Chú giải Tăng Chi Bộ Kinh

Chú giải Thái kinh Tăng Chi Bộ I – Chương 1 – 14.4. Phẩm Người Tối Thắng

อรรถกถา อังคุตตรนิกาย เอกนิบาต เอตทัคคบาลี
Giải thích Kinh Tăng Chi Bộ, Chương Một, Phẩm Đệ Nhất.

วรรคที่ ๑
Phần thứ nhất.

หน้าต่างที่ ๔ / ๑๐.
Cửa sổ thứ 4 trên 10.

อรรถกถาสูตรที่ ๔

Giải thích Kinh thứ 4.

ประวัติพระมหากัสสปเถระ

Lịch sử của Đại Trưởng lão Mahakassapa.

ในสูตรที่ ๔ พึงทราบวินิจฉัยดังต่อไปนี้ :-

Trong kinh thứ 4, cần biết các giải thích như sau:

ในบทว่า ธุตวาทานํ นี้ พึงทราบธุตบุคคล (บุคคลผู้กำจัดกิเลส) ธุตวาทะ (การสอนเรื่องการกำจัดกิเลส) ธุตธรรม (ธรรมเครื่องกำจัดกิเลส) ธุดงค์ (องค์ของผู้กำจัดกิเลส).
Trong câu “Dhutavadanaṃ,” cần biết về Dhutapuggala (người loại bỏ phiền não), Dhutavada (giáo pháp loại bỏ phiền não), Dhutadhamma (pháp loại bỏ phiền não), và Dhutanga (phương thức của người loại bỏ phiền não).

บรรดาบทเหล่านั้น บทว่า ธุโต ได้แก่ บุคคลผู้กำจัดกิเลสหรือธรรมอันกำจัดกิเลส.
Trong các từ này, từ “Dhuta” chỉ người loại bỏ phiền não hoặc pháp loại bỏ phiền não.

ก็ในบทว่า ธุตวาโท นี้ (พึงทราบว่า)
Trong câu “Dhutavado” này (cần hiểu rằng)

มีบุคคลผู้กำจัดกิเลส ไม่มีการสอนเรื่องกำจัดกิเลส ๑

Có người loại bỏ phiền não mà không giảng dạy về việc loại bỏ phiền não.

มีบุคคลผู้ไม่กำจัดกิเลสแต่มีการสอนเรื่องกำจัดกิเลส ๑

Có người không loại bỏ phiền não nhưng giảng dạy về việc loại bỏ phiền não.

มีบุคคลผู้ไม่กำจัดกิเลส ทั้งไม่มีการสอนเรื่องกำจัดกิเลส ๑

Có người không loại bỏ phiền não và không giảng dạy về việc loại bỏ phiền não.

มีบุคคลผู้ทั้งกำจัดกิเลสและมีการสอนเรื่องกำจัดกิเลส ๑.

Có người vừa loại bỏ phiền não vừa giảng dạy về việc loại bỏ phiền não.

ในบรรดาบุคคลเหล่านั้น บุคคลใดกำจัดกิเลสของตนด้วยธุดงค์ แต่ไม่โอวาท ไม่อนุศาสน์คนอื่นด้วยธุดงค์เหมือนพระพักกุลเถระ บุคคลนี้ชื่อว่าผู้กำจัดกิเลสแต่ไม่มีการสอนเรื่องกำจัดกิเลส เหมือนดังท่านกล่าวว่า คือท่านพระพักกุละเป็นผู้กำจัดกิเลส แต่ไม่มีการสอนเรื่องกำจัดกิเลส.
Trong số những người đó, người nào loại bỏ phiền não của mình bằng phương thức tu khổ hạnh nhưng không khuyên dạy hoặc hướng dẫn người khác về phương thức này, giống như ngài Trưởng lão Pakkula, thì người đó được gọi là người loại bỏ phiền não nhưng không giảng dạy về việc loại bỏ phiền não, như đã được nói về ngài Pakkula, người loại bỏ phiền não nhưng không có giáo pháp giảng dạy về việc loại bỏ phiền não.

ก็บุคคลใดไม่กำจัดกิเลสของตนด้วยธุดงค์ แต่โอวาทอนุศาสน์ คนอื่นด้วยธุดงค์อย่างเดียว เหมือนพระอุปนันทเถระ ก็บุคคลนี้ชื่อว่าไม่เป็นผู้กำจัดกิเลส แต่มีการสอนเรื่องกำจัดกิเลส เหมือนดังท่านกล่าวว่า คือท่านพระอุปนันทะศากยบุตร ไม่เป็นผู้กำจัดกิเลส แต่มีการสอนเรื่องกำจัดกิเลส.
Nếu một người không loại bỏ phiền não của mình bằng phương thức tu khổ hạnh nhưng lại khuyên dạy người khác bằng phương thức này, giống như ngài Trưởng lão Upananda, thì người đó được gọi là không loại bỏ phiền não nhưng có giảng dạy về việc loại bỏ phiền não, như đã được nói về ngài Upananda Sakyan, người không loại bỏ phiền não nhưng có giáo pháp giảng dạy về việc loại bỏ phiền não.

ก็บุคคลใดไม่กำจัดกิเลสของตนด้วยธุดงค์ ไม่โอวาท ไม่อนุศาสน์คนอื่นด้วยธุดงค์ เหมือนพระโลลุทายีเถระ ก็บุคคลนี้ชื่อว่าไม่เป็นผู้กำจัดกิเลส (และ) ไม่มีการสอนเรื่องกำจัดกิเลส เหมือนดังท่านกล่าวว่า คือท่านพระมหาโลลุทายีไม่เป็นผู้กำจัดกิเลส ไม่มีการสอนเรื่องกำจัดกิเลส.
Nếu một người không loại bỏ phiền não của mình bằng phương thức tu khổ hạnh và cũng không khuyên dạy hoặc hướng dẫn người khác về phương thức này, giống như ngài Trưởng lão Loludayi, thì người đó được gọi là không loại bỏ phiền não và không có giảng dạy về việc loại bỏ phiền não, như đã được nói về ngài Mahā Loludayi, người không loại bỏ phiền não và không có giảng dạy về việc loại bỏ phiền não.

ส่วนบุคคลใดสมบูรณ์ด้วยการกำจัดกิเลสและมีการสอนเรื่องกำจัดกิเลส เหมือนพระมหากัสสปเถระ บุคคลนี้ชื่อว่าเป็นผู้กำจัดกิเลสและมีการสอนเรื่องกำจัดกิเลสเหมือนดังท่านกล่าวว่า คือ ท่านพระมหากัสสปะเป็นผู้กำจัดกิเลสและมีการสอนเรื่องกำจัดกิเลส ดังนี้.
Người nào hoàn thiện trong việc loại bỏ phiền não và có giảng dạy về việc loại bỏ phiền não, giống như ngài Trưởng lão Mahākassapa, thì người đó được gọi là người loại bỏ phiền não và có giảng dạy về việc loại bỏ phiền não, như đã được nói về ngài Mahākassapa, người loại bỏ phiền não và có giáo pháp giảng dạy về việc loại bỏ phiền não.

บทว่า ธุตธมฺมา เวทิตพฺพา ความว่า ธรรม ๕ ประการอันเป็นบริวารของธุดงคเจตนาเหล่านี้ คือ ความเป็นผู้มักน้อย ๑ ความเป็นผู้สันโดษ ๑ ความเป็นผู้ขัดเกลา ๑ ความเป็นผู้สงัด ๑ ความเป็นผู้มีสิ่งนี้ ๑.
Cụm từ “Dhutadhammā” có nghĩa là năm pháp đi cùng với tâm tu khổ hạnh, bao gồm: tính khiêm tốn, tính biết đủ, tính thuần khiết, tính tĩnh lặng, và tính có được sự này.

ชื่อว่าธรรมเครื่องกำจัดกิเลส เพราะพระบาลีว่า อปฺปิจฺฉํเยว นิสฺสาย (อาศัยความมักน้อยเท่านั้น) ดังนี้เป็นต้น.
Được gọi là pháp loại bỏ phiền não bởi vì trong Kinh văn có câu: “Apicchaṃyeva Nissaya” (chỉ dựa vào tính khiêm tốn).

ในธรรม ๕ ประการนั้น ความมักน้อยและความสันโดษเป็นอโลภะ. ความขัดเกลาและความวิเวกจัดเข้าในธรรม ๒ ประการ คืออโลภะและอโมหะ. ความเป็นผู้มีสิ่งนี้คือญาณนั่นเอง.
Trong năm pháp đó, tính khiêm tốn và biết đủ là những đặc tính không tham lam. Tính thuần khiết và tĩnh lặng thuộc về hai pháp không tham và không si mê. Còn tính có được sự này chính là trí tuệ.

บรรดาอโลภะและอโมหะเหล่านั้น กำจัดความโลภในวัตถุที่ต้องห้ามด้วยอโลภะ กำจัดโมหะอันปกปิดโทษในวัตถุที่ต้องห้ามเหล่านั้นแหละด้วยอโมหะ.
Trong số những đặc tính không tham lam và không si mê đó, loại bỏ tham lam trong các vật phẩm bị cấm bằng cách không tham lam; loại bỏ si mê che đậy những tội lỗi trong các vật phẩm bị cấm đó bằng cách không si mê.

อนึ่ง กำจัดกามสุขัลลิกานุโยคอันเป็นไปโดยมุข คือการซ่องเสพสิ่งที่ทรงอนุญาต ด้วยอโลภะ กำจัดอัตตกิลมถานุโยคอันเป็นไปโดยมุข คือการขัดเกลายิ่งในธุดงค์ทั้งหลาย ด้วยอโมหะ เพราะฉะนั้น ธรรมเหล่านี้พึงทราบว่าธรรมเครื่องกำจัดกิเลส.
Ngoài ra, loại bỏ dục vọng trong việc tìm kiếm khoái lạc mà được phép bằng cách không tham lam; loại bỏ sự khổ hạnh bằng cách tinh tấn trong các phương thức tu khổ hạnh bằng cách không si mê. Do đó, các pháp này cần được hiểu là các pháp loại bỏ phiền não.

บทว่า ธุตงฺคานิ เวทิตพฺพานิ ความว่า พึงทราบธุดงค์ ๑๓ คือ ปังสุกูลิกังคะ (องค์ของภิกษุผู้ถือผ้าบังสุกุลเป็นวัตร) ฯลฯ เนสัชชิกังคะ (องค์ของภิกษุผู้ถือการนั่งเป็นวัตร).
Cụm từ “Dhutangānī” có nghĩa là cần biết 13 phương thức tu khổ hạnh, bao gồm: Pāṅsukūlikaṃ (cách của những người khất thực mặc áo vải rách) và Nesaṭṭhikā (cách của những người khất thực ngồi yên).

บทว่า ธุตวาทานํ ยทิทํ มหากสฺสโป ความว่า ทรงสถาปนาไว้ในตำแหน่งเอตทัคคะในระหว่างภิกษุผู้สอนธุดงค์ว่า มหากัสสปเถระนี้เป็นยอด.
Cụm từ “Dhutavādanaṃ” ám chỉ rằng ngài Mahākassapa được vinh danh là bậc thầy trong số các vị khất thực dạy về phương thức tu khổ hạnh.

บทว่า มหากสฺสโป ความว่า ท่านกล่าวว่า ท่านพระมหากัสสปะองค์นี้ เพราะเทียบกับพระเถระเล็กน้อยเหล่านี้ คือ พระอุรุเวลกัสสปะ พระนทีกัสสปะ พระคยากัสสปะ พระกุมารกัสสปะ.
Cụm từ “Mahākassapa” có nghĩa là ngài Mahākassapa này, được so sánh với những vị trưởng lão khác như Uruvelakassapa, Nātikassapa, Kiyāgassapa và Kumārakassapa.

ในปัญหากรรม แม้ของพระมหากัสสปะนี้มีเรื่องที่กล่าวตามลำดับดังต่อไปนี้ :-
Trong vấn đề về nghiệp, có một số điều được nói về ngài Mahākassapa như sau:

ได้ยินว่า ในอดีตกาล ปลายแสนกัป พระศาสดาพระนามว่าปทุมุตตระ อุบัติขึ้นในโลก เมื่อพระองค์เสด็จเข้าไปอาศัยกรุงหงสวดี ประทับอยู่ในเขมมฤคทายวัน.
Nghe rằng trong thời gian quá khứ, vào cuối một đại kiếp, có vị Phật tên là Padumuttara xuất hiện trong thế gian, khi ngài vào thành Hongsavadi và trú ngụ tại rừng Himavanta.

กุฏุมพีนามว่าเวเทหะ มีทรัพย์สมบัติ ๘๐ โกฎิ บริโภคอาหารดีแต่เช้าตรู่ อธิษฐานองค์อุโบสถ ถือของหอมและดอกไม้เป็นต้นไปพระวิหารบูชาพระศาสดา ไหว้แล้วนั่ง ณ ที่ควรส่วนข้างหนึ่ง.
Một gia đình tên là Vateha có tài sản lên đến 80 kho báu, tiêu thụ thực phẩm tốt từ sáng sớm, đã thỉnh nguyện xây dựng một ngôi chùa, mang theo hương liệu và hoa để cúng dường Phật, và sau khi thờ lạy, họ ngồi ở nơi thích hợp bên cạnh.

ขณะนั้น พระศาสดาทรงสถาปนาสาวกองค์ที่ ๓ นามว่ามหานิสภเถระ ไว้ในตำแหน่งเอตทัคคะว่า ดูก่อนภิกษุทั้งหลาย นิสภะเป็นยอดของภิกษุสาวกของเราผู้สอนธุดงค์.
Vào lúc đó, Đức Phật đã đặt người đệ tử thứ ba là Mahānissha vào vị trí bậc nhất, và Ngài đã nói rằng: “Này các thầy khất thực, Nissha là bậc thầy của các vị khất thực của chúng ta trong việc dạy về phương thức tu khổ hạnh.”

อุบาสกฟังพระดำรัสนั้นแล้วเลื่อมใสเวลาจบธรรมกถา มหาชนลุกไปแล้ว จึงถวายบังคมพระศาสดากราบทูลว่า ข้าแต่พระองค์ผู้เจริญ ขอพระองค์ทรงรับภิกษาของข้าพระองค์ในวันพรุ่งนี้.
Ông Ubasaka nghe lời Phật dạy thì cảm thấy hoan hỷ khi kết thúc bài pháp, mọi người đứng dậy và bái lạy Đức Phật, thưa rằng: “Kính bạch Đức Thế Tôn, xin Ngài nhận đồ cúng dường của con vào ngày mai.”

พระศาสดาตรัสว่า อุบาสก ภิกษุสงฆ์มากนะ.
Đức Phật đáp: “Ông Ubasaka, có rất nhiều thầy khất thực.”

อุบาสกทูลถามว่า ข้าแต่พระผู้มีพระภาคเจ้า ภิกษุสงฆ์มีประมาณเท่าไร?
Ông Ubasaka thưa: “Kính bạch Đức Thế Tôn, có khoảng bao nhiêu thầy khất thực?”

พระศาสดาตรัสว่า มีประมาณหกล้านแปดแสนองค์.
Đức Phật trả lời: “Có khoảng 6 triệu 800 ngàn vị.”

อุบาสกกราบทูลว่า ข้าแต่พระองค์ผู้เจริญ ขอพระองค์จงรับภิกษา แม้แต่สามเณรรูปเดียวก็อย่าเหลือไว้ในวิหาร.
Ông Ubasaka thưa: “Kính bạch Đức Thế Tôn, xin Ngài nhận đồ cúng dường, ngay cả một vị sa di cũng không để lại trong chùa.”

พระศาสดาทรงรับนิมนต์ด้วยดุษณีภาพ.
Đức Phật nhận lời mời với vẻ đẹp trang nghiêm.

อุบาสกรู้ว่าพระศาสดาทรงรับนิมนต์แล้ว จึงไปเรือนตระเตรียมมหาทานในวันรุ่งขึ้น ส่งให้คนไปกราบทูลเวลา (ภัตตาหาร) แด่พระศาสดา.
Ông Ubasaka biết Đức Phật đã nhận lời mời, nên đã về nhà chuẩn bị một bữa cúng dường lớn cho ngày mai, và gửi người thông báo giờ cúng dường cho Đức Phật.

พระศาสดาทรงถือบาตรและจีวร มีภิกษุสงฆ์ห้อมล้อมไปยังเรือนของอุบาสก ประทับนั่งบนอาสนะที่เขาแต่งไว้ถวาย.
Đức Phật cầm bát và y phục, được các thầy khất thực vây quanh đi đến nhà ông Ubasaka, và ngài ngồi trên chỗ ngồi mà ông đã chuẩn bị.

เวลาเสร็จหลั่งน้ำทักษิโณทก ทรงรับข้าวต้มเป็นต้น ได้ทรงสละข้าวสวย.
Khi xong phần rửa tay, ngài nhận bát cháo và các món khác, đã dâng cơm trắng lên.

แม้อุบาสกก็นั่งอยู่ที่ใกล้พระศาสดา.
Ông Ubasaka cũng ngồi gần bên Đức Phật.

ระหว่างนั้น พระมหานิสภเถระกำลังเที่ยวบิณฑบาต เดินไปยังถนนนั้นนั่นแหละ.
Trong khi đó, ngài Mahānissha đang đi khất thực và đi ngang qua con đường đó.

อุบาสกเห็นจึงลุกขึ้นไปไหว้พระเถระแล้ว กล่าวว่า ท่านผู้เจริญ ขอท่านจงให้บาตร.
Ông Ubasaka thấy vậy liền đứng dậy, chào ngài Trưởng lão và nói: “Kính bạch ngài, xin ngài hãy cho bát.”

พระเถระได้ให้บาตร.
Ngài Trưởng lão đã đưa bát cho ông.

