Chú giải Tăng Chi Bộ Kinh

Chú giải Thái kinh Tăng Chi Bộ I – Chương 1 – 14.31. Phẩm Người Tối Thắng

อรรถกถา อังคุตตรนิกาย เอกนิบาต เอตทัคคบาลี
Chú giải Aṅguttara Nikāya Ekakāraṇa Etadagga.

วรรคที่ ๔
Phần 4

หน้าต่างที่ ๒ / ๑๒.
Trang 2 / 12.

อรรถกถาสูตรที่ ๒

Chú giải bài kinh thứ 2

ประวัติพระอุรุเวลกัสสปเถระ

Tiểu sử Tôn giả Uruvelā Kassapa

ในสูตรที่ ๒ พึงทราบวินิจฉัยดังต่อไปนี้.
Trong bài kinh thứ 2, hãy lưu ý các phân tích sau đây.

ด้วยบทว่า มหาปริสานํ ท่านแสดงว่า ท่านพระอุรุเวลกัสสปเป็นยอดของเหล่าภิกษุสาวกผู้มีบริวารมาก.
Với cụm từ “Mahāparisānaṁ,” ngài chỉ ra rằng Tôn giả Uruvelā Kassapa đứng đầu trong hàng đệ tử có đông người theo.

จริงอยู่ พระเถระอื่นๆ บางกาลก็มีปริวารมาก บางกาลก็มีปริวารน้อย ส่วนพระเถระนี้กับน้องชายทั้งสอง มีปริวารประจำ เป็นสมณะถึงหนึ่งพันรูป.
Thực ra, các tôn giả khác có lúc có nhiều, lúc ít đồ chúng, nhưng Tôn giả này cùng với hai người em luôn có một nghìn tăng đoàn theo sát.

บรรดาภิกษุชฎิลสามรูปนั้น เมื่อแต่ละรูปให้บรรพชาครั้งละรูป ก็จะเป็นสมณะสองพันรูป เมื่อให้บรรพชาครั้งละสองรูป ก็จะเป็นสมณะสามพันรูป เพราะฉะนั้น ท่านอุรุเวลกัสสปจึงเป็นยอดของเหล่าภิกษุสาวกผู้มีบริวารมาก.
Trong số ba vị Tỳ-khưu tóc bện đó, mỗi người truyền pháp cho một người sẽ có hai nghìn tu sĩ, nếu truyền pháp cho hai người sẽ có ba nghìn tu sĩ. Do đó, Tôn giả Uruvelā Kassapa đứng đầu trong hàng đệ tử có đông người theo.

ก็คำว่า กัสสป เป็นโคตรของท่าน. ปรากฏชื่อว่า อุรุเวลกัสสป เพราะท่านบวชในอุรุเวลาเสนานิคม.
Từ “Kassapa” là dòng họ của ngài. Ngài được gọi là Uruvelā Kassapa vì đã xuất gia tại khu làng Uruvelā.

ในปัญหากรรมของท่าน มีเรื่องจะกล่าวตามลำดับ ดังนี้ :-
Trong vấn đề nghiệp của ngài, câu chuyện sẽ được trình bày theo thứ tự như sau:

ครั้งพระพุทธเจ้าพระนามว่าปทุมุตตระ แม้ท่านอุรุเวลกัสสปนี้ก็ถือปฏิสนธิในเรือนสกุล ณ กรุงหงสวดี เจริญวัยแล้ว ฟังธรรมกถาของพระศาสดา เห็นพระศาสดาทรงสถาปนาภิกษุรูปหนึ่งไว้ในตำแหน่งเอตทัคคะเป็นยอดของเหล่าภิกษุสาวกผู้มีบริษัทมาก คิดว่า แม้เราก็ควรจะเป็นเช่นภิกษุรูปนี้ในอนาคตกาล จึงถวายมหาทานแด่ภิกษุสงฆ์มีพระพุทธเจ้าเป็นประมุข ๗ วัน ให้ครองไตรจีวร ถวายบังคมพระศาสดา แล้วได้กระทำความปรารถนาในตำแหน่งเอตทัคคะเป็นยอดของเหล่าภิกษุสาวกผู้มีบริษัท.
Vào thời Đức Phật có tên là Padumuttara, ngài Uruvelā Kassapa cũng tái sinh trong một gia đình ở kinh đô Hamsavati. Khi trưởng thành, ngài nghe Pháp của Đức Phật, thấy Đức Phật đặt một vị Tỳ-khưu vào vị trí cao nhất trong hàng đệ tử có đông người theo. Ngài nghĩ rằng, mình cũng nên trở thành như vị Tỳ-khưu này trong tương lai, nên đã cúng dường đại thí cho Tăng đoàn do Đức Phật dẫn đầu trong bảy ngày, tặng y phục tam y, đảnh lễ Đức Phật và nguyện được vị trí cao nhất trong hàng đệ tử có đông người theo.

พระศาสดาทรงเห็นไม่มีอันตราย จึงทรงพยากรณ์ว่า เขาจักเป็นยอดของเหล่าภิกษุสาวกผู้มีบริษัทมาก ในศาสนาของพระโคดมพุทธเจ้า ในอนาคตกาล แล้วเสด็จกลับไป.
Đức Phật thấy không có trở ngại, nên đã tiên tri rằng ngài sẽ là người đứng đầu hàng đệ tử có đông người theo trong giáo pháp của Đức Phật Cồ Đàm ở tương lai, rồi Đức Phật quay lại.

กุลบุตรแม้นั้นกระทำกัลยาณกรรมตลอดชีวิต เวียนว่ายอยู่ในเทวดาและมนุษย์ ในที่สุดกัปที่ ๙๒ ก็บังเกิดเป็นกนิษฐภาดาต่างมารดาของพระพุทธเจ้าพระนามว่าปุสสะ พระราชบิดาพระนามว่ามหินทรราชา.
Chàng trai đó đã thực hiện nhiều việc lành suốt cuộc đời, trải qua các kiếp luân hồi ở cõi trời và nhân gian, cuối cùng đến kiếp thứ 92 đã sinh ra làm em trai cùng cha khác mẹ với Đức Phật có tên là Phussa. Phụ vương của ngài tên là Mahindra.

ท่านยังมีพี่น้องอื่นๆ อีกสององค์. พี่น้องทั้งสามองค์นั้นได้ตำแหน่งองค์ละแผนกอย่างนี้ ทรงปราบปรามชนบทชายแดนที่ก่อกบฏ โดยนัยที่กล่าวแล้วในหนหลัง ทรงได้พรจากสำนักพระราชบิดา ทรงรับพรว่า พวกข้าพระองค์จักบำรุงพระทศพลตลอดไตรมาส.
Ngài còn có hai anh em nữa. Ba anh em đó đã nhận được mỗi người một vị trí, trấn áp những vùng biên giới nổi loạn, như đã đề cập ở trước. Các ngài đã nhận phước từ phụ vương, và nguyện sẽ phụng dưỡng mười năng lực của Đức Phật suốt mùa an cư kéo dài ba tháng.

ครั้งนั้น พี่น้องทั้งสามพระองค์ทรงดำริว่า พวกเราบำรุงพระทศพลกระทำให้เหมาะ จึงควรจึงแต่งตั้งอมาตย์ผู้หนึ่งไว้ในตำแหน่งเป็นผู้หารายได้ แต่งตั้งอมาตย์ผู้หนึ่งเป็นผู้รับจ่าย แต่งตั้งอมาตย์ผู้หนึ่งในตำแหน่งเป็นผู้เลี้ยงภิกษุสงฆ์มีพระพุทธเจ้าเป็นประมุข สมาทานศีลสิบสำหรับพระองค์ รักษาสิกขาบททั้งหลายตลอดไตรมาส.
Lúc đó, ba anh em nhà vua suy nghĩ rằng để phụng dưỡng mười năng lực của Đức Phật một cách đúng đắn, nên đã bổ nhiệm một quan chức làm người phụ trách kiếm thu nhập, một người quản lý chi tiêu, và một người làm nhiệm vụ nuôi dưỡng Tăng đoàn do Đức Phật dẫn đầu, đồng thời phát nguyện giữ gìn thập giới và thực hiện các giới luật trong suốt mùa an cư.

