เถิด ขอรับ.
Ông trải chiếc áo khoác của mình ra một chỗ và nói: “Xin hãy ngồi dùng bữa ở đây, thưa ngài.”

พระปัจเจกพุทธเจ้านั่ง ณ อาสนะนั้นแล้ว พิจารณาความเป็นของปฏิกูล ๙ อย่างแล้วจึงฉัน เมื่อฉันเสร็จแล้ว นายอันนภาระจึงถวายน้ำสำหรับล้างบาตร.
Đức Phật Độc Giác ngồi vào chỗ đó, quán tưởng về chín khía cạnh của sự bất tịnh, rồi mới dùng bữa. Khi dùng xong, ông Annabhara dâng nước để Ngài rửa bát.

พระปัจเจกพุทธเจ้าเสร็จภัตกิจแล้วกระทำอนุโมทนาว่า
Khi Đức Phật Độc Giác đã xong bữa, Ngài hoan hỷ và ban phúc rằng:

สิ่งที่ท่านต้องการแล้ว ปรารถนาแล้ว จงสำเร็จพลันเทียว
Điều mà ông mong muốn và ước nguyện sẽ sớm thành tựu.

ความดำริจงเต็มหมด เหมือนพระจันทร์เพ็ญ ๑๕ ค่ำฉะนั้น
Ước vọng sẽ tròn đầy như trăng rằm ngày 15.

สิ่งที่ท่านต้องการแล้ว ปรารถนาแล้ว จงสำเร็จพลันเทียว
Điều mà ông mong muốn và ước nguyện sẽ sớm thành tựu.

ความดำริจงเต็มหมด เหมือนมณีมีประกายโชติช่วง ฉะนั้น.
Ước vọng sẽ tròn đầy như viên ngọc sáng chói.

แล้วออกเดินทางไป.
Rồi Ngài tiếp tục lên đường.

เทวดาที่สิงอยู่ที่ฉัตรของสุมนเศรษฐีกล่าวว่า น่าอัศจรรย์ ทานที่ตั้งไว้ดีแล้วในพระปัจเจกพุทธเจ้านามว่าอุปริฏฐะ เป็นทานอย่างยิ่งถึง ๓ ครั้ง แล้วได้ให้สาธุการ
Thiên thần trú ở cây lọng của triệu phú Suman nói: “Thật kỳ diệu thay! Lễ cúng dường dành cho Đức Phật Độc Giác Uparittha là cúng dường tuyệt hảo ba lần,” rồi ngợi khen.

สุมนเศรษฐีกล่าวว่า ท่านไม่เห็นเราให้ทานอยู่ตลอดเวลามีประมาณเท่านี้ดอกหรือ.
Triệu phú Suman nói: “Ngài không thấy ta cúng dường suốt thời gian này hay sao?”

เทวดากล่าวว่า เราไม่ให้สาธุการในทานของท่าน เราเลื่อมใสในบิณฑบาตที่นายอันนภาระถวายแด่พระปัจเจกพุทธเจ้านามว่าอุปริฏฐะ จึงให้สาธุการ.
Thiên thần đáp: “Ta không ngợi khen lễ cúng của ông, mà kính trọng bữa ăn mà ông Annabhara đã dâng cho Đức Phật Độc Giác Uparittha, nên đã tán thán.”

สุมนเศรษฐีดำริว่า เรื่องนี้น่าอัศจรรย์หนอ เราให้ทานตลอดเวลามีประมาณเท่านี้ ก็ไม่อาจทำให้เทวดาให้สาธุการ นายอันนภาระนี้อาศัยเราอยู่ ด้วยการถวายบิณฑบาตครั้งเดียวเท่านั้นทำให้เทวดาให้สาธุการได้ เพราะได้บุคคลผู้เป็นปฏิคาหกที่สมควร
Triệu phú Suman suy nghĩ: “Thật là kỳ diệu! Ta đã cúng dường suốt thời gian dài như vậy mà không làm thiên thần ngợi khen. Annabhara, người nương nhờ ta, chỉ với một lần dâng bữa ăn mà đã khiến thiên thần tán thán, vì ông ấy có được người nhận cúng dường xứng đáng.”

เราให้สิ่งที่สมควรแก่นายอันนภาระนั้น แล้วทำบิณฑบาตนั้นให้เป็นของของเราจึงจะควร ดังนี้ เรียกนายอันนภาระมาแล้วถามว่า วันนี้เจ้าให้ทานอะไรๆ แก่ใครหรือ.
“Ta nên cho ông Annabhara điều xứng đáng và làm cho bữa cúng dường đó trở thành của ta.” Nói vậy, ông gọi Annabhara đến và hỏi: “Hôm nay ngươi đã dâng cúng gì và cho ai?”