อุบาสกกล่าวว่า ท่านผู้เจริญ ขอนิมนต์เข้าไปในเรือนนี้แหละ แม้พระศาสดาก็ประทับนั่งอยู่ในเรือน.
Ông Ubasaka nói: “Kính bạch ngài, xin mời ngài vào nhà này, ngay cả Đức Phật cũng đang ngồi trong nhà.”

พระเถระกล่าวว่า ไม่ควรนะ อุบาสก.
Ngài Trưởng lão đáp: “Không nên, ông Ubasaka.”

อุบาสกรับบาตรของพระเถระใส่บิณฑบาตเต็มแล้ว ได้นำออกไปถวาย.
Ông Ubasaka đã cho bát của ngài Trưởng lão đầy rồi mang ra để cúng dường.

จากนั้นได้เดินส่งพระเถระไปแล้วกลับมานั่งในที่ใกล้พระศาสดา กราบทูลอย่างนี้ว่า ข้าแต่พระองค์ผู้เจริญ พระมหานิสภเถระ แม้ข้าพระองค์กล่าวว่า พระศาสดาประทับอยู่ในเรือน ก็ไม่ปรารถนาจะเข้ามา พระมหานิสภเถระนั่นมีคุณยิ่งกว่าพระองค์หรือหนอ.
Sau đó, ông đã tiễn ngài Trưởng lão và quay lại ngồi gần Đức Phật, thưa rằng: “Kính bạch Đức Thế Tôn, ngài Mahānissha, mặc dù con đã nói rằng Đức Phật đang ngồi trong nhà, nhưng ngài không muốn vào. Phải chăng ngài Mahānissha có phẩm hạnh hơn cả Ngài?”

อันธรรมดาพระพุทธเจ้าทั้งหลายย่อมไม่มีวรรณมัจฉริยะ (ตระหนี่คุณความดีของคนอื่น).
Thông thường, các vị Phật không có sự tính toán (không keo kiệt với phẩm hạnh của người khác).

ลำดับนั้น พระศาสดาตรัสอย่างนี้ว่า ดูก่อนอุบาสก เรานั่งคอยภิกษาอยู่ในเรือน แต่ภิกษุนั้นไม่นั่งคอยภิกษาในเรือนอย่างนี้ เราอยู่ในเสนาสนะชายบ้าน ภิกษุนั้นอยู่ในป่าเท่านั้น เราอยู่ในที่มุงบัง ภิกษุนั้นอยู่กลางแจ้งเท่านั้น ดังนั้น ภิกษุนั้นมีคุณนี้ๆ ตรัสประหนึ่งทำมหาสมุทรให้เต็มฉะนั้น.
Vào lúc đó, Đức Phật nói: “Này ông Ubasaka, chúng ta ngồi chờ đồ cúng dường trong nhà, nhưng các thầy khất thực không ngồi chờ đồ cúng dường như vậy. Chúng ta ở trong nơi ấm áp, trong khi các thầy ở trong rừng. Chúng ta ở trong nơi che chắn, còn các thầy ở giữa trời. Do đó, các thầy khất thực có phẩm hạnh này, như thể đang làm đầy đại dương.”

อุบาสกแม้ตามปกติเป็นผู้เลื่อมใสดียิ่งอยู่แล้ว จึงเป็นประหนึ่งประทีปที่ลุกโพรงอยู่ (ซ้ำ) ถูกราดด้วยน้ำมันฉะนั้น คิดว่า ต้องการอะไรด้วยสมบัติอื่นสำหรับเรา เราจักกระทำความปรารถนา เพื่อต้องการความเป็นยอดของภิกษุทั้งหลายผู้เป็นธุตวาทะ ในสำนักของพระพุทธเจ้าพระองค์หนึ่งในอนาคต.
Ông Ubasaka, mặc dù thường xuyên rất hoan hỷ, thì cũng giống như một ngọn đèn đang cháy sáng, nghĩ rằng: “Cần gì những tài sản khác cho chúng ta? Chúng ta sẽ thực hiện những ước nguyện để đạt được phẩm hạnh tối thượng của các vị khất thực là Dhutavada trong tương lai dưới sự dẫn dắt của một vị Phật.”

อุบาสกแม้นั้นจึงนิมนต์พระศาสดาอีก ถวายมหาทานทำนองนั้นนั่นแหละถึง ๗ วัน วันที่ ๗ ถวายไตรจีวรแก่ภิกษุสงฆ์มีพระพุทธเจ้าเป็นประมุข แล้วหมอบกราบพระบาทของพระศาสดา กราบทูลอย่างนี้ว่า ข้าแต่พระองค์ผู้เจริญ ด้วยเมตตากายกรรม เมตตาวจีกรรม เมตตามโนกรรม ของข้าพระองค์ผู้ถวายมหาทาน ๗ วัน ข้าพระองค์จะปรารถนาสมบัติของเทวดา หรือสมบัติของท้าวสักกะ มารและพรหมสักอย่างหนึ่งก็หาไม่ ก็กรรมของข้าพระองค์นี้จงเป็นปัจจัยแก่ความเป็นยอดของภิกษุผู้ทรงธุดงค์ ๑๓ เพื่อต้องการถึงตำแหน่งที่พระมหานิสภเถระถึงแล้ว ในสำนักของพระพุทธเจ้าพระองค์หนึ่งในอนาคต.
Ông Ubasaka lại mời Đức Phật, dâng cúng dường lớn trong 7 ngày, vào ngày thứ 7, đã dâng tấm y cà sa cho các thầy khất thực, có Đức Phật là bậc dẫn đầu, rồi ông quỳ xuống lạy chân Đức Phật, thưa rằng: “Kính bạch Đức Thế Tôn, nhờ vào thiện nghiệp của thân, miệng và tâm của con trong 7 ngày cúng dường này, con không cầu tài sản của các vị thần, hay tài sản của Thần Đế Sakra, Ma, và Phạm Thiên. Xin cho nghiệp của con này là nhân tố để đạt được phẩm hạnh tối thượng của các vị khất thực có 13 phương thức tu khổ hạnh, nhằm đạt đến địa vị mà ngài Mahānissha đã đạt được dưới sự dẫn dắt của một vị Phật trong tương lai.”

พระศาสดาทรงตรวจดูว่า ที่อุบาสกนี้ปรารถนาตำแหน่งใหญ่ จักสำเร็จหรือไม่หนอ ทรงเห็นว่าสำเร็จ จึงตรัสว่า ท่านปรารถนาอัครฐานอันใหญ่โต พระพุทธเจ้าพระนามว่าโคดม จักอุบัติขึ้นในที่สุดแสนกัปในอนาคต ท่านจักเป็นพระสาวกที่ ๓ ของพระโคดมพุทธเจ้านั้น ชื่อว่ามหากัสสปเถระ.
Đức Phật xem xét liệu ước nguyện của ông Ubasaka về một địa vị lớn có thành tựu hay không. Ngài thấy rằng nó sẽ thành tựu, nên nói: “Ông mong muốn có một địa vị vĩ đại. Vị Phật tên là Gotama sẽ xuất hiện vào cuối một đại kiếp trong tương lai, và ông sẽ là đệ tử thứ ba của vị Phật Gotama đó, tên là Mahākassapa.”

อุบาสกได้ฟังพุทธพยากรณ์นั้นแล้ว คิดว่า ธรรมดาว่าพระพุทธเจ้าทั้งหลายย่อมไม่ตรัสเป็นคำ ๒ จึงได้สำคัญสมบัตินั้นเหมือนดังจะได้ในวันพรุ่งนี้.
Ông Ubasaka nghe lời tiên tri của Phật, nghĩ rằng: “Thông thường, các vị Phật không nói hai lời, nên ông đã cho rằng tài sản đó như thể sẽ đạt được vào ngày mai.”

อุบาสกนั้นดำรงอยู่ชั่วอายุ ถวายทานมีประการต่างๆ รักษาศีลกระทำกุศลกรรมนานัปประการ ตายไปในอัตภาพนั้นแล้วบังเกิดในสวรรค์.
Ông Ubasaka sống trong suốt cuộc đời, dâng cúng nhiều thứ, giữ gìn giới luật và thực hiện nhiều thiện nghiệp. Sau khi chết, ông được sinh vào cõi trời.

จำเดิมแต่นั้น เขาเสวยสมบัติทั้งในเทวดาและมนุษย์.
Từ đó, ông được hưởng tài sản cả ở cõi trời và cõi người.

ในกัปที่ ๙๑ แต่ภัทรกัปนี้ เมื่อพระวิปัสสีสัมมาสัมพุทธเจ้าทรงอาศัยกรุงพันธุมดี ประทับอยู่ในมฤคทายวันอันเกษม ก็จุติจากเทวโลกไปเกิดในตระกูลพราหมณ์เก่าแก่ตระกูลหนึ่ง.
Trong kiếp 91 của đại kiếp này, khi Đức Phật Vipassī sống trong thành Phanthumudī, ngài trú tại rừng Himavanta an lạc, thì ông từ cõi trời trở về và được sinh ra trong một gia đình Bà la môn cổ xưa.

ก็ในครั้งนั้น พระผู้มีพระภาคเจ้าพระนามวิปัสสี ตรัสพระธรรมเทศนาทุกๆ ปีที่ ๗ ได้มีความโกลาหลใหญ่หลวง. เทวดาทั้งหลายทั่วชมพูทวีป ได้บอกพราหมณ์นั้นว่า พระศาสดาจักทรงแสดงธรรม. พราหมณ์ได้สดับข่าวนั้น.
Vào thời điểm đó, Đức Thế Tôn tên là Vipassī đã thuyết giảng bài pháp trong năm thứ bảy, và đã có sự xôn xao lớn. Các vị thần trên khắp châu Á đã thông báo cho vị Bà la môn rằng Đức Phật sẽ thuyết pháp. Vị Bà la môn đã nghe tin đó.

พราหมณ์นั้นมีผ้านุ่งอยู่ผืนเดียว นางพราหมณีก็เหมือนกัน แต่ทั้งสองคนมีผ้าห่มอยู่ผืนเดียวเท่านั้น จึงปรากฏไปทั่วพระนครว่า เอกสาฎกพราหมณ์.
Vị Bà la môn chỉ có một tấm y, và nữ Bà la môn cũng vậy, nhưng cả hai chỉ có một tấm chăn. Do đó, người ta đã đồn đại khắp thành phố rằng họ là vị Bà la môn độc nhất.

เมื่อพวกพราหมณ์ประชุมกันด้วยกิจบางอย่าง ต้องให้นางพราหณีอยู่บ้าน ตนเองไป.
Khi các vị Bà la môn tụ họp để bàn việc gì đó, thì nữ Bà la môn phải ở nhà còn nam Bà la môn đi ra ngoài.

เมื่อ (ถึงคราว) พวกพราหมณีประชุมกัน ตนเองต้องอยู่บ้าน นางพราหมณีห่มผ้านั้นไป (ประชุม).
Khi đến lượt các nữ Bà la môn tụ họp, nam Bà la môn lại phải ở nhà, còn nữ Bà la môn thì mặc tấm chăn đó đi dự họp.

ก็ในวันนั้น พราหมณ์พูดกะพราหมณีว่า แม่มหาจำเริญ เธอจักฟังธรรมกลางคืนหรือกลางวัน.
Vào ngày đó, vị Bà la môn hỏi nữ Bà la môn rằng: “Thưa bà, bà sẽ nghe pháp vào ban đêm hay ban ngày?”

พราหมณีพูดว่า พวกฉันชื่อว่าเป็นหญิงแม่บ้าน ไม่อาจฟังกลางคืนได้ขอฟังกลางวันเถิด
Nữ Bà la môn đáp: “Chúng tôi là những người phụ nữ trong gia đình, không thể nghe vào ban đêm được, xin cho chúng tôi nghe vào ban ngày.”

แล้วให้พราหมณ์อยู่เฝ้าบ้าน (ตนเอง) ห่มผ้านั้นไปตอนกลางวันพร้อมกับพวกอุบาสิกา ถวายบังคมพระศาสดาแล้วนั่ง ณ ที่ควรส่วนข้างหนึ่ง ฟังธรรมแล้วกลับมาพร้อมกับพวกอุบาสิกา.
Vậy là bà đã để vị Bà la môn ở nhà, còn mình thì mặc tấm chăn đó và đi vào ban ngày cùng với các nữ tín đồ, bái lạy Đức Phật rồi ngồi ở nơi thích hợp, nghe pháp rồi trở về cùng với các nữ tín đồ.

ทีนั้น พราหมณ์ได้ให้พราหณีอยู่บ้าน (ตนเอง) ห่มผ้านั้นไปวิหาร.
Lúc đó, vị Bà la môn đã để nữ Bà la môn ở nhà, còn mình thì mặc tấm chăn đó đi đến chùa.

สมัยนั้น พระบรมศาสดาประทับนั่งบนธรรมาสน์ที่เขาตกแต่งไว้ท่ามกลางบริษัท ทรงจับพัดอันวิจิตร ตรัสธรรมกถาประหนึ่งทำสัตว์ให้ข้ามอากาศคงคา และประหนึ่งทรงกระทำเขาสิเนรุให้เป็นโม่กวนสาคร ฉะนั้น.
Vào thời điểm đó, Đức Phật ngồi trên tòa pháp được trang trí giữa hội chúng, cầm quạt đẹp, thuyết giảng như thể đang khiến chúng sinh vượt qua sông Hằng, và như thể đang biến núi Sineru thành cái cối xay nước.

เมื่อพราหมณ์นั่งฟังธรรมอยู่ท้ายบริษัท ปีติ ๕ ประการเกิดขึ้นเต็มทั่วสรีระในปฐมยามนั่นเอง
Khi vị Bà la môn ngồi nghe pháp ở cuối hội chúng, năm niềm vui tràn ngập khắp cơ thể ngay trong thời điểm đầu tiên.

พราหมณ์นั้นดึงผ้าที่ตนห่มออกมาคิดว่า จักถวายพระทศพล.
Vị Bà la môn kéo tấm y mà mình đang mặc ra, nghĩ rằng mình sẽ dâng lên Đức Tôn Sư.

ครั้งนั้น ความตระหนี่ชี้โทษถึงพันประการเกิดขึ้นแก่พราหมณ์นั้นว่า พราหณีกับเรามีผ้าห่มผืนเดียวเท่านั้น ผ้าห่มผืนอื่นไรๆ ไม่มี ก็ธรรมดาว่าไม่ห่มก็ออกไปข้างนอกไม่ได้จึงตกลงใจไม่ต้องการถวายโดยประการทั้งปวง.
Lúc đó, sự keo kiệt đã chỉ ra hàng ngàn lý do cho vị Bà la môn rằng: “Nữ Bà la môn và tôi chỉ có một tấm chăn mà thôi, không có tấm chăn nào khác. Nếu không có tấm chăn thì không thể ra ngoài, do đó, tôi quyết định không dâng tặng.”

ครั้นเมื่อปฐมยามล่วงไป ปีติเหมือนอย่างนั้นนั่นแหละเกิดขึ้นแก่พราหมณ์นั้น แม้ในมัชฌิมยาม พราหมณ์คิดเหมือนอย่างนั้นแล้วไม่ได้ถวายเหมือนเช่นนั้น.
Khi thời gian đầu trôi qua, niềm vui tương tự lại xảy ra với vị Bà la môn đó, và ngay cả trong thời gian giữa, vị Bà la môn cũng nghĩ như vậy và không dâng tặng như trước.

ครั้นเมื่อมัชฌิมยามล่วงไป ปีติเหมือนอย่างนั้นนั่นแหละเกิดขึ้นแก่พราหมณ์นั้นแม้ในปัจฉิมยาม.
Khi thời gian giữa đã trôi qua, niềm vui tương tự lại xảy ra với vị Bà la môn ngay cả trong thời gian cuối.

พราหมณ์นั้นคิดว่า เป็นไรเป็นกัน ค่อยรู้กันทีหลัง ดังนี้แล้วดึงผ้ามาวางแทบพระบาทพระบรมศาสดา.
Vị Bà la môn nghĩ rằng: “Có gì thì có, hãy chờ xem sau.” Nói vậy rồi ông đã kéo tấm y và đặt gần chân Đức Phật.

ต่อแต่นั้น ก็งอมือซ้ายเอามือขวาตบลง ๓ ครั้งแล้วบันลือขึ้น ๓ วาระว่า ชิตํ เม ชิตํ เม ชิตํ เม (เราชนะแล้วๆ).
Sau đó, ông co tay trái lại, dùng tay phải vỗ xuống ba lần rồi kêu lên ba lần rằng: “Chúng tôi đã thắng rồi, đã thắng rồi, đã thắng rồi.”

สมัยนั้น พระเจ้าพันธุมราชประทับนั่งสดับธรรมอยู่ภายในม่านหลังธรรมาสน์ อันธรรมดาพระราชาไม่ทรงโปรดเสียงว่า ชิ ตํ เม ชิ ตํ เม จึงส่งราชบุรุษไปด้วยพระดำรัสว่า เธอจงไปถามพราหมณ์นั้นว่า เขาพูดทำไม.
Vào thời điểm đó, vua Panduhuma đang ngồi nghe pháp sau tấm màn phía sau tòa pháp. Thông thường, nhà vua không thích nghe tiếng “Chúng tôi đã thắng”, nên đã sai người đến hỏi: “Ngươi hãy đi hỏi vị Bà la môn đó xem ông ấy nói gì.”

พราหมณ์นั้นถูกราชบุรุษไปถาม จึงกล่าวว่า คนอื่นนอกจากข้าพเจ้า ขึ้นยานคือช้างเป็นต้น ถือดาบและโล่หนังเป็นต้น จึงได้ชัยชนะกองทัพข้าศึก ชัยชนะนั้น ไม่น่าอัศจรรย์ ส่วนเราได้ย่ำยีจิตตระหนี่แล้ว ถวายผ้าที่ห่มอยู่แด่พระทศพล เหมือนคนเอาค้อนทุบหัวโคโกงที่ตามมาข้างหลัง ทำให้มันหนีไป ชัยชนะของเรานั้นจึงน่าอัศจรรย์.
Khi bị người của nhà vua hỏi, vị Bà la môn trả lời rằng: “Ngoài tôi ra, những người khác lên voi và cầm gươm, khiên thì đã thắng quân địch, chiến thắng đó không có gì lạ. Còn tôi, đã làm cho tâm tham lam của mình tan biến, dâng tấm y mà tôi đang mặc cho Đức Tôn Sư, giống như người dùng búa đánh đầu con bò đang theo sau để nó chạy đi. Chiến thắng của tôi thật sự là điều kỳ diệu.”