อมาตย์ทั้งสามคนนั้นบังเกิดเป็นพิมพิสาร วิสาขะและรัฐปาละ ในพุทธุปบาทกาลนี้ โดยนัยที่กล่าวมาแล้วในหนหลัง.
Ba vị quan này sau đó đã tái sinh thành Vua Bimbisara, Visakha, và Ratthapala vào thời Đức Phật hiện tại, như đã được nhắc đến trước đây.

ส่วนพระราชกุมารเหล่านั้น เมื่อพระทศพลอยู่จำพรรษาแล้ว ทรงบูชาด้วยปัจจัยด้วยพระหัตถ์ของพระองค์เอง กระทำกัลยาณกรรมตลอดชีวิต บังเกิดในสกุลพราหมณ์ก่อนพระทศพลของเราทรงอุบัติ มีนามว่ากัสสป. ทั้งสามคนตามโคตรของตน คนทั้งสามนั้นเจริญวัยแล้วเรียนไตรเพท คนใหญ่มีบริวารมาณพ ๕๐๐ คน คนกลาง ๓๐๐ คน คนเล็ก ๒๐๐ คน.
Còn các hoàng tử, khi Đức Phật đã nhập hạ, đã phụng dưỡng bằng chính vật phẩm của mình. Họ đã thực hiện các nghiệp lành suốt đời, tái sinh vào dòng dõi Bà-la-môn trước khi Đức Phật xuất hiện, với danh xưng là Kassapa. Cả ba người, theo dòng họ của mình, khi trưởng thành đã học thành thông ba bộ kinh Veda. Người anh cả có 500 môn sinh theo, người giữa có 300 và người em út có 200.

ทั้งสามพี่น้องตรวจดูสาระในคัมภีร์ (ไตรเพท) เห็นแต่ประโยชน์ส่วนปัจจุบันเท่านั้น ไม่เห็นประโยชน์ส่วนภายภาคหน้า พี่ชายคนใหญ่ไปยังตำบลอุรุเวลาบวชเป็นฤษีพร้อมกับบริวารของตน ชื่อว่าอุรุเวลกัสสป. คนกลางไปบวชที่คุ้งมหาคงคานที ชื่อว่านทีกัสสป. คนเล็กไปบวชที่คยาสีสประเทศ ชื่อว่าคยากัสสป.
Ba anh em này, khi xem xét kỹ lưỡng kinh Veda, chỉ thấy lợi ích của hiện tại mà không thấy lợi ích về sau. Người anh cả đã đến vùng Uruvelā để xuất gia làm đạo sĩ với môn sinh của mình, được gọi là Uruvelā Kassapa. Người anh giữa xuất gia tại khúc sông lớn của sông Hằng, được gọi là Nadi Kassapa. Người em út đi xuất gia tại vùng Gayasisa, được gọi là Gaya Kassapa.