ขอรับนายท่าน ข้าพเจ้าถวายภัตรที่เป็นส่วนของข้าพเจ้าแก่พระปัจเจกพุทธเจ้านามว่าอุปริฏฐะ
“Dạ thưa ông chủ, tôi đã dâng phần cơm của mình cho Đức Phật Độc Giác Uparittha.”

เศรษฐีกล่าวว่า เอาเถอะเจ้า เธอจงรับกหาปณะไปแล้วให้บิณฑบาตนั้นแก่เราเถอะ.
Triệu phú nói: “Được thôi, ngươi hãy nhận một đồng Kahapana và nhường lại bữa cúng đó cho ta.”

ให้ไม่ได้หรอก นายท่าน.
“Không được đâu, thưa ông chủ.”

เศรษฐีเพิ่มทรัพย์ขึ้นจนถึงพันกหาปณะ. นายอันนภาระก็ยังกล่าวว่า แม้ถึงพันกหาปณะก็ยังให้ไม่ได้.
Triệu phú tăng số tiền lên đến một nghìn Kahapana. Nhưng Annabhara vẫn nói: “Dù là một nghìn Kahapana, tôi cũng không thể nhượng lại.”

เศรษฐีกล่าวว่า ช่างเถอะเจ้า หากเจ้าไม่ให้บิณฑบาตก็จงรับทรัพย์พันกหาปณะไปแล้วจึงให้ส่วนบุญแก่ฉันเถอะ
Triệu phú nói: “Thôi được, nếu ngươi không nhượng bữa cúng, hãy nhận một nghìn Kahapana và chia phần phước cho ta.”

นายอันนภาระกล่าวว่า ข้าพเจ้าไม่ทราบว่าแม้ส่วนบุญนั้น ควรให้หรือไม่ควรให้ แต่ข้าพเจ้าจะถามพระปัจเจกพุทธเจ้านามว่าอุปริฏฐะดู ถ้าควรให้ก็จักให้ ถ้าไม่ควรให้ก็จักไม่ให้.
Annabhara nói: “Tôi không rõ rằng việc chia phần phước có nên hay không. Tôi sẽ hỏi Đức Phật Độc Giác Uparittha, nếu nên thì tôi sẽ cho, nếu không nên thì tôi sẽ không cho.”

นายอันนภาระเดินไปทันพระปัจเจกพุทธเจ้า ถามว่า ท่านเจ้าข้า สุมนเศรษฐีให้ทรัพย์แก่ข้าพเจ้าพันหนึ่ง ขอส่วนบุญในบิณฑบาตที่ถวายแก่ท่าน ข้าพเจ้าควรจะให้หรือไม่ให้.
Annabhara đi theo kịp Đức Phật Độc Giác và hỏi: “Thưa ngài, triệu phú Suman đã tặng con một nghìn đồng và xin chia phần phước trong bữa cúng dường của con. Con nên chia phần phước đó hay không?”

พระปัจเจกพุทธเจ้ากล่าวว่า บัณฑิต เราจักทำอุปมาแก่ท่าน เหมือนอย่างว่า ในบ้านตำบลนี้มีร้อยตระกูล เราจุดประทีปไว้ในเรือนหลังหนึ่งเท่านั้น ตระกูลพวกนี้เอาน้ำมันเติมให้ใส้ตะเกียงชุ่มแล้วมาต่อไฟถือไป แสงของประทีปดวงเดิมยังมีอยู่หรือหาไม่
Đức Phật Độc Giác nói: “Hỡi người trí tuệ, ta sẽ ví dụ cho ông nghe. Ví dụ, trong ngôi làng này có một trăm gia đình, chúng ta đốt một ngọn đèn trong một ngôi nhà duy nhất. Các gia đình này đến, đổ thêm dầu vào và châm lửa từ ngọn đèn đó. Ánh sáng của ngọn đèn ban đầu có giảm đi không?”

นายอันนภาระกล่าวว่า ท่านเจ้าข้า แสงประทีปก็สว่างขึ้นไปอีก เจ้าข้า.
Annabhara đáp: “Thưa ngài, ánh sáng của ngọn đèn lại sáng thêm nữa, thưa ngài.”