ราชบุรุษจึงไปกราบทูลเรื่องราวนั้นแด่พระราชา.
Người của nhà vua trở về và báo cáo lại sự việc đó cho nhà vua.

พระราชารับสั่งว่า พนาย พวกเราไม่รู้สิ่งที่สมควรแก่พระทศพล พราหมณ์รู้ จึงให้ส่งผ้าคู่หนึ่ง (ผ้านุ่งกับผ้าห่ม) ไปพระราชทาน.
Nhà vua ra lệnh: “Này các khanh, chúng ta không biết điều gì phù hợp với Đức Tôn Sư, nhưng vị Bà la môn biết, vì vậy hãy gửi một bộ y (y mặc và chăn) đến dâng cho ngài.”

พราหมณ์เห็นผ้าคู่นั้นแล้วคิดว่า พระราชานี้ไม่พระราชทานอะไรเป็นครั้งแรกแก่เราผู้นั่งนิ่งๆ เมื่อเรากล่าวคุณทั้งหลายของพระบรมศาสดาจึงได้พระราชทาน.
Khi vị Bà la môn nhìn thấy bộ y đó, ông nghĩ rằng: “Nhà vua này chưa bao giờ dâng gì cho tôi, người đang ngồi yên lặng. Khi tôi ca ngợi các phẩm hạnh của Đức Phật, thì ông mới dâng.”

จะมีประโยชน์อะไรแก่เรากับผ้าคู่ที่อาศัยพระคุณของพระบรมศาสดาเกิดขึ้น จึงได้ถวายผ้าคู่แม้คู่นั้นแด่พระทศพลเสียเลย.
“Liệu có lợi ích gì cho tôi với bộ y này, phát sinh từ ân đức của Đức Phật, vì vậy tôi đã dâng bộ y đó cho Đức Tôn Sư.”

พระราชาตรัสถามว่า พราหมณ์ทำอย่างไร ทรงสดับว่า พราหมณ์ถวายผ้าคู่ แม้นั้นแด่พระตถาคตเท่านั้น จึงรับสั่งให้ส่งผ้าคู่ ๒ ชุดแม้อื่นไปพระราชทาน.
Nhà vua hỏi: “Vị Bà la môn đã làm gì?” Nghe nói vị Bà la môn đã dâng một bộ y cho Đức Thế Tôn, nên vua đã ra lệnh gửi thêm hai bộ y khác để dâng.

พราหมณ์นั้นได้ถวายผ้าคู่ ๒ ชุดแม้นั้น.
Vị Bà la môn đã dâng hai bộ y đó.

พระราชาทรงส่งผ้าคู่ ๔ ชุดแม้อื่นไปพระราชทาน ทรงส่งไปพระราชทานถึง ๓๒ คู่ด้วยประการอย่างนี้.
Nhà vua đã gửi bốn bộ y khác để dâng, tổng cộng đã gửi đến 32 bộ bằng cách như vậy.

ลำดับนั้น พราหมณ์คิดว่า การทำดังนี้เป็นเหมือนให้เพิ่มขึ้นแล้วจึงจะรับเอา จึงถือเอาผ้า ๒ คู่ คือเพื่อประโยชน์แก่ตนคู่ ๑ เพื่อนางพราหมณีคู่ ๑ แล้วถวายเฉพาะพระทศพล ๓๐ คู่.
Lúc đó, vị Bà la môn nghĩ rằng: “Làm như vậy giống như cho thêm rồi mới nhận, vì vậy ông đã lấy hai bộ y, một cho mình và một cho nữ Bà la môn, còn lại 30 bộ y thì dâng riêng cho Đức Tôn Sư.”

จำเดิมแต่นั้น พราหมณ์ก็ได้เป็นผู้สนิทสนมกับพระบรมศาสดา.
Từ đó, vị Bà la môn đã trở thành người thân cận với Đức Thế Tôn.

ครั้นวันหนึ่ง พระราชาทรงสดับธรรมในสำนักของพระบรมศาสดาในฤดูหนาว ได้พระราชทานผ้ากัมพลแดงสำหรับห่มส่วนพระองค์มีมูลค่าพันหนึ่งกะพราหมณ์ แล้วรับสั่งว่า จำเดิมแต่นี้ไป ท่านจงห่มผ้ากัมพลแดงผืนนี้ฟังธรรม.
Một hôm, vua nghe pháp trong chỗ của Đức Phật vào mùa đông, đã dâng tấm vải gấm đỏ trị giá một ngàn cho vị Bà la môn và nói: “Từ nay trở đi, xin hãy mặc tấm vải gấm đỏ này khi nghe pháp.”

พราหมณ์นั้นคิดว่า เราจะประโยชน์อะไรกับผ้ากัมพลแดงนี้ที่จะน้อมนำเข้าไปในกายอันเปื่อยเน่านี้ จึงได้ทำเป็นเพดานเหนือเตียงของพระตถาคตในภายในพระคันธกุฎี แล้วก็ไป.
Vị Bà la môn nghĩ: “Tấm vải gấm đỏ này có ích gì cho cơ thể mục nát của tôi?” nên đã làm nó thành mái vòm trên giường của Đức Phật trong gian phòng của Ngài rồi đi ra.

อยู่มาวันหนึ่ง พระราชาเสด็จไปพระวิหารแต่เช้าตรู่ ประทับนั่งในที่ใกล้พระบรมศาสดาในพระคันธกุฎี ก็ในขณะนั้น พระพุทธรัศมีมีพรรณ ๖ ประการกระทบที่ผ้ากัมพล ผ้ากัมพลก็บรรเจิดจ้าขึ้น พระราชาทอดพระเนตรเห็นก็จำได้จึงกราบทูลว่า ข้าแต่พระองค์ผู้เจริญ ผ้ากัมพลผืนนี้ของข้าพระองค์ๆ ให้เอกสาฎกพราหมณ์.
Một ngày nọ, vua đến chùa từ sáng sớm, ngồi gần Đức Phật trong gian phòng. Lúc đó, ánh sáng của Phật có sáu màu rực rỡ chiếu lên tấm vải gấm, khiến tấm vải bừng sáng. Vua nhìn thấy và nhận ra, nên đã thưa: “Kính bạch Đức Thế Tôn, tấm vải gấm này là của con, con đã dâng cho vị Bà la môn độc nhất.”

มหาบพิตร พระองค์บูชาพราหมณ์ พราหมณ์บูชาอาตมภาพ.
“Đại vương, ngài tôn kính vị Bà la môn, còn vị Bà la môn thì tôn kính con.”

พระราชาทรงเลื่อมใสว่า พราหมณ์รู้สิ่งที่เหมาะที่ควร เราไม่รู้ จึงพระราชทานสิ่งที่เป็นของเกื้อกูลแก่มนุษย์ทุกอย่างๆ ละ ๘ ชนิด ๘ ครั้ง ให้เป็นของประทานชื่อว่า สัพพัฏฐกทาน แล้วทรงตั้งให้เป็นปุโรหิต.
Nhà vua cảm thấy tín ngưỡng rằng: “Vị Bà la môn biết những điều phù hợp, còn chúng ta thì không biết.” Do đó, nhà vua đã dâng mọi thứ có lợi cho con người, mỗi thứ 8 loại, 8 lần, gọi là Sappatthukathāna, và bổ nhiệm ông làm người phụ tá tôn quý.

พราหมณ์นั้นคิดว่า ชื่อว่าของ ๘ ชนิด ๘ ครั้งก็เป็น ๖๔ ชนิด จึงตั้งสลากภัต ๖๔ ที่ให้ทาน รักษาศีลตลอดชีวิต จุติจากชาตินั้นไปเกิดในสวรรค์.
Vị Bà la môn nghĩ rằng: “Các thứ 8 loại, 8 lần chính là 64 loại,” nên đã lập 64 chỗ dâng cúng, giữ gìn giới luật suốt đời. Sau khi chết, ông được sinh lên cõi trời.

จุติจากสวรรค์กลับมาเกิดในเรือนของกุฏุมพี ในกรุงพาราณสี ในระหว่างกาลของพระพุทธเจ้า ๒ พระองค์ คือ พระผู้มีพระภาคเจ้าโกนาคมน์และพระกัสสปทศพล ในกัปนี้ เขาเจริญวัยก็แต่งงานมีเหย้าเรือน วันหนึ่งเดินเที่ยวพักผ่อนไปในป่า.
Sau khi từ cõi trời trở lại, ông được sinh ra trong một gia đình Bà la môn ở thành phố Bārāṇasī, trong thời kỳ của hai vị Phật là Gotama và Kassapa. Trong đại kiếp này, ông trưởng thành, lập gia đình và có nhà cửa. Một ngày nọ, ông đi dạo trong rừng để thư giãn.

ก็สมัยนั้น พระปัจเจกพุทธเจ้ากระทำจีวรกรรม (คือการเย็บจีวร) อยู่ที่ริมแม่น้ำ ผ้าอนุวาต (ผ้าแผ่นบางๆ ที่ทาบไปตามชายสบงจีวรและสังฆาฏิ) ไม่พอจึงเริ่มจะพับเก็บ.
Vào thời điểm đó, một vị Độc Giác đang may y tại bờ sông. Khi thấy rằng vải anuvāta (vải mỏng trải lên viền của y) không đủ, ngài bắt đầu gập lại.

เขาเห็นเข้าจึงกล่าวถามว่า เพราะอะไรจึงจะพับเก็บเสียเล่า เจ้าข้า.
Vị Bà la môn thấy vậy bèn hỏi: “Tại sao ngài lại gập lại?”

พระปัจเจกพุทธเจ้ากล่าวว่า ผ้าอนุวาตไม่พอ.
Vị Độc Giác đáp: “Vải anuvāta không đủ.”

กุฏุมพีกล่าวว่า โปรดเอาผ้าสาฎกนี้ทำเถิด เจ้าข้า.
Vị Bà la môn nói: “Xin hãy dùng tấm vải sāraka này, thưa ngài.”

เขาถวายผ้าสาฎกแล้ว ตั้งความปรารถนาว่า ในที่ที่ข้าพเจ้าเกิดแล้วๆ ความเสื่อมไรๆ ขอจงอย่าได้มี.
Ông dâng tấm vải sāraka và ước nguyện rằng: “Tại nơi tôi được sinh ra, mong rằng không có sự suy thoái nào xảy ra.”

ครั้งนั้น พระปัจเจกพุทธเจ้าเข้าไปบิณฑบาตแม้ในเรือนของเขา ในเมื่อภรรยากับน้องสาวกำลังทะเลาะกัน.
Lúc đó, vị Độc Giác vào khất thực ngay trong nhà của ông khi vợ và em gái đang cãi nhau.

ที่นั้น น้องสาวของเขาถวายบิณฑบาตแก่พระปัจเจกพุทธเจ้าแล้ว กล่าวอย่างนี้มุ่งถึงภรรยาของเขา ตั้งความปรารถนาว่า ขอให้เราห่างไกลหญิงพาลเห็นปานนี้ร้อยโยชน์.
Tại đó, em gái của ông dâng đồ ăn cho vị Độc Giác rồi nói với ý hướng đến vợ ông: “Xin cho tôi được xa rời người phụ nữ ngu muội như vậy một trăm do tuần.”

ภรรยาของเขายืนอยู่ที่ลานบ้านได้ยินจึงคิดว่า พระรูปนี้จงอย่าได้ฉันอาหารที่นางคนนี้ถวาย จึงจับบาตรมาเทบิณฑบาตทิ้งแล้วเอาเปือกตมมาใส่จนเต็ม.
Vợ ông đứng ở sân nghe thấy, nghĩ rằng: “Người này không được ăn thức ăn mà người phụ nữ này dâng,” nên đã lấy bát của vị Độc Giác đổ đồ ăn ra rồi đổ đầy bằng bùn.

นางเห็นจึงกล่าวว่า หญิงพาลเจ้าจงด่าจงบริภาษเราก่อนเถิด การเทภัตตาหารจากบาตรของท่านผู้ได้บำเพ็ญบารมีมา ๒ อสงไขยเห็นปานนี้ แล้วใส่เปือกตมให้ไม่สมควรเลย.
Bà ta thấy vậy liền nói: “Người phụ nữ ngu muội, hãy chửi mắng tôi trước đi! Việc đổ thức ăn từ bát của người đã tích lũy công đức trong 20 ức kiếp ra như thế này và cho bùn vào là không đúng.”

ครั้งนั้น ภรรยาของเขาเกิดความสำนึกขึ้นได้จึงกล่าวว่า โปรดหยุดก่อนเจ้าข้า แล้วเทเปือกตมออกล้างบาตร ชโลมด้วยผงเครื่องหอมแล้วได้ใส่ของมีรสอร่อย ๔ อย่างเต็มบาตรแล้ววางถวายบาตรอันผุดผ่องด้วยเนยใส มีสีเหมือนกลีบปทุมอันลาดรดลงข้างบนในมือของพระปัจเจกพุทธเจ้า ตั้งความปรารถนาว่า สรีระของเราจงผุดผ่องเหมือนบิณฑบาตอันผุดผ่องนี้เถิด.
Lúc đó, vợ ông cảm thấy hối lỗi, liền nói: “Xin hãy dừng lại!” Rồi bà đổ bùn ra, rửa bát, thoa bát bằng bột hương liệu, rồi đổ đầy bốn món ăn ngon vào bát và dâng cho vị Độc Giác, với tấm bát sáng bóng như cánh hoa sen, bà ước nguyện rằng: “Thân thể của tôi hãy trở nên sáng đẹp như bát này.”

พระปัจเจกพุทธเจ้าอนุโมทนาแล้วเหาะขึ้นสู่อากาศ.
Vị Độc Giác hoan hỷ và bay lên không trung.

ผัวเมียแม้ทั้งสองนั้นดำรงอยู่ชั่วอายุแล้วไปเกิดบนสวรรค์ จุติจากชาตินั้นไปเกิดในสวรรค์.
Cả hai vợ chồng sống thọ rồi được sinh lên cõi trời.

จุติจากสวรรค์นั้นอีกครั้ง อุบาสกเกิดเป็นบุตรเศรษฐีมีสมบัติ ๘๐ โกฏิในกรุงพาราณสี ในครั้งพระกัสสปทศพลสัมมาสัมพุทธเจ้า ฝ่ายภรรยาเกิดเป็นธิดาของเศรษฐีเหมือนกัน เมื่อเขาเจริญวัย พวกญาติก็นำธิดาของเศรษฐีคนนั้นแหละมา.
Khi từ cõi trời trở về, vị Ubasaka được sinh ra làm con trai của một gia đình giàu có với tài sản lên đến 80 kho báu ở thành Bārāṇasī, vào thời của Đức Phật Kassapa. Vợ ông cũng được sinh ra là con gái của một gia đình giàu có, khi cô trưởng thành, thì họ hàng đã mang con gái của gia đình giàu có đó đến.

ด้วยอานุภาพของกรรมซึ่งมีวิบากอันไม่น่าปรารถนาในชาติก่อน พอนาง (ถูกส่งตัว) เข้าไปยังตระกูลของสามี ทั่วทั้งสรีระเกิดกลิ่นเหม็นเหมือนส้วมที่เขาเปิดไว้ (ตั้งแต่ย่างเข้าไป) ภายในธรณีประตู.
Vì nghiệp có quả báo không mong muốn từ kiếp trước, khi bà (được gả) vào gia đình chồng, toàn thân phát ra mùi hôi như phân ở trong nhà (ngay khi bước vào) trong ngưỡng cửa.

เศรษฐีกุมารถามว่า นี้กลิ่นของใคร ได้ฟังว่าของลูกสาวเศรษฐี จึงกล่าวว่า นำออกไปๆ แล้วส่งกลับไปเรือนตระกูล โดยทำนองที่มา นางถูกส่งกลับมาถึง ๗ แห่งโดยทำนองนี้นั่นแล.
Người giàu hỏi: “Mùi này là của ai?” Khi nghe nói là của con gái một gia đình giàu có, ông ta đã bảo: “Đưa ra ngoài, đưa ra ngoài,” rồi gửi bà trở về gia đình của mình. Bà bị gửi trở lại đến bảy lần như vậy.

ก็สมัยนั้น พระกัสสปทศพลเสด็จปรินิพพานแล้ว พุทธศาสนิกชนเริ่มก่อพระเจดีย์สูงโยชน์หนึ่งด้วยอิฐทองสีแดงทั้งหนาทั้งแน่น มีราคาก้อนละหนึ่งแสน.
Vào thời điểm đó, sau khi Đức Phật Kassapa nhập niết bàn, các tín đồ Phật giáo bắt đầu xây dựng một tháp cao một do tuần bằng gạch vàng đỏ, dày và chắc chắn, mỗi viên có giá một trăm ngàn.

เมื่อเขากำลังสร้างพระเจดีย์กันอยู่ เศรษฐีธิดาคนนั้นคิดว่า เราต้องถูกส่งกลับถึง ๗ แห่งแล้ว จะประโยชน์อะไรกับชีวิตของเรา จึงให้ยุบสิ่งของเครื่องประดับตัว ทำอิฐทองยาวศอก กว้างคืบ สูง ๔ นิ้ว ต่อแต่นั้นถือก้อนหรดาลและมโนสิลา เก็บเอาดอกบัว ๘ กำไปยังสถานที่ที่สร้างพระเจดีย์.
Trong khi họ đang xây dựng tháp, cô con gái của một gia đình giàu có nghĩ rằng: “Chúng ta đã bị gửi trở lại đến bảy lần, thì cuộc sống của mình có ích gì?” Vì vậy, cô đã bỏ những đồ trang sức, tạo ra những viên gạch vàng dài một thước, rộng một tấc, cao bốn inch. Sau đó, cô cầm viên hột dẻ và mân ni, cùng với tám bó hoa sen, đi đến nơi xây tháp.

