Chú giải Tăng Chi Bộ Kinh

Chú giải Thái kinh Tăng Chi Bộ I – Chương 1 – 14.3. Phẩm Người Tối Thắng

อรรถกถา อังคุตตรนิกาย เอกนิบาต เอตทัคคบาลี
Giải thích về Kinh Aṅguttara Nikāya, Bộ Kinh Một, Kinh Về Những Điều Tối Thượng.

วรรคที่ ๑

Đoạn 1.

หน้าต่างที่ ๓ / ๑๐.

Cửa sổ thứ 3 / 10.

อรรถกถาสูตรที่ ๒-๓
Giải thích về Kinh số 2-3.

ประวัติพระสารีบุตรและพระโมคคัลลานเถระ
Tiểu sử của Tôn giả Sāriputta và Tôn giả Moggallāna.

สูตรที่ ๒-๓ พึงทราบวินิจฉัยดังต่อไปนี้ :-
Kinh số 2-3, cần lưu ý phán xét như sau:

บทว่า มหาปญฺญานํ ได้แก่ ผู้ประกอบด้วยปัญญาอย่างมากมาย.
Đoạn nói rằng “Mahāpaññā” có nghĩa là người có trí tuệ vô cùng lớn.

บทว่า อิทฺธิมนฺตานํ ได้แก่ ผู้สมบูรณ์ด้วยฤทธิ์.
Đoạn nói rằng “Iṭṭhimantāna” có nghĩa là người hoàn thiện với sức mạnh.

คำว่า สารีบุตร โมคคัลลานะ เป็นชื่อของพระเถระทั้งสองนั้น.
Tên gọi Sāriputta và Moggallāna là tên của hai vị Tôn giả đó.

ในปัญหากรรมของพระเถระทั้ง ๒ นี้ มีเรื่องที่จะกล่าวตามลำดับดังนี้.
Trong vấn đề nghiệp của hai vị Tôn giả này, có những điều sẽ được nói theo thứ tự như sau.

ในที่สุดอสงไขยกัปยิ่งด้วยแสนกัป นับแต่กัปนี้ ท่านพระสารีบุตรบังเกิดในครอบครัวพราหมณมหาศาล ชื่อสรทมาณพ.
Cuối cùng, vào thời gian không thể đếm được, từ thời gian này, Tôn giả Sāriputta đã sinh ra trong một gia đình Bà-la-môn giàu có, tên là Sāratha.

ท่านพระโมคคัลลานะบังเกิดในครอบครัวคฤหบดีมหาศาล ชื่อสิริวัฑฒกุฏมพี.
Tôn giả Moggallāna sinh ra trong một gia đình thương gia giàu có, tên là Sirivajjakudda.

ทั้ง ๒ คนเป็นเพื่อนเล่นฝุ่นด้วยกันมา เมื่อบิดาล่วงลับไป สรทมาณพก็ได้ทรัพย์เป็นอันมากซึ่งเป็นสมบัติของสกุล.
Cả hai người đã chơi với nhau từ nhỏ, khi cha của họ qua đời, Sāratha đã thừa kế một tài sản rất lớn thuộc về gia đình.

วันหนึ่ง [สรทมาณพ] อยู่ในที่ลับคิดว่า เราไม่รู้อัตภาพในโลกนี้ ไม่รู้อัตภาพในโลกอื่น ขึ้นชื่อว่าความตายเป็นของแน่สำหรับเหล่าสัตว์ที่เกิดมาแล้ว ควรที่เราจะถือบวชสักอย่างหนึ่ง แสวงหาโมกขธรรม.
Một ngày nọ, [Sāratha] ở nơi vắng vẻ suy nghĩ rằng: Chúng ta không biết về bản chất cuộc sống trong thế giới này, cũng như không biết về bản chất cuộc sống trong thế giới khác. Sự chết là điều chắc chắn cho những sinh vật đã được sinh ra. Chúng ta nên xuất gia để tìm kiếm sự giải thoát.

สรทมาณพนั้นไปหาสหาย กล่าวว่า เพื่อนสิริวัฑฒ์ เราจักบวชแสวงหาโมกขธรรม เจ้าจักบวชพร้อมกับเราได้ไหม.
Sāratha đã đến gặp bạn mình và nói: “Bạn Sirivajjakudda, tôi sẽ xuất gia để tìm kiếm sự giải thoát. Bạn có muốn cùng xuất gia với tôi không?”

สิริวัฑฒกุฏมพีตอบว่า ไม่ได้ดอกเพื่อน เจ้าบวชคนเดียวเถิด.
Sirivajjakudda trả lời: “Không được đâu bạn, bạn hãy xuất gia một mình đi.”

สรทมาณพคิดว่า คนเมื่อไปปรโลก จะพาสหายหรือญาติมิตรไปด้วยหามีไม่ กรรมที่ตนทำก็เป็นของตนผู้เดียว.
Sāratha nghĩ rằng, khi con người qua đời, họ không thể mang theo bạn bè hoặc người thân. Nghiệp mà mình tạo ra chỉ thuộc về mình mà thôi.

ต่อนั้นก็สั่งให้เปิดเรือนคลังรัตนะให้มหาทานแก่คนกำพร้า คนเดินทางไกล วณิพกและยาจกทั้งหลาย แล้วบวชเป็นฤษี.
Sau đó, ông đã ra lệnh mở kho tàng để bố thí cho những người mồ côi, những người đi đường xa, những thương nhân và những người ăn xin, rồi ông xuất gia làm một ẩn sĩ.

มีคนบวชตามสรทมาณพนั้น อย่างนี้คือ คน ๑-๒ คน ๓ คน กลายเป็นชฎิลจำนวนประมาณ ๗๔,๐๐๐ รูป.
Có những người đã xuất gia theo Sāratha, gồm một, hai, ba người, và trở thành những người khất thực với tổng số khoảng 74,000 vị.

สรทฤษีนั้นทำอภิญญา ๕ สมาบัติ ๘ ให้บังเกิดแล้วก็สอนกสิณบริกรรมแก่ชฎิลเหล่านั้น.
Tôn giả Sāratha đã làm phát sinh 5 loại siêu trí tuệ và 8 phép định, rồi dạy các khất thực này về các phép quán tưởng.

ชฎิลเหล่านั้นก็ทำอภิญญา ๕ สมาบัติ ๘ ให้บังเกิดทุกรูป.
Các khất thực đó cũng đã làm phát sinh 5 loại siêu trí tuệ và 8 phép định trong tất cả mọi người.

สมัยนั้น พระพุทธเจ้าพระนามว่าอโนมทัสสี ทรงอุบัติขึ้นในโลก พระนครชื่อว่าจันทวดี พระพุทธบิดาเป็นกษัตริย์พระนามว่ายศวันตะ พระพุทธมารดาเป็นพระเทวีพระนามว่ายโสธรา.
Thời đó, Đức Phật có tên là Anomadassi, ngài ra đời trong thế giới. Thành phố có tên là Cāntavadi, cha của Đức Phật là một vị vua tên là Yodhāvatta, và mẹ của Đức Phật là một nữ hoàng tên là Yasodhara.

ต้นไม้ที่ตรัสรู้ชื่อว่าอัชชุนพฤกษ์ ต้นกุ่ม (ต้นรกฟ้าขาวก็ว่า).
Cây mà ngài đạt được giác ngộ có tên là Aṭṭhūnaparikkhāra, còn được gọi là cây Bồ Đề.

พระอัครสาวกทั้ง ๒ ชื่อว่าพระนิสภเถระและพระอโนมเถระ.
Hai vị Thánh đệ tử của ngài là Tôn giả Nandaka và Tôn giả Ananda.

พระพุทธอุปฐากชื่อพระวรุณเถระ.
Người trợ giúp Đức Phật có tên là Tôn giả Varuna.

พระอัครสาวิกาทั้ง ๒ ชื่อสุนทราและสุมนา.
Hai vị Thánh Tỳ-khưu nữ của ngài là Sunanda và Sumanā.

ทรงมีพระชนมายุ ๑๐๐,๐๐๐ พรรษา.
Ngài sống thọ 100,000 năm.

พระวรกายสูง ๕๘ ศอก.
Thân hình ngài cao 58 tấc.

รัศมีพระวรกายแผ่ไป ๑๒ โยชน์.
Ánh sáng từ thân ngài lan tỏa ra 12 do tuần.

มีภิกษุเป็นบริวาร ๑๐๐,๐๐๐ รูป.
Có 100,000 vị Tỳ-khưu đi theo ngài.

ต่อมาวันหนึ่ง พระอโนมทัสสีพุทธเจ้าเสด็จออกจากพระมหากรุณาสมาบัติ ทรงตรวจดูโลกเวลาใกล้รุ่ง.
Vào một ngày nọ, Đức Phật Anomadassi đã rời khỏi cõi từ bi, ngài kiểm tra thế giới vào lúc gần sáng.

ทรงเห็นสรทดาบส ทรงพระดำริว่า วันนี้ เพราะเราไปหาสรทดาบสเป็นปัจจัย จักมีธรรมเทศนากัณฑ์ใหญ่ และสรทดาบสนั้นจักปรารถนาตำแหน่งอัครสาวก.
Ngài thấy Sāratha, và suy nghĩ: “Hôm nay, vì chúng ta đến thăm Sāratha, sẽ có một bài thuyết pháp lớn, và Sāratha sẽ mong muốn vị trí thánh đệ tử.”

สิริวัฑฒกุฏุมพีสหายของเขาจักปรารถนาตำแหน่งอัครสาวกที่ ๒.
Bạn của ông, Sirivajjakudda, sẽ mong muốn vị trí thánh đệ tử thứ hai.

