Mục lục
อรรถกถา อังคุตตรนิกาย เอกนิบาต เอตทัคคบาลี
Chú giải Anguttara Nikaya, Eka Nipata, Etadaggapali
วรรคที่ ๔
Chương 4
หน้าต่างที่ ๙ / ๑๒.
Cửa sổ 9 / 12.
อรรถกถาสูตรที่ ๙
Chú giải bài kinh thứ 9
ประวัติพระมหากัปปินเถระ
Tiểu sử Tôn giả Mahākappina
ในสูตรที่ ๙ พึงทราบวินิจฉัยดังต่อไปนี้.
Trong bài kinh thứ 9, cần hiểu phân tích như sau.
ด้วยบท ภิกขุโอวาทกานํ ท่านแสดงว่า ท่านพระมหากัปปินเถระเป็นยอดของเหล่าภิกษุสาวกผู้โอวาทภิกษุ.
Với câu “Bhikkhu Ovadakānaṃ”, Ngài cho biết Tôn giả Mahākappina là bậc thượng thừa trong hàng đệ tử thuyết pháp cho các Tỳ-khưu.
ได้ยินว่า พระเถระนี้กล่าวธรรมกถาในการประชุมคราวเดียวเท่านั้น ก็ทำภิกษุ ๑,๐๐๐ รูปให้บรรลุพระอรหัต เพราะเหตุนั้น ท่านจึงชื่อว่าเป็นยอดของเหล่าภิกษุสาวกผู้โอวาทภิกษุ.
Nghe nói rằng, vị thánh này chỉ cần thuyết giảng một lần duy nhất trong buổi hội họp đã giúp 1.000 Tỳ-khưu đạt được quả vị A-la-hán. Vì lý do đó, Ngài được gọi là bậc thượng thừa trong hàng đệ tử thuyết pháp cho các Tỳ-khưu.
ในปัญหากรรมของท่านมีเรื่องที่จะกล่าวตามลำดับดังนี้.
Trong câu chuyện về nghiệp của Ngài, có những sự kiện sẽ được kể theo trình tự như sau.
แท้จริง พระเถระรูปนี้ ครั้งพระพุทธเจ้าพระนามว่าปทุมุตตระ บังเกิดในครอบครัว ในกรุงหงสวดี.
Thật ra, vị thánh này, vào thời Đức Phật Padumuttara, đã sinh ra trong một gia đình tại thành Hamsavati.
ต่อมา กำลังฟังธรรมกถาของพระศาสดา เห็นพระศาสดาทรงสถาปนาภิกษุรูปหนึ่งไว้ในตำแหน่งเอตทัคคะเป็นยอดของเหล่าภิกษุสาวกผู้โอวาทภิกษุ ทำกุศลให้ยิ่งยวดขึ้นไป จึงปรารถนาตำแหน่งนั้น.
Sau đó, khi đang nghe Đức Phật thuyết pháp, Ngài thấy Đức Phật tôn phong một Tỳ-khưu vào vị trí thượng thủ trong hàng đệ tử thuyết pháp cho các Tỳ-khưu. Ngài phát tâm làm thêm nhiều điều thiện để đạt được vị trí đó.
ท่านทำกุศลจนตลอดชีวิต เวียนว่ายอยู่ในเทวดาและมนุษย์.
Ngài đã tích lũy công đức suốt cuộc đời, luân hồi trong cõi trời và nhân gian.
ครั้งพระสัมมาสัมพุทธเจ้าพระนามว่ากัสสป ถือปฏิสนธิในครอบครัวในกรุงพาราณสี เป็นหัวหน้าคณะของบุรุษ ๑,๐๐๐ คน สร้างบริเวณใหญ่ประดับด้วยห้อง ๑,๐๐๐ ห้อง.
Vào thời Đức Phật Kassapa, Ngài tái sinh trong một gia đình tại thành Varanasi, làm trưởng nhóm của 1.000 người, xây dựng một khu vực rộng lớn trang trí với 1.000 phòng.
คนแม้ทั้งหมดนั้นกระทำกุศลจนตลอดชีวิต ยกกัปปินอุบาสกให้เป็นหัวหน้า พร้อมด้วยบุตรภริยาบังเกิดในเทวโลก เวียนว่ายอยู่ในเทวดาและมนุษย์ตลอดพุทธันดรหนึ่ง.
Tất cả những người đó đã làm việc thiện suốt cuộc đời, tôn Kappina Upasaka làm trưởng nhóm, cùng với vợ con sinh vào cõi trời, luân hồi giữa cõi trời và nhân gian trong suốt một kiếp Phật.
ครั้งนั้น ก่อนพระศาสดาของเราบังเกิดกัปปินะนี้ถือปฏิสนธิในราชนิเวศน์ ในนครกุกกุฎวดี ในปัจจันตประเทศ.
Khi đó, trước khi Đức Phật của chúng ta xuất hiện, Kappina tái sinh trong hoàng cung tại thành Kukkuṭavati thuộc vùng ngoại biên.
บริษัทนอกนั้นบังเกิดในสกุลอำมาตย์ ในนครนั้นนั่นแหละ.