ขณะนั้น แถวก้อนอิฐแถวหนึ่งก่อมาต่อกันขาดอิฐแผ่นต่อเชื่อม นางจึงพูดกับช่างว่า ท่านจงวางอิฐก้อนนี้ตรงนี้.
Lúc đó, hàng gạch đang xây dựng lại bị thiếu một viên gạch để nối lại. Cô liền nói với người thợ xây: “Xin hãy đặt viên gạch này vào đây.”

นายช่างกล่าวว่า นางผู้เจริญ ท่านมาได้เวลา จงวางเองเถิด.
Người thợ xây đáp: “Thưa bà, đã đến giờ của bà rồi, xin hãy tự đặt nó vào.”

๑- ปาฐะว่า อิฏฺฐกา สนฺธึ ปริกฺขิปิตฺวา พม่าเป็น อิฏฺฐกาปนฺติ ปริกฺขิปิตฺวา แปลตามพม่า.
1- Từ “Iṭṭhakā” được dịch là “Iṭṭhakāpan” theo ngữ nghĩa của tiếng Miến Điện.

นางจึงขึ้นไปเอาน้ำมันผสมกับหรดาลและมโนสิลาวางอิฐติดอยู่ได้ด้วยเครื่องยึดนั้น แล้วบูชาด้วยดอกอุบล ๘ กำมือข้างบน (อิฐ) ไหว้แล้วตั้งความปรารถนาว่า ในที่ที่เราเกิดกลิ่นจันทน์จงฟุ้งออกจากตัว กลิ่นอุบลจงฟุ้งออกจากปาก แล้วไหว้พระเจดีย์ ทำประทักษิณแล้วกลับไป.
Cô liền lên lấy dầu trộn với hột dẻ và mân ni để dán gạch chắc chắn, rồi cúng dường bằng tám bó hoa sen trên (viên gạch). Sau khi lễ lạy, cô ước nguyện rằng: “Nơi nào tôi sinh ra, xin cho mùi hương sandal lan tỏa từ cơ thể, và mùi hoa sen lan tỏa từ miệng tôi,” rồi lễ bái tháp, làm vòng quanh rồi trở về.

ครั้นแล้วในขณะนั้นเอง เศรษฐีบุตรก็เกิดสติปรารภถึงเศรษฐีธิดาที่เขานำมาเรือนครั้งแรก.
Ngay lúc đó, con trai của vị Bà la môn bỗng nhớ đến cô con gái của gia đình giàu có mà họ đã đưa về lần đầu tiên.

แม้ในพระนครก็มีนักขัตฤกษ์เสียงกึกก้อง เขาจึงพูดกับคนรับใช้ว่า คราวนั้น เขานำเศรษฐีธิดามาในที่นี้ นางอยู่ที่ไหน.
Ngay cả trong thành phố cũng có âm thanh ồn ào từ những ngày lễ hội, ông đã nói với người hầu: “Lần đó, họ đã mang cô con gái của gia đình giàu có đến đây, cô ấy đang ở đâu?”

คนรับใช้กล่าวว่า อยู่ที่เรือนตระกูลขอรับ นายท่าน.
Người hầu đáp: “Cô ấy ở trong nhà của gia đình, thưa ngài.”

เศรษฐีบุตรกล่าวว่า พวกท่านจงพามา เราจักเล่นนักขัตฤกษ์กับนาง.
Con trai của vị Bà la môn nói: “Các người hãy dẫn cô ấy đến đây, tôi sẽ chơi lễ hội với cô ấy.”

พวกคนรับใช้ไปไหว้นางแล้ว ยืนอยู่ถูกนางถามว่า พ่อทั้งหลายมาทำไมกัน จึงบอกเรื่องราวที่มานั้น.
Những người hầu đi chào cô, rồi đứng đó, bị cô hỏi: “Các ông đến đây làm gì?” và họ đã kể lại câu chuyện về lý do họ đến.

นางกล่าวว่า พ่อทั้งหลาย เราเอาเครื่องอาภรณ์บูชาพระเจดีย์เสียแล้ว เราไม่มีเครื่องอาภรณ์.
Cô nói: “Các ông, tôi đã dùng đồ trang sức để cúng dường tháp rồi, tôi không có đồ trang sức nào nữa.”

คนรับใช้เหล่านั้นจึงไปบอกแก่บุตรเศรษฐี.
Những người hầu liền báo cáo cho con trai vị Bà la môn.

บุตรเศรษฐีกล่าวว่า จงนำมาเถอะ นางจักได้เครื่องประดับนั้น.
Con trai vị Bà la môn nói: “Hãy mang cô ấy đến đây, cô ấy sẽ nhận được đồ trang sức đó.”

พวกเขาจึงไปนำนางมา กลิ่นจันทน์และกลิ่นอุบลขาบฟุ้งไปทั่วเรือนพร้อมกับที่นางเข้าไปในเรือน.
Họ đã mang cô đến, và hương sandal cùng mùi hoa sen lan tỏa khắp nhà khi cô bước vào.

บุตรเศรษฐีจึงถามนางว่า ครั้งแรก กลิ่นเหม็นฟุ้งออกจากตัวก่อน แต่บัดนี้ กลิ่นจันทน์ฟุ้งออกจากตัว กลิ่นอุบลฟุ้งออกจากปากของเธอ นี่อะไรกัน.
Con trai vị Bà la môn hỏi cô: “Lần trước, mùi hôi tỏa ra từ cơ thể, nhưng giờ đây, mùi sandal tỏa ra từ cơ thể, và mùi hoa sen tỏa ra từ miệng của cô, điều này là sao?”

ธิดาเศรษฐีจึงบอกกรรมที่ตนกระทำตั้งแต่ต้น.
Cô con gái của gia đình giàu có liền kể về những nghiệp mà cô đã tạo ra từ ban đầu.

บุตรเศรษฐีเลื่อมใสว่า คำสอนของพระพุทธเจ้าทั้งหลายเป็นนิยยานิกธรรมหนอ จึงเอาเครื่องปกคลุมที่ทำด้วยผ้ากัมพลหุ้มพระเจดีย์ทองมีประมาณโยชน์หนึ่ง แล้วเอาดอกประทุมทองขนาดเท่าล้อรถประดับที่พระเจดีย์ทองนั้น.
Con trai của vị Bà la môn cảm thấy tin tưởng rằng giáo lý của các vị Phật là những giáo pháp vĩnh cửu, nên đã dùng một tấm vải gấm phủ lên tháp vàng cao một do tuần, và đặt một bông sen vàng có kích thước bằng bánh xe trang trí trên tháp vàng đó.

ดอกประทุมทองที่แขวนห้อยไว้มีขนาด ๑๒ ศอก.
Bông sen vàng treo lơ lửng có kích thước 12 thước.

บุตรเศรษฐีนั้นดำรงอยู่ชั่วอายุในมนุษยโลกนั้นแล้วเกิดในสวรรค์ จุติจากสวรรค์นั้นบังเกิดในตระกูลอำมาตย์ตระกูลหนึ่ง (ซึ่งพำนักอยู่) ในที่ประมาณโยชน์หนึ่งจากกรุงพาราณสี.
Vị Bà la môn đó sống trọn đời trong thế giới nhân loại, rồi được sinh lên cõi trời. Sau khi từ cõi trời trở lại, ông được sinh ra trong một gia đình quan lại ở cách thành Bārāṇasī một do tuần.

ฝ่ายลูกสาวเศรษฐีจุติจากเทวโลกเกิดเป็นพระราชธิดาองค์ใหญ่ในราชตระกูล.
Còn cô con gái của vị Bà la môn đã từ cõi trời xuống và được sinh ra là công chúa lớn trong một gia đình hoàng gia.

เมื่อคนทั้งสองนั้นเจริญวัย เขาป่าวร้องงานนักขัตฤกษ์ในหมู่บ้านที่กุมารอยู่.
Khi cả hai trưởng thành, họ thông báo về lễ hội trong làng nơi cậu bé ở.

กุมารนั้นกล่าวกะมารดาว่า แม่จ๋า แม่จงให้ผ้าสาฎกฉัน ฉันจะเล่นนักขัตฤกษ์.
Cậu bé nói với mẹ: “Mẹ ơi, hãy cho con tấm vải sāraka, con sẽ đi chơi lễ hội.”

มารดาได้นำผ้าที่ใช้แล้วมาให้.
Người mẹ đã mang tấm vải đã qua sử dụng đến cho cậu.

เขาปฏิเสธว่า ผ้านี้หยาบจ้ะแม่.
Cậu từ chối: “Tấm vải này thô quá, mẹ ơi.”

นางก็นำผืนอื่นมาให้ แม้ผ้าผืนนั้น เขาก็ปฏิเสธ.
Người mẹ lại mang một tấm khác đến, nhưng cậu cũng từ chối tấm đó.

ทีนั้น มารดาจึงกล่าวกะเขาว่า พ่อ เราเกิดในเรือนเช่นนี้ พวกเราไม่มีบุญที่จะได้ผ้าเนื้อละเอียดกว่านี้.
Lúc đó, người mẹ nói với cậu: “Con ơi, chúng ta sinh ra trong gia đình này, chúng ta không có phước để có được vải chất lượng tốt hơn.”

เขากล่าวว่า แม่จ๋า ถ้าอย่างนั้น ฉันจะไปยังที่ที่จะได้.
Cậu bé đáp: “Mẹ ơi, nếu vậy thì con sẽ đi đến nơi có thể có.”

มารดากล่าวว่า ลูกเอ๋ย แม่ปรารถนาให้เจ้าได้ราชสมบัติในกรุงพาราณสีวันนี้ทีเดียวน่ะ.
Người mẹ nói: “Con ơi, mẹ mong rằng con sẽ có được vương quyền ở Bārāṇasī ngay hôm nay.”

เขาไหว้มารดาแล้วกล่าวว่า ฉันไปละแม่.
Cậu bé lễ mẹ rồi nói: “Con đi đây, mẹ.”

มารดาว่า ไปเถอะพ่อ.
Người mẹ nói: “Đi đi, con.”

นัยว่ามารดาของเขามีความคิดอย่างนี้ว่า มันจะไปไหน คงจักนั่งที่นี่ ที่นั่นอยู่ในเรือนหลังนี้แหละ.
Ý nghĩ của mẹ cậu là: “Nó sẽ đi đâu, có lẽ nó sẽ ngồi ở đây, trong ngôi nhà này.”

ก็กุมารนั้นออกไปตามกำหนดของบุญไปถึงกรุงพาราณสี นอนคลุมศีรษะอยู่บนแผ่นมงคลสิลาอาสน์ ในพระราชอุทยาน.
Cậu bé đã đi đến Bārāṇasī theo định mệnh của nghiệp tốt và nằm che đầu trên tấm thảm thánh nằm trong vườn hoàng gia.

ก็พระเจ้าพาราณสีนั้นสวรรคตแล้วเป็นวันที่ ๗.
Khi vua Bārāṇasī qua đời, thì đó là ngày thứ bảy.

อำมาตย์ทั้งหลายทำการถวายพระเพลิงแล้วนั่งปรึกษาอยู่ที่พระลานหลวงว่า พระราชามีแต่พระธิดา ไม่มีพระราชโอรส ราชสมบัติไม่มีพระราชา ไม่สมควร ใครจะเป็นพระราชา ต่างพูดกันว่า ท่านเป็น ท่านเป็น.
Các quan lại đã tổ chức lễ hỏa táng cho nhà vua và ngồi thảo luận tại quảng trường hoàng gia rằng: “Nhà vua chỉ có công chúa, không có con trai, không có ai kế thừa ngai vàng, thật là không đúng. Ai sẽ là vua?” Họ đều nói: “Ngài sẽ là vua, ngài sẽ là vua.”

ปุโรหิตกล่าวว่า ไม่ควรเลือกมาก เอาเถอะ พวกเราจักเชิญเทวดาแล้วเสี่ยงบุษยรถ (รถเสี่ยงปล่อยไปเพื่อหาผู้ที่สมควรจะครองราชย์ เมื่อพระราชาองค์ก่อนสวรรคตแล้ว ไม่มีรัชทายาท) ไป.
Người phụ tá nói: “Không nên chọn lựa nhiều, hãy như vậy. Chúng ta sẽ mời các vị thần và cho xe tiên tri đi.”

อำมาตย์เหล่านั้นเทียมม้าสินธพ ๔ ตัวมีสีดังดอกโกมุท แล้วตั้งเครื่องราชกกุธภัณฑ์ ๕ อย่างกับเศวตฉัตรไว้บนรถนั่นแหละ ปล่อยบุษยรถนั้นไปให้ประโคมดนตรีไปข้างหลัง.
Các quan lại đã trang bị bốn con ngựa màu như hoa sen, rồi đặt năm biểu tượng hoàng gia với chiếc ô trắng lên xe đó, cho xe tiên tri đó chạy và chơi nhạc ở phía sau.

รถออกทางประตูด้านทิศปราจีน บ่ายหน้าไปทางพระราชอุทยาน.
Xe đi ra qua cổng ở phía Đông, hướng về vườn hoàng gia.

อำมาตย์บางพวกกล่าวว่า รถบ่ายหน้าไปทางพระราชอุทยาน เพราะความคุ้นเคย พวกท่านจงให้กลับมา.
Một số quan lại nói: “Xe đi về vườn hoàng gia vì quen thuộc, các ngài hãy cho xe quay lại.”

ปุโรหิตกล่าวว่า อย่าให้กลับ.
Người phụ tá đáp: “Đừng cho quay lại.”

รถทำประทักษิณกุมารแล้วได้หยุดเตรียมพร้อมที่จะให้ขึ้น ปุโรหิตเลิกชายผ้าห่มตรวจดูพื้นเท้ากล่าวว่า ทวีปนี้จงยกไว้ ผู้นี้สมควรครองราชย์ในทวีปทั้ง ๔ มีทวีปสองพันเป็นบริวาร แล้วสั่งให้ประโคมดนตรีขึ้น ๓ ครั้งว่า พวกท่านจงประโคมดนตรีขึ้นอีก.
Xe đã vòng quanh cậu bé và dừng lại, sẵn sàng cho việc lên xe. Người phụ tá đã nhấc tấm vải phủ và kiểm tra nền đất, rồi nói: “Vùng đất này hãy được nâng lên, người này đáng để cai trị trong bốn vùng đất, có hai ngàn vùng đất làm phụ thuộc.” Sau đó, ông ra lệnh cho nhạc sĩ chơi nhạc ba lần và nói: “Các ngài hãy chơi nhạc thêm một lần nữa.”

ครั้งนั้น กุมารเปิดหน้ามองดูแล้วพูดว่า พ่อทั้งหลาย พวกท่านมาด้วยกิจกรรมอะไรกัน.
Lúc đó, cậu bé mở mặt ra nhìn và nói: “Các cha, các ngài đến đây để làm gì?”

พวกอำมาตย์ทูลว่า ข้าแต่สมมติเทพ ราชสมบัติถึงแก่พระองค์.
Các quan đáp: “Kính bạch Ngài, ngai vàng đã đến tay Ngài.”

กุมาร. พระราชาไปไหน.
Cậu bé hỏi: “Nhà vua đi đâu rồi?”

อำมาตย์. ทิวงคตแล้ว นาย.
Các quan trả lời: “Ngài ấy đã qua đời, thưa ngài.”

กุมาร. ล่วงไปกี่วันแล้ว.
Cậu bé hỏi: “Đã qua bao nhiêu ngày rồi?”

อำมาตย์. วันนี้เป็นวันที่ ๗.
Các quan đáp: “Hôm nay là ngày thứ bảy.”

กุมาร. พระราชโอรสหรือพระราชธิดาไม่มีหรือ?
Cậu bé hỏi: “Có con trai hay con gái nào không?”

อำมาตย์. ข้าแต่สมมติเทพ พระราชธิดามี พระราชโอรสไม่มี.
Các quan đáp: “Kính bạch Ngài, có công chúa nhưng không có hoàng tử.”

กุมาร. เราจักครองราชย์.
Cậu bé nói: “Chúng ta sẽ lên ngai vàng.”

อำมาตย์เหล่านั้นสร้างมณฑปสำหรับอภิเศกในขณะนั้นทันที ประดับพระราชธิดาด้วยเครื่องอลังการทุกอย่างนำมายังพระราชอุทยาน ทำการอภิเษกกับกุมาร.
Các quan lại lập tức xây dựng một đền thờ cho lễ đăng quang, trang trí công chúa bằng mọi thứ lộng lẫy và đưa cô đến vườn hoàng gia để tổ chức lễ đăng quang cho cậu bé.

ครั้งนั้น เมื่อพระกุมารทำการอภิเษกแล้ว ประชาชนนำผ้ามีราคาแสนหนึ่งมาถวาย.
Khi cậu bé đã làm lễ đăng quang, dân chúng đã dâng tặng một tấm vải trị giá một trăm ngàn.

พระกุมารกล่าวว่า นี้อะไรพ่อ.
Cậu bé hỏi: “Đây là gì vậy, cha?”

พวกอำมาตย์ทูลว่า ข้าแต่สมมติเทพ ผ้านุ่งพระเจ้าข้า,
Các quan đáp: “Kính bạch Ngài, đây là tấm vải mà Ngài sẽ mặc, thưa Ngài.”

พระกุมาร. เนื้อหยาบมิใช่หรือ พ่อ. ผ้าอื่นที่เนื้อละเอียดกว่านี้ไม่มีหรือ?
Cậu bé nói: “Chẳng phải vải này thô sao, cha? Không có tấm vải nào khác mịn hơn sao?”