จบเทศนาชฎิล ๗๔,๐๐๐ รูปบริวารของเขาจักบรรลุพระอรหัต.
Sau khi kết thúc bài thuyết pháp, 74,000 người khất thực của ông sẽ đạt được quả vị A La Hán.

ควรที่เราจะไปที่นั้น ดังนี้แล้ว ทรงถือบาตรและจีวรของพระองค์ ไม่เรียกใครอื่น เสด็จลำพังพระองค์เหมือนราชสีห์.
Chúng ta nên đi đến đó. Nói vậy, ngài cầm bình bát và y áo của mình, không gọi ai khác, đi một mình như một vị sư tử.

เมื่อเหล่าอันเตวาสิก ศิษย์ของสรทดาบสออกไปแสวงหาผลาผล.
Khi những môn đồ của Sāratha ra ngoài tìm kiếm trái cây.

ทรงอธิษฐานว่า ขอสรทดาบสจงรู้ว่าเราเป็นพระพุทธเจ้า.
Ngài cầu nguyện rằng: “Xin cho Sāratha biết rằng chúng ta là Đức Phật.”

เมื่อสรทดาบสกำลังดูอยู่นั่นเอง ก็เสด็จลงจากอากาศ ประทับยืนบนพื้นดิน.
Khi Sāratha đang nhìn, ngài từ trên không hạ xuống, đứng trên mặt đất.

สรทดาบสเห็นพระพุทธานุภาพและพระสรีรสมบัติของพระองค์ จึงพิจารณาลักษณมนต์.
Sāratha thấy được uy lực và vẻ đẹp của ngài, nên đã quan sát những đặc điểm.

ก็รู้ว่าธรรมดาผู้ประกอบด้วยลักษณะเหล่านี้ เมื่ออยู่ครองเรือนก็ต้องเป็นพระเจ้าจักรพรรดิ์.
Ông nhận ra rằng người có những đặc điểm như vậy, khi sống trong gia đình, chắc chắn sẽ trở thành một vị vua.

เมื่อบวชก็ต้องเป็นพระสัพพัญญูพุทธะผู้ทรงเปิดกิเลสดุจหลังคาเสียแล้วในโลก.
Khi xuất gia, người đó sẽ trở thành một Đức Phật toàn giác, người đã mở ra những ác pháp trong thế giới.

มหาบุรุษผู้นี้ต้องเป็นพระพุทธเจ้าโดยไม่ต้องสงสัย จึงออกไปต้อนรับ ถวายบังคมด้วยเบญจางคประดิษฐ์ ปูอาสนะถวาย.
Người vĩ đại này chắc chắn là một Đức Phật, không cần nghi ngờ, vì vậy ông đã ra ngoài đón tiếp, chắp tay cúng dường và trải chỗ ngồi.

พระผู้มีพระภาคเจ้าก็ประทับนั่งเหนืออาสนะที่ปูแล้ว.
Đức Phật đã ngồi trên chỗ ngồi được trải sẵn.

แม้สรทดาบสก็ถือเอาอาสนะที่สมควรแก่ตน นั่ง ณ ที่สมควรส่วนหนึ่ง.
Sāratha cũng đã lấy chỗ ngồi phù hợp với mình và ngồi ở một nơi thích hợp.

สมัยนั้น ชฎิล ๗๔,๐๐๐ รูปก็ถือผลาผลมีโอชะอันประณีตๆ มาถึงสำนักของอาจารย์.
Lúc đó, 74,000 vị khất thực đã mang theo những trái cây tươi ngon đến gặp vị thầy.

มองดูอาสนะที่พระพุทธเจ้าและอาจารย์นั่งแล้วกล่าวว่า ท่านอาจารย์ พวกเราเที่ยวไปด้วยเข้าใจว่า ไม่มีใครเป็นใหญ่กว่าท่านในโลกนี้ แต่บุรุษผู้นี้เห็นทีจะใหญ่กว่าท่านแน่.
Nhìn thấy chỗ ngồi mà Đức Phật và vị thầy đang ngồi, họ nói: “Thưa thầy, chúng tôi đã đi khắp nơi và nghĩ rằng không ai lớn hơn thầy trong thế giới này, nhưng người đàn ông này có vẻ lớn hơn thầy.”

สรทดาบสกล่าวว่า พ่อเอ๋ย พูดอะไร พวกเจ้าประสงค์จะเปรียบขุนเขาสิเนรุซึ่งสูง ๖,๐๐๐,๐๐๐ โยชน์ ทำให้เท่ากับเมล็ดพันธุ์ผักกาด.
Sāratha nói: “Hỡi các con, các con đang nói gì vậy? Các con muốn so sánh núi Sineru cao 6,000,000 do tuần với một hạt giống rau cải sao?”

ลูกเอ๋ย พวกเจ้าอย่าเปรียบเรากับพระสัพพัญญูพุทธะเลย.
Hỡi con, đừng so sánh chúng ta với Đức Phật toàn giác.

ครั้งนั้น ชฎิลเหล่านั้นคิดว่า ถ้าบุรุษผู้นี้จักเป็นสัตว์ต่ำช้าแล้วไซร้ อาจารย์ของเราคงไม่นำมาเปรียบเช่นนี้.
Lúc đó, những khất thực nghĩ rằng nếu người đàn ông này là kẻ thấp hèn, thì thầy của chúng chắc chắn sẽ không so sánh như vậy.

ที่แท้บุรุษผู้นี้ต้องเป็นใหญ่หนอ ทุกรูปจึงหมอบแทบเบื้องพระยุคลบาท ไหว้ด้วยเศียรเกล้า.
Thật sự, người đàn ông này chắc chắn là vĩ đại, vì vậy tất cả đều quỳ xuống trước chân ngài và cúi đầu chào.

ลำดับนั้น อาจารย์จึงกล่าวกะชฎิลเหล่านั้นว่า พ่อเอ๋ย ไทยธรรมของเราที่คู่ควรแก่พระพุทธเจ้าไม่มีเลย.
Sau đó, vị thầy nói với các khất thực: “Hỡi các con, những món cúng dường của chúng ta không xứng đáng với Đức Phật chút nào.”

ในเวลาภิกษาจาร พระศาสดาก็เสด็จมาแล้วในที่นี้.
Khi đi khất thực, Đức Phật đã đến đây rồi.

พวกเราจักถวายไทยธรรมตามกำลัง พวกเจ้าจงนำผลาผลของเราที่ประณีตๆ มา แล้วให้นำมา ล้างมือแล้วก็วางไว้ในบาตรของพระตถาคตด้วยตนเอง.
Chúng ta sẽ cúng dường những món cúng dường theo khả năng, các con hãy mang trái cây tươi ngon đến, rửa tay và đặt vào bình bát của Đức Thế Tôn bằng chính tay mình.

พอพระศาสดาทรงรับผลาผล เทวดาทั้งหลายก็ใส่ทิพโอชะลง.
Khi Đức Phật nhận lấy trái cây, các vị thần đã rưới các món ăn thiêng liêng lên đó.

ดาบสก็กรองน้ำถวายด้วยตนเอง.
Sāratha đã tự tay dâng nước để rửa.

ลำดับนั้น เมื่อพระศาสดาประทับนั่งเสวยเสร็จแล้ว ดาบสก็เรียกอันเตวาสิกมาทุกคน.
Sau đó, khi Đức Phật đã ngồi ăn xong, Sāratha đã gọi tất cả các môn đồ lại.

นั่งพูดแต่ถ้อยคำที่เป็นสาราณียกถา (ถ้อยคำให้หวนระลึกถึงกัน) ในสำนักพระศาสดา.
Họ ngồi nói những lời gợi nhớ nhau trong sự hiện diện của Đức Phật.

พระศาสดาทรงดำริว่า พระอัครสาวกทั้งสองจงมาพร้อมกับภิกษุสงฆ์.
Đức Phật đã suy nghĩ rằng: “Hai vị Thánh đệ tử hãy đến cùng với tăng đoàn.”

พระอัครสาวกเหล่านั้นรู้พระดำริของพระศาสดา มีพระขีณาสพแสนองค์เป็นบริวาร มาถวายบังคมพระศาสดาแล้วยืน ณ ที่ควรส่วนข้างหนึ่ง.
Các vị Thánh đệ tử đã hiểu được ý nghĩ của Đức Phật, có 100,000 vị Tỳ-khưu là thánh đồ đi theo, đã quỳ lạy trước Đức Phật và đứng ở một bên nơi thích hợp.

ลำดับนั้น สรทดาบสเรียกพวกอันเตวาสิกมาพูดว่า พ่อทั้งหลาย อาสนะที่พระพุทธเจ้าประทับนั่งก็ต่ำ อาสนะที่พระสมณะแสนองค์นั่งก็ไม่มี.
Sau đó, Sāratha gọi các môn đồ lại và nói: “Hỡi các con, chỗ ngồi của Đức Phật thì thấp, còn chỗ ngồi của 100,000 vị Tỳ-khưu thì không có.”

วันนี้ ควรที่ท่านทั้งหลายจะกระทำพุทธสักการะให้โอฬาร ท่านทั้งหลายจงนำดอกไม้ที่สมบูรณ์ด้วยสีและกลิ่นจากเชิงเขามา.
“Hôm nay, các con nên thực hiện sự cúng dường Đức Phật một cách lớn lao, hãy mang những bông hoa đầy đủ màu sắc và hương từ chân núi đến.”

เวลาที่กล่าวย่อมเป็นเหมือนเนิ่นนานแต่วิสัยของผู้มีฤทธิ์เป็นอจินไตย.
Thời gian nói thì giống như kéo dài, nhưng với khả năng của những người có sức mạnh thì lại rất nhanh.

เพราะเหตุนั้น ดาบสเหล่านั้นจึงนำดอกไม้ที่สมบูรณ์ด้วยสีและกลิ่นมา โดยกาลชั่วครู่เดียวเท่านั้น.
Vì lý do đó, các vị khất thực đã mang hoa đầy đủ màu sắc và hương đến chỉ trong một thời gian ngắn.