Những người khác trong nhóm tái sinh vào dòng dõi quan lại trong cùng thành phố đó.
บรรดาคนเหล่านั้น กัปปินกุมาร ครั้นพระราชบิดาล่วงลับไป ก็เถลิงเศวตฉัตรเป็นพระราชาพระนามว่ากัปปินะ.
Trong số những người đó, khi vua cha qua đời, Kappina Kumara lên ngôi và được gọi là vua Kappina.
สตรีผู้เป็นแม่เรือนของพระองค์ ครั้งสร้างกัลยาณกรรมในชาติก่อน ก็บังเกิดในราชสกุลที่มีชาติและโภคสมบัติทัดเทียมกัน เป็นพระอัครมเหษีของพระเจ้ามหากัปปินะ.
Người vợ của Ngài, do đã tạo nhiều thiện nghiệp trong kiếp trước, sinh vào hoàng tộc có địa vị và tài sản ngang bằng, trở thành hoàng hậu của vua Mahākappina.
แต่เพราะพระนางมีพระฉวีวรรณเสมือนดอกอังกาบ จึงมีพระนามว่า อโนชาเทวี.
Vì bà có làn da giống như hoa Ungkaba, nên được gọi là Anoja Devi.
แม้พระเจ้ามหากัปปินะก็ทรงสนพระหฤทัยในสุตะ (การศึกษา) ตื่นบรรทมแต่เช้าตรู่ทรงส่งทูตเร็วออกทางพระทวารทั้ง ๔ ด้วยพระดำรัสสั่งว่า พวกท่านพบเหล่าท่านพหูสูตทรงสุตะในที่ใด กลับจากที่นั้นแล้วจงมาบอกเรา ดังนี้.
Vua Mahākappina cũng rất quan tâm đến việc học, sáng sớm thức dậy, sai các sứ giả nhanh chóng ra khỏi bốn cổng thành với lệnh rằng, “Các ngươi hãy tìm những người học rộng nghe nhiều ở đâu, sau khi trở về, hãy báo cho ta biết.”
สมัยนั้น พระศาสดาของเราบังเกิดในโลกแล้ว ทรงอาศัยกรุงสาวัตถีประทับอยู่.
Lúc đó, Đức Phật của chúng ta đã xuất hiện trên thế gian và trú tại thành Sāvatthi.
เวลานั้นพวกพ่อค้าชาวกรุงสาวัตถี รับสินค้าที่เกิดขึ้นในกรุงสาวัตถีไปยังนครนั้น เก็บงำสินค้าไว้แล้ว ก็ถือบรรณาการหมายจะเฝ้าพระราชา.
Khi ấy, các thương gia từ thành Sāvatthi mang hàng hóa từ thành phố đến nơi đó, cất giữ hàng hóa và mang lễ vật để yết kiến nhà vua.
ไปถึงประตูพระราชนิเวศน์ทราบว่า พระราชาเสด็จไปพระราชอุทยาน จึงไปที่พระราชอุทยาน ยืนใกล้ๆ ประตูบอกคนเฝ้าประตูพระราชอุทยาน.
Khi đến cổng hoàng cung, họ biết rằng vua đã đến vườn thượng uyển, nên đến vườn và đứng gần cổng, thông báo cho người gác cổng.
ครั้งเขาทูลให้ทรงทราบแล้ว พระราชารับสั่งให้เข้าเฝ้า พวกเขามอบถวายบรรณาการแล้วยืนถวายบังคม.
Sau khi người gác cổng thông báo, vua cho gọi vào, họ dâng lễ vật và đứng chắp tay cung kính.
ตรัสถามว่า พ่อเอ๋ย พวกท่านพากันมาจากที่ไหน.
Vua hỏi, “Các ngươi đến từ đâu?”
กราบทูลว่า จากกรุงสาวัตถี พระเจ้าข้า.
Họ thưa, “Chúng con đến từ thành Sāvatthi, thưa bệ hạ.”
ตรัสถามว่า แว่นแคว้นเหล่านั้นมีอาหารหาง่ายหรือ พระราชาทรงธรรมอยู่หรือ.
Vua hỏi, “Vùng đất đó có dễ tìm thức ăn không? Vua của các ngươi có trị vì theo đạo đức không?”
กราบทูลว่า เป็นอย่างนั้น พระเจ้าข้า.
Họ thưa, “Dạ đúng vậy, thưa bệ hạ.”
ตรัสถามว่า ก็ในบ้านเมืองของท่านมีข่าวคราวอะไรบ้างเล่า.
Vua hỏi, “Vậy trong thành phố của các ngươi có tin tức gì mới không?”
กราบทูลว่า มีอยู่ พระเจ้าข้า แต่ไม่อาจกราบทูลได้ด้วยทั้งปากที่ยังไม่สะอาด.
Họ thưa, “Dạ có, thưa bệ hạ, nhưng chúng con không thể trình bày khi miệng còn chưa sạch.”
พระราชาจึงให้พระราชทานน้ำด้วยพระเต้าทอง.