ข้อนี้อุปมาฉันใด ดูก่อนบัณฑิต ข้าวยาคูกระบวยหนึ่ง หรือข้าวสวยทัพพีหนึ่งจงยกไว้ เมื่อท่านให้ส่วนบุญแก่คนเหล่าอื่นในบิณฑบาตของตน พันคนหรือแสนคนก็ตาม ให้แก่คนเท่าใด บุญก็เพิ่มขึ้นแก่ตนมีประมาณเท่านั้น เมื่อท่านให้ก็ให้บิณฑบาตอันเดียวนั่นแหละ ต่อเมื่อให้ส่วนบุญแก่สุมนเศรษฐีอีกเล่า บิณฑบาตก็ขยายไปเป็น ๒ คือของท่านส่วนหนึ่ง ของเศรษฐีส่วนหนึ่ง ดังนี้
Cũng như vậy, hỡi người trí tuệ, dù là một muỗng cháo hay một vá cơm, khi ông chia phần phước từ bữa cúng của mình cho người khác, dù là một nghìn hay mười nghìn người, ông sẽ tăng thêm phần phước cho mình bấy nhiêu. Khi ông cho đi, vẫn chỉ là một bữa cúng. Khi ông chia phần phước cho triệu phú Suman, bữa cúng của ông sẽ nhân đôi, một phần thuộc về ông và một phần thuộc về triệu phú.”

นายอันนภาระกราบพระปัจเจกพุทธเจ้าแล้วกลับไปยังสำนักของสุมนเศรษฐีกล่าวว่า ขอท่านจงรับส่วนบุญในบิณฑบาตทานเถิด นายท่าน.
Annabhara đảnh lễ Đức Phật Độc Giác rồi quay lại chỗ của triệu phú Suman và nói: “Thưa ông, xin hãy nhận phần phước từ bữa cúng dường này.”

เศรษฐีกล่าวว่า เชิญท่านรับทรัพย์พันกหาปณะไปเถิด.
Triệu phú nói: “Xin mời ngài nhận một nghìn Kahapana.”

นายอันนภาระกล่าวว่า ข้าพเจ้าไม่ได้ขายบิณฑบาตทาน แต่ข้าพเจ้าให้ส่วนบุญแก่ท่านด้วยศรัทธา.
Annabhara nói: “Tôi không bán phần cúng dường này, mà tôi chia phần phước cho ông với lòng thành kính.”

เศรษฐีกล่าวว่า พ่ออันนภาระ พ่อให้ส่วนบุญแก่เราด้วยศรัทธา แต่เราบูชาคุณของพ่อ ฉันให้พันกหาปณะนี้ จงรับไปเถอะพ่ออันนภาระ.
Triệu phú nói: “Annabhara ơi, con đã chia phần phước cho ta với lòng thành, nhưng ta kính trọng đức hạnh của con. Hãy nhận một nghìn Kahapana này, con Annabhara.”

นายอันนภาระกล่าวว่า จงเป็นอย่างนั้น จึงถือเอาทรัพย์พันกหาปณะไป.
Annabhara nói: “Xin cứ như vậy,” rồi nhận lấy số tiền một nghìn Kahapana.

เศรษฐีกล่าวว่า พ่ออันนภาระตั้งแต่พ่อได้ทรัพย์พันกหาปณะแล้ว ไม่ต้องทำกิจเกี่ยวแก่กรรมกรด้วยมือของตน จงปลูกเรือนอยู่ใกล้ถนนเถิด ถ้าพ่อต้องการสิ่งใด ฉันจะมอบสิ่งนั้นให้ พ่อจงมานำเอาไปเถอะ.
Triệu phú nói: “Annabhara ơi, kể từ khi con có một nghìn Kahapana, con không cần làm việc tay chân nữa. Hãy xây nhà gần đường lớn và nếu cần gì, cứ đến lấy từ ta.”

ธรรมดาบิณฑบาตที่บุคคลถวายแด่พระปัจเจกพุทธเจ้าผู้ออกจากนิโรธสมาบัติ ย่อมให้ผลในวันนั้นนั่นเอง เพราะฉะนั้น สุมนเศรษฐีในวันอื่นแม้ไปสู่ราชตระกูล ไม่เคยชวนนายอันนภาระไปด้วย แต่ในวันนั้นได้ชวนไปด้วย เพราะอาศัยบุญของนายอันนภาระ พระราชาไม่มองดูเศรษฐีเลย ทรงมองแต่นายอันนภาระเท่านั้น.
Thông thường, bữa ăn cúng dường cho Đức Phật Độc Giác vừa xuất định nirodha sẽ mang lại phước báo ngay trong ngày hôm đó. Vì vậy, dù những ngày khác triệu phú Suman đến hoàng cung mà không bao giờ mời Annabhara đi cùng, nhưng hôm đó ông đã mời. Nhờ vào phước của Annabhara, nhà vua không nhìn triệu phú mà chỉ chú ý đến Annabhara.

เศรษฐีจึงทูลถามว่า เทวะ ข้าแต่สมมติเทพ เหตุไฉนพระองค์จึงทรงมองดูแต่บุรุษผู้นี้ยิ่งนักพระเจ้าข้า.
Triệu phú hỏi: “Thưa đại vương, lý do gì mà hôm nay ngài chỉ nhìn người này như vậy?”