ตกแต่งอาสนะดอกไม้ประมาณโยชน์หนึ่งสำหรับพระพุทธเจ้า สำหรับพระอัครสาวกทั้งหลาย ๓ คาวุต สำหรับภิกษุที่เหลือต่างกันกึ่งโยชน์เป็นต้น สำหรับภิกษุผู้ใหม่ในสงฆ์ประมาณอุสภะเดียว.
Họ đã trang trí chỗ ngồi bằng hoa khoảng một do tuần cho Đức Phật, cho ba vị Thánh đệ tử một nửa do tuần, và cho các Tỳ-khưu khác một nửa do tuần và cho các Tỳ-khưu mới trong tăng đoàn khoảng một phần.

เมื่อตกแต่งอาสนะเสร็จเรียบร้อยแล้ว สรทดาบสยืนประคองอัญชลีตรงพระพักตร์พระตถาคต แล้วกราบทูลว่า ข้าแต่พระองค์ผู้เจริญ.
Khi đã trang trí xong chỗ ngồi, Sāratha đứng với lòng tôn kính trước mặt Đức Thế Tôn và thưa rằng: “Kính bạch Đức Thế Tôn.”

ขอจงเสด็จขึ้นอาสนะดอกไม้นี้ เพื่อประโยชน์และความสุขแก่ข้าพระองค์ตลอดกาลนานเถิด.
“Xin Ngài hãy ngự lên chỗ ngồi hoa này để mang lại lợi ích và hạnh phúc cho chúng con mãi mãi.”

(ครั้นกล่าวแล้ว จึงได้กล่าวเป็นคาถาประพันธ์ดังนี้ว่า)
(Sau khi nói vậy, ông đã đọc một bài kệ như sau:)

นานาปุบฺผํ จ คนฺธญฺจ
Nhiều loại hoa và hương thơm.

สมฺปาเทตฺวาน เอกโต
Được thu thập lại một chỗ.

ปุบฺผาสนํ ปญฺญาเปตฺวา
Sau khi đã trang trí chỗ ngồi bằng hoa.

อิทํ วจนมพฺธรวึ
Đây là lời mà tôi đã nói.

ฯลฯ

ข้าพระองค์ร่วมกันรวบรวมดอกไม้ต่างๆ และของหอมมาตกแต่งอาสนะดอกไม้.
Chúng con đã cùng nhau thu thập các loại hoa và hương để trang trí chỗ ngồi bằng hoa.

ได้กราบทูลคำนี้ว่า ข้าแต่พระผู้กล้าหาญ อาสนะนี้ตกแต่งไว้เพื่อพระองค์ เหมาะสมแก่พระองค์.
Chúng con xin thưa rằng: “Kính bạch Đức Thế Tôn, chỗ ngồi này được trang trí dành cho Ngài, rất phù hợp với Ngài.”

ขอพระองค์จงยังจิตของข้าพระองค์ให้ผ่องใส ประทับนั่งบนอาสนะดอกไม้เถิด.
Xin Ngài hãy làm cho tâm hồn chúng con trong sạch, ngự lên chỗ ngồi hoa này.

พระพุทธเจ้าได้ประทับนั่งบนอาสนะดอกไม้
Đức Phật đã ngồi trên chỗ ngồi hoa.

ตลอดบนอาสนะดอกไม้ตลอดเจ็ดวันเจ็ดคืน
Ngài ngự trên chỗ ngồi hoa suốt bảy ngày bảy đêm.

ทำจิตของเราให้ผ่องใส ทำโลกพร้อมทั้งเทวดาให้ร่าเริง.
Ngài đã làm cho tâm hồn chúng con thanh tịnh và làm cho thế giới cũng như các vị thần trở nên vui vẻ.

เมื่อพระศาสดาประทับนั่งอย่างนี้แล้ว พระอัครสาวกทั้งสองกับเหล่าภิกษุที่เหลือ ก็นั่งบนอาสนะอันถึงแล้วแก่ตนๆ.
Khi Đức Phật đã ngồi như vậy, hai vị Thánh đệ tử cùng với các Tỳ-khưu còn lại cũng đã ngồi trên chỗ ngồi của mình.

สรทดาบสถือฉัตรดอกไม้ใหญ่ยืนกั้นเหนือพระเศียรพระตถาคต.
Sāratha đã đứng cầm ô hoa lớn che trên đầu Đức Thế Tôn.

พระศาสดาทรงเข้านิโรธสมาบัติด้วยพระดำริว่า สักการะนี้จงมีผลมากแก่ชฎิลทั้งหลาย.
Đức Phật đã nhập định Niết-bàn với ý nghĩ rằng: “Sự cúng dường này sẽ mang lại nhiều lợi ích cho các vị khất thực.”

พระอัครสาวกทั้งสองก็ดี ภิกษุที่เหลือก็ดี รู้ว่าพระศาสดาทรงเข้าสมาบัติก็พากันเข้าสมาบัติ.
Hai vị Thánh đệ tử và các Tỳ-khưu còn lại, khi biết Đức Phật đã nhập định, cũng cùng nhau nhập định.

เมื่อพระตถาคตนั่งเข้านิโรธสมาบัติตลอด ๗ วัน.
Khi Đức Thế Tôn ngồi trong định Niết-bàn suốt bảy ngày.

พวกอันเตวาสิก เมื่อถึงเวลาภิกขาจาร ก็บริโภคมูลผลาหารของป่า.
Các môn đồ, khi đến thời gian khất thực, đã dùng thức ăn từ rừng.

ในเวลาที่เหลือก็ยืนประคองอัญชลีแด่พระพุทธเจ้า.
Trong thời gian còn lại, họ đứng với lòng tôn kính trước Đức Phật.

ส่วนสรทดาบส แม้ภิกขาจารก็ไม่ไป ยับยั้งอยู่ด้วยปีติและสุขทั้ง ๗ วัน โดยทำนองที่ถือฉัตรดอกไม้อยู่นั่นแหละ.
Còn Sāratha, ngay cả khi khất thực, cũng không đi, mà vẫn đứng ở đó với niềm hoan hỉ và hạnh phúc trong suốt bảy ngày, như cách ông cầm ô hoa.

พระศาสดาทรงออกจากนิโรธสมาบัติแล้ว ตรัสเรียกพระนิสภเถระอัครสาวกผู้นั่งอยู่ ณ เบื้องขวาว่า นิสภะ.
Khi Đức Phật ra khỏi định Niết-bàn, Ngài gọi Tôn giả Nandaka, vị Thánh đệ tử đang ngồi bên phải: “Nandaka!”

เธอจงทำบุปผาสนานุโมทนาแก่ดาบสทั้งหลายผู้กระทำสักการะ.
“Con hãy phát biểu lời tán thán về sự cúng dường hoa cho các vị khất thực đã thực hiện sự cúng dường.”

พระเถระดีใจเหมือนทหารใหญ่ได้ลาภมากจากสำนักของพระเจ้าจักรพรรดิ ตั้งอยู่ในสาวกบารมีญาณ เริ่มอนุโมทนาเกี่ยวกับการถวายอาสนะดอกไม้.
Tôn giả vui mừng như một vị tướng nhận được phần thưởng lớn từ triều đình, ngài khởi đầu việc tán thán về sự cúng dường chỗ ngồi hoa.

ในเวลาจบเทศนาของพระอัครสาวกนั้น จึงตรัสเรียกทุติยสาวกว่า ภิกษุ แม้เธอก็จงแสดงธรรม.
Khi kết thúc bài thuyết pháp của vị Thánh đệ tử, Đức Phật gọi vị thứ hai là Tỳ-khưu: “Cô cũng hãy thuyết pháp.”

ฝ่ายพระอโนมเถระพิจารณาพระไตรปิฎกพุทธวจนะมากล่าวธรรมกถา.
Tôn giả Moggallāna đã suy ngẫm về Kinh điển và bắt đầu thuyết giảng.

ด้วยเทศนาของพระอัครสาวกทั้งสอง แม้ชฎิลสักรูปหนึ่งก็ไม่ได้ตรัสรู้.
Bởi vì bài thuyết pháp của hai vị Thánh đệ tử, ngay cả một vị khất thực cũng không đạt được giác ngộ.

ลำดับนั้น พระศาสดาทรงดำรงอยู่ในพุทธวิสัยอันหาประมาณไม่ได้ ทรงเริ่มพระธรรมเทศนา.
Lúc đó, Đức Phật vẫn duy trì sự hiện hữu vĩ đại của Ngài và bắt đầu thuyết pháp.

ในเวลาจบเทศนา เว้นสรทดาบส ชฎิลแม้ทั้งหมดจำนวน ๗๔,๐๐๐ รูปบรรลุพระอรหัต.
Khi kết thúc bài thuyết pháp, ngoại trừ Sāratha, tất cả 74,000 vị khất thực đều đạt được quả vị A La Hán.

พระศาสดาทรงเหยียดพระหัตถ์ ตรัสว่า จงเป็นภิกษุมาเถิด.
Đức Phật đưa tay ra và nói: “Hãy trở thành Tỳ-khưu.”

ในขณะนั้นเอง ผมและหนวดของชฎิลเหล่านั้นก็หายไป บริขาร ๘ ก็ได้สวมสอดเข้าในกายทันที.
Ngay lúc đó, tóc và râu của các vị khất thực đó đã biến mất, và tám vật dụng đã được mặc vào ngay lập tức.

ถามว่า เพราะเหตุไร สรทดาบสจึงไม่บรรลุพระอรหัต.
Hỏi rằng: “Tại sao Sāratha lại không đạt được A La Hán?”