Nhà vua liền cho dâng nước trong một bình vàng.
พ่อค้าเหล่านั้นบ้วนปากแล้วหันหน้าไปทางพระทศพล ประคองอัญชลี กราบทูลว่า ข้าแต่สมมติเทพ ในบ้านเมืองของข้าพระบาท พระพุทธรัตนะเกิดขึ้นแล้ว พระเจ้าข้า.
Các thương gia súc miệng xong, quay mặt về phía Đức Phật, chắp tay cúi đầu và thưa, “Thưa Bệ Hạ, trong đất nước của chúng thần, bảo vật Phật đã xuất hiện.”
พอสดับคำว่า พุทฺโธ เท่านั้น พระราชาก็ทรงเกิดปีติซาบซ่านทั่วพระวรกาย.
Ngay khi nghe từ “Buddho” (Phật), nhà vua cảm thấy hoan hỷ lan tỏa khắp thân thể.
แต่นั้นตรัสว่า พ่อเอ๋ย พวกท่านพูดว่า พุทฺโธ หรือ. กราบทูลว่า พวกข้าพระบาทพูดว่า พุทฺโธ พระเจ้าข้า.
Sau đó, vua hỏi, “Các ngươi vừa nói Buddho phải không?” Họ thưa, “Dạ đúng, thưa Bệ Hạ.”
ทรงให้พวกพ่อค้ากล่าวอย่างนั้น ๓ หน.
Nhà vua bảo các thương gia lặp lại ba lần.
บทว่า พุทฺโธ หาประมาณมิได้ ใครๆ ไม่อาจทำให้มีประมาณได้เลย.
Câu “Buddho” là không thể đo lường được, không ai có thể làm cho nó có giới hạn.
พระราชาทรงเลื่อมใสในบทว่า พระพุทธรตนะเกิดขึ้นแล้วนั้น ก็พระราชทานทรัพย์แสนหนึ่ง แล้วตรัสถามว่า มีข่าวอื่นอีกไหม.
Nhà vua cảm thấy kính ngưỡng khi nghe rằng bảo vật Phật đã xuất hiện, liền ban thưởng 100,000 đồng tiền và hỏi, “Còn tin tức gì khác không?”
กราบทูลว่า ข้าแต่สมมติเทพ พระธรรมรตนะเกิดขึ้นแล้ว พระเจ้าข้า.
Họ thưa, “Thưa Bệ Hạ, bảo vật Pháp đã xuất hiện.”
ทรงสดับข่าวนั้นแล้ว ทรงถือปฏิญาณอย่างนั้นเหมือนกัน พระราชทานทรัพย์อีกแสนหนึ่ง แล้วตรัสถามว่า มีข่าวอื่นๆ อีกไหม.
Nghe tin đó, vua cũng có cảm nhận như vậy, liền ban thưởng thêm 100,000 đồng và hỏi, “Còn tin tức gì khác nữa không?”
กราบทูลว่า ข้าแต่เทวะ พระสังฆรตนะเกิดขึ้นแล้ว พระเจ้าข้า.
Họ thưa, “Thưa Bệ Hạ, bảo vật Tăng đã xuất hiện.”
ทรงสดับข่าวนั้นแล้ว ทรงถือปฏิญาณอย่างนั้นเหมือนกัน พระราชทานทรัพย์อีกแสนหนึ่ง.
Nghe tin đó, vua cũng cảm thấy như vậy và ban thưởng thêm 100,000 đồng nữa.
ทรงเขียนบอกข้อที่พระราชทานทรัพย์ลงในหนังสือส่งไปด้วยพระดำรัสสั่งว่า พ่อเอ๋ย พวกท่านจงไปสำนักพระราชเทวีเถิด.
Vua ghi lại các khoản ban thưởng trong một lá thư và dặn, “Các ngươi hãy đến gặp hoàng hậu.”
เมื่อพวกพ่อค้าไปกันแล้ว ตรัสถามเหล่าอำมาตย์ว่า พ่อเอ๋ย พระพุทธเจ้าเกิดขึ้นในโลกแล้ว พวกท่านจักทำอย่างไรกัน.
Khi các thương gia đã đi, vua hỏi các quan, “Các ngươi, Đức Phật đã xuất hiện trên thế gian, các ngươi định làm gì?”
เหล่าอำมาตย์ ทูลย้อนถามว่า ข้าแต่สมมติเทพ พระองค์จะทรงทำอย่างไร.
Các quan hỏi lại, “Thưa Bệ Hạ, ngài định làm gì?”
ตรัสว่า เราก็จักบวช.
Vua nói, “Ta sẽ xuất gia.”
เหล่าอำมาตย์กราบทูลว่า เหล่าข้าพระบาทก็จักบวชทั้งหมด.
Các quan thưa, “Chúng thần cũng sẽ xuất gia hết.”
ต่างก็ไม่เยื่อใยเหย้าเรือนหรือทรัพย์สมบัติ พากันขึ้นม้าควบขับออกไป.
Không ai lưu luyến gia đình hay tài sản, tất cả cưỡi ngựa ra đi.