พระราชาตรัสว่า เรามองดูเพราะไม่เคยเฝ้าในวันอื่นๆ.
Nhà vua đáp: “Ta nhìn ông ấy vì những ngày khác không thấy ông đến.”

เศรษฐีทูลว่า เทวะ เขาสมควรมองดูอย่างไร คุณที่ควรมองดูของเขาคืออะไร เพราะวันนี้เขาไม่บริโภคภัตรที่เป็นส่วนของตนด้วยตนเอง แต่ถวายแด่พระปัจเจกพุทธเจ้านามว่าอุปริฏฐะ เขาได้ทรัพย์พันกหาปณะจากมือของข้าพระองค์ พระเจ้าข้า.
Triệu phú nói: “Thưa đại vương, đức hạnh gì của ông ấy đáng để ngài chú ý? Hôm nay ông ấy không dùng phần cơm của mình mà đã dâng cho Đức Phật Độc Giác Uparittha, và nhận một nghìn Kahapana từ tôi.”

พระราชาตรัสถามว่า เขาชื่อไร. ชื่อนายอันนภาระพระเจ้าข้า.
Nhà vua hỏi: “Ông ấy tên gì?” – “Tên là Annabhara, thưa đại vương.”

เพราะได้จากมือของท่าน ก็ควรจะได้จากมือของเราบ้าง เราเองก็จักทำการบูชาเขา จึงพระราชทานทรัพย์พันกหาปณะแล้วตรัสว่า พนาย จงสำรวจดูเรือนที่คนนี้จะอยู่ได้.
“Vì ông ấy đã nhận từ tay ngươi, thì nên nhận từ tay ta nữa.” Nhà vua cũng muốn tôn kính ông ấy, bèn ban một nghìn Kahapana và nói: “Quan hầu, hãy kiểm tra để sắp xếp nơi ở cho người này.”

ราชบุรุษทูลว่า พระเจ้าข้า.
Quan hầu thưa: “Thưa bệ hạ.”

ราชบุรุษทั้งหลายจัดแจงแผ้วถางที่สำหรับเรือนนั้นได้พบขุมทรัพย์ชื่อปิงคละ ในที่ๆ จอบกระทบแล้วๆ ตั้งเรียงกัน จึงมากราบทูลพระราชาให้ทรงทราบ.
Các quan hầu đã dọn dẹp khu đất xây nhà và phát hiện một kho báu tên Pingkala, ở nơi mà cuốc vừa chạm tới, xếp thành hàng. Họ liền tâu lên nhà vua.

พระราชาตรัสว่า ถ้าอย่างนั้นจงไปขุดขึ้นมา.
Nhà vua phán: “Nếu vậy, hãy đi đào nó lên.”

เมื่อราชบุรุษเหล่านั้นขุดอยู่ ขุมทรัพย์ก็จมลงไป ราชบุรุษเหล่านั้นไปกราบทูลพระราชาอีก.
Khi các quan hầu đang đào, kho báu lại chìm xuống. Họ quay về tâu lên nhà vua một lần nữa.

พระราชาตรัสว่า จงไปขุดตามคำของนายอันนภาระ.
Nhà vua phán: “Hãy đi đào theo lời của Annabhara.”

ราชบุรุษก็ไปขุดตามคำสั่ง ขุมทรัพย์เหมือนดอกเห็ดตูมๆ ผุดขึ้นในที่ๆ จอบกระทบแล้ว ราชบุรุษเหล่านั้นขนทรัพย์มากองไว้ในพระราชสำนัก.
Các quan hầu làm theo lời chỉ dẫn, kho báu trồi lên giống như nấm mọc tại nơi cuốc chạm vào. Họ liền mang kho báu về hoàng cung.

พระราชาประชุมอำมาตย์ทั้งหลายแล้วตรัสถามว่า ในเมืองนี้ ใครมีทรัพย์มีประมาณถึงเท่านี้ไหม.
Nhà vua triệu tập các quan lại và hỏi: “Trong thành này có ai có tài sản lớn đến mức này không?”

อำมาตย์ทูลว่า ไม่มีของใคร พระเจ้าข้า.
Các quan đáp: “Không ai có được, thưa bệ hạ.”

ตรัสว่า ถ้าอย่างนั้น นายอันนภาระนี้จงชื่อว่า ธนเศรษฐี ในพระนครนี้.
Nhà vua phán: “Nếu vậy, Annabhara này sẽ được gọi là Đại Triệu Phú của thành này.”

เขาได้ฉัตรประจำตำแหน่งเศรษฐีในวันนั้นนั่นเอง.
Ông ấy đã nhận được cây lọng dành cho vị trí triệu phú ngay trong ngày đó.