ตอบว่า เพราะมีจิตฟุ้งซ่าน.
Đáp rằng: “Bởi vì tâm trí không tập trung.”

ได้ยินว่า จำเดิมตั้งแต่เริ่มฟังเทศนาของพระอัครสาวกผู้นั่งบนอาสนะที่สองของพระพุทธเจ้า ผู้ตั้งอยู่ในสาวกบารมีญาณแสดงธรรมอยู่.
Nghe nói rằng từ khi bắt đầu lắng nghe bài thuyết pháp của vị Thánh đệ tử ngồi ở chỗ ngồi thứ hai của Đức Phật, vị đã thành tựu trong đạo lực của các đệ tử và đang giảng pháp.

สรทดาบสนั้นเกิดความคิดขึ้นว่า โอหนอ แม้เราก็ควรได้หน้าที่ที่พระสาวกนี้ได้ ในศาสนาของพระพุทธเจ้าผู้จะเสด็จอุบัติขึ้นในอนาคต.
Sāratha đã nảy sinh ra ý nghĩ: “Ôi, ngay cả chúng ta cũng nên nhận được vị trí mà vị Thánh đệ tử này có được trong giáo pháp của Đức Phật sẽ xuất hiện trong tương lai.”

สรทดาบสนั้นไม่อาจทำให้แจ้งมรรคผล ก็เพราะความปริวิตกนั้น จึงถวายบังคมพระตถาคตแล้วยืนตรงพระพักตร์.
Sāratha không thể đạt được sự giác ngộ do những lo lắng đó, vì vậy ông đã quỳ lạy Đức Thế Tôn và đứng trước mặt Ngài.

กราบทูลว่า ข้าแต่พระองค์ผู้เจริญ ภิกษุผู้นั่งบนอาสนะติดกับพระองค์ชื่อไร ในศาสนาของพระองค์.
Ông thưa rằng: “Kính bạch Đức Thế Tôn, vị Tỳ-khưu ngồi bên cạnh Ngài tên là gì trong giáo pháp của Ngài?”

พระศาสดาตรัสว่า ภิกษุนี้ผู้ประกาศตามพระธรรมจักรที่เราประกาศแล้ว ถึงที่สุดแห่งสาวกบารมีญาณ แทงตลอดโสฬสปัญหา ชื่อว่านิสภเถระอัครสาวกในศาสนาของเรา.
Đức Phật đáp: “Vị Tỳ-khưu này, người đã tuyên bố theo bánh xe pháp mà chúng ta đã công bố, đạt đến đỉnh cao của đệ tử và thấu hiểu mười sáu vấn đề, có tên là Nandaka, Thánh đệ tử trong giáo pháp của chúng ta.”

สรทดาบส (ได้ฟังแล้ว) จึงได้ทำความปรารถนาว่า ข้าแต่พระองค์ผู้เจริญ.
Sāratha (sau khi nghe xong) đã phát nguyện: “Kính bạch Đức Thế Tôn.”

ข้าพระองค์กั้นฉัตรดอกไม้ตลอด ๗ วันกระทำสักการะนี้ใด ด้วยผลของสักการะนี้นั้น ข้าพระองค์มิได้ปรารถนาเป็นท้าวสักกะหรือเป็นพรหมสักอย่างหนึ่ง.
“Tôi đã che ô hoa trong suốt bảy ngày để thực hiện sự cúng dường này. Với kết quả của sự cúng dường này, tôi không mong muốn trở thành Đế Thích hay một vị Phạm Thiên nào cả.”

แต่ในอนาคต ขอให้ข้าพระองค์พึงเป็นพระอัครสาวกของพระพุทธเจ้าพระองค์หนึ่ง เหมือนพระนิสภเถระนี้.
“Nhưng trong tương lai, xin cho tôi được trở thành Thánh đệ tử của một Đức Phật, giống như Tôn giả Nandaka này.”

พระศาสดาทรงส่งอนาคตังสญาณไปตรวจดูว่า ความปรารถนาของดาบสนี้จักสำเร็จไหมหนอ.
Đức Phật đã gửi trí tuệ thấu thị tương lai để kiểm tra xem ước nguyện của Sāratha có thành tựu hay không.

ก็ได้ทรงเห็นว่าล่วงไปหนึ่งอสงไขยยิ่งด้วยแสนกัปจะสำเร็จ.
Ngài thấy rằng phải trải qua một thời gian không thể đếm được, cộng thêm hàng triệu kiếp mới có thể thành tựu.

ก็แหละครั้นทรงเห็นแล้ว จึงตรัสกะสรทดาบสว่า ความปรารถนาอันนี้ของท่านจักไม่เป็นของเปล่า.
Khi đã thấy vậy, Ngài nói với Sāratha rằng: “Ước nguyện này của ông sẽ không trở thành vô nghĩa.”

แต่ในอนาคตล่วงไปหนึ่งอสงไขยยิ่งด้วยแสนกัป พระพุทธเจ้าทรงพระนามว่าโคดม จักอุบัติขึ้นในโลก.
“Trong tương lai, sau một thời gian không thể đếm được cộng thêm hàng triệu kiếp, sẽ có một Đức Phật tên là Gotama xuất hiện trong thế giới.”

จักมีพระพุทธมารดานามว่ามหามายาเทวี จักมีพระพุทธบิดานามว่าสุทโธทนมหาราช.
“Ngài sẽ có một mẹ là Mahāmāyā và một cha là Vương giả Suddhodana.”

จักมีพระโอรสนามว่าราหุล จักมีพระอุปัฏฐากนามว่าอานนท์.
“Ngài sẽ có một người con tên là Rahula và một người trợ giúp tên là Ananda.”

จักมีพระทุติยสาวกนามว่าโมคคัลลานะ ส่วนตัวท่านจักเป็นพระอัครสาวกของพระโคดมนั้น นามว่าพระธรรมเสนาบดีสารีบุตร.
“Ngài sẽ có một vị thánh đệ tử thứ hai tên là Moggallāna, còn ông sẽ trở thành Thánh đệ tử của Đức Gotama, tên là Thượng tọa Sāriputta.”

ครั้นทรงพยากรณ์ดาบสนั้นอย่างนี้แล้วตรัสธรรมกถา มีภิกษุสงฆ์เป็นบริวารเสด็จเหาะไปทางอากาศ.
Sau khi tiên tri cho Sāratha như vậy, Ngài đã thuyết pháp, và với các Tỳ-khưu là thánh đồ đi theo, Ngài bay lên không trung.

ฝ่ายสรทดาบสไปยังสำนักของพระเถระผู้เคยเป็นอันเตวาสิก แล้วให้ส่งข่าวแก่สิริวัฑฒกุฏุมพีผู้เป็นสหายว่า.
Sāratha đã đến nơi của Tôn giả mà trước đây đã là môn đồ của mình và báo tin cho Sirivajjakudda, người bạn của ông rằng:

ท่านผู้เจริญ ท่านจงบอกสหายของข้าพเจ้าว่า สรทดาบสผู้สหายของท่าน ปรารถนาตำแหน่งอัครสาวกในศาสนาของพระโคดมพุทธเจ้าผู้จะเสด็จอุบัติในอนาคต.
“Thưa Ngài, xin Ngài hãy cho bạn bè của tôi biết rằng Sāratha, người bạn của Ngài, mong muốn trở thành Thánh đệ tử trong giáo pháp của Đức Gotama, vị Phật sẽ xuất hiện trong tương lai.”

ณ ที่ใกล้บาทมูลของพระอโนมทัสสีพุทธเจ้า ส่วนท่านจงปรารถนาตำแหน่งทุติยสาวกเถิด.
“Ngay tại chỗ gần chân Đức Anomadassi, còn Ngài thì hãy mong muốn trở thành thánh đệ tử thứ hai.”

ก็แหละครั้นกล่าวอย่างนี้แล้ว ก็ไปโดยครู่เดียวก่อนหน้าพระเถระทั้งหลาย ได้ยืนอยู่ที่ประตูนิเวศน์ของสิริวัฑฒกุฏุมพี.
Nói xong, ông đi ngay trước các Tôn giả và đứng ở cửa nhà của Sirivajjakudda.

สิริวัฑฒกุฏุมพีปราศัยว่า นานหนอ พระผู้เป็นเจ้าจะได้มา แล้วให้นั่งบนอาสนะ.
Sirivajjakudda nói: “Lâu rồi Đức Thế Tôn mới đến, xin Ngài ngồi xuống chỗ ngồi.”

ส่วนตนนั่งบนอาสนะตัวที่ต่ำกว่าถามว่า ก็อันเตวาสิกบริษัทของท่านไม่ปรากฏหรือขอรับ.
Còn mình ngồi trên chỗ ngồi thấp hơn và hỏi: “Vậy các môn đồ của Ngài không xuất hiện sao?”

สรทดาบสกล่าวว่า เจริญพร สหาย พระอโนมทัสสีพุทธเจ้าเสด็จมาในอาศรมของพวกอาตมภาพๆ ได้กระทำสักการะแด่พระองค์ท่านตามกำลังของตนๆ.
Sāratha nói: “Kính chào, bạn ơi! Đức Anomadassi đã đến ở trong tịnh xá của chúng tôi, và chúng tôi đã thực hiện sự cúng dường Ngài theo khả năng của mình.”

พระศาสดาทรงแสดงธรรมแก่ดาบสทั้งหมด ในเวลาจบเทศนา ดาบสที่เหลือบรรลุพระอรหัต เว้นอาตมภาพ.
Đức Phật đã thuyết pháp cho tất cả các vị khất thực, và khi kết thúc bài thuyết pháp, những vị còn lại đều đạt được quả vị A La Hán, ngoại trừ tôi.

สิริวัฑฒกุฏุมพีถามว่า เพราะเหตุไร ท่านจึงไม่บวช.
Sirivajjakudda hỏi: “Tại sao Ngài không xuất gia?”