เหล่าพ่อค้าไปเฝ้าพระนางอโนชาเทวี แสดงหนังสือถวาย.
Các thương gia đến gặp hoàng hậu Anoja Devi và dâng thư.
พระนางทรงอ่านหนังสือนั้นแล้วตรัสถามว่า พ่อเอ๋ย พระราชาพระราชทานกหาปณะเป็นอันมากแก่พวกท่าน พวกท่านทำอะไร.
Hoàng hậu đọc thư xong hỏi, “Các ngươi, nhà vua đã ban nhiều tiền cho các ngươi, các ngươi đã làm gì?”
กราบทูลว่า ข้าแต่พระเทวี พวกข้าพระบาทนำข่าวที่น่ารักมาถวาย พระเจ้าข้า.
Họ thưa, “Thưa Hoàng Hậu, chúng thần đã mang tin vui đến cho ngài.”
ตรัสถามว่า พ่อเอ๋ย พวกท่านอาจให้เราฟังข่าวนั้นได้ไหม.
Hoàng hậu hỏi, “Các ngươi có thể cho ta nghe tin tức đó được không?”
กราบทูลว่า ข้าแต่พระเทวี ก็อาจจะได้ แต่พวกข้าพระบาทไม่อาจกราบทูลด้วยทั้งปากที่ไม่สะอาด พระเจ้าข้า.
Họ thưa, “Thưa Hoàng Hậu, chúng thần có thể, nhưng không thể thưa khi miệng còn chưa sạch.”
พระนางจึงให้พระราชทานน้ำด้วยพระเต้าทอง.
Hoàng hậu liền cho dâng nước trong một bình vàng.
พ่อค้าเหล่านั้นบ้วนปากแล้ว ก็กราบทูลทำนองที่กราบทูลพระราชามาแล้ว.
Các thương gia súc miệng xong, rồi thưa giống như đã thưa với nhà vua.
แม้พระนางก็ทรงเกิดความปราโมทย์ ให้พวกพ่อค้ารับปฏิญา ๓ หนแต่ละบท โดยนัยนั้นเหมือนกัน พระราชทานทรัพย์บทละสามแสน ๓ บท รวมเป็นทรัพย์เก้าแสน.
Hoàng hậu cũng rất hoan hỷ, yêu cầu các thương gia lặp lại lời thề 3 lần mỗi tin tức, và mỗi lần ban thưởng 300,000 đồng, tổng cộng là 900,000 đồng.
เหล่าพ่อค้าได้ทรัพย์รวมทั้งหมดถึงล้านสองแสน.
Tổng số tài sản mà các thương gia nhận được là 1,200,000 đồng.
ครั้งนั้น พระนางตรัสถามเหล่าพ่อค้าว่า พระราชาเสด็จไปไหน.
Khi đó, Hoàng hậu hỏi các thương gia, “Nhà vua đã đi đâu?”
เหล่าพ่อค้ากราบทูลว่า ข้าแต่พระเทวี พระราชาเสด็จออกไปหมายจะทรงผนวช พระเจ้าข้า.
Họ thưa, “Thưa Hoàng Hậu, nhà vua đã đi với ý định xuất gia.”
พระนางทรงส่งพวกพ่อค้าไปด้วยพระดำรัสว่า พ่อเอ๋ย ถ้ากระนั้น พวกท่านจงกลับไปเสีย.
Hoàng hậu tiễn các thương gia đi và nói, “Nếu vậy, các ngươi hãy trở về.”
แล้วรับสั่งให้เรียกเหล่าแม่บ้านของเหล่าอำมาตย์ที่ไปกับพระราชามาแล้วตรัสถามว่า แม่เอ๋ย พวกเธอรู้สถานที่ๆ พวกสามีเธอไปไหม.
Sau đó, Hoàng hậu cho gọi các phu nhân của các quan đã đi cùng nhà vua và hỏi, “Các ngươi có biết chồng mình đã đi đâu không?”
กราบทูลว่า ข้าแต่พระแม่เจ้า ไม่ทราบเพคะ พวกสามีข้าพระบาทไปเล่นสวนกับพระราชานี่เพคะ.
Họ thưa, “Thưa Hoàng Hậu, chúng thần không biết, chồng chúng thần đã đi chơi trong vườn với nhà vua.”
ตรัสว่า เออ แม่เอ๋ย เขาไปกันแล้ว แต่ไปในสวนนั้นแล้ว ฟังข่าวว่า พระพุทธเจ้าเกิดขึ้นแล้ว พระธรรมเกิดขึ้นแล้ว พระสงฆ์เกิดขึ้นแล้ว ก็ไปกันหมายจะบวชในสำนักพระทศพล พวกเธอจะทำอย่างไร.
Hoàng hậu nói, “Này các ngươi, họ đã đi rồi, nhưng sau khi nghe tin Đức Phật, Pháp và Tăng đã xuất hiện, họ đi với ý định xuất gia theo Đức Phật. Các ngươi sẽ làm gì?”