ตั้งแต่วันนั้น เขากระทำแต่กรรมอันดีงามจนตลอดชีวิต จุติจากภพนั้นไปเกิดในเทวโลก เวียนว่ายอยู่ในเทวดาและมนุษย์เป็นเวลานาน.
Kể từ ngày đó, ông chỉ tạo ra những nghiệp lành suốt cuộc đời, và sau khi rời cõi này, ông sinh lên cõi trời, luân hồi giữa các cõi trời và loài người trong một thời gian dài.

ครั้งที่พระศาสดาของพวกเราทรงอุบัติ ก็มาถือปฏิสนธิในนิเวศน์เจ้าศากยะพระนามว่าอมิโตทนะ กรุงกบิลพัสดุ์.
Khi Đức Phật của chúng ta xuất hiện, ông tái sinh vào gia tộc Shakya, dưới sự bảo trợ của vua Amitodana tại thành Kapilavastu.

ในวันขนานนาม ผู้คนทั้งหลายตั้งชื่อเขาว่า เจ้าอนุรุทธ เป็นกนิษฐภาคาของเจ้าศากยะพระนามว่ามหานามะ.
Vào ngày đặt tên, mọi người gọi ông là Anuruddha, là em trai của Đại vương Shakya tên Mahanama.

เป็นโอรสของพระเจ้าอาของพระศาสดา เป็นสุขุมาลชาติอย่างยิ่ง เป็นผู้มีบุญมาก ภัตรเกิดขึ้นในถาดทองแก่เขาทีเดียว.
Ông là con trai của chú Đức Phật, xuất thân từ dòng dõi quý tộc, vô cùng phước báu, đến mức cơm luôn hiện lên trong đĩa vàng.

ภายหลังพระมารดาของเขาคิดว่าจักให้ลูกของเรารู้จักบทว่า “ไม่มี” เอาถาดทองปิดถาดทองอีกใบหนึ่ง แล้วส่งใบแต่ถาดเปล่าๆ ในระหว่างทาง เทวดาทำให้เต็มด้วยขนมทิพย์.
Sau này, mẹ của ông muốn cho con trai mình hiểu khái niệm “không có,” bèn đặt một đĩa trống đậy lên một đĩa vàng khác và đưa cho ông. Trên đường đi, các thiên thần đã làm cho đĩa đó đầy bánh ngọt thần thánh.

เขามีบุญมากถึงเพียงนี้ อันเหล่านางฟ้อนที่ประดับตกแต่งแล้วแวดล้อมเสวยสมบัติบนปราสาท ๓ หลังเหมาะแก่ฤดูทั้ง ๓ เหมือนเทวดา.
Ông có phước báu đến mức này, được bao quanh bởi những vũ nữ trang sức lộng lẫy và tận hưởng tài sản trong ba tòa lâu đài, phù hợp với ba mùa như một vị thần.

ส่วนพระโพธิสัตว์ของเราจุติจากดุสิตในสมัยนั้น มาถือปฏิสนธิในครรภ์ของอัครมเหสีของพระเจ้าสุทโธทนมหาราช ทรงเจริญวัยโดยลำดับ ทรงครองเรือนอยู่ ๒๙ ปี แล้วทรงเสด็จออกมหาภิเนษกรมณ์ ทรงแทงตลอดพระสัพพัญญุตญาณโดยลำดับ ทรงยับยั้งที่โพธิมัณฑสถาน ๗ สัปดาห์ ประกาศพระธรรมจักร ณ ป่าอิสิปตนมิคทายวัน ทรงกระทำการอนุเคราะห์โลก
Đức Bồ-tát của chúng ta, khi ấy đã rời cõi Tusita, thọ thai trong bụng của hoàng hậu vua Suddhodana. Ngài dần trưởng thành, sống tại gia 29 năm, rồi xuất gia và chứng đắc toàn trí tuệ (Sabbannutañana) theo trình tự. Ngài lưu lại tại Bồ-đề Đạo tràng suốt 7 tuần, rồi chuyển Pháp luân tại Lộc Uyển (Isipatana Migadaya), thực hiện việc giúp đỡ thế gian.

ทรงให้อำมาตย์ ๑๐ คนพร้อมทั้งบริวารคนละพันที่พระราชบิดาทรงสดับข่าวว่า บุตรของเรามายังกรุงราชคฤห์แล้วตรัสว่า ไปเถิดพนาย พวกเจ้าจงนำบุตรของเรามาดังนี้ ให้บวชด้วยเอหิภิกขุบรรพชาแล้ว อันพระกาฬุทายีเถระทูลวิงวอนให้เสด็จจาริกจึงมีภิกษุแสนรูปเป็นบริวาร เสด็จออกจากรุงราชคฤห์ไปยังกรุงกบิลพัสดุ์ ทรงทำพระธรรมเทศนาอันวิจิตรมีปาฏิหาริย์ด้วยอิทธิปาฏิหาริย์เป็นอันมากในสมาคมแห่งพระญาติ ยังมหาชนให้ดื่มน้ำอมฤตแล้ว.
Ngài gửi 10 vị đại thần cùng mỗi người có 1.000 tùy tùng đến thành Rajagaha theo lệnh của vua cha khi nghe tin rằng con trai mình đã đến. Ngài ban lệnh xuất gia cho họ bằng lễ Ehihbhikkhu (lễ xuất gia). Khi tôn giả Kaludayi thỉnh nguyện, Ngài cùng với 100.000 vị Tỳ-khưu làm tùy tùng rời thành Rajagaha và đến Kapilavatthu, thuyết giảng giáo pháp với nhiều phép lạ trong hội chúng hoàng gia, khiến đại chúng thấm nhuần nước cam lồ.