สรทดาบสกล่าวว่า อาตมภาพเห็นพระนิสภเถระอัครสาวกของพระศาสดาแล้ว จึงได้ปรารถนาตำแหน่งอัครสาวกในศาสนาของพระพุทธเจ้าทรงพระนามว่าโคดม ผู้จะเสด็จอุบัติในอนาคต.
Sāratha trả lời: “Tôi đã thấy Tôn giả Nandaka, Thánh đệ tử của Đức Phật, nên tôi đã mong muốn trở thành Thánh đệ tử trong giáo pháp của Đức Phật Gotama, vị Phật sẽ xuất hiện trong tương lai.”

แม้ตัวท่านก็จงปรารถนาตำแหน่งทุติยสาวกในศาสนาของพระโคดมพุทธเจ้าพระองค์นั้นเถิด.
“Còn Ngài thì cũng hãy mong muốn trở thành Thánh đệ tử thứ hai trong giáo pháp của Đức Gotama.”

สิริวัฑฒกุฏุมพีกล่าวว่า ท่านขอรับ กระผมไม่มีความคุ้นเคยกับพระพุทธเจ้า.
Sirivajjakudda nói: “Thưa Ngài, tôi không quen biết Đức Phật.”

สรทดาบสกล่าวว่า การกราบทูลกับพระพุทธเจ้า จงเป็นภาระของอาตมภาพ ท่านจงตระเตรียมอธิการ (สักการะอันยิ่งยวด) ไว้เถิด.
Sāratha nói: “Việc thưa chuyện với Đức Phật hãy để tôi lo, còn Ngài hãy chuẩn bị sự cúng dường vĩ đại.”

สิริวัฑฒกุฏุมพีฟังคำของสรทดาบสแล้ว จึงให้ปรับสถานที่ประมาณ ๘ กรีส ด้วยไม้วัดหลวงให้มีพื้นที่เสมอกัน ณ สถานที่ในนิเวศน์ของตน.
Sirivajjakudda sau khi nghe lời của Sāratha, đã cho điều chỉnh không gian khoảng 8 gít với cây gỗ lớn để có một khu vực bằng phẳng trong khuôn viên của mình.

แล้วให้เกลี่ยทรายโปรยดอกไม้มีข้าวตอกเป็นที่ ๕ ให้สร้างมณฑปมุงด้วยดอกอุบลขาบ ตกแต่งพุทธอาสน์.
Ông đã rải cát và rắc hoa có gạo vào khu vực đó, xây dựng một gian thờ che bằng hoa sen và trang trí chỗ ngồi cho Đức Phật.

จัดอาสนะสำหรับพระภิกษุแม้ที่เหลือ เตรียมเครื่องสักการะสัมมานะใหญ่โต แล้วให้สัญญาณแก่สรทดาบสเพื่อทูลนิมนต์พระพุทธเจ้า.
Ông cũng đã chuẩn bị chỗ ngồi cho các Tỳ-khưu khác, chuẩn bị các lễ vật cúng dường lớn lao, và ra hiệu cho Sāratha để mời Đức Phật đến.

ดาบสได้ฟังคำของสิริวัฑฒกุฏุมพีนั้นแล้ว จึงพาภิกษุสงฆ์มีพระพุทธเจ้าเป็นประมุข ไปยังนิเวศน์ของสิริวัฑฒกุฏุมพีนั้น.
Sau khi nghe lời của Sirivajjakudda, Sāratha đã dẫn các Tỳ-khưu, với Đức Phật là vị lãnh đạo, đến khuôn viên của Sirivajjakudda.

สิริวัฑฒกุฏุมพีกระทำการรับเสด็จ รับบาตรจากพระหัตถ์ของพระตถาคต นิมนต์ให้เสด็จเข้าไปยังมณฑป.
Sirivajjakudda đã đón tiếp Đức Phật, nhận bình bát từ tay Ngài và mời Ngài vào gian thờ.

ถวายwaterทักษิโณทกแด่ภิกษุสงฆ์มีพระพุทธเจ้าเป็นประมุข ผู้นั่ง ณ อาสนะที่ตกแต่งไว้แล้ว.
Ông đã dâng nước cúng dường cho các Tỳ-khưu, trong đó có Đức Phật ngồi trên chỗ ngồi đã được trang trí.

เลี้ยงดูด้วยโภชนะอันประณีต ในเวลาเสร็จภัตกิจ ให้ภิกษุสงฆ์มีพระพุทธเจ้าเป็นประมุข ครองผ้าอันควรค่ามาก.
Ông đã đãi các Tỳ-khưu bằng những món ăn ngon và khi kết thúc bữa ăn, đã cung cấp cho các Tỳ-khưu với Đức Phật là vị lãnh đạo, những trang phục quý giá.

แล้วกราบทูลว่า ข้าแต่พระองค์ผู้เจริญ ความริเริ่มนี้ เพื่อต้องการฐานะอันมีประมาณเล็กน้อยก็หามิได้.
Ông thưa rằng: “Kính bạch Đức Thế Tôn, việc khởi đầu này không phải vì mong muốn một địa vị nhỏ bé.”

ขอพระองค์ทรงกระทำความอนุเคราะห์ตลอด ๗ วัน โดยทำนองนี้แหละ.
“Xin Ngài hãy giúp đỡ trong suốt 7 ngày theo cách này.”

พระศาสดาทรงรับนิมนต์แล้ว.
Đức Phật đã nhận lời mời.

สิริวัฑฒกุฏุมพีนั้นยังมหาทานให้เป็นไปไม่ขาดสายตลอด ๗ วันโดยทำนองนั้นนั่นแหละ.
Sirivajjakudda đã liên tục thực hiện sự cúng dường lớn lao trong suốt 7 ngày theo cách đó.

แล้วถวายบังคมพระผู้มีพระภาคเจ้ายืนประคองอัญชลี กราบทูลว่า ข้าแต่พระองค์ผู้เจริญ.
Sau đó, ông quỳ lạy trước Đức Thế Tôn với lòng tôn kính và thưa: “Kính bạch Đức Thế Tôn.”

สรทดาบสสหายของข้าพระองค์ปรารถนาว่า ขอให้เป็นอัครสาวกของพระศาสดาองค์ใด ข้าพระองค์ขอเป็นทุติยสาวกของพระศาสดาองค์นั้นเหมือนกัน.
“Sāratha, người bạn của tôi mong muốn trở thành Thánh đệ tử của Đức Phật nào, thì tôi cũng cầu nguyện trở thành thánh đệ tử thứ hai của Đức Phật đó.”

พระศาสดาทรงตรวจดูอนาคตทรงเห็นว่าความปรารถนาของเขาสำเร็จ.
Đức Phật đã xem xét tương lai và thấy rằng ước nguyện của họ sẽ thành tựu.

จึงทรงพยากรณ์ว่า ล่วงไปหนึ่งอสงไขยยิ่งด้วยแสนกัปจากภัทรกัปนี้ไป ท่านจักเป็นทุติยสาวกของพระโคดมพุทธเจ้า.
Ngài tiên đoán rằng: “Sau một thời gian không thể đếm được cộng thêm hàng triệu kiếp từ kiếp này, Ngài sẽ trở thành thánh đệ tử thứ hai của Đức Phật Gotama.”

สิริวัฑฒกุฏุมพีได้ฟังคำพยากรณ์ของพระพุทธเจ้าแล้ว เป็นผู้ยินดีร่าเริง.
Sirivajjakudda vui mừng hân hoan khi nghe lời tiên tri của Đức Phật.

ฝ่ายพระศาสดาทรงทำภัตตานุโมทนาแล้ว พร้อมทั้งบริวารเสด็จกลับไปยังพระวิหาร.
Đức Phật đã thực hiện lời tán thán sự cúng dường rồi cùng với các thánh đồ trở về chùa.

จำเดิมแต่นั้นมา สิริวัฑฒกุฏุมพีกระทำกรรมงามตลอดชีวิตแล้วบังเกิดในเทวโลกชั้นกามาวจร ในวารจิตที่สอง.
Kể từ đó, Sirivajjakudda đã thực hiện những việc tốt đẹp trong suốt cuộc đời và được sinh ra trong cõi thiên giới, nơi của những vị thần.

สรทดาบสเจริญพรหมวิหาร ๔ ได้บังเกิดในพรหมโลก.
Sāratha đã phát triển bốn phẩm hạnh tâm từ và được sinh ra trong cõi Phạm Thiên.

จำเดิมแต่นั้นมา ท่านไม่พูดถึงกรรมในระหว่างแม้ของท่านทั้งสองนี้.
Từ đó về sau, cả hai người không nói về các nghiệp của mình nữa.

ก็ก่อนแต่การเสด็จบังเกิดขึ้นแห่งพระพุทธเจ้าของเราทั้งหลายนั่นแล สรทดาบสถือปฏิสนธิในครรภ์ของสารีพราหมณีในบ้านอุปติสสคาม ไม่ไกลกรุงราชคฤห์.
Trước khi Đức Phật của chúng ta ra đời, Sāratha đã được thụ thai trong bụng của Bà-la-môn Sārī tại nhà Uppatissakāma, không xa thành Rājagaha.

ก็ในวันนั้นแหละ แม้สหายของสรทดาบสนั้นก็ถือปฏิสนธิในครรภ์ของโมคคัลลีพราหมณี ในบ้านโกลิตคามอันไม่ไกลกรุงราชคฤห์เหมือนกัน.
Cũng vào ngày đó, người bạn của Sāratha cũng đã được thụ thai trong bụng của Bà-la-môn Mokkallī tại nhà Golittakāma, cũng không xa thành Rājagaha.