กราบทูลย้อนถามว่า ข้าแต่พระแม่เจ้า ก็พระองค์ประสงค์จะทรงทำอย่างไร.
Họ thưa lại, “Thưa Hoàng Hậu, ngài định làm gì?”
ตรัสตอบว่า เราก็จักบวช.
Hoàng hậu trả lời, “Ta cũng sẽ xuất gia.”
กราบทูลว่า ถ้าเป็นเช่นนั้น พวกข้าพระบาทก็จักบวช.
Họ thưa, “Nếu vậy, chúng thần cũng sẽ xuất gia.”
ทั้งหมดต่างให้เทียมรถพากันออกไป.
Tất cả cùng chuẩn bị xe và rời đi.
ฝ่ายพระราชาเสด็จถึงฝั่งแม่น้ำคงคาพร้อมกับอำมาตย์พันคน.
Nhà vua cùng với một nghìn quan đại thần đến bờ sông Hằng.
ขณะนั้น แม่น้ำคงคาเปี่ยมน้ำ เห็นแม่น้ำคงคานั้นแล้ว ต่างก็ดำริและอธิษฐานว่า แม่น้ำคงคาเปี่ยมน้ำ เกลื่อนด้วยปลาร้าย ไม่มีทาสหรือมนุษย์ที่มากับพวกเราซึ่งจะพึงให้เรือหรือแพแก่พวกเราในที่นั้น.
Lúc đó, sông Hằng tràn đầy nước, nhìn thấy sông Hằng, họ suy nghĩ và cầu nguyện rằng, “Sông Hằng đầy nước, đầy cá dữ, không có nô lệ hay người nào đi cùng chúng ta có thể cho chúng ta thuyền hoặc bè ở đó.”
แต่ธรรมดาว่าพระคุณทั้งหลายของพระศาสดาแผ่ไปเบื้องล่างแต่อเวจีมหานรกจนถึงภวัคคพรหม.
Nhưng thường thì ân đức của Đức Phật lan tỏa từ địa ngục Avīci đến cõi Phạm Thiên.
ก็ถ้าพระศาสดาทรงเป็นพระสัมมาสัมพุทธเจ้าไซร้ ขอหลังกีบม้าเหล่านี้จงอย่าเปียกน้ำเลย แล้วก็ควบขับม้าไปทางหลังน้ำ.
Nếu Đức Phật là Bậc Chánh Đẳng Giác, xin cho móng chân của những con ngựa này không bị ướt nước.” Sau đó, họ thúc ngựa vượt qua dòng nước.
แม้เพียงกีบม้าแต่ละตัวก็มิได้เปียกน้ำเลย ถึงฝั่งโน้นเหมือนไปโดยราชมรรคา.
Ngay cả móng chân của từng con ngựa cũng không bị ướt, họ đến bờ bên kia giống như đi trên con đường hoàng gia.
แต่แล้วก็ถึงมหานทีอื่นๆ ข้างหน้า.
Sau đó, họ tiếp tục gặp những con sông lớn khác phía trước.
ตรัสถามว่า แม่น้ำแห่งที่สอง ชื่ออะไร.
Nhà vua hỏi, “Con sông thứ hai tên là gì?”
กราบทูลว่า ชื่อว่านีลวาหินี มีประมาณครึ่งโยชน์ทั้งส่วนลึก ทั้งส่วนกว้าง พระเจ้าข้า.
Họ thưa, “Tên là Nīlavāhinī, dài khoảng nửa do tuần cả chiều sâu và chiều rộng, thưa Bệ Hạ.”
ในแม่น้ำนั้น ไม่มีสัจจกิริยาอย่างอื่น พากันข้ามแม่น้ำที่กว้างถึงครึ่งโยชน์ด้วยสัจจกิริยาแม้นั้น.
Họ không có cách nào khác, vượt qua con sông rộng nửa do tuần đó bằng sự chân thật như đã làm trước đó.
ทั้งถึงมหานทีที่สามชื่อว่าจันทรภาคา ก็พากันข้ามด้วยสัจจกิริยานั้นนั่นเอง.
Khi đến con sông lớn thứ ba tên là Candabhāgā, họ cũng vượt qua bằng sự chân thật như vậy.
ในวันนั้น แม้พระศาสดาทรงออกจากมหากรุณาสมาบัติ ตรวจดูสัตวโลกเวลาใกล้รุ่ง.
Ngày hôm đó, Đức Phật xuất khỏi thiền định từ bi, quán sát chúng sinh vào lúc gần sáng.
ก็ทรงเห็นว่า วันนี้พระเจ้ามหากัปปินะทรงสละราชสมบัติมีอำมาตย์เป็นบริวาร จักเสด็จมาตลอดระยะทาง ๓๐๐ โยชน์ เพื่อทรงผนวชในสำนักเรา.
Ngài thấy rằng hôm nay vua Mahākappina, cùng với các quan đại thần, sẽ từ bỏ vương quyền và đi suốt 300 do tuần để xuất gia dưới sự hướng dẫn của Ngài.
ทรงดำริว่า ควรที่เราจะไปทำการต้อนรับพวกเขา.