อำมาตย์. ข้าแต่สมมติเทพ ในบรรดาผ้าที่มนุษย์ทั้งหลายใช้สอย ผ้าที่เนื้อละเอียดกว่านี้ไม่มี พระเจ้าข้า.
Các quan đáp: “Kính bạch Ngài, trong số vải mà mọi người sử dụng, không có vải nào mịn hơn vải này, thưa Ngài.”

พระกุมาร. พระราชาของพวกท่านทรงนุ่งผ้าเห็นปานนี้หรือ?
Cậu bé hỏi: “Nhà vua của các ngài có mặc vải như thế này không?”

อำมาตย์. พระเจ้าข้า ข้าแต่สมมติเทพ.
Các quan đáp: “Thưa Ngài, đúng vậy, Kính bạch Ngài.”

พระกุมาร. พระราชาของพวกท่านคงจะไม่มีบุญ พวกท่านจงนำพระเต้าทองมา เราจักได้ผ้า.
Cậu bé nói: “Nhà vua của các ngài chắc hẳn không có phước. Hãy mang cho tôi chiếc túi vàng, tôi sẽ có được vải.”

อำมาตย์เหล่านั้นนำพระเต้าทองมาถวาย.
Các quan đã mang chiếc túi vàng đến dâng cho cậu.

พระกุมารนั้นลุกขึ้นล้างพระหัตถ์บ้วนพระโอฐ เอาพระหัตถ์วักน้ำสาดไปทางทิศตะวันออก.
Cậu bé đứng dậy, rửa tay và súc miệng, rồi dùng tay hất nước về phía đông.

ในขณะนั้นเอง ต้นกัลปพฤกษ์ก็ชำแรกแผ่นดินทึบผุดขึ้นมา ๘ ต้น ทรงวักน้ำสาดไปอีกทั่วทิศ ๓ ทิศอย่างนี้ คือ ทิศใต้ ทิศตะวันตก ทิศเหนือ.
Ngay lúc đó, cây Caltrop đã mọc lên từ mặt đất kiên cố, 8 cây, và cậu đã hất nước đi về ba hướng khác là phía nam, phía tây và phía bắc.

ต้นกัลปพฤกษ์ผุดขึ้นในทิศทั้ง ๔ ทิศละ ๘ ต้น รวมเป็น ๓๒ ต้น.
Cây Caltrop đã mọc lên ở bốn hướng, mỗi hướng 8 cây, tổng cộng là 32 cây.

พระกุมารนั้นทรงนุ่งผ้าทิพผืนหนึ่ง ทรงห่มผืนหนึ่ง แล้วรับสั่งว่า พวกท่านจงเที่ยวตีกลองป่าวร้องอย่างนี้ว่า ในแว่นแคว้นของพระเจ้านันทราช พวกสตรีที่ทำหน้าที่กรอด้าย อย่ากรอด้วย ดังนี้แล้วให้ยกฉัตรขึ้นทรงประดับตกแต่งพระองค์ ทรงขึ้นช้างตัวประเสริฐเสด็จเข้าพระนคร ขึ้นสู่ปราสาทเสวยมหาสมบัติ.
Cậu bé đã mặc một tấm vải thần thánh và phủ một tấm khác, rồi ra lệnh: “Các ngài hãy đánh trống và thông báo rằng: ‘Trong vương quốc của vua Nanda, các phụ nữ đang làm nhiệm vụ cuốn chỉ, không được cuốn chỉ nữa.'” Sau đó, họ nâng chiếc ô lên, trang trí cho cậu, cậu cưỡi một con voi lớn vào thành phố, hướng đến cung điện để tận hưởng sự giàu có.

ครั้นกาลเวลาล่วงไปด้วยอาการอย่างนี้ วันหนึ่งพระเทวีเห็นมหาสมบัติของพระราชาแล้ว ทรงแสดงอาการของความกรุณาว่า โอ ท่านผู้มีตปะ.
Thời gian trôi qua như vậy, một ngày nọ, hoàng hậu thấy sự giàu có của nhà vua, đã thể hiện sự từ bi và nói: “Ôi, bậc có công đức.”

ถูกพระราชาตรัสถามว่า นี่อะไรกันนะ เทวี.
Nhà vua hỏi: “Điều gì vậy, hoàng hậu?”

จึงทูลว่า ข้าแต่สมมติเทพ สมบัติของพระองค์ยิ่งใหญ่ ในอดีตกาล พระองค์ได้ทรงเชื่อต่อพระพุทธะทั้งหลายได้ทำกรรมดีไว้ เดี๋ยวนี้ ยังไม่ทรงกระทำกุศลอันจะเป็นปัจจัยแก่อนาคต.
Cô đáp: “Kính bạch Ngài, tài sản của Ngài thật vĩ đại. Trong quá khứ, Ngài đã tin tưởng vào các vị Phật và đã tạo ra nhiều nghiệp tốt. Nhưng bây giờ, Ngài chưa thực hiện những điều thiện nào để trở thành nguyên nhân cho tương lai.”

พระราชาตรัสว่า เราจักให้แก่ใคร ผู้มีศีลไม่มี.
Nhà vua nói: “Tôi sẽ cho ai đây, khi mà không có ai giữ giới?”

พระเทวีทูลว่า ข้าแต่สมมติเทพ ชมพูทวีปไม่ว่างจากพระอรหันต์ทั้งหลายดอก พระองค์โปรดทรงตระเตรียมทานไว้เท่านั้น หม่อมฉันจะขอพระอรหันต์ในวันรุ่งขึ้น.
Hoàng hậu đáp: “Kính bạch Ngài, châu Á không thiếu các vị A-la-hán. Xin Ngài hãy chuẩn bị đồ cúng, tôi sẽ mời các vị A-la-hán vào ngày mai.”

พระราชารับสั่งให้ตระเตรียมทานไว้ที่ประตูด้านทิศปราจีน.
Nhà vua đã ra lệnh chuẩn bị thức ăn tại cửa phía Đông.

พระเทวีทรงอธิษฐานองค์อุโบสถแต่เช้าตรู่บ่ายหน้าไปทางทิศตะวันออก หมอบลงบนปราสาทชั้นบนแล้วกล่าวว่า ถ้าพระอรหันต์มีอยู่ในทิศนี้ พรุ่งนี้ขอนิมนต์มารับภิกษาหารของข้าพเจ้าทั้งหลายเถิด.
Hoàng hậu đã cầu nguyện từ sáng sớm, hướng về phía Đông, quỳ trên tòa cung điện và nói: “Nếu có vị A-la-hán ở hướng này, xin mời ngài đến nhận đồ cúng của chúng tôi vào ngày mai.”

ในทิศนั้นไม่มีพระอรหันต์ก็ได้ให้สักการะที่เตรียมไว้นั้นแก่คนกำพร้าและยาจก.
Tại hướng đó không có vị A-la-hán, nên những thức ăn đã chuẩn bị đó được dâng cho những người mồ côi và người nghèo.

ในวันรุ่งขึ้นตระเตรียมทานไว้ทางประตูทิศใต้ แล้วได้กระทำเหมือนอย่างนั้น.
Vào ngày hôm sau, đồ cúng đã được chuẩn bị ở cửa phía Nam, và làm giống như vậy.

ในวันรุ่งขึ้นทางประตูทิศตะวันตกก็ได้กระทำเหมือนอย่างนั้น.
Vào ngày hôm sau, tại cửa phía Tây cũng đã làm như vậy.

ก็ในวันที่ทรงตระเตรียมไว้ทางประตูทิศเหนือ พระมหาปทุมปัจเจกพุทธเจ้าผู้เป็นพี่ชายของพระปัจเจกพุทธเจ้า ๕๐๐ องค์ผู้เป็นโอรสของพระนางปทุมวดี อยู่ในป่าหิมวันต์ เรียกพระปัจเจกพุทธเจ้าผู้เป็นน้องชายซึ่งถูกพระเทวีนิมนต์อย่างนั้นมาว่า ท่านผู้นิรทุกข์ทั้งหลาย พระเจ้านันทราชนิมนต์ ท่านทั้งหลายจงรับนิมนต์ของท้าวเธอเถิด.
Vào ngày mà đồ cúng được chuẩn bị tại cửa phía Bắc, Đức Phật Mahāpatum, anh trai của 500 vị Độc Giác, là con trai của hoàng hậu Patumvadi, đang ở trong rừng Himalaya. Ngài gọi vị Độc Giác, là em trai, người đã được hoàng hậu mời, và nói: “Các vị không còn khổ, vua Nanda đã mời các vị, hãy nhận lời mời của ngài.”

พระปัจเจกพุทธเจ้าเหล่านั้นรับนิมนต์แล้ว ในวันรุ่งขึ้นล้างหน้าที่สระอโนดาดแล้วเหาะไปลงที่ประตูทิศเหนือ.
Các vị Độc Giác đã nhận lời mời và vào ngày hôm sau, đã rửa mặt tại hồ Anodada rồi bay xuống tại cửa phía Bắc.

พวกมนุษย์มากราบทูลแก่พระราชาว่า ข้าแต่สมมติเทพ พระปัจเจกพุทธเจ้า ๕๐๐ องค์มาแล้ว พระเจ้าข้า.
Những người dân đã bái lạy và báo cho nhà vua: “Kính bạch Ngài, 500 vị Độc Giác đã đến.”

พระราชาเสด็จไปพร้อมกับพระเทวี ไหว้แล้วรับบาตรนิมนต์พระปัจเจกพุทธเจ้าทั้งหลายขึ้นสู่ปราสาท ถวายทานแก่พระปัจเจกพุทธเจ้าเหล่านั้นบนปราสาทนั้น.
Nhà vua cùng hoàng hậu đến, lễ lạy và mời các vị Độc Giác lên cung điện, dâng thức ăn cho các vị trên đó.

ในเวลาเสร็จภัตตกิจ พระราชาหมอบที่ใกล้เท้าพระสังฆเถระ พระเทวีหมอบที่ใกล้เท้าพระสังฆนวกะ แล้วกล่าวว่า ข้าแต่พระผู้เป็นเจ้าทั้งหลาย ท่านทั้งหลายจักไม่ลำบากด้วยเรื่องปัจจัย และข้าพเจ้าทั้งหลายก็จักไม่ทำบุญให้เสื่อม ขอท่านทั้งหลายจงให้ปฏิญญาเพื่ออยู่ในที่นี้ตลอดอายุของข้าพเจ้าทั้งหลายเถิด.
Khi xong bữa ăn, nhà vua quỳ gần chân của các vị thượng tọa, còn hoàng hậu quỳ gần chân của các vị tân thượng tọa, và nói: “Kính bạch các Ngài, xin các Ngài đừng gặp khó khăn về nhu cầu, và chúng tôi cũng không làm giảm phước, mong các Ngài hãy hứa sống ở đây trong suốt đời của chúng tôi.”

ครั้นให้ท่านรับปฏิญญาแล้วจึงให้ตกแต่งสถานที่สำหรับอยู่อาศัยแก่พระปัจเจกพุทธเจ้าเหล่านั้นในพระอุทยาน โดยอาการทั้งปวง คือ บรรณศาลา ๕๐๐ หลัง ที่จงกรม ๕๐๐ ที่ แล้วให้ท่านอยู่ในที่นั้นนั่นแล.
Sau khi nhận lời hứa, nhà vua đã chuẩn bị nơi ở cho các vị Độc Giác trong vườn hoàng gia với tất cả mọi thứ, bao gồm 500 căn phòng và 500 nơi để thiền hành, và để các vị ở lại đó.

ครั้นกาลเวลาล่วงไปด้วยประการอย่างนั้น เมืองชายแดนของพระราชาก่อการกำเริบขึ้น.
Thời gian trôi qua như vậy, và thành phố biên giới của nhà vua bắt đầu nổi loạn.

พระองค์ทรงโอวาทพระเทวีว่า พี่จะไประงับเมืองชายแดน เธออย่าละเลยพระปัจเจกพุทธเจ้าทั้งหลาย แล้วเสด็จออกไปจากพระนคร.
Nhà vua đã dặn dò hoàng hậu: “Chị sẽ đi dẹp thành phố biên giới, đừng quên các vị Độc Giác.” Rồi Ngài đã rời khỏi thành phố.

เมื่อพระองค์ยังไม่เสด็จกลับ พระปัจเจกพุทธเจ้าทั้งหลายก็สิ้นอายุสังขาร.
Khi nhà vua vẫn chưa trở về, các vị Độc Giác đã viên tịch.

พระมหาปทุมปัจเจกพุทธเจ้าเล่นฌานตลอดราตรีทั้ง ๓ ยาม ในเวลาอรุณขึ้นยืนเหนี่ยวแผ่นกระดานสำหรับยึด ปรินิพพานด้วยอนุปาทิเสสนิพพานธาตุ แม้พระปัจเจกพุทธเจ้าที่เหลือทั้งหมดทีเดียว ก็ปรินิพพานแล้วโดยวิธีนั้น.
Đức Phật Mahāpatum đã thiền suốt đêm trong ba khung thời gian. Vào lúc bình minh, Ngài đứng tựa vào tấm ván để tiến vào niết bàn với niết bàn vô tác. Cả những vị Độc Giác còn lại cũng đã viên tịch bằng cách như vậy.

ในวันรุ่งขึ้น พระเทวีให้กระทำที่นั่งของพระปัจเจกพุทธเจ้าทั้งหลาย ให้ชะอุ่มด้วยของสดเขียว โปรยดอกไม้ จุดเครื่องหอม นั่งคอยพระปัจเจกพุทธเจ้าทั้งหลายมา เมื่อไม่เห็นมาจึงส่งราชบุรุษไปว่า พ่อจงไป จงรู้ว่า พระผู้เป็นเจ้าทั้งหลายไม่มีความผาสุกอย่างไร?
Vào ngày hôm sau, hoàng hậu đã chuẩn bị chỗ ngồi cho các vị Độc Giác, trang trí bằng cỏ xanh tươi, rải hoa và đốt hương. Bà ngồi đợi các vị đến. Khi không thấy ai đến, bà đã sai người hầu đi: “Này, hãy đi và xem các vị đang không an lạc như thế nào.”

ราชบุรุษนั้นไปแล้วเปิดประตูบรรณศาลาของพระมหาปทุมปัจเจกพุทธเจ้า เมื่อไม่พบในบรรณศาลานั้น จึงไปยังที่จงกรม เห็นท่านยืนพิงแผ่นกระดานสำหรับยึด จึงไหว้แล้วกล่าวว่า ได้เวลาแล้วเจ้าข้า. สรีระของท่านผู้ปรินิพพานแล้ว จักพูดได้อย่างไร.
Người hầu đã đến và mở cửa bát bảo của Đức Phật Mahāpatum. Khi không tìm thấy trong đó, ông đã đi đến nơi thiền hành. Thấy Ngài đứng tựa vào tấm ván, ông lễ lạy và nói: “Đã đến giờ rồi, thưa Ngài. Thân thể của Ngài đã viên tịch, làm sao có thể nói được.”

ราชบุรุษนั้นคิดว่าเห็นจะหลับ จึงเดินไปเอามือลูบที่หลังเท้า รู้ว่าปรินิพพานแล้ว เพราะเท้าทั้งสองเย็นและแข็ง จึงไปยังสำนักของพระปัจเจกพุทธเจ้าองค์ที่ ๒ เมื่อรู้ว่าองค์ที่ ๒ ปรินิพพานแล้วอย่างนั้น ก็ไปยังสำนักของพระปัจเจกพุทธเจ้าองค์ที่ ๓ รู้ว่าพระปัจเจกพุทธเจ้าทุกองค์ปรินิพพานแล้วด้วยประการดังนี้ จึงไปยังราชสกุล.
Người hầu nghĩ rằng Ngài có thể đang ngủ, nên tiến lại sờ vào chân, và nhận ra rằng Ngài đã viên tịch vì hai bàn chân lạnh và cứng. Ông đã đi đến nơi của vị Độc Giác thứ hai, và khi biết rằng Ngài cũng đã viên tịch, ông tiếp tục đến nơi của vị Độc Giác thứ ba. Khi biết rằng tất cả các vị Độc Giác đã viên tịch, ông trở về hoàng cung.

พระเทวีตรัสถามว่า พระปัจเจกพุทธเจ้าทั้งหลายไปไหนพ่อ จึงกราบทูลว่า ข้าแต่พระเทวี พระปัจเจกพุทธเจ้าทั้งหลายปรินิพพานแล้ว.
Hoàng hậu hỏi: “Các vị Độc Giác đi đâu rồi?” Người hầu thưa: “Kính bạch Hoàng hậu, các vị Độc Giác đã viên tịch.”

พระเทวีทรงกรรแสงคร่ำครวญเสด็จออกไปที่บรรณศาลานั้นพร้อมกับชาวเมือง รับสั่งให้เล่นสาธุกีฬา (การเล่นที่เกี่ยวกับเรื่องอนิจจัง ทุกขัง อนัตตา) กระทำฌาปนกิจสรีระของพระปัจเจกพุทธเจ้าเหล่านั้น แล้วเก็บธาตุสร้างพระเจดีย์ไว้.
Hoàng hậu khóc lóc, cùng với dân chúng đi đến bát bảo, và ra lệnh tổ chức lễ cầu nguyện (một hoạt động liên quan đến sự vô thường, khổ đau, và vô ngã) để hỏa táng thân thể của các vị Độc Giác, và thu thập di tích để xây dựng tháp.

พระราชาทรงปราบเมืองชายแดนให้สงบแล้วเสด็จกลับมา รับสั่งถามพระเทวีผู้เสด็จมาต้อนรับว่า แม่มหาจำเริญ เธอไม่ประมาท (คือไม่ละเลย) ในพระปัจเจกพุทธเจ้าทั้งหลายหรือ? พระผู้เป็นเจ้าทั้งหลายสบายดีหรือ?
Nhà vua đã dẹp yên thành phố biên giới rồi trở về, và hỏi hoàng hậu: “Người yêu dấu, nàng có không quên (hay bỏ mặc) các vị Độc Giác không? Các ngài có được yên ổn không?”