ได้ยินว่า ตระกูลแม้ทั้งสองนั้นได้เป็นสหายเกี่ยวเนื่องกันมา ๗ ชั่วตระกูลทีเดียว.
Nghe nói rằng cả hai gia đình này đã là bạn bè qua bảy thế hệ.

ญาติทั้งหลายได้ให้การบริหารครรภ์แก่คนแม้ทั้งสองนั้นในวันเดียวกัน.
Các người thân đã chăm sóc cho hai người này trong cùng một ngày.

ได้นำแม่นม ๖๖ คนเข้าไปให้แก่คนทั้งสองนั้น แม้ผู้ซึ่งเกิดแล้ว เมื่อล่วงไป ๑๐ เดือน.
Họ đã đưa 66 bà mẹ nuôi đến cho hai người, kể cả những người đã sinh ra, sau khi đã qua 10 tháng.

ในวันตั้งชื่อ ญาติทั้งหลายได้ตั้งชื่อบุตรของสารีพราหมณีว่าอุปติสสะ เพราะเป็นบุตรของหัวหน้าตระกูลในบ้านอุปติสสคาม.
Vào ngày đặt tên, người thân đã đặt tên cho con của Bà-la-môn Sārī là Uppatissa, vì là con của trưởng gia đình ở nhà Uppatissakāma.

ตั้งชื่อบุตรนอกนี้ว่าโกลิตะ เพราะเป็นบุตรของหัวหน้าตระกูลในบ้านโกลิตคาม.
Họ đã đặt tên cho con ngoài của bà là Golitta, vì là con của trưởng gia đình ở nhà Golittakāma.

คนแม้ทั้งสองนั้นเจริญวัยขึ้นก็สำเร็จศิลปศาสตร์ทุกอย่าง.
Cả hai người đã trưởng thành và thành công trong mọi ngành học.

ในเวลาไปยังแม่น้ำหรืออุทยานเพื่อจะเล่น อุปติสสมาณพมีวอทอง ๕๐๐ วอเป็นเครื่องแห่แหน.
Khi đến sông hoặc công viên để vui chơi, Uppatissa có 500 cỗ xe ngựa vàng làm phương tiện di chuyển.

โกลิตมาณพมีรถเทียมม้าอาชาไนย ๕๐๐ คันเป็นเครื่องแห่แหน.
Golitta có 500 cỗ xe ngựa được kéo bởi những con ngựa tốt làm phương tiện di chuyển.

ชนแม้ทั้งสองมีมาณพคนละ ๕๐๐ เป็นบริวาร.
Cả hai đều có 500 người hầu hạ đi theo.

ก็ในกรุงราชคฤห์มีมหรสพบนยอดเขาเป็นประจำปี.
Tại Rājagaha có các lễ hội lớn diễn ra trên đỉnh núi hàng năm.

ชนทั้งหลายผูกเตียงไว้ในที่เดียวกัน สำหรับมาณพแม้ทั้งสองนั้น.
Mọi người đã buộc giường lại ở cùng một nơi cho hai vị thanh niên.

แม้มาณพทั้งสองก็นั่งรวมกันดูมหรสพ ร่าเริงในฐานะที่ควรร่าเริง สังเวชในฐานะที่ควรสังเวช ตกรางวัลในฐานะที่ควรตกรางวัล.
Cả hai người thanh niên đã ngồi cùng nhau xem lễ hội, vui vẻ trong sự vui mừng, buồn bã trong những điều đáng buồn, và thưởng thức những gì xứng đáng được khen thưởng.

วันหนึ่ง เมื่อชนทั้งสองนั้นดูมหรสพโดยทำนองนี้แหละ มิได้มีความร่าเริงในฐานะที่ควรร่าเริง สังเวชในฐานะที่ควรสังเวช หรือตกรางวัลในฐานะที่ควรตกรางวัล เพราะญาณแก่กล้าแล้ว.
Một ngày nọ, khi cả hai xem lễ hội như vậy, họ không cảm thấy vui vẻ trong sự vui vẻ, không buồn bã trong những điều đáng buồn, cũng không thưởng thức trong những điều xứng đáng được khen thưởng, vì trí tuệ của họ đã trưởng thành.

ก็ชนแม้ทั้งสองต่างคิดอย่างนี้ว่า มีอะไรที่เราจะควรดูในมหรสพนี้ คนเหล่านี้แม้ทั้งหมดยังไม่ถึง ๑๐๐ ปี ต่างก็จะล้มหายตายจากกันไป.
Cả hai đã nghĩ rằng: “Có gì để chúng ta xem trong lễ hội này? Những người này đều chưa đến 100 tuổi mà rồi sẽ qua đời.”

ก็เราทั้งหลายควรแสวงหาโมกขธรรมสักอย่างหนึ่งดังนี้ แล้วนั่งนึกเอาเป็นอารมณ์อยู่.
“Vậy thì, chúng ta nên tìm kiếm sự giải thoát nào đó, và ngồi lại suy ngẫm về điều này.”

ลำดับนั้น โกลิตะกล่าวกะอุปติสสะว่า เพื่อนอุปติสสะ ท่านไม่สนุกร่าเริงเหมือนวันก่อนๆ ใจลอย ท่านคิดอะไรหรือ.
Sau đó, Golitta nói với Uppatissa: “Bạn Uppatissa, bạn không vui vẻ như những ngày trước nữa, tâm trí có vẻ lơ đãng, bạn đang nghĩ gì vậy?”

อุปติสสะกล่าวว่า เพื่อนโกลิตะ เรานั่งคิดถึงเรื่องนี้อยู่ว่า ในการดูของคนเหล่านี้ ไม่มีแก่นสารเลย.
Uppatissa trả lời: “Bạn Golitta, tôi đang suy nghĩ rằng, việc xem những người này chẳng có ý nghĩa gì cả.”

การดูนี้ไม่มีประโยชน์ ควรแสวงหาธรรมเครื่องหลุดพ้นสำหรับตน.
“Việc này không có lợi ích gì, mà chúng ta nên tìm kiếm giáo pháp để giải thoát cho chính mình.”

ก็ท่านเล่า เพราะเหตุไรจึงใจลอย แม้โกลิตะนั้นก็กล่าวอย่างนั้นเหมือนกัน.
“Vậy bạn, tại sao bạn lại lơ đãng như vậy?” Golitta cũng nói như vậy.

ครั้นอุปติสสะรู้ว่าโกลิตะนั้นมีอัชฌาศัยอย่างเดียวกับตน จึงกล่าวอย่างนี้ว่า.
Khi Uppatissa nhận ra rằng Golitta có cùng tâm trạng với mình, ông nói:

สิ่งที่เราแม้ทั้งสองคิดเป็นการคิดที่ดี เมื่อจะแสวงหาโมกขธรรม ควรจะได้การบวชสักอย่างหนึ่งดังนั้น.
“Điều mà chúng ta nghĩ thật sự là tốt, khi tìm kiếm sự giải thoát, chúng ta nên xuất gia.”

พวกเราจักบวชในสำนักใคร.
“Vậy chúng ta nên xuất gia ở nơi nào?”

ก็สมัยนั้น สัญชัยปริพาชกอาศัยอยู่ในกรุงราชคฤห์ พร้อมกับปริพาชกบริษัทหมู่ใหญ่.
Lúc đó, Sanchai Paribbajaka đang sống ở thành Rājagaha cùng với một nhóm lớn các vị Paribbajaka.

มาณพทั้งสองนั้นตกลงว่า จักบวชในสำนักของสัญชัยปริพาชกนั้น จึงบวชในสำนักของสัญชัยปริพาชกพร้อมกับมาณพ ๕๐๐ คน.
Hai người đã quyết định xuất gia dưới sự hướng dẫn của Sanchai Paribbajaka và đã xuất gia cùng với 500 người thanh niên.

จำเดิมแต่กาลที่มาณพทั้งสองนั้นบวชแล้ว สัญชัยปริพาชกได้ลาภได้ยศเหลือหลาย.
Kể từ khi hai người thanh niên đó xuất gia, Sanchai Paribbajaka đã đạt được nhiều tài sản và danh vọng.

มาณพทั้งสองนั้นเรียนจบลัทธิของสัญชัยปริพาชกทั้งหมด โดย ๒-๓ วันเท่านั้นแล้วถามว่า ท่านอาจารย์ ลัทธิอันเป็นความรู้ของท่านมีเท่านี้ หรือมียิ่งขึ้นไปอีก.
Hai người thanh niên đã học hết giáo lý của Sanchai Paribbajaka chỉ trong 2-3 ngày và sau đó hỏi: “Thưa thầy, kiến thức mà thầy có chỉ đến đây thôi, hay còn nhiều hơn nữa?”

สัญชัยปริพาชกกล่าวว่า มีเท่านี้แหละ พวกท่านรู้หมดแล้ว.
Sanchai Paribbajaka đáp: “Chỉ có vậy thôi, các bạn đã biết hết rồi.”

มาณพเหล่านั้นฟังถ้อยคำของสัญชัยปริพาชกนั้นแล้ว คิดกันว่า เมื่อเป็นอย่างนี้ การอยู่ประพฤติพรหมจรรย์ในสำนักของสัญชัยปริพาชกนี้ก็ไม่มีประโยชน์.
Các thanh niên đã nghe lời của Sanchai Paribbajaka và suy nghĩ rằng, nếu như vậy thì việc sống cuộc đời tu hành trong giáo phái của Sanchai là vô ích.

พวกเราออกบวชก็เพื่อแสวงหาโมกขธรรม พวกเราไม่อาจให้เกิดขึ้นในสำนักของสัญชัยปริพาชกนี้.
Chúng tôi xuất gia để tìm kiếm sự giải thoát, nhưng không thể đạt được điều đó trong giáo phái của Sanchai.