Ngài nghĩ, “Ta nên đi để đón tiếp họ.”
จึงทรงปฏิบัติสรีกิจแต่เช้าตรู่ มีภิกษุสงฆ์เป็นบริวาร เสด็จบิณฑบาต ณ กรุงสาวัตถี.
Vì vậy, vào sáng sớm, Ngài thực hiện các hoạt động cá nhân, cùng với tăng đoàn, đi khất thực tại thành Sāvatthi.
ภายหลังเสวยแล้วเสด็จกลับจากบิณฑบาต ลำพังพระองค์เอง เสด็จเหาะไปประทับนั่งสมาธิ ณ ต้นไทรใหญ่ ซึ่งมีอยู่ตรงท่าที่คนเหล่านั้นจะข้าม ริมฝั่งแม่น้ำจันทรภาคา.
Sau khi thọ thực, Ngài trở về từ việc khất thực, một mình bay đến một cây bồ đề lớn gần bến sông Candabhāgā, nơi những người kia sẽ vượt qua, và ngồi thiền dưới gốc cây đó.
ทรงดำรงพระสติเฉพาะหน้า เปล่งพระพุทธฉัพพัณณรังสี.
Ngài giữ niệm trong hiện tại, tỏa ánh hào quang sáu màu.
คนเหล่านั้นข้ามทางท่านั้น เห็นพระพุทธรัศมีแล่นไปมา.
Những người kia vượt qua bến sông đó, nhìn thấy ánh hào quang của Đức Phật tỏa sáng.
พบพระพักตรของพระทศพล มีพระสิริเหมือนเพ็ญจันทร์.
Họ gặp khuôn mặt của Đức Thế Tôn, rạng rỡ như trăng tròn.
ก็ตกลงใจโดยการเห็นเท่านั้นว่า๑- พวกเราบวชเจาะจงพระศาสดาพระองค์ใด พระศาสดาพระองค์นั้นเป็นพระองค์นี้แน่แท้.
Chỉ bằng cái nhìn đó, họ quyết định rằng, “Chúng ta đã quyết định xuất gia dưới sự hướng dẫn của vị Thánh này.”
ก็น้อมกายถวายบังคมตั้งแต่สถานที่พบ มาถวายบังคมพระศาสดา.
Họ cúi mình đảnh lễ từ nơi gặp gỡ và tiến đến đảnh lễ Đức Phật.
พระราชาจับที่ข้อพระบาทพระศาสดา ถวายบังคมแล้วประทับนั่ง ณ ที่สมควรส่วนหนึ่ง พร้อมกับอำมาตย์พันหนึ่ง.
Nhà vua cầm lấy chân của Đức Phật, đảnh lễ và ngồi xuống một chỗ thích hợp cùng với một nghìn quan đại thần.
๑- ปาฐะว่า ยํสตฺถารํ อุทฺทิสฺส มยํ ปพฺพชิตา สตฺถา โน เอโสติ
1- Bản văn ghi là “Yam Satthāram Uddissa Mayaṃ Pabbajitā Satthā No Esoti.”
พม่าเป็น ยํ สตฺถารํ อุทฺทิสฺส มยํ ปพฺพชิตา, อทฺธา โส เจโสติ แปลตามพม่า.
Bản Miến ghi là “Yam Satthāram Uddissa Mayaṃ Pabbajitā, Addhā So Cesoti,” dịch theo bản Miến.
พระศาสดาตรัสธรรมกถาโปรดคนเหล่านั้น จบเทศนา ทุกคนก็ดำรงอยู่ในพระอรหัต ขอบรรพชา.
Đức Phật thuyết pháp cho những người đó, khi kết thúc bài giảng, tất cả đều đạt được quả vị A-la-hán và xin xuất gia.
พระศาสดาทรงทราบว่า เพราะคนเหล่านี้ถวายจีวรทานไว้ในชาติก่อน จึงมารับบาตรจีวรของตน.
Đức Phật biết rằng những người này đã từng dâng y trong kiếp trước, nên Ngài đã chuẩn bị bát và y của họ.
แล้วทรงเหยียดพระหัตถ์มีวรรณะดั่งทอง ตรัสว่า จงเป็นภิกษุมาเถิด ธรรมเรากล่าวดีแล้ว พวกเธอจงประพฤติพรหมจรรย์เพื่อทำที่สุดทุกข์โดยชอบเถิด.
Ngài đưa tay có sắc vàng và nói, “Hãy trở thành Tỳ-khưu, giáo pháp của ta đã giảng dạy tốt, các ngươi hãy sống đời phạm hạnh để chấm dứt khổ đau một cách đúng đắn.”
ก็เป็นอันท่านเหล่านั้นบรรพชาและอุปสมบทแล้ว พากันแวดล้อมพระศาสดา เหมือนพระเถระร้อยพรรษา.
Và những người đó đã xuất gia và thọ giới, họ vây quanh Đức Phật giống như các vị thánh tăng trăm tuổi.
ฝ่ายพระนางอโนชาเทวี มีรถพันคันเป็นบริวาร เสด็จถึงฝั่งแม่น้ำคงคา ไม่เห็นเรือหรือแพที่จะพาข้ามไป.