เมื่อกัสสปพี่น้องบวชเป็นฤษีอยู่ ณ ที่นั้นล่วงวันไปเป็นอันมาก พระโพธิสัตว์ของเราเสด็จออกมหาภิเนษกรมณ์ ทรงได้พระสัพพัญญุตญาณ ประกาศพระธรรมจักรตามลำดับ ทรงสถาปนาพระปัญจวัคคียเถระไว้ในพระอรหัต ทรงแนะนำสหาย ๕๕ คนมียศกุลบุตรเป็นหัวหน้า ทรงส่งพระอรหันต์ ๖๐ องค์ให้จาริกไปเพื่อประโยชน์แก่ชนเป็นอันมาก ด้วยพระดำรัสว่า ดูก่อนภิกษุทั้งหลาย พวกเธอจงจาริกไปดังนี้เป็นต้น ทรงแนะนำพวกภัททวัคคีย์ แล้วทรงเห็นเหตุแห่งอุรุเวลกัสสป ก็ทรงทราบว่าเมื่อเราไป สามพี่น้องพร้อมบริวารจักบรรลุพระอรหัต.
Khi ba anh em Kassapa đã xuất gia làm đạo sĩ và đã trôi qua một thời gian dài, Bồ Tát của chúng ta đã xuất gia vĩ đại, đạt được tri kiến toàn giác, và truyền bá bánh xe pháp. Ngài đã xác lập năm Tôn giả Panca-vaggiya vào hàng A-la-hán, hướng dẫn năm mươi lăm người bạn với Yasa làm trưởng nhóm, và cử sáu mươi A-la-hán đi truyền bá vì lợi ích của nhiều người. Ngài nói rằng: “Này các Tỳ-khưu, hãy đi như vậy,” v.v. Sau đó, ngài dẫn dắt nhóm Bhaddavaggiya và nhận thấy nguyên nhân của Uruvelā Kassapa, biết rằng khi Ngài đến, ba anh em và các đồ chúng sẽ đạt A-la-hán.

ลำพังพระองค์เดียวไม่มีเพื่อน เสด็จถึงที่อยู่ของอุรุเวลกัสสป ทรงขอเรือนไฟเพื่อประทับอยู่ ทรงแนะนำอุรุเวลกัสสปพร้อมด้วยบริวาร ตั้งต้นแต่ทรงทรมานงู ซึ่งอยู่ในเรือนไฟนั้นด้วยปาฏิหาริย์ทั้งหลาย เป็นจำนวนถึง ๓,๕๐๐ อย่างแล้วทรงให้บวช.
Một mình không có người đi cùng, Ngài đã đến nơi ở của Uruvelā Kassapa và xin ở trong nhà lửa để cư trú. Ngài đã hướng dẫn Uruvelā Kassapa cùng với đồ chúng của ông, bắt đầu từ việc hàng phục con rắn trong nhà lửa đó bằng các phép màu, lên đến 3.500 lần, rồi khiến ông xuất gia.

น้องชายอีกสองคนรู้ว่าพี่ชายบวช ก็มาบวชพร้อมด้วยบริวาร เหล่าชฎิลทั้งหมดเป็นเอหิภิกขุ ทรงบาตรและจีวรสำเร็จมาแต่ฤทธิ.
Hai người em khi biết anh trai đã xuất gia cũng đến để xuất gia cùng với đồ chúng. Tất cả các Jatila đã trở thành Tỳ-khưu Ehibhikkhu, và họ nhận được bình bát và y phục từ quyền năng siêu nhiên của Đức Phật.

พระศาสดาทรงพาสมณะ ๑,๐๐๐ รูปนั้นไปยังคยาสีสประเทศ ประทับนั่งบนหลังแผ่นหิน ทรงตรวจดูว่า คนเหล่านี้บวชบำเรอไฟ ควรจะแสดงภพทั้งสาม ให้เป็นเสมือนเรือนไฟไหม้แก่คนเหล่านี้ จึงทรงแสดงอาทิตตปริยายสูตร.
Đức Phật đã dẫn một nghìn vị tu sĩ này đến vùng Gayasisa, ngồi trên một tảng đá lớn. Ngài nhận thấy rằng những người này đã xuất gia để thờ lửa, nên nên hiển thị ba cõi như một căn nhà đang cháy đối với họ, vì vậy Ngài đã giảng Aditthapariyaya Sutta.

จบเทศนา ก็บรรลุพระอรหัตหมดทุกรูป.
Kết thúc bài giảng, tất cả các vị đều đạt quả A-la-hán.