ก็ชมพูทวีปใหญ่โต พวกเราเที่ยวไปยังคาม นิคมและราชธานี จักได้อาจารย์สักท่านหนึ่งผู้แสวงโมกขธรรมได้เป็นแน่.
Chúng tôi sẽ đi khắp Châu Á, các làng, thị trấn và thủ đô để tìm được một vị thầy có thể chỉ dạy về sự giải thoát.

จำเดิมแต่นั้น มาณพทั้งสองนั้นได้ฟังว่าสมณพราหมณ์ผู้เป็นบัณฑิต มีอยู่ ณ ที่ใดๆ ก็ไป ณ ที่นั้นๆ กระทำการสนทนาปัญหา.
Kể từ đó, hai thanh niên đã nghe rằng có những vị Sa-môn trí thức ở bất cứ đâu, họ đã đến đó để thảo luận các vấn đề.

ปัญหาที่มาณพทั้งนั้นถามแล้ว คนอื่นๆ ไม่มีความสามารถที่จะแก้ได้.
Những vấn đề mà các thanh niên hỏi không ai khác có khả năng giải quyết.

แต่มาณพทั้งสองนั้นแก้ปัญหาของคนเหล่านั้นได้.
Nhưng hai thanh niên đó đã giải quyết được các vấn đề của những người khác.

มาณพทั้งสองนั้นเที่ยวสอบไปทั่วชมพูทวีป ด้วยอาการอย่างนี้ แล้วกลับมาที่อยู่เดิมของตน.
Hai thanh niên đã đi khắp Châu Á theo cách như vậy, rồi trở về nơi ở cũ của họ.

ได้ทำกติกากันว่า เพื่อนโกลิตะ ผู้ใดบรรลุอมตะก่อน ผู้นั้นจงบอกแก่กัน.
Họ đã làm một thỏa thuận rằng: “Bạn Golitta, ai đạt được sự bất tử trước thì hãy báo cho người kia biết.”

ก็สมัยนั้น พระศาสดาของเราทั้งหลายบรรลุพระปรมาภิสัมโพธิญาณแล้วประกาศพระธรรมจักรอันบวร เสด็จถึงกรุง ราชคฤห์โดยลำดับ.
Cùng lúc đó, Đức Phật của chúng ta đã đạt được giác ngộ tối thượng và bắt đầu công bố giáo pháp, Ngài đến thành Rājagaha theo từng bước.

ครั้งนั้น พระอัสสชิเถระในจำนวนภิกษุปัญจวัคคีย์ ในระหว่างภิกษุทั้งหลายที่ทรงส่งไปประกาศคุณของพระรัตนตรัยว่า.
Lúc đó, Tôn giả Assaji trong số năm vị Tỳ-khưu đã được cử đi để tuyên bố về giá trị của Tam Bảo rằng:

ภิกษุทั้งหลาย เธอทั้งหลายจงเที่ยวไปเพื่อประโยชน์เกื้อกูลแก่ชนเป็นอันมาก ดังนี้.
“Các Tỳ-khưu, hãy đi để mang lại lợi ích cho nhiều người.”

ในสมัยที่กล่าวว่า พระอรหันต์ ๖๑ องค์อุบัติขึ้นแล้วในโลก ดังนี้.
Và đã có 61 vị A La Hán xuất hiện trên thế giới.

ท่านหวนกลับมายังกรุงราชคฤห์ ในวันรุ่งขึ้น ถือบาตรและจีวรเข้าไปบิณฑบาตยังกรุงราชคฤห์แต่ เช้าตรู่.
Họ đã trở lại thành Rājagaha vào ngày hôm sau, mang bình bát và y áo để khất thực tại thành Rājagaha vào buổi sáng sớm.

สมัยนั้น อุปติสสปริพาชกทำภัตกิจแต่เช้ามืดแล้วเดินไปอารามปริพาชก.
Lúc đó, Uppatissa Paribbajaka đã thực hiện bữa ăn từ sáng sớm rồi đi đến tịnh xá của các vị Paribbajaka.

ได้เห็นพระเถระจึงคิดว่า ชื่อว่าบรรพชิตเห็นปานนี้ เราไม่เคยเห็นเลย.
Khi nhìn thấy Tôn giả, ông nghĩ rằng: “Chưa bao giờ tôi thấy một vị Sa-môn như thế này.”

ภิกษุนี้คงจะเป็นภิกษุรูปใดรูปหนึ่งในบรรดาภิกษุผู้เป็นอรหันต์ หรือผู้บรรลุอรหัตตมรรคในโลก.
“Vị Tỳ-khưu này có lẽ là một trong những vị A La Hán hoặc người đã đạt được quả vị A La Hán trong thế gian.”

ถ้ากระไร เราควรเข้าไปหาภิกษุนี้แล้วถามปัญหาว่า ท่านผู้มีอายุ ท่านบวชจำเพาะใคร หรือใครเป็นศาสดาของท่าน หรือว่าท่านชอบใจธรรมของใคร.
“Nếu vậy, chúng ta nên đến gặp vị Tỳ-khưu này và hỏi rằng: ‘Thưa Ngài, Ngài xuất gia dưới ai? Ai là thầy của Ngài? Hay Ngài thích giáo pháp của ai?’”

ลำดับนั้น เขาได้มีความคิดว่า มิใช่กาลที่จะถามปัญหากะภิกษุนี้ๆ เข้าไปยังละแวกบ้านเที่ยวบิณฑบาตอยู่.
Sau đó, ông đã nghĩ rằng: “Bây giờ không phải là lúc để hỏi vị Tỳ-khưu này, khi Ngài đang đi khất thực.”

ไฉนหนอเราพึงติดตามภิกษุนี้ไปข้างหลังๆ เพราะการติดตามภิกษุนี้ไปนั้น เป็นทางที่ผู้ต้องการเข้าไปรู้แล้ว.
“Vậy sao chúng ta không theo sau vị Tỳ-khưu này? Bởi việc theo sau Ngài đã là một con đường mà những người muốn học biết rồi.”

อุปติสสปริพาชกเห็นพระเถระได้บิณฑบาตแล้วไปยังโอกาสแห่งหนึ่ง และรู้ว่าพระเถระนั้นต้องการจะนั่ง.
Uppatissa Paribbajaka thấy Tôn giả đã khất thực xong rồi đến một nơi và nhận ra rằng Tôn giả muốn ngồi xuống.

จึงได้ลาดตั่งปริพาชกของตนถวาย.
Vì vậy, ông đã trải chiếc đệm của mình ra để dâng cho Tôn giả.

แม้ในเวลาเสร็จภัตกิจ ก็ได้ถวายน้ำในคณโฑน้ำของตนแก่พระเถระนั้น.
Ngay cả khi kết thúc bữa ăn, ông cũng đã dâng nước từ bình nước của mình cho Tôn giả.

กระทำอาจริยวัตรอย่างนี้แล้วกระทำปฏิสันถารอ่อนหวาน กับพระเถระผู้กระทำภัตกิจเสร็จ.
Sau khi thực hiện các nghi thức như vậy, ông đã có những lời tiếp đãi ngọt ngào với Tôn giả đã hoàn thành bữa ăn.

แล้วถามว่า ท่านผู้มีอายุ อินทรีย์ทั้งหลายของท่านผ่องใสนักแล ฉวีวรรณบริสุทธิ์ผุดผ่อง.
Ông hỏi: “Thưa Ngài, các căn của Ngài thật trong sáng, sắc diện của Ngài thật thanh khiết.”

ผู้มีอายุ ท่านบวชจำเพาะใคร หรือใครเป็นศาสดาของท่าน หรือว่าท่านชอบใจธรรมของใคร.
“Thưa Ngài, Ngài xuất gia dưới ai? Ai là thầy của Ngài? Hay Ngài thích giáo pháp của ai?”

พระเถระกล่าวว่า ผู้มีอายุ พระมหาสมณะศากยบุตรออกบวชจากศากยตระกูลมีอยู่.
Tôn giả trả lời: “Thưa Ngài, chúng tôi xuất gia dưới Đức Thế Tôn, con trai của dòng họ Sakya.”

เราบวชจำเพาะพระผู้มีพระภาคเจ้าพระองค์นั้น และพระผู้มีพระภาคเจ้าพระองค์นั้นเป็นศาสดาของเรา เราชอบใจธรรมของพระผู้มีพระภาคเจ้าพระองค์นั้น.
“Chúng tôi đã xuất gia dưới Đức Phật đó, và Ngài là thầy của chúng tôi, chúng tôi thích giáo pháp của Đức Phật đó.”

ลำดับนั้น อุปติสสปริพาชกจึงถามพระเถระนั้นว่า ก็พระศาสดาของท่านผู้มีอายุมีวาทะอย่างไร กล่าวอย่างไร.
Sau đó, Uppatissa Paribbajaka đã hỏi Tôn giả rằng: “Thưa Ngài, thầy của Ngài có lời dạy ra sao?”

พระเถระคิดว่า ธรรมดาปริพาชกทั้งหลายนี้เป็นปฏิปักษ์ต่อพระศาสนา.
Tôn giả nghĩ rằng, những vị Paribbajaka này thường là kẻ thù đối với giáo pháp.

เราจักแสดงความลึกซึ้งในพระศาสนาแก่ปริพาชกนี้.
“Chúng ta sẽ thể hiện sự sâu sắc của giáo pháp với vị Paribbajaka này.”

เมื่อจะถ่อมตนว่าเรายังเป็นผู้ใหม่จึงกล่าวว่า ผู้มีอายุ เราแลเป็นผู้ใหม่บวชยังไม่นาน.
Tuy nhiên, để khiêm tốn, vì vẫn là người mới xuất gia, ngài nói: “Thưa Ngài, tôi vẫn là người mới, chưa xuất gia lâu.”