Hoàng hậu Anoja Devi, cùng với một ngàn chiếc xe làm tùy tùng, đến bờ sông Hằng nhưng không thấy thuyền hoặc bè nào để qua sông.
แต่เพราะทรงเป็นคนฉลาด จึงทรงดำริว่า พระราชาก็คงจักทรงทำสัจจกิริยาเสด็จไป.
Vì là người thông minh, bà nghĩ rằng vua chắc đã thực hiện lời nguyện chân thật để vượt qua.
ก็พระศาสดานั้นมิใช่ทรงบังเกิดมาเพื่อคนพวกนั้นอย่างเดียว.
Đức Phật không chỉ xuất hiện vì những người đó.
ถ้าพระองค์ทรงเป็นพระสัมมาสัมพุทธเจ้า รถทั้งหลายของพวกเราก็อย่าจมน้ำ.
Nếu Ngài là Bậc Chánh Đẳng Giác, thì xe của chúng ta sẽ không bị chìm trong nước.
จึงทรงขับควบรถไปทางผิวน้ำ.
Bà liền lái xe trên mặt nước.
แม้เพียงดุมและล้อของรถทั้งหลายก็มิได้เปียกน้ำ.
Ngay cả trục và bánh xe cũng không bị ướt.
ทั้งแม่น้ำที่สอง ที่สาม ก็ทรงข้ามไปได้ด้วยกระทำสัจจะนั้นนั่นแล.
Cả hai con sông thứ hai và thứ ba cũng được bà vượt qua bằng lời nguyện chân thật đó.
เมื่อทรงข้ามไปได้นั่นเอง ทรงเห็นพระศาสดาที่โคนต้นไทร.
Khi vượt qua được, bà thấy Đức Phật dưới gốc cây bồ đề.
แม้พระศาสดาก็ทรงดำริว่า สตรีเหล่านี้เห็นสามีของตน เกิดฉันทราคะก็จะพึงทำอันตรายต่อมรรคผล ทั้งไม่อาจฟังธรรมได้ จึงทรงกระทำโดยวิธีการที่พวกเขาจะไม่เห็นกันและกันได้.
Ngay cả Đức Phật cũng suy nghĩ rằng, nếu những người phụ nữ này nhìn thấy chồng của mình, họ sẽ sinh lòng ái dục, có thể gây hại cho đạo quả và không thể lắng nghe pháp. Vì vậy, Ngài đã làm cho họ không thể nhìn thấy nhau.
สตรีเหล่านั้นทั้งหมดขึ้นจากท่าน้ำแล้ว ซึ่งถวายบังคมพระทศพลแล้วนั่ง.
Tất cả những người phụ nữ đó lên bờ từ bến sông, đảnh lễ Đức Thế Tôn và ngồi xuống.
พระศาสดาตรัสธรรมกถาโปรดสตรีเหล่านั้น.
Đức Phật thuyết pháp để giáo hóa những người phụ nữ đó.
จบเทศนา สตรีทุกคนก็ดำรงอยู่ในโสดาปัตติผล จึงเห็นซึ่งกันและกัน.
Khi bài giảng kết thúc, tất cả phụ nữ đạt được quả vị Tu-đà-hoàn và có thể nhìn thấy nhau.
พระศาสดาทรงดำริว่า อุบลวรรณาจงมา.
Đức Phật nghĩ rằng, “Hãy để Uppalavannā đến.”
พระเถรีก็มาให้สตรีทุกคนบรรพชา แล้วพาไปสำนักภิกษุณี.
Ni trưởng Uppalavannā đến, cho tất cả phụ nữ xuất gia, rồi dẫn họ đến chùa ni.
พระศาสดาทรงพาภิกษุพันรูปเสด็จไปพระเชตวันทางอากาศ.
Đức Phật dẫn một ngàn Tỳ-khưu bay về tịnh xá Kỳ Viên qua không trung.
ครั้งนั้น ท่านพระมหากัปปินะเถระรู้ว่ากิจตนถึงที่สุดแล้ว ก็เป็นผู้ขวนขวายน้อย ทำเวลาให้ล่วงไปด้วยสุขในผลสมาบัติ.
Lúc đó, Tôn giả Mahākappina biết rằng công việc của mình đã hoàn tất, nên Ngài ít lo toan, dành thời gian chìm đắm trong hạnh phúc của quả vị thiền định.
อยู่ป่าก็ดี อยู่โคนไม้ก็ดี อยู่เรือนว่างก็ดี ก็เปล่งอุทานเนืองๆ ว่า อโห สุขํ อโห สุขํ (โอ สุขจริง โอ สุขจริง).
Dù ở trong rừng, dưới gốc cây hay trong nhà trống, Ngài thường thốt lên, “Ôi hạnh phúc, ôi hạnh phúc.”
ภิกษุทั้งหลายเกิดพูดกันขึ้นว่า ท่านพระกัปปินเถระระลึกถึงสุขในราชสมบัติ จึงเปล่งอุทาน พากันไปกราบทูลพระตถาคต.