ครั้นวันที่ ๒ ทรงถือบาตรและจีวรไปประทับยืนที่ทวารพระนคร ทรงรำพึงว่า พระสัพพัญญูพุทธเจ้าทั้งหลายทรงประพฤติการเสด็จกลับยังพระนครแห่งสกุลอย่างไรหนอ ดังนี้ ทราบว่า ทรงประพฤติเที่ยวบิณฑบาตตามลำดับตรอก จึงทรงเสด็จเพื่อบิณฑบาตตามลำดับตรอก ทรงตรัสธรรมถวายพระราชาผู้ทรงสดับข่าวว่า บุตรของเราเที่ยวบิณฑบาตเสด็จมาแล้ว ผู้มีสักการะสัมมานะที่พระราชบิดาทูลเชิญให้เสด็จมาแล้ว ทูลเชิญให้เสด็จเข้านิเวศน์ของพระองค์ ทรงกระทำแล้ว ทรงอนุเคราะห์พระญาติที่พึงทรงกระทำในที่นั้น ทรงกระทำแล้ว ทรงอนุเคราะห์พระญาติที่พึงทรงกระทำในที่นั้นแล้วให้ราหุลกุมารบรรพชาแล้ว ไม่นานนักก็เสด็จจากกรุงกบิลพัสดุ์ไปจาริกในมัลลรัฐแล้วเสด็จกลับมายังอนุปิยอัมพวัน
Ngày thứ hai, Ngài cầm bát và y, đứng tại cổng thành, suy nghĩ xem các vị Phật toàn giác thường vào lại thành của gia tộc như thế nào. Nhận thấy rằng họ đi khất thực theo từng con đường, Ngài cũng theo thứ tự mà đi khất thực. Khi vua cha nghe tin rằng con trai mình đi khất thực, vua liền mời Ngài vào cung điện và Ngài đã thuyết pháp, khiến họ hàng ngộ ra chân lý. Sau đó, Ngài làm lễ xuất gia cho hoàng tử Rahula. Không lâu sau, Ngài rời thành Kapilavatthu, đi hành đạo ở xứ Malla và trở về khu rừng Anupiya.

สมัยนั้น พระเจ้าสุทโธทนมหาราชทรงประชุมศากยะสกุลทั้งหลายตรัสว่า ถ้าบุตรของเราจักครองเรือน จักเป็นพระเจ้าจักรพรรดิ์ประกอบด้วยรัตนะ ๗ แม้ราหุลกุมารนัดดาของเราจักแวดล้อมพระเจ้าจักรพรรดิ์นั้นเที่ยวไปกับหมู่กษัตริย์.
Lúc đó, vua Suddhodana triệu tập gia tộc Shakya và nói: “Nếu con trai ta sống tại gia, sẽ trở thành một vị Chuyển Luân Thánh Vương sở hữu bảy báu. Ngay cả cháu trai ta là hoàng tử Rahula sẽ theo sau ngài ấy và hội tụ cùng với các vị vua khác.”

อนึ่ง ขอให้พวกท่านทั้งหลายจงทราบความข้อนี้ไว้เถิดว่าแต่บัดนี้ บุตรของเราทรงเป็นพระพุทธเจ้าแล้ว ขัตติยกุมารจงเป็นบริวารของพระองค์เถิด พวกท่านจงให้ทารกคนหนึ่งจากตระกูลหนึ่งๆ.
Hơn nữa, các vị nên biết rằng từ giờ con trai ta đã là Đức Phật. Hãy để các hoàng tử làm tùy tùng của Ngài, mỗi gia đình hãy cho một con trai tham gia đoàn tùy tùng này.”

ครั้นพระเจ้าสุทโธทนะตรัสอย่างนี้แล้ว ขัตติยกุมารถึงพันองค์จึงออกผนวชโดยพระดำรัสครั้งเดียวเท่านั้น.
Khi vua Suddhodana nói như vậy, một nghìn hoàng tử thuộc dòng dõi Kshatriya đã xuất gia theo chỉ dụ duy nhất của Ngài.