พระเทวีทูลว่า ข้าแต่สมมติเทพ พระผู้เป็นเจ้าทั้งหลายปรินิพพานเสียแล้ว.
Hoàng hậu thưa: “Kính bạch Ngài, các vị Độc Giác đã viên tịch rồi.”

พระราชาทรงพระดำริว่า มรณะยังเกิดแก่บัณฑิตทั้งหลายเห็นปานนี้ พวกเราจะพ้นไปแต่ไหน พระองค์ไม่เสด็จไปพระนคร เสด็จเข้าไปยังพระราชอุทยานเลยทีเดียว รับสั่งให้เรียกพระโอรสองค์ใหญ่มาแล้วมอบราชสมบัติแก่พระโอรสนั้นแล้วโอวาท.
Nhà vua suy nghĩ: “Cái chết cũng xảy ra với những bậc trí thức như vậy, thì chúng ta sẽ thoát khỏi đâu?” Ngài không đi vào thành phố mà đi vào vườn hoàng gia, rồi ra lệnh triệu hồi hoàng tử lớn đến, trao ngai vàng cho hoàng tử đó và ban lời dạy bảo.

ส่วนพระองค์ทรงผนวชเป็นสมณะประเภทหนึ่ง.
Còn nhà vua đã xuất gia thành một sa môn.

ฝ่ายพระเทวีเมื่อพระราชาทรงผนวชแล้วทรงดำริว่า เราจะทำอะไร จึงทรงผนวชอยู่ในพระราชอุทยานนั้นเอง.
Hoàng hậu, khi nhà vua đã xuất gia, suy nghĩ: “Chúng ta sẽ làm gì đây?” Và bà cũng đã xuất gia trong vườn hoàng gia đó.

พระราชาและพระเทวีแม้ทั้งสองนั้นบำเพ็ญฌานได้จุติจากอัตตภาพนั้นไปบังเกิดในพรหมโลก.
Cả nhà vua và hoàng hậu đều thực hành thiền định và đã từ bỏ thân xác, sinh ra ở cõi trời.

เมื่อคนทั้งสองนั้นอยู่ในพรหมโลกนั้นนั่นแหละ พระศาสดาของเราทั้งหลายอุบัติขึ้นในโลกประกาศพระธรรมจักรอันประเสริฐ เสด็จเข้าไปยังกรุงราชคฤห์โดยลำดับ.
Khi cả hai ở cõi trời, Đức Phật của chúng ta đã xuất hiện trên thế gian, tuyên bố về Chánh pháp cao quý, và Ngài đã lần lượt đi vào thành Rājagaha.

เมื่อพระศาสดาประทับอยู่ในกรุงราชคฤห์นั้น ปิบผลิมาณพนี้บังเกิดในท้องภรรยาหลวงของกบิลพราหมณ์ในพราหมณ์คามชื่อมหาติตถะ ในมคธรัฐ.
Khi Đức Phật ngự tại thành Rājagaha, một vị Bà la môn tên là Mahatittha đã được sinh ra trong bụng của vợ cả của một Bà la môn ở làng Kabilā.

นางภัททากาปิลานี นี้บังเกิดในท้องของภรรยาหลวงของพราหมณ์โกลิยโคตร ในสาคลนครในมคธรัฐ.
Cô Pataṅkāpi là con gái của một Bà la môn trong dòng họ Koliyas, được sinh ra trong thành Sākala thuộc vương quốc Magadha.

เมื่อชนทั้งสองนั้นเติบโตขึ้นโดยลำดับ เมื่อนางภัททามีอายุถึงปีที่ ๑๖ ในปีที่ ๒๐ ของปิบผลิมาณพ บิดามารดามองดูบุตรแล้วแค่นได้อย่างหนักว่า พ่อ เจ้าก็เติบโตแล้ว ธรรมดาว่าตระกูลวงศ์จำต้องให้ดำรงอยู่.
Khi cả hai trưởng thành dần dần, khi cô Pataṅkā đến tuổi 16 và vị Bà la môn đến tuổi 20, cha mẹ nhìn con cái và thở dài nói: “Con đã lớn rồi, thật là tự nhiên rằng dòng họ phải tiếp tục.”

มาณพกล่าวว่า ท่านทั้งสองอย่าได้กล่าวถ้อยคำเห็นปานนี้เข้าหูลูกเลย ลูกจะปฏิบัติตราบเท่าที่ท่านทั้งสองยังมีชีวิตอยู่ ต่อเมื่อท่านทั้งสองล่วงลับไปแล้ว ลูกจักบวช.
Vị Bà la môn nói: “Cha mẹ đừng nói những lời như vậy với con. Con sẽ thực hành cho đến khi hai người còn sống. Sau khi hai người qua đời, con sẽ xuất gia.”

บิดามารดาให้เวลาล่วงเลยไป ๒-๓ วันก็กล่าวอีก แม้มาณพนั้นก็ปฏิเสธเหมือนเดิมนั้นแหละ ตั้งแต่นั้น มารดาได้กล่าว (ถึงการแต่งงาน) อยู่เรื่อยๆ ทีเดียว.
Cha mẹ đã để trôi qua 2-3 ngày rồi lại nói điều đó, nhưng vị Bà la môn vẫn từ chối như trước. Từ đó, mẹ liên tục nhắc đến (vấn đề kết hôn).

มาณพคิดว่า เราจะยังมารดาให้ยินยอม จึงเอาทองคำสีสุกปลั่งพันลิ่ม ให้ช่างทองทำรูปหญิงคนหนึ่ง ในเวลาเสร็จงานมีการขัดและบุบเป็นต้นซึ่งรูปหญิงนั้น จึงให้รูปหญิงนั้นนุ่งผ้าแดง ประดับด้วยดอกไม้อันสมบูรณ์ด้วยสีและเครื่องประดับต่างๆ แล้วให้เรียกมารดามาพูดว่า คุณแม่ เมื่อลูกได้อารมณ์เห็นปานนี้จึงจะแต่งงาน ถ้าไม่ได้จักไม่แต่ง.
Vị Bà la môn nghĩ rằng: “Chúng ta sẽ khiến mẹ đồng ý.” Vậy nên cậu đã lấy vàng sáng bóng và nhờ thợ vàng làm hình một người phụ nữ. Khi hoàn thành, bức tượng có một số chỗ không hoàn hảo, vì vậy cậu đã cho hình người phụ nữ đó mặc áo đỏ, trang trí bằng hoa tươi và các trang sức khác. Sau đó, cậu gọi mẹ đến và nói: “Mẹ ơi, khi con nhìn thấy điều này, con mới cưới vợ. Nếu không, con sẽ không cưới.”

นางพราหมณีเป็นคนมีปัญญาจึงคิดว่า บุตรของเราเป็นผู้มีบุญ ให้ทานไว้แล้ว สร้างอภินิหารไว้แล้ว เมื่อจะกระทำบุญคงจะไม่ทำคนเดียว หญิงผู้ทำบุญร่วมกับบุตรของเรานี้ จักมีส่วนเปรียบด้วยทองคำแน่แท้ จึงให้เรียกพราหมณ์ ๘ คนมาเลี้ยงดูให้อิ่มหนำด้วยสิ่งที่ต้องการทุกอย่าง ให้ยกรูปทองคำ ขึ้นตั้งบนรถแล้วส่งไปว่า พ่อทั้งหลายจงพากันไป พบเห็นทาริกาเห็นปาน (ดังรูปทอง) นี้ ในตระกูลที่เสมอกันกับเราโดยชาติ โคตรและโภคทรัพย์ในที่ใด จงให้รูปทองนี้แหละให้เป็นบรรณการในที่นั้น.
Người mẹ Bà la môn, người thông minh, đã nghĩ rằng: “Con trai chúng ta có phước, đã cúng dường và tạo ra những điều kỳ diệu. Khi thực hiện phước, chắc chắn không thể làm một mình. Người phụ nữ cùng làm phước với con trai chúng ta chắc chắn sẽ tương đương với vàng.” Vì vậy, bà gọi tám vị Bà la môn đến để đãi đằng họ với những thứ cần thiết. Bà đã đặt bức tượng vàng lên xe và gửi đi: “Các vị hãy đi và tìm kiếm người con gái giống như (bức tượng vàng này) trong gia đình cùng dòng họ, và tài sản ở nơi nào, hãy để bức tượng vàng này làm quà cáp ở đó.”

พราหมณ์เหล่านั้นพากันออกไปด้วยตระหนักว่า นี้เป็นกิจกรรมชื่อว่าของพวกเรา จึงคิดว่าจะไปที่ไหน ตกลงกันว่า ธรรมดามัททรัฐเป็นบ่อเกิดแห่งสตรี พวกเราจักไปมัททรัฐ ดังนี้แล้ว จึงได้ไปยังสาคลนครในมัททรัฐ.
Các vị Bà la môn cùng nhau ra đi, nhận thức rằng đây là một hoạt động của họ, họ suy nghĩ rằng sẽ đi đâu. Cuối cùng, họ đồng ý rằng: “Theo truyền thống, Mātṛrāṭha là nơi sinh ra phụ nữ. Chúng ta sẽ đến Mātṛrāṭha.” Thế là họ đã đi đến thành phố Sākala ở Mātṛrāṭha.

ครั้งนั้น แม่นมของนางภัททาให้นางภัททาอาบน้ำแล้วแต่งตัวให้นั่งในห้องอันโอ่อ่าแล้ว (ตนเอง) จะไปอาบน้ำ เห็นรูปนั้นจึงขู่ด้วยเข้าใจว่าธิดาแห่งแม่เจ้าของเรามาที่นี้ กล่าวว่า แน่ะแม่หัวดื้อ มาที่นี้ทำไม แล้วเงื้อฝ่ามือตีที่ข้างแก้ม (พร้อมกับ) พูดว่าจงรีบไป.
Lúc đó, người hầu của cô Pataṅkā đã tắm rửa cho cô và mặc đồ cho cô ngồi trong một căn phòng trang nhã, rồi bà đi tắm. Khi thấy bức tượng đó, bà đã hiểu nhầm rằng đây là con gái của chủ nhân mình đến đây. Bà nói: “Ôi, cô gái cứng đầu, sao lại đến đây?” rồi giơ tay đánh vào má cô và nói: “Hãy nhanh chóng đi.”

มือสะท้อนเหมือนตีหิน.
Bàn tay vung lên như thể đánh vào đá.

แม่นมนั้นรู้ว่าเป็นของแข็งด้วยอาการอย่างนี้จึงเลี่ยงไปพูดว่า เราเห็นรูปทองเข้าก็เกิดความเข้าใจว่าธิดาแห่งแม่เจ้าของเรา ก็นางนี้ แม้จะเป็นผู้รับผ้านุ่งของธิดาแห่งแม่เจ้าของเรา ก็ยังไม่เหมาะสม.
Người hầu nhận ra đây là một vật cứng nên đã lùi lại và nói: “Khi tôi thấy bức tượng vàng, tôi đã hiểu rằng đây là con gái của chủ nhân tôi, nhưng ngay cả khi cô ấy là người nhận vải của con gái chủ nhân tôi, điều đó cũng không phù hợp.”

ทีนั้น พวกมนุษย์เหล่านั้นพากันห้อมล้อมนางแล้วถามว่า ธิดาแห่งเจ้านายของท่าน เห็นปานนี้ไหม?
Lúc đó, những người đó đã vây quanh cô và hỏi: “Con gái của ngài có giống như vậy không?”

หญิงแม่นมพูดว่า นางนี่น่ะหรือ ธิดาแห่งแม่เจ้าของเรางามยิ่งกว่านางนี้ร้อยเท่า พันเท่า เมื่อเธอนั่งอยู่ในห้องประมาณ ๑๒ ศอก กิจด้วยดวงประทีปไม่มี เธอขจัดความมือด้วยแสงสว่างจากสรีระนั้นแหละ.
Người hầu nói: “Cô ta sao? Con gái của chủ tôi còn đẹp hơn cô ta gấp trăm, gấp ngàn lần. Khi cô ấy ngồi trong căn phòng rộng khoảng 12 thước, ánh sáng từ cơ thể cô đã xua tan bóng tối.”

พวกมนุษย์เหล่านั้นกล่าวว่า ถ้าอย่างนั้น จงมากันเถอะ แล้วถือเครื่องบูชา ยกรูปทองคำขึ้นบนรถแล้วหยุดอยู่ที่ประตูบ้านของพราหมณ์โกสิยโคตร แจ้งให้ทราบถึงการมา.
Những người đó nói: “Nếu vậy, hãy đến đây,” rồi họ mang theo lễ vật, nâng bức tượng vàng lên xe và dừng lại trước cửa nhà của Bà la môn Gotama, thông báo về sự đến của họ.

พราหมณ์ทำปฏิสันถารแล้วถามว่า พวกท่านมาจากไหน?
Bà la môn đã tiếp đón và hỏi: “Các ngài từ đâu đến?”

ชนเหล่านั้นตอบว่า มาจากเรือนของกบิลพราหมณ์ ในมหาติตถคาม ในมคธรัฐ.
Họ trả lời: “Chúng tôi đến từ nhà của Bà la môn Kabilā ở thành Mahatittha, thuộc vương quốc Magadha.”

พราหมณ์ถาม มาเพราะเหตุไร? ชนเหล่านั้นตอบเพราะเหตุชื่อนี้.
Bà la môn hỏi: “Tại sao lại đến đây?” Họ đáp: “Vì lý do này.”

พราหมณ์กล่าวว่า งามละพ่อทั้งหลาย พราหมณ์ของพวกเรามีชาติ โคตรและทรัพย์สมบัติเสมอกัน เราจักให้ทาริกา (ลูกสาว) ดังนี้แล้วก็รับเครื่องบรรณาการ.
Bà la môn nói: “Các vị đẹp quá, gia đình chúng ta có nguồn gốc, dòng họ và tài sản tương xứng. Chúng tôi sẽ cho cô gái (con gái) đi.” Nói xong, ông nhận lễ vật.

ชนเหล่านั้นส่งข่าวแก่กบิลพราหมณ์ว่า ได้ทาริกาแล้ว ท่านจงทำสิ่งที่จะต้องทำ.
Họ đã báo cho Bà la môn Kabilā rằng: “Đã có cô gái rồi, ngài hãy làm những gì cần thiết.”

กบิลพราหณ์ได้สดับข่าวนั้นแล้วจึงบอกแก่ปิบผลิมาณพว่า เขาว่าได้ทาริกาแล้ว.
Bà la môn Kabilā nghe tin đó liền nói với vị Bà la môn: “Họ nói đã có cô gái rồi.”

มาณพคิดว่า เราคิดว่าจักไม่ได้ คนเหล่านี้พูดว่าได้แล้ว เราไม่มีความต้องการ จักส่งหนังสือไป (ให้รู้) แล้วไปในที่ลับ เขียนหนังสือว่า แม่ภัททาจงได้คู่ครองเรือนอันสมควรแก่ชาติ โคตรและทรัพย์สมบัติของตน เราจักออกบวช จะได้ไม่เดือดร้อนในภายหลัง.
Vị Bà la môn nghĩ rằng: “Tôi nghĩ rằng mình sẽ không có được. Những người này nói đã có, nhưng tôi không có mong muốn gì cả. Tôi sẽ gửi một bức thư (để thông báo) và đi đến nơi kín đáo.” Ông viết thư rằng: “Mẹ Pataṅkā hãy tìm cho con một người chồng phù hợp với dòng họ, nguồn gốc và tài sản của mình. Tôi sẽ xuất gia để không phải lo lắng sau này.”

แม้นางภัททาได้ฟังว่า เขาใคร่จะให้เราแก่คนโน้น จึงไปในที่ลับเขียนหนังสือว่า ลูกเจ้าจงได้คู่ครองเรือนอันสมควรแก่ชาติ โคตรและทรัพย์สมบัติของตน เราจักออกบวช จะได้ไม่เดือดร้อนในภายหลัง.
Khi cô Pataṅkā nghe rằng anh ấy muốn gả cô cho người khác, cô đã đi đến nơi kín đáo và viết thư rằng: “Con hãy tìm cho con một người chồng phù hợp với dòng họ, nguồn gốc và tài sản của con. Con sẽ xuất gia để không phải lo lắng trong tương lai.”

หนังสือทั้งสองฉบับมาประจวบกันในระหว่างทาง.
Hai bức thư gặp nhau trên đường.

ชนเหล่านั้น เมื่อถูกฝ่ายนางภัททาถามว่านี้หนังสือของใคร ก็กล่าวว่าปิบผลิมาณพส่งให้นางภัททา และเมื่อถูกฝ่ายปิบผลิมาณพถามว่านี้ของใคร ก็กล่าวว่านางภัททาส่งให้ปิบผลิมาณพ จึงพากันอ่านหนังสือแม้ทั้งสองฉบับ แล้วกล่าวว่า ท่านทั้งหลายจงดูการกระทำของเด็กๆ แล้วฉีกทิ้งไปในป่า
Khi bị cô Pataṅkā hỏi: “Bức thư này của ai?” họ trả lời rằng: “Đó là bức thư mà Bà la môn đã gửi cho cô Pataṅkā.” Và khi vị Bà la môn hỏi: “Cái này của ai?” họ lại đáp: “Đó là bức thư mà cô Pataṅkā gửi cho ông.” Sau đó, họ cùng nhau đọc cả hai bức thư và nói: “Hãy nhìn cách hành xử của những đứa trẻ này,” rồi xé nát chúng và vứt vào rừng.

เขียนหนังสืออันมีข้อความเสมอกันส่งไปให้คนทั้งสองนั้น ทั้งฝ่ายนี้และฝ่ายโน้น ดังนั้น คนทั้งสองนั้นไม่ปรารถนาเลย ก็ได้มา (อยู่) ร่วมกัน.
Họ viết một bức thư với nội dung tương tự và gửi đến cả hai người, và vì lý do đó, cả hai không còn mong muốn gì khác mà đã đến với nhau.