พระศาสดามีภิกษุชฎิลเหล่านั้นแวดล้อม ทรงทราบถึงปฏิญญาที่ถวายไว้แด่พระเจ้าพิมพิสารตามลำดับ เสด็จถึงพระราชอุทยานลัฏฐิวัน กรุงราชคฤหถ์ พระราชาทรงทราบว่าพระทศพลเสด็จมาถึงแล้ว ก็พร้อมด้วยพราหมณ์และคฤหบดีสิบสองนหุต เสด็จเข้าไปเฝ้าพระศาสดา ถวายบังคับแล้ว ประทับนั่ง ณ ที่สมควรข้างหนึ่ง.
Đức Phật, được bao quanh bởi các Tỳ-khưu Jatila, đã ghi nhớ lời hứa của vua Bimbisara theo thứ tự, Ngài đến khu vườn Latiwan, ở thành Vương Xá. Vua Bimbisara khi biết Đức Phật đã đến, cùng với mười hai nghìn Bà-la-môn và gia chủ, đã đến bái kiến Đức Phật, đảnh lễ Ngài, và ngồi xuống ở một nơi thích hợp.

พระศาสดาทรงตรวจดูบริษัททั้งหมด ทรงเห็นมหาชนทำความนอบน้อมอุรุเวลกัสสป ทรงพระดำริว่า คนเหล่านี้ไม่รู้ว่าเราหรือกัสสป เป็นใหญ่ ขึ้นชื่อว่าเหล่าชนที่มีวิตก ไม่อาจรับเทศนาได้ จึงได้ประทานสัญญา(ณ) แก่พระเถระว่า กัสสป เธอจงตัดความวิตกของเหล่าอุปัฏฐากของเธอเสีย.
Đức Phật xem xét toàn thể chúng hội, thấy rằng mọi người đang tôn kính Uruvelā Kassapa. Ngài suy nghĩ rằng những người này không biết ai là người cao quý hơn, là Ngài hay Kassapa. Với những ai còn băn khoăn thì không thể tiếp nhận Pháp, nên Ngài đã ra dấu hiệu cho Tôn giả rằng: “Này Kassapa, hãy dẹp tan sự lo ngại của những người theo hầu ngươi.”

พระเถระรับพระดำรัสของพระศาสดา แล้วลุกจากอาสนะ ถวายบังคมพระศาสดาด้วยเบญจางคประดิษฐ์ เหาะขึ้นสู่อากาศประมาณชั่วต้นตาล แสดงฤทธิต่างๆ ประกาศว่า ข้าแต่พระองค์ผู้เจริญ พระผู้มีพระภาคเจ้าทรงเป็นศาสดาของข้าพระองค์ ข้าพระองค์เป็นสาวก ข้าแต่พระองค์ผู้เจริญ พระผู้มีพระภาคเจ้าทรงเป็นศาสดาของข้าพระองค์ ข้าพระองค์เป็นสาวก แล้วลงมาถวายบังคมพระยุคลบาทพระทศพล โดยอุบายนั้น ครั้งที่ ๗ เหาะขึ้นสู่อากาศ ๗ ชั่วต้นตาล แล้วถวายบังคมพระยุคลบาทของพระทศพล นั่ง ณ ที่สมควรข้างหนึ่ง.
Tôn giả nhận được lời của Đức Phật, liền đứng lên khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ Đức Phật bằng lễ lạy năm chi, bay lên không trung cao khoảng một cây cọ, biểu diễn các thần thông và tuyên bố rằng: “Kính bạch Đức Thế Tôn, Đức Thế Tôn là bậc Đạo Sư của con, con là đệ tử. Kính bạch Đức Thế Tôn, Đức Thế Tôn là bậc Đạo Sư của con, con là đệ tử.” Rồi ngài hạ xuống đảnh lễ Đức Phật, và lần thứ bảy bay lên không trung cao bảy cây cọ, rồi lại đảnh lễ Đức Phật và ngồi ở một nơi thích hợp.