สมัยนั้น เจ้ามหานามเป็นเจ้าแห่งกุฏุมพี จึงเข้าไปหาเจ้าศากยะพระนามว่าอนุรุทธะ ได้กล่าวคำนี้ว่า พ่ออนุรุทธะ บัดนี้ ศากยะกุมารที่มีชื่อเสียงออกผนวชตามพระผู้มีพระภาคเจ้าผู้ทรงผนวชแล้ว ไม่มีใครๆ ออกผนวชจากสกุลของเราเลย ถ้ากระนั้นเจ้าจงบวช หรือว่าพี่จักบวช
Lúc đó, Đại vương Mahanama là người đứng đầu trong các thương gia, đến gặp hoàng tử Anuruddha của dòng họ Shakya và nói: “Con ơi, Anuruddha, bây giờ các hoàng tử Shakya danh tiếng đã xuất gia theo Đức Phật, nhưng chưa có ai trong dòng họ chúng ta xuất gia. Vậy con hãy xuất gia, hoặc anh sẽ xuất gia.”

เจ้าอนุรุทธได้ฟังดำรัสของเจ้าพี่แล้วไม่ยินดีในการครองเรือน ได้ออกผนวชเป็นพระองค์ที่ ๗
Khi hoàng tử Anuruddha nghe lời của anh mình, Ngài không còn hứng thú với cuộc sống gia đình và trở thành vị thứ bảy xuất gia.

ลำดับแห่งการผนวชของเจ้าอนุรุทธนั้นมาแล้วในคัมภีร์สังฆเภทขันธกะ.
Trình tự xuất gia của hoàng tử Anuruddha được ghi chép trong kinh điển Sanghabhedakhandhaka.

เจ้าอนุรุทธเสด็จไปยังอนุปิยอัมพวัน บวชแล้วด้วยประการฉะนี้
Hoàng tử Anuruddha đã đến khu rừng xoài Anupiya và xuất gia như vậy.

บรรดาเจ้าศากยะกุมารเหล่านั้น พระภัททิยเถระบรรลุพระอรหัตภายในพรรษานั่นเอง พระอนุรุทธเถระทำทิพยจักขุให้บังเกิด พระเทวทัตทำสมาบัติ ๘ ให้บังเกิด พระอานนทเถระตั้งอยู่ในโสดาปัตติผล พระภัคคุเถระและพระกิมภิละเถระได้บรรลุอรหัตในภายหลัง.
Trong số các hoàng tử Shakya đã xuất gia, tôn giả Bhaddiya chứng đắc quả A-la-hán trong mùa an cư, tôn giả Anuruddha phát triển thiên nhãn, tôn giả Devadatta đạt được tám thiền định, tôn giả Ananda đạt quả Dự Lưu, và các tôn giả Bhagu và Kimphila chứng đắc A-la-hán sau đó.

ก็อภินิหารแห่งความปรารถนา แต่ปางก่อนของพระเถระทุกรูปนั้น จักมาถึงในเรื่องของแต่ละคน.
Các phép thần thông và nguyện vọng từ kiếp trước của từng vị tôn giả sẽ được kể chi tiết trong từng câu chuyện của họ.

ก็พระอนุรุทธเถระนี้เรียนกรรมฐานในสำนักของพระธรรมเสนาบดี แล้วไปบำเพ็ญสมณธรรม ที่ปาจีนวังสทายวัน แคว้นเจติยะ ก็ตรึกแล้วถึงมหาปริวิตก ๗ ประการ ลำบากในวิตกที่ ๘.
Tôn giả Anuruddha đã học thiền quán dưới sự hướng dẫn của tôn giả Sariputta, rồi đến khu rừng xoài ở xứ Cetiya để hành đạo. Ngài đã quán chiếu đến bảy suy tư cao thượng, nhưng gặp khó khăn ở suy tư thứ tám.

พระศาสดาทรงทราบว่าพระอนุรุทธลำบากในมหาปุริสวิตกที่ ๘ ทรงพระดำริว่า เราจักทำความดำริของเธอให้เต็มจึงเสด็จไปในที่นั้น ประทับนั่งบนพุทธอาสน์อันประเสริฐที่เขาปูลาดไว้ ทรงทำมหาปุริสวิตกที่ ๘ ให้เต็มแล้วตรัสมหาอริยวงสปฏิปทา ประดับไปด้วยความสันโดษด้วยปัจจัย ๔ และมีภาวนาเป็นที่มายินดีแล้ว เสด็จเหาะไปถึงเภสกฬาวันเทียว
Đức Phật biết rằng tôn giả Anuruddha đang gặp khó khăn với suy tư cao thượng thứ tám. Ngài nghĩ: “Ta sẽ giúp suy tư của ông ấy được viên mãn,” và Ngài liền đến nơi đó, ngồi trên pháp tòa cao quý được trải sẵn. Đức Phật hoàn thiện suy tư cao thượng thứ tám cho tôn giả, rồi giảng dạy về đại pháp của các bậc thánh, nhấn mạnh sự đơn giản với bốn yếu tố và thiền định đáng quý. Sau đó, Ngài bay đến rừng Pesakala.