Các Tỳ-khưu bàn tán rằng Tôn giả Kappina nhớ lại hạnh phúc của vương quyền nên thốt lên như vậy, và họ đến trình bày với Đức Phật.
พระผู้มีพระภาคเจ้าตรัสว่า บุตรเราปรารภสุขในมรรค สุขในผล จึงเปล่งอุทาน.
Đức Phật nói, “Con của ta thốt lên vì nghĩ đến hạnh phúc trong đạo và hạnh phúc của quả vị.”
แล้วตรัสพระคาถาในพระธรรมบท ดังนี้ว่า
Sau đó, Ngài thuyết kệ trong Kinh Pháp Cú như sau:
ธมฺมปีติ สุขํ เสติ วิปฺปสนฺเนน เจตสา
Người cảm thấy vui trong pháp, tâm trí thanh tịnh, sống an lạc.
อริยปฺปเวทิเต ธมฺเม สทา รมติ ปณฺฑิโต
Người trí tuệ luôn hoan hỷ trong pháp do các bậc Thánh giảng dạy.
บัณฑิตมีใจผ่องใสแล้วมีปีติในธรรม ย่อมอยู่เป็นสุข
Bậc trí có tâm thanh tịnh, cảm nhận niềm vui trong pháp, luôn sống an lạc.
ยินดีในธรรมที่พระอริยประกาศแล้วทุกเมื่อ
Luôn hoan hỷ trong giáo pháp mà bậc Thánh đã giảng dạy.
ต่อมาวันหนึ่ง พระศาสดาทรงเรียกภิกษุพันรูปอันเตวาสิกของท่านมาแล้ว ตรัสถามว่า ดูก่อนภิกษุทั้งหลาย อาจารย์ของเธอแสดงธรรมบ้างไหม.
Một ngày nọ, Đức Phật gọi một nghìn Tỳ-khưu đệ tử của Tôn giả đến và hỏi, “Này các Tỳ-khưu, thầy của các ngươi có giảng pháp không?”
กราบทูลว่า ข้าแต่พระผู้มีพระภาคเจ้า อาจารย์ของข้าพระองค์มิได้แสดงธรรมเลย ท่านเป็นผู้ขวนขวายน้อย ประกอบเนืองๆ แต่สุขวิหารธรรมในปัจจุบันอยู่ ไม่ให้แม้แต่เพียงโอวาทแก่ใครๆ.
Họ thưa, “Bạch Đức Thế Tôn, thầy của chúng con không giảng pháp, Ngài ít lo toan, thường sống trong niềm an lạc hiện tại, không dạy bảo ai cả.”
พระศาสดารับสั่งให้เรียกท่านมาแล้วตรัสถามว่า กัปปินะ เขาว่าเธอไม่ให้แม้แต่เพียงโอวาทแก่อันเตวาสิกทั้งหลาย จริงหรือ.
Đức Phật cho gọi Tôn giả đến và hỏi, “Kappina, người ta nói rằng ngươi không dạy bảo gì cho các đệ tử, có đúng không?”
ท่านกราบทูลว่า ข้าแต่พระผู้มีพระภาคเจ้า จริงพระเจ้าข้า.
Tôn giả thưa, “Bạch Đức Thế Tôn, đúng vậy, thưa Ngài.”
ตรัสว่า ดูก่อนพราหมณ์ เธออย่าทำอย่างนี้ ตั้งแต่วันนี้ไป เธอจงแสดงธรรมแก่อันเตวาสิกทั้งหลาย.
Đức Phật nói, “Này Kappina, ngươi không nên làm như vậy. Từ hôm nay, hãy giảng pháp cho các đệ tử.”
ท่านรับพระพุทธดำรัสด้วยเศียรเกล้าว่า ดีละ พระเจ้าข้า แล้วแสดงธรรมสอนสมณะพันรูป ในการประชุมคราวเดียวเท่านั้น ให้เธอบรรลุพระอรหัตหมดทุกรูป.
Tôn giả kính cẩn nhận lời và nói, “Vâng, thưa Ngài.” Sau đó, trong một buổi giảng duy nhất, Ngài thuyết pháp cho một nghìn Tỳ-khưu, tất cả đều đạt quả vị A-la-hán.
ต่อมา พระศาสดาประทับกลางสงฆ์ กำลังทรงสถาปนาพระเถระทั้งหลายในตำแหน่งต่างๆ ตามลำดับ จึงทรงสถาปนาท่านพระมหากัปปินเถระไว้ในตำแหน่งเอตทัคคะ เป็นยอดของเหล่าภิกษุสาวกผู้โอวาทภิกษุแล.
Sau đó, Đức Phật, khi đang ở giữa tăng đoàn, lần lượt tôn phong các vị thánh tăng vào những vị trí khác nhau, và đã tôn phong Tôn giả Mahākappina vào vị trí thượng thủ trong hàng đệ tử giảng pháp cho các Tỳ-khưu.
จบอรรถกถาสูตรที่ ๙
Hết chú giải bài kinh thứ 9.