ในวันนั้นแล แม้มาณพก็เอาพวงดอกไม้พวงหนึ่งวางไว้ แม้นางภัททากาปิลานีก็เอาพวงดอกไม้พวงหนึ่งวางไว้.
Vào ngày đó, vị Bà la môn cũng đặt một vòng hoa và cô Pataṅkāpi cũng đặt một vòng hoa của mình.

คนแม้ทั้งสองบริโภคอาหารเย็นแล้ว วางพวงดอกไม้เหล่านั้นไว้กลางที่นอน มาพร้อมกันด้วยหวังใจว่าจักขึ้นที่นอน มาณพขึ้นที่นอนทางด้านขวา นางภัททาขึ้นที่นอนทางด้านซ้ายแล้วกล่าวว่า ดอกไม้ในด้านของคนใดเหี่ยว พวกเราจักรู้ได้ว่าราคจิตเกิดขึ้นแล้วแก่ผู้นั้น เพราะเหตุนั้น พวงดอกไม้นี้เราจึงไม่แตะต้อง.
Cả hai đã ăn tối xong, họ đặt những vòng hoa đó ở giữa giường, đến bên nhau với hy vọng sẽ lên giường. Vị Bà la môn nằm ở bên phải, còn cô Pataṅkā nằm bên trái và nói: “Nếu hoa bên ai héo, chúng ta sẽ biết rằng tâm trạng của người đó đã thay đổi. Vì vậy, chúng ta không chạm vào những vòng hoa này.”

ก็คนทั้งสองนั้นนอนไม่หลับตลอดราตรีทั้ง ๓ ยาม เพราะกลัวจะถูกตัวของกันและกัน จนราตรีล่วงไป.
Cả hai không thể ngủ suốt ba khung thời gian của đêm, vì sợ sẽ chạm vào nhau, cho đến khi đêm đã trôi qua.

อนึ่ง ในเวลากลางวันก็ไม่มีแม้สักว่าการยิ้มหัว.
Hơn nữa, vào ban ngày, họ cũng không thậm chí có một cái gật đầu.

คนทั้งสองนั้นไม่เกี่ยวข้องด้วยเรื่องโลกามิส ไม่จัดการทรัพย์สมบัติตราบเท่าที่บิดามารดายังมีชีวิตอยู่ เมื่อบิดามารดากระทำกาลกิริยาไปแล้ว จึงจัดการ.
Cả hai không dính líu gì đến chuyện thế gian, không quản lý tài sản cho đến khi cha mẹ họ còn sống. Khi cha mẹ qua đời, họ mới bắt đầu quản lý.

ปิบผลิมาณพมีสมบัติ (คิดเป็นเงิน) ๘๗ โกฏิ เฉพาะผงทองคำที่ใช้ขัดสีสรีระแล้วทิ้งไปวันหนึ่งๆ ควรได้ประมาณ ๑๒ ทะนานโดยทะนานมคธ.
Vị Bà la môn có tài sản trị giá 87 triệu, riêng chỉ tính bột vàng mà ông sử dụng để làm sạch cơ thể mỗi ngày, ước tính khoảng 12 lượng vàng theo lượng của Magadha.

มีเหมืองน้ำประมาณ ๖๐ แห่ง ติดเครื่องยนต์ มีการงานที่ทำ (กินเนื้อที่) ประมาณ ๑๒ โยชน์ มีหมู่บ้านทาส (๑๔ บ้าน) ขนาดเท่าเมืองอนุราธบุรี มีหัตถานึกคือกองช้าง ๑๔ กอง มีอัสสานึกคือกองม้า ๑๔ กอง มีรถานึกคือกองรถ ๑๔ กอง.
Có khoảng 60 mỏ nước, có máy móc, và công việc chiếm khoảng 12 dặm. Có 14 làng nô lệ, kích thước tương đương với thành phố Anuradhapura. Có 14 đội voi, 14 đội ngựa và 14 đội xe.

วันหนึ่ง ปิบผลิมาณพนั้นขึ้นม้าที่ประดับตกแต่งแล้ว แวดล้อมด้วยมหาชนไปยังที่ทำงาน ยืนอยู่ปลายนา เห็นพวกนกมีกาเป็นต้นคุ้ยเขี่ยสัตว์มีไส้เดือนเป็นต้น จากรอยไถเอามากิน จึงถามว่า พ่อทั้งหลาย สัตว์เหล่านี้กินอะไร?
Một ngày nọ, vị Bà la môn đó đã cưỡi ngựa được trang trí và đi đến nơi làm việc, đứng ở cuối cánh đồng. Thấy những con chim, như quạ, đang kiếm ăn từ những con giun trong các rãnh, cậu hỏi: “Này, các cha, những con vật này đang ăn gì vậy?”

มหาชนตอบว่า นายท่าน มันกินไส้เดือน.
Đám đông trả lời: “Thưa ngài, nó ăn giun đất.”

มาณพถามว่า บาปที่สัตว์เหล่านี้ทำเป็นของใคร? มหาชนตอบว่า นายท่าน บาปเป็นของท่าน.
Vị Bà la môn hỏi: “Tội lỗi mà những con vật này gây ra thuộc về ai?” Đám đông đáp: “Thưa ngài, tội lỗi thuộc về ngài.”

มาณพคิดว่า ถ้าบาปที่สัตว์เหล่านี้กระทำตกเป็นของเราไซร้ ทรัพย์ ๘๗ โกฏิจักทำอะไรแก่เรา การงาน ๑๒ โยชน์ เหมืองน้ำติดเครื่องยนต์ ๖๐ แห่ง หมู่บ้านทาส (๑๔ แห่ง) จักทำอะไรแก่เรา เราจะมอบทรัพย์สมบัติทั้งหมดนี้แก่ภัททากาปิลานี แล้วออกบวช.
Vị Bà la môn nghĩ: “Nếu tội lỗi mà những con vật này gây ra thuộc về tôi, thì 87 triệu tài sản có ý nghĩa gì với tôi? Công việc 12 dặm, 60 mỏ nước có máy móc, 14 làng nô lệ sẽ có ý nghĩa gì với tôi? Tôi sẽ giao tất cả tài sản này cho cô Pataṅkāpi rồi xuất gia.”

ขณะนั้น นางภัททากาปิลานีให้หว่านเมล็ดงา ๓ หม้อลงในระหว่างไร่ พวกแม่นมห้อมล้อมนั่งอยู่ เห็นพวกกากินสัตว์ในเมล็ดงาจึงถามว่า แม่ทั้งหลาย สัตว์เหล่านี้กินอะไร?
Lúc đó, cô Pataṅkāpi đang rải hạt vừng ba thúng trong cánh đồng. Những người hầu ngồi vây quanh thấy những con quạ ăn hạt trong đó, nên hỏi: “Này các chị, những con vật này đang ăn gì vậy?”

พวกแม่นมตอบว่า แม่เจ้า พวกมันกินสัตว์.
Những người hầu trả lời: “Thưa mẹ, chúng ăn giun.”

นางถามว่า อกุศลจะเป็นของใคร? พวกแม่นมตอบว่า เป็นของแม่เจ้า จ๊ะ.
Cô hỏi: “Tội lỗi sẽ thuộc về ai?” Những người hầu trả lời: “Là của mẹ, thưa mẹ.”

นางคิดว่า เราได้ผ้า ๔ ศอกและข้าวสุกประมาณหนึ่งทะนานก็ควร ก็ถ้าอกุศลนี้อันชนมีประมาณเท่านี้กระทำจะเป็นของเราไซร้ เราไม่อาจยกหัวขึ้นจากวัฏฏะตั้ง ๑,๐๐๐ ภพ เมื่อลูกเจ้าพอมาถึง เราจะมอบทรัพย์สมบัติทั้งหมดแก่ลูกเจ้านั้นแล้วออกบวช.
Cô suy nghĩ: “Tôi đã có 4 thước vải và khoảng một lượng cơm. Nếu tội lỗi này mà người ta thực hiện thì sẽ thuộc về tôi, tôi sẽ không thể ngẩng đầu lên từ vòng sinh tử 1.000 kiếp. Khi con của mẹ đến, tôi sẽ giao toàn bộ tài sản cho nó rồi xuất gia.”

มาณพมาแล้วอาบน้ำขึ้นปราสาทนั่งบนแท่นอันควรค่ามาก.
Vị Bà la môn đã đến, tắm rửa và ngồi trên ngai vàng quý giá.

ครั้งนั้น พวกพ่อครัวจัดแจงโภชนะอันสมควรแก่พระเจ้าจักรพรรดิ.
Lúc đó, những đầu bếp đã chuẩn bị những món ăn phù hợp cho vị vua.

ชนแม้ทั้งสองบริโภคแล้ว เมื่อปริวารชนออกไปแล้ว ก็ไปในที่รโหฐาน นั่งในที่ที่มีความผาสุก.
Cả hai cùng dùng bữa xong, khi những người hầu rời đi, họ đã đến một nơi riêng tư và ngồi ở chỗ thoải mái.

ลำดับนั้น มาณพกล่าวกะนางภัททาว่า แม่ภัททา เธอเมื่อจะมาเรือนนี้ นำเอาทรัพย์มาเท่าไร.
Sau đó, vị Bà la môn nói với cô Pataṅkā: “Cô Pataṅkā, khi cô đến nhà này, cô đã mang theo tài sản bao nhiêu?”

นางภัททากล่าวว่า พ่อเจ้า นำมาห้าหมื่นห้าพันเล่มเกวียน.
Cô Pataṅkā đáp: “Thưa ngài, tôi đã mang theo 55.000 chiếc xe.”

มาณพกล่าวว่า ทรัพย์ทั้งหมดนั่นกับทรัพย์ ๘๗ โกฏิในเรือนนี้ และสมบัติอันต่างด้วยเหมือง ๖๐ เหมืองเป็นต้นที่ติดเครื่องยนต์. ทั้งหมด เราขอมอบแก่เธอเท่านั้น.
Vị Bà la môn nói: “Tất cả tài sản đó cùng với 87 triệu trong ngôi nhà này và các tài sản khác từ 60 mỏ nước có máy móc. Tất cả, tôi xin giao cho cô.”

นางภัททากล่าวว่า พ่อเจ้า ก็ท่านเล่าจะไปไหน.
Cô Pataṅkā đáp: “Thưa ngài, vậy ngài sẽ đi đâu?”

มาณพ. เราจักบวช
Vị Bà la môn nói: “Chúng ta sẽ xuất gia.”

นางภัททา. แม้เราก็นั่งคอยการมาของท่านอยู่ แม้เราก็จักบวช.
Cô Pataṅkā nói: “Tôi cũng đang chờ đợi sự đến của ngài. Tôi cũng sẽ xuất gia.”

ภพทั้งสามปรากฏแก่คนทั้งสองนั้นเหมือนกุฎีใบไม้ถูกไฟไหม้ฉะนั้น.
Cả hai cảm nhận rằng ba cõi tồn tại như một túp lều lá bị lửa thiêu rụi.

คนทั้งสองนั้นให้นำผ้ากาสายะและบาตรดินมาจากตลาด ต่างปลงผมให้กันและกัน กล่าวว่า การบวชของเราทั้งสองอุทิศพระอรหันต์ในโลก แล้วสอดบาตรลงในถุงคล้องที่ไหล่ลงจากปราสาท.
Hai người đã nhờ mang vải sa-ky và bát đất từ chợ về, tự cạo tóc cho nhau, nói rằng: “Sự xuất gia của chúng ta sẽ cống hiến cho các vị A la hán trong thế giới.” Sau đó, họ cho bát vào túi đeo vai và đi xuống từ cung điện.

บรรดาทาสหรือกรรมกรทั้งหลายในเรือน ใครๆ จำไม่ได้.
Tất cả những nô lệ và người làm công trong nhà không ai nhớ được họ.

ครั้งนั้น ชนหมู่บ้านทาสจำคนทั้งสองนั้นซึ่งออกจากบ้านพราหมณ์ กำลังเดินไปทางประตูบ้านทาสได้ด้วยอากัปกิริยาท่าทาง.
Lúc đó, những người dân nô lệ nhớ đến hai người khi họ rời khỏi nhà Bà la môn và đang đi về hướng cửa nhà nô lệ với dáng vẻ như vậy.

ชนเหล่านั้นร้องไห้หมอบลงที่เท้ากล่าวว่า นายท่าน ท่านจะทำให้พวกข้าพเจ้าไร้ที่พึ่งหรือ.
Những người dân nô lệ đã quỳ xuống chân họ và khóc: “Thưa ngài, ngài sẽ làm cho chúng tôi không còn chỗ dựa sao?”

คนทั้งสองกล่าวว่า แน่ะพนาย เราทั้งหลายเห็นว่า ภพทั้งสามเหมือนบรรณศาลาถูกไฟไหม้ จึงได้บวช ถ้าเราจะกระทำบรรดาพวกท่านคนหนึ่งๆ ให้เป็นไทแม้ ๑๐๐ ปีก็ไม่พอ พวกท่านเท่านั้นจงล้างศีรษะของท่านเป็นไท เลี้ยงชีวิตอยู่เถิด.
Cả hai đáp: “Này, các ngài, chúng tôi thấy ba cõi giống như một cái giàn bị lửa thiêu rụi, nên chúng tôi quyết định xuất gia. Nếu chúng tôi cố gắng làm cho từng người trong các ngài trở nên tự do, ngay cả trong 100 năm cũng không đủ. Hãy cạo đầu đi và sống cuộc sống tự do.”

เมื่อชาวบ้านทาสเหล่านั้นคร่ำครวญอยู่นั่นแหละ ก็หลีกไปแล้ว.
Khi những người nô lệ đang than khóc, họ đã rời đi.

พระเถระเดินไปข้างหน้าหันกลับมาแลดูพลางคิดว่า ภัททากาปิลานีนี้เป็นหญิงมีค่าควรแก่ชมพูทวีปทั้งสิ้น.
Vị Độc Giác đi phía trước, quay lại nhìn và nghĩ: “Cô Pataṅkāpi này là người phụ nữ xứng đáng với cả đất nước Châu Á.”

เดินมาข้างหลังเรา มีฐานะอยู่ที่ใครๆ จะพึงคิดว่า ชนเหล่านี้แม้บวชแล้วก็ไม่อาจแยกกัน กระทำไม่สมควรดังนี้ เกิดความคิดว่า ใครๆ ทำใจให้ประทุษร้ายในเราทั้งหลาย จะพึงเต็มในอบาย ควรที่เราจะละนางไปเสีย.
Đi theo sau chúng ta, nếu mọi người nghĩ rằng những người này dù đã xuất gia nhưng vẫn không thể tách rời nhau, thì không thích hợp chút nào. Tôi nghĩ rằng bất kỳ ai cố gắng làm hại chúng ta thì sẽ phải chịu khổ, và tôi nên để cô ấy đi.

พระเถระเดินไปข้างหน้าเห็นทาง ๒ แพร่ง ได้หยุดอยู่ที่หัวทางนั้น.
Vị Độc Giác đi về phía trước thấy hai ngã rẽ và dừng lại ở đầu ngã rẽ.

ฝ่ายนางภัททามาแล้วไหว้ยืนอยู่. ครั้งนั้น พระเถระกล่าวกะนางภัททาว่า แม่นางเอย มหาชนเห็นสตรีเช่นเจ้าเดินมาข้างหลังเราจะคิดว่า ชนเหล่านี้แม้บวชแล้วก็ไม่อาจแยกกัน แล้วมีจิตประทุษร้ายในพวกเรา จะพึงเป็นผู้เต็มอยู่ในอบาย.
Khi cô Pataṅkā đến, bà chào và đứng đó. Lúc đó, vị Độc Giác nói với cô: “Thưa cô, nếu mọi người thấy một người phụ nữ như cô đi theo sau chúng ta, họ sẽ nghĩ rằng những người này dù đã xuất gia nhưng không thể tách rời nhau, và có thể có ý định làm hại chúng ta. Họ sẽ phải chịu khổ.”

พวกเรายืนอยู่แล้วในทาง ๒ แพร่งนี้ ท่านจงถือเอาทางสายหนึ่ง ฉันจะไปทางอีกสายหนึ่ง.
“Chúng ta đang đứng ở ngã rẽ này, cô hãy đi theo một con đường, tôi sẽ đi theo con đường còn lại.”

นางภัททากล่าวว่า จริงสิ พ่อเจ้าธรรมดามาตุคามเป็นมลทินของบรรพชิตทั้งหลาย ชนทั้งหลายจักแสดงโทษของพวกเราว่า คนเหล่านี้แม้บวชแล้วก็ยังไม่แยกกัน
Cô Pataṅkā nói: “Đúng vậy, thưa ngài, người phụ nữ bình thường là ô uế của các bậc xuất gia. Mọi người sẽ chỉ trích chúng ta rằng: ‘Những người này ngay cả khi đã xuất gia cũng không thể tách rời nhau.'”

ท่านจงถือเอาทางสายหนึ่ง ฉันจะถือเอาสายหนึ่ง พวกเราจักแยกกัน
“Ngài hãy đi theo một con đường, tôi sẽ đi theo con đường còn lại. Chúng ta sẽ tách ra.”

ดังนี้แล้วทำประทักษิณ ๓ ครั้ง ไหว้ด้วยเบญจางคประดิษฐ์ในที่ทั้ง ๔ แห่ง (คือ ข้างหน้า ข้างหลัง ข้างซ้าย ข้างขวา) ประคองอัญชลีอันงดงามด้วยรวมนิ้วทั้งสิบ แล้วกล่าวว่า ความสนิทสนมฐานมิตร ซึ่งได้ทำไว้ตลอดกาลนานประมาณแสนกัป จำแตกในวันนี้
Nói xong, họ đã làm lễ viếng ba lần, chào bằng các cử chỉ kính trọng ở bốn phương (trước, sau, bên trái, bên phải), nâng tay trong tư thế cúi chào đẹp đẽ với mười ngón tay và nói: “Tình bạn thân thiết mà chúng ta đã xây dựng suốt thời gian dài khoảng một triệu kiếp sẽ bị phá vỡ hôm nay.”