พอพระตถาคตเสด็จไปแล้วเท่านั้น พระเถระมีวิชา ๓ เป็นพระมหาขีณาสพใหญ่ คิดว่า พระศาสดารู้ใจของเรา เสด็จมาประทานมหาปุริสวิตกที่ ๘ ให้เต็ม. อนึ่ง มโนรถของเรานั้นถึงที่สุดแล้ว ปรารภธรรมเทศนาอันไพเราะของพระพุทธเจ้าทั้งหลาย และธรรมที่ตนแทงตลอดแล้ว
Ngay khi Đức Phật rời đi, tôn giả đã thành tựu ba minh và trở thành một bậc thánh giải thoát vĩ đại. Ngài suy nghĩ: “Đức Thế Tôn đã biết tâm nguyện của ta và đến để hoàn thiện suy tư cao thượng thứ tám.” Nguyện vọng của tôn giả đã viên mãn, Ngài hoan hỷ với những pháp thoại sâu sắc của các vị Phật và những giáo pháp mà Ngài đã thấu triệt.

ได้ภาษิตอุทานคาถาเหล่านี้ว่า
Ngài đã nói những câu kệ cảm thán này rằng:

พระศาสดาผู้ยอดเยี่ยมในโลก ทรงทราบความดำริของเราแล้ว
Đức Thế Tôn, bậc tuyệt vời nhất trong thế gian, đã hiểu rõ tâm nguyện của ta.

เสด็จมาหาเราด้วยมโนมยิทธิทางกาย เมื่อใดความดำริได้มีแก่เรา
Ngài đã đến gặp ta qua năng lực thần thông, khi nào ta có một suy tư cao thượng.

เมื่อนั้นพระพุทธเจ้าทรงแสดงธรรมให้สูงขึ้น พระพุทธเจ้าผู้ทรง
Khi đó, Đức Phật đã giảng dạy pháp để nâng cao trí tuệ của ta, Ngài là bậc

ยินดีในธรรมเครื่องไม่เนิ่นช้า ได้ทรงแสดงธรรมเครื่องไม่เนิ่นช้า
luôn hoan hỷ trong những giáo pháp dẫn đến giải thoát nhanh chóng, Ngài đã giảng dạy pháp không trì hoãn.

เรารู้ทั่วถึงธรรมของพระองค์แล้ว เป็นผู้ยินดีในพระศาสนาอยู่
Ta đã thấu hiểu trọn vẹn giáo pháp của Ngài, luôn hoan hỷ trong giáo pháp ấy.

วิชชา ๓ เราก็บรรลุโดยลำดับแล้ว คำสั่งสอนของพระพุทธเจ้า
Ta đã chứng đắc ba minh theo thứ tự, giáo pháp của Đức Phật

เราก็ทำเสร็จแล้ว ดังนี้.
ta đã thực hành trọn vẹn như vậy.

ต่อมาภายหลัง พระศาสดาประทับอยู่ ณ พระเชตวันมหาวิหาร ทรงสถาปนาท่านไว้ในตำแหน่งเอตทัคคะว่า อนุรุทธะเป็นยอดของเหล่าภิกษุสาวกผู้มีทิพยจักขุในศาสนาของเรา.
Sau này, khi Đức Phật ngự tại tịnh xá Kỳ Viên, Ngài đã phong tôn giả Anuruddha làm vị đứng đầu trong số các Tỳ-khưu có thiên nhãn trong giáo pháp của Ngài.

จบอรรถกถาสูตรที่ ๕
Kết thúc chú giải bài kinh số 5.

Hộp bình luận Facebook

Soṇa Thiện Kim

Panha.org là trang web chuyên sâu về Pháp học của Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Tông), nơi cung cấp kiến thức và tài liệu quý báu về kinh điển, giáo lý, và triết học Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Tông). Tại đây, bạn có thể tìm hiểu về các giáo pháp truyền thống, kinh nghiệm tu tập, và những bài giảng từ các vị tôn sư hàng đầu trong cộng đồng Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Tông). Với mục tiêu giúp người học hiểu sâu hơn về con đường giác ngộ và sự giải thoát, Panha.org mang đến nguồn tài nguyên phong phú, chính xác và cập nhật để hỗ trợ hành giả trên hành trình tu tập Pháp học.

Bài viết liên quan

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.

0 Góp ý
Được bỏ phiếu nhiều nhất
Mới nhất Cũ nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Back to top button