เวลานั้น มหาชนหมดวิตกในพระศาสดาว่า ท่านผู้นี้เป็นมหาสมณะในโลก.
Lúc đó, đại chúng đã dẹp bỏ mọi lo ngại về Đức Phật, xác nhận rằng Ngài là bậc Đại Sa Môn của thế gian.

ลำดับนั้น พระศาสดาจึงทรงแสดงธรรมโปรด. จบเทศนา พระราชาพร้อมด้วยพราหมณ์และคฤหบดีสิบเอ็ดนหุต ดำรงอยู่ในพระโสดาปัตติผล นหุตหนึ่งประกาศตนเป็นอุบาสก.
Sau đó, Đức Phật đã thuyết pháp cho đại chúng. Khi kết thúc bài pháp, vua và mười một nghìn Bà-la-môn và gia chủ đạt quả Dự Lưu (Sotāpanna), và một nghìn người tuyên bố trở thành cư sĩ tại gia.

ภิกษุจำนวนพันรูป บริวารของอุรุเวลกัสสปเหล่านั้น คิดด้วยความคุ้นเคยของตนว่า กิจบรรพชิตของพวกเราถึงที่สุดแล้ว พวกเราจักไปภายนอกทำอะไร. จึงเที่ยวห้อมล้อมท่านพระอุรุเวลกัสสปอย่างเดียว บรรดาภิกษุชฎิลทั้งสามนั้น เมื่อภิกษุชฎิลแต่ละองค์รับนิสสิตก์ได้ครั้งละองค์ ก็เป็นสองพัน เมื่อรับได้ครั้งละสององค์ ก็เป็นสามพัน.
Một nghìn Tỳ-khưu, là đồ chúng của Uruvelā Kassapa, đã suy nghĩ rằng nhiệm vụ xuất gia của họ đã hoàn tất, không còn gì phải thực hiện ở bên ngoài nữa. Do đó, họ tiếp tục đi theo Tôn giả Uruvelā Kassapa. Trong số các Tỳ-khưu Jatila, khi mỗi vị Jatila nhận một đệ tử thì số lượng là hai nghìn, và khi nhận hai đệ tử thì đạt ba nghìn.

ตั้งแต่นั้นมานิสสิตก์ของภิกษุชฎิลเหล่านั้นมีเท่าใด จะกล่าวถึงนิสสิตก์เท่านั้นก็ควรแล.
Từ đó trở đi, đệ tử của các Tỳ-khưu Jatila có bao nhiêu, chỉ cần nói về số lượng đệ tử đó là đủ.

ในข้อนั้นมีวัตถุนิทานดังนี้.
Trong điều này có một câu chuyện nền tảng như sau.

แต่ต่อมา พระศาสดาประทับอยู่ ณ พระเชตวันวิหาร ทรงสถาปนาพระเถระไว้ในตำแหน่งเอตทัคคะเป็นยอดของเหล่าภิกษุสาวกผู้มีบริษัทมาก ดังนี้แล.
Sau đó, Đức Phật cư trú tại tịnh xá Jetavana và đã xác lập Tôn giả vào vị trí cao nhất trong hàng đệ tử có đông người theo.

จบอรรถกถาสูตรที่ ๒

Kết thúc chú giải kinh thứ 2.

Hộp bình luận Facebook

Soṇa Thiện Kim

Panha.org là trang web chuyên sâu về Pháp học của Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Tông), nơi cung cấp kiến thức và tài liệu quý báu về kinh điển, giáo lý, và triết học Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Tông). Tại đây, bạn có thể tìm hiểu về các giáo pháp truyền thống, kinh nghiệm tu tập, và những bài giảng từ các vị tôn sư hàng đầu trong cộng đồng Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Tông). Với mục tiêu giúp người học hiểu sâu hơn về con đường giác ngộ và sự giải thoát, Panha.org mang đến nguồn tài nguyên phong phú, chính xác và cập nhật để hỗ trợ hành giả trên hành trình tu tập Pháp học.

Bài viết liên quan

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.

0 Góp ý
Được bỏ phiếu nhiều nhất
Mới nhất Cũ nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Back to top button