แล้วกล่าวว่าท่านมีชาติเบื้องขวา ทางขวาสมควรแก่ท่าน ฉันชื่อว่าเป็นมาตุคามมีชาติเบื้องซ้าย ทางซ้ายสมควรแก่ฉัน ดังนี้ไหว้แล้วเดินทางไป.
“Ngài có nguồn gốc bên phải, con đường bên phải phù hợp với ngài. Còn tôi, là người phụ nữ có nguồn gốc bên trái, con đường bên trái phù hợp với tôi.” Nói xong, họ cúi chào và bắt đầu đi về hướng của mình.

ในเวลาที่ท่านทั้งสองนั้นแยกทางกัน มหาปฐพีนี้ได้สะเทือนเลื่อนลั่น เหมือนจะพูดว่า เราสามารถรองรับเขาจักรวาลและเขาสิเนรุได้ แต่ไม่อาจรองรับคุณทั้งสองของพวกท่านได้.
Khi cả hai tách ra, trái đất này rung chuyển dữ dội như thể muốn nói rằng: “Chúng ta có thể chứa đựng cả vũ trụ và núi Sineru, nhưng không thể chứa đựng được công đức của hai người.”

ในอากาศมีเสียงเหมือนฟ้าผ่า ภูเขาจักรวาลก็โอนโน้มลง.
Trên không trung có âm thanh giống như sấm sét, và những ngọn núi trong vũ trụ cũng có vẻ như nghiêng xuống.

แม้พระสัมมาสัมพุทธเจ้าประทับนั่งในพระคันธกุฎี ณ พระเวฬุวันมหาวิหาร ได้สดับเสียงแผ่นดินไหวจึงทรงพระรำพึงว่า แผ่นดินไหวเพื่อใครหนอ
Ngay cả Đức Phật Thích Ca đang ngồi trong tháp Khandhaka ở Vườn Veluvana cũng nghe thấy tiếng đất rung chuyển và suy nghĩ: “Đất rung chuyển vì lý do gì nhỉ?”

ทรงทราบว่า ปิบผลิมาณพและนางภัททากาปิลานี ละสมบัติอันนับไม่ได้แล้วบวชอุทิศเรา
Ngài biết rằng vị Bà la môn và cô Pataṅkāpi đã từ bỏ tài sản vô giá và xuất gia cống hiến cho Ngài.

แผ่นดินไหวนี้เกิดด้วยกำลังแห่งคุณของคนแม้ทั้งสองในตอนที่คนทั้งสองนั้นแยกทางกัน แม้เราก็ควรทำการสงเคราะห์คนทั้งสองนี้ จึงเสด็จออกจากพระคันธกุฎีลำพังพระองค์เอง
Sự rung chuyển của đất này là do sức mạnh công đức của cả hai người trong lúc họ tách ra. Ngay cả Ngài cũng nên giúp đỡ hai người này, vì vậy Ngài đã ra khỏi tháp Khandhaka một mình.

ทรงถือบาตรและจีวร ไม่ตรัสเรียกใครๆ ในบรรดาพระมหาสาวก ๘๐ องค์ เสด็จไปต้อนรับสิ้นทาง ๓ คาวุต
Ngài cầm bát và y, không gọi ai trong số 80 vị Đại đệ tử, đi đến nơi đón tiếp ở cuối ba con đường.

ประทับนั่งขัดสมาธิที่โคนต้นพหุปุตตกนิโครธ ระหว่างกรุงราชคฤห์กับเมืองนาลันทา.
Ngài ngồi thiền dưới gốc cây Pha-hu-pat ở giữa thành phố Rajagaha và Nalanda.

ก็เมื่อประทับนั่ง มิได้ประทับนั่งเหมือนพระผู้ถือบังสุกุลเป็นวัตรรูปหนึ่ง ทรงถือเพศเป็นพระพุทธเจ้า
Khi ngồi, Ngài không ngồi như một vị Bà la môn bình thường, mà Ngài giữ tấm y của Phật.

ประทับนั่งเปล่งพระรัศมีทึบประมาณ ๘๐ ศอก ดังนั้นในขณะนั้น พระพุทธรัศมีมีประมาณเท่าร่มใบไม้ ล้อรถ แลเรือนยอดเป็นต้นวิ่งฉวัดเฉวียนไปรอบด้าน ทำให้เหมือนเวลาพระจันทร์และพระอาทิตย์ขึ้นเป็นพันๆ ดวง ได้ทำชายป่านั้นให้มีแสงสว่างเป็นอันเดียวกัน.
Ngài ngồi và tỏa ra ánh sáng dày khoảng 80 thước. Lúc đó, ánh sáng của Phật giống như cái ô của lá cây, và những chiếc xe cùng ngôi nhà trên đỉnh đang xoay quanh, khiến giống như hàng ngàn mặt trăng và mặt trời mọc cùng lúc, làm cho cánh rừng ánh sáng hòa quyện với nhau.

พื้นท้องฟ้าประหนึ่งระยิบระยับด้วยหมู่ดาว เรืองรองด้วยพระสิริแห่งพระมหาปุริสลักษณะ ๓๒ ประการ ชายป่ารุ่งโรจน์ดุจน้ำที่มีดอกบัวบานสะพรั่ง.
Bầu trời như lấp lánh với những vì sao, phát sáng với vẻ đẹp của 32 dấu hiệu cao quý, và cánh rừng rực rỡ như nước có hoa sen nở rộ.

ธรรมดาต้นนิโครธมีลำต้นขาวมีใบเขียว ผลสุกแดง. แต่วันนั้น ต้นนิโครธกลับมีกิ่งขาวมีสีเหมือนทอง.
Thường thì cây Ni-khô-th có thân trắng, lá xanh, quả chín đỏ. Nhưng hôm đó, cây Ni-khô-th lại có cành trắng màu vàng.

พระมหากัสสปเถระคิดว่า ท่านผู้นี้จักเป็นพระศาสดาของเรา เราบวชอุทิศพระศาสดาพระองค์นี้
Vị Đại đệ tử Kassyapa nghĩ rằng: “Người này sẽ là Thầy của chúng ta. Chúng ta xuất gia để cống hiến cho vị Thầy này.”

ดังนี้ จำเดิมแต่ที่ที่มองเห็นได้น้อมกายเดินไปไหว้ในที่ ๓ แห่งแล้วกราบทูลว่า ข้าแต่พระองค์ผู้เจริญ พระผู้มีพระภาคเจ้าเป็นศาสดาของข้าพระองค์ ข้าพระองค์เป็นสาวก
Nói xong, Ngài cúi mình ba lần trước Ngài và bày tỏ: “Thưa Ngài, Đấng Đạo Sư là Thầy của con. Con là đệ tử.”

ข้าแต่พระองค์ผู้เจริญ พระผู้มีพระภาคเจ้าเป็นศาสดาของข้าพระองค์ ข้าพระองค์เป็นสาวก.
“Thưa Ngài, Đấng Đạo Sư là Thầy của con. Con là đệ tử.”

ลำดับนั้น พระผู้มีพระภาคเจ้าได้ตรัสกะพระมหากัสสปเถระว่า
Ngay lúc đó, Đấng Đạo Sư nói với vị Đại đệ tử Kassyapa:

ดูก่อนกัสสป ถ้าเธอจะพึงทำการนบนอบนี้ไว้ในมหาปฐพีไซร้ แม้มหาปฐพีนั้นก็ไม่อาจรองรับเอาไว้ได้
“Nghe đây, Kassyapa, nếu con muốn làm lễ cúng dường này trên trái đất này, thì ngay cả trái đất cũng không thể chứa đựng được.”

การนบนอบที่เธอกระทำ ย่อมไม่อาจทำแม้ขนของเราให้สั่น เพราะตถาคตมีคุณใหญ่หลวงอย่างนี้
“Lễ cúng dường mà con thực hiện sẽ không thể khiến ngay cả sợi lông của chúng ta rung động, vì vị Phật có công đức to lớn như vậy.”

นั่งลงเถอะกัสสป เราจะให้ทรัพย์อันเป็นมรดกแก่เธอ.
“Ngồi xuống đi, Kassyapa, chúng ta sẽ trao cho con gia tài là di sản.”

ลำดับนั้น พระผู้มีพระภาคเจ้าได้ประทานอุปสมบทแก่พระมหากัสสปเถระด้วยโอวาท ๓ ประการ.
Ngay lúc đó, Đấng Đạo Sư đã ban nghi thức xuất gia cho vị Đại đệ tử Kassyapa với ba lời dạy.

ครั้นประทานแล้วก็เสด็จออกจากโคนต้นพหุปุตตกนิโครธ เสด็จเดินทางมีพระเถระเป็นปัจฉาสมณะ.
Sau khi ban xong, Ngài rời khỏi gốc cây Pha-hu-pat và bắt đầu đi, có vị Đại đệ tử đi theo Ngài.

พระสรีระของพระศาสดาตระการตาด้วยพระมหาปุริสลักษณะ ๓๒ ประการ สรีระของพระมหากัสสปประดับด้วยมหาปุริสลักษณะ ๗ ประการ.
Thân hình của Đấng Đạo Sư rực rỡ với 32 dấu hiệu cao quý, còn thân hình của vị Đại đệ tử Kassyapa có 7 đặc điểm cao quý.

พระมหากัสสปนั้นเดินตามเสด็จพระศาสดา เหมือนเรือพ่วงไปตามเรือใหญ่สีทองฉะนั้น.
Vị Đại đệ tử Kassyapa đi theo sau Đức Phật, giống như một chiếc thuyền nhỏ theo sau một chiếc thuyền lớn màu vàng.

พระศาสดาเสด็จเดินทางไปหน่อยหนึ่งแล้วแวะลง (ข้างทาง) แสดงอาการจะประทับนั่งที่โคนไม้แห่งหนึ่ง.
Đức Phật đi được một đoạn thì dừng lại bên đường, thể hiện ý định ngồi xuống dưới một gốc cây.

พระเถระรู้ว่า พระศาสดามีพระประสงค์จะประทับนั่ง จึงกระทำสังฆาฏิอันเป็นผ้าเก่าที่ตนห่มให้เป็น ๔ ชั้นปูลาดถวาย.
Vị Đại đệ tử biết rằng Đức Phật muốn ngồi, nên đã gấp y mà mình mặc lại thành 4 lớp trải dưới chân Ngài.

พระศาสดาประทับนั่งบนผ้าสังฆาฏินั้นแล้ว เอาพระหัตถ์ลูบคลำเนื้อผ้า ตรัสว่า กัสสป สังฆาฏิอันทำด้วยผ้าเก่าผืนนี้ของเธอนุ่มดี.
Đức Phật ngồi trên tấm y ấy, vuốt ve chất liệu của nó và nói: “Kassyapa, tấm y cũ này của con thật mềm mại.”

พระเถระรู้ว่า พระศาสดาตรัสถึงสังฆาฏิของเรานุ่ม คงจักประสงค์จะห่ม จึงกราบทูลว่า ข้าแต่พระองค์ผู้เจริญ ขอพระผู้มีพระภาคเจ้าทรงห่มสังฆาฏิเถิด.
Vị Đại đệ tử hiểu rằng Đức Phật đang nói về y của mình, có lẽ Ngài muốn mặc nó, nên đã tâu: “Thưa Ngài, xin Đấng Đạo Sư hãy mặc tấm y này.”

พระศาสดาตรัสว่า กัสสป ก็เธอจักอาจทรงผ้าบังสุกุลที่ใช้จนเก่าผืนนี้อย่างนี้ได้หรือ ด้วยว่ามหาปฐพีได้ไหวจนถึงน้ำรองแผ่นดินในวันที่เราซักผ้าบังสุกุลผืนนี้.
Đức Phật nói: “Kassyapa, con có thể mặc tấm y cũ này hay không? Bởi vì trái đất đã rung chuyển cho đến nước ngầm khi chúng ta giặt tấm y này.”

ธรรมดาว่าจีวรที่เก่าเพราะใช้ของพระพุทธเจ้าทั้งหลายนี้ ถึงเก่าแล้วคนที่มีคุณนิดหน่อยไม่อาจครองได้ จีวรเก่าดังกล่าวนี้อันบุคคลผู้อาจสามารถในการบำเพ็ญข้อปฏิบัติ ผู้ถือผ้าบังสุกุลมาแต่เดิมจึงจะควรรับเอา แล้วทรงเปลี่ยนจีวรกับพระเถระ.
Thường thì y cũ này do các Đức Phật sử dụng, dù đã cũ nhưng những người có ít công đức không thể mặc được. Tấm y cũ này chỉ những người có khả năng trong việc tu tập mới có thể nhận lấy, vì vậy Ngài đã đổi y với vị Đại đệ tử.

ก็พระผู้มีพระภาคเจ้าทรงเปลี่ยนจีวรอย่างนี้แล้ว ทรงห่มจีวรที่พระเถระห่มแล้ว พระเถระห่มจีวรของพระศาสดา.
Đức Phật đã đổi y như vậy rồi mặc tấm y mà vị Đại đệ tử đã mặc, còn vị Đại đệ tử mặc tấm y của Đức Phật.

ในสมัยนั้น มหาปฐพีนี้แม้ไม่มีจิตใจก็ไหวจนถึงน้ำรองแผ่นดินเหมือนจะกล่าวว่า ข้าแต่พระองค์ผู้เจริญ พระองค์ทรงทำสิ่งที่ทำได้ยาก จีวรที่พระองค์ห่มแล้ว ชื่อว่าเคยได้ประทานแก่พระสาวกไม่มี (คือไม่เคยมีการประทานจีวรที่ทรงห่มแล้วแก่สาวก) ข้าพระองค์ไม่อาจรองรับคุณของพระองค์ได้.
Trong thời điểm đó, trái đất này dù không có tâm trí cũng rung chuyển như thể muốn nói: “Thưa Ngài, Ngài đã làm điều gì khó khăn. Y mà Ngài mặc đã không được ban cho đệ tử nào (nghĩa là chưa bao giờ có sự ban y đã mặc cho đệ tử). Con không thể tiếp nhận công đức của Ngài.”

แม้พระเถระก็มิได้กระทำเย่อหยิ่งว่า เดี๋ยวนี้เราได้จีวรสำหรับใช้สอยของพระพุทธเจ้าทั้งหลาย
Ngay cả vị Đại đệ tử cũng không kiêu ngạo mà nói rằng: “Bây giờ tôi đã có tấm y dùng cho các Đức Phật.”

สิ่งที่เราจะพึงทำให้ยิ่งขึ้นไปในบัดนี้ยังจะมีอยู่หรือ จึงได้สมาทานธุดงค์คุณ ๑๓ ข้อในสำนักของพระพุทธเจ้านั่นแหละ เป็นปุถุชนเพียง ๗ วัน
“Điều gì tôi có thể làm để trở nên tốt hơn nữa? Vì vậy, tôi đã thọ trì 13 giới hạnh trong giáo pháp của Đức Phật, chỉ với tư cách là một phàm nhân trong 7 ngày.”

ในอรุณที่ ๘ ได้บรรลุพระอรหัตพร้อมด้วยสูตรทั้งหลายมีอาทิอย่างนี้ว่า
“Vào sáng ngày thứ 8, tôi đã đạt được chứng ngộ A-la-hán, cùng với các công thức như sau:”

ดูก่อนภิกษุทั้งหลาย กัสสปเปรียบเหมือนพระจันทร์เข้าไปสู่ตระกูลทั้งหลาย หลีกกาย หลีกใจจากอกุศลธรรมทั้งหลายเป็นผู้ใหม่อยู่เสมอ ไม่คะนองในตระกูลทั้งหลาย.
“Nghe đây, các Tỳ-khưu, Kassyapa giống như mặt trăng đi vào các gia đình, luôn giữ mình và tâm hồn xa lánh các hành vi bất thiện, luôn mới mẻ, không hề kiêu ngạo trong các gia đình.”

ครั้นมาภายหลังทรงกระทำกัสสปสังยุตนี้แหละให้เป็นเหตุเกิดเรื่อง จึงทรงสถาปนาพระเถระไว้ในตำแหน่งเอตทัคคะด้วยพระดำรัสว่า มหากัสสปเป็นยอดของภิกษุทั้งหลายผู้ถือธุดงค์และสอนเรื่องธุดงค์ในศาสนาของเราดังนี้แล.
Sau đó, Ngài đã thực hiện các giáo lý liên quan đến Kassyapa, khiến cho sự việc xảy ra. Ngài đã phong vị Đại đệ tử này vào vị trí cao quý với lời nói rằng: “Kassyapa vĩ đại là bậc nhất trong số các Tỳ-khưu giữ giới hạnh và giảng dạy về giới hạnh trong giáo pháp của chúng ta.”

จบอรรถกถาสูตรที่ ๔
Kết thúc phần giải thích của bài kinh thứ 4.

Hộp bình luận Facebook

Soṇa Thiện Kim

Panha.org là trang web chuyên sâu về Pháp học của Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Tông), nơi cung cấp kiến thức và tài liệu quý báu về kinh điển, giáo lý, và triết học Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Tông). Tại đây, bạn có thể tìm hiểu về các giáo pháp truyền thống, kinh nghiệm tu tập, và những bài giảng từ các vị tôn sư hàng đầu trong cộng đồng Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Tông). Với mục tiêu giúp người học hiểu sâu hơn về con đường giác ngộ và sự giải thoát, Panha.org mang đến nguồn tài nguyên phong phú, chính xác và cập nhật để hỗ trợ hành giả trên hành trình tu tập Pháp học.

Bài viết liên quan

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.

0 Góp ý
Được bỏ phiếu nhiều nhất
Mới nhất Cũ nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Back to top button