เพิ่งมาสู่มาสู่พระวินัยนี้ เราไม่อาจแสดงธรรมโดยพิสดารได้ก่อน.
“Vừa mới đến với giới luật này, tôi không thể thuyết pháp một cách chi tiết được.”

ปริพาชกคิดว่า เราชื่อว่าอุปติสสะ ท่านจงกล่าวน้อยหรือมากตามความสามารถ.
Vị Paribbajaka nghĩ rằng: “Tôi tên là Uppatissa, xin Ngài hãy nói ít hay nhiều tùy theo khả năng của Ngài.”

การแทงตลอดธรรมนั่นด้วยร้อยนับพันนัย เป็นภาระของเรา จึงกล่าวว่า
“Việc hiểu rõ giáo pháp với nhiều ý nghĩa là trách nhiệm của chúng tôi, nên tôi nói rằng:”

อปฺปํ วา พหุํ วา ภาสสฺสุ อตฺถํเยว เม พฺรูหิ
“Ngài hãy nói, ít hay nhiều, cũng chỉ nói rõ ràng về nội dung cho tôi.”

อตฺเถเนว เม อตฺโถ กึ กาหสิ พฺยญฺชนํ พหุํ.
“Tại sao Ngài lại phải làm cho lời nói thêm dài dòng?”

ท่านจงกล่าวเถิด น้อยก็ตามมากก็ตาม จงกล่าวเฉพาะ แต่ใจความแก่ข้าพเจ้า ข้าพเจ้าต้องการใจความเท่านั้น.
“Xin Ngài hãy nói, dù ít hay nhiều, chỉ cần nêu ra những ý chính mà tôi cần, tôi chỉ cần những ý chính mà thôi.”

ท่านจะทำพยัญชนะให้มากไปทำไม.
“Tại sao Ngài lại phải làm cho lời nói thêm dài dòng?”

เมื่อกล่าวอย่างนี้แล้ว พระเถระจึงกล่าวคาถาว่า เย ธมฺมา เหตุปฺปภวา (ธรรมเหล่าใดมีเหตุเป็นแดนเกิด) ดังนี้เป็นต้น.
Sau khi nói như vậy, Tôn giả đã nói một bài kệ: “Những pháp nào có nguyên nhân sinh ra, như vậy.”

ปริพาชกฟังเฉพาะ ๒ บทแรกเท่านั้นก็ตั้งอยู่ในโสดาปัตติมรรคอันสมบูรณ์ด้วยนัยพันหนึ่ง.
Vị Paribbajaka chỉ nghe hai câu đầu tiên đã đạt được quả vị Nhập Lưu với những ý nghĩa sâu sắc.

ทำ ๒ บทหลังให้จบลงในเวลาเป็นพระโสดาบันแล้ว.
Sau khi hoàn thành hai câu cuối cùng, ông đã trở thành một vị Nhập Lưu.

ปริพาชกนั้นได้เป็นพระโสดาบันแล้ว เมื่อคุณวิเศษชั้นสูงยังไม่เกิด จึงกำหนดว่าเหตุในคำสอนนี้จักมี.
Vị Paribbajaka đã trở thành một vị Nhập Lưu, nhưng khi những phẩm hạnh cao quý vẫn chưa xuất hiện, ông đã nhận thấy rằng có lý do trong giáo lý này.

จึงกล่าวกะพระเถระว่า ท่านผู้เจริญ ท่านอย่าขยายธรรมเทศนาให้สูงไป.
Vì vậy, ông nói với Tôn giả: “Thưa Ngài, xin Ngài đừng mở rộng bài thuyết pháp quá xa.”

คำมีประมาณเท่านี้แหละพอแล้ว พระศาสดาของเราทั้งหลายประทับอยู่ที่ไหน.
“Những điều như vậy là đủ rồi. Đức Phật của chúng ta hiện đang ở đâu?”

พระเถระบอกว่า ประทับอยู่ในพระเวฬุวัน.
Tôn giả trả lời: “Ngài đang ở Vườn Tì-ni.”

ปริพาชกกล่าวว่า ท่านเจ้าข้า ขอท่านจงล่วงหน้าไปก่อน.
Vị Paribbajaka nói: “Thưa Ngài, xin Ngài hãy đi trước.”

กระผมมีสหายอยู่คนหนึ่ง และได้ทำกติกากันไว้ว่า ผู้ใดบรรลุอมตะก่อน ผู้นั้นจงบอกแก่กัน.
“Tôi có một người bạn và chúng tôi đã thỏa thuận rằng, ai đạt được sự bất tử trước thì hãy báo cho nhau biết.”

กระผมจักเปลื้องปฏิญญาข้อนั้น แล้วพาสหายไปยังสำนักของพระศาสดา ตามทางที่ท่านไปนั่นแหละ.
“Tôi sẽ hủy bỏ thỏa thuận đó và dẫn bạn đến nơi của Đức Phật theo con đường mà Ngài đã đi.”

แล้วหมอบลงแทบเท้าพระเถระด้วยเบญจางคประดิษฐ์ กระทำประทักษิณ ๓ ครั้ง แล้วส่งพระเถระไป.
Rồi ông quỳ xuống trước chân Tôn giả với lòng tôn kính, thực hiện ba vòng quanh và tiễn Tôn giả đi.

ส่วนตนก็เดินมุ่งตรงไปยังอารามของปริพาชก.
Còn ông thì đi thẳng đến tịnh xá của vị Paribbajaka.

โกลิตปริพาชกเห็นอุปติสสปริพาชกเดินมาแต่ไกล คิดว่า วันนี้สหายเรามีสีหน้าไม่เหมือนวันก่อนๆ.
Golitta Paribbajaka thấy Uppatissa từ xa đi lại và nghĩ: “Hôm nay, bạn của tôi có vẻ khác với những ngày trước.”

เขาจักได้บรรลุอมตะแน่แท้ จึงถามถึงการบรรลุอมตะ.
“Có lẽ bạn ấy đã đạt được sự bất tử, nên tôi hỏi về sự đạt được này.”

แม้อุปติสสปริพาชกนั้นก็ได้ปฏิญญาแก่โกลิตปริพาชกนั้นว่า ผู้มีอายุ เราบรรลุอมตะแล้ว.
Uppatissa Paribbajaka cũng đã tuyên bố với Golitta: “Thưa Ngài, tôi đã đạt được sự bất tử rồi.”

จึงได้กล่าวคาถานั้นนั่นแหละ.
Vì vậy, ông đã nói bài kệ đó.

ในเวลาจบคาถา โกลิตะตั้งอยู่ในโสดาปัตติผลแล้วกล่าวว่า สหาย ได้ยินว่าพระศาสดาประทับอยู่ที่ไหน.
Khi kết thúc bài kệ, Golitta đã đạt được quả vị Nhập Lưu và nói: “Bạn ơi, tôi nghe nói Đức Phật đang ở đâu?”

อุปติสสะกล่าวว่า สหาย นัยว่าพระศาสดาประทับอยู่ในพระเวฬุวัน.
Uppatissa trả lời: “Bạn ơi, tôi nghe rằng Đức Phật đang ở Vườn Tì-ni.”

พระอัสสชิเถระอาจารย์ของพวกเราบอกอย่างนี้ด้วยประการฉะนี้.
“Tôn giả Assaji, thầy của chúng ta, cũng đã nói như vậy.”

โกลิตะกล่าวว่า สหาย ถ้าอย่างนั้น มาเถิด พวกเราจักเฝ้าพระศาสดา.
Golitta nói: “Nếu vậy, hãy đi thôi, chúng ta sẽ đến gặp Đức Phật.”

ธรรมดาว่าพระสารีบุตรเถระนี้เป็นผู้บูชาอาจารย์แม้ในกาลทุกเมื่อ.
Thật vậy, Tôn giả Sāriputta là người luôn kính trọng thầy mình trong mọi thời điểm.

เพราะฉะนั้น จึงกล่าวกะโกลิตมาณพผู้สหายอย่างนี้ว่า สหาย เราจักบอกอมตะที่เราบรรลุ.
Vì vậy, ông đã nói với bạn Golitta: “Bạn ơi, chúng ta sẽ báo cho nhau biết về sự bất tử mà chúng ta đã đạt được.”

แม้แก่สัญชัยปริพาชกอาจารย์ของเรา ท่านรู้อยู่ก็จักแทงตลอด.
“Chúng ta cũng sẽ nói với thầy Sanchai, nếu Ngài đã biết thì Ngài sẽ hiểu rõ.”

เมื่อไม่แทงตลอด เชื่อพวกเราก็จักไปยังสำนักของพระศาสดา ฟังธรรมเทศนาของพระพุทธเจ้าแล้วจักกระทำการแทงตลอดมรรคผล.
“Nếu không hiểu rõ, hãy tin chúng tôi, chúng ta sẽ đến nơi của Đức Phật, lắng nghe giáo pháp của Ngài và sẽ thực hiện những gì để đạt được quả vị.”

แต่นั้น ชนแม้ทั้งสองไปยังสำนักของสัญชัยกล่าวว่า อาจารย์ขอรับ ท่านจักทำอย่างไร พระพุทธเจ้าเกิดขึ้นแล้วในโลก.
Sau đó, hai người đã đến chỗ của Sanchai và nói: “Thưa thầy, thầy sẽ làm gì? Đức Phật đã xuất hiện trong thế giới này.”

พระธรรมอันพระพุทธเจ้าตรัสดีแล้ว พระสงฆ์เป็นผู้ปฏิบัติดีแล้ว มาเถิด พวกเราจักเฝ้าพระทศพล.
“Giáo pháp mà Đức Phật đã giảng dạy rất tốt, các Tỳ-khưu đã thực hành tốt, hãy đến đi, chúng ta sẽ đến gặp Đức Tôn giả.”

สัญชัยปริพาชกกล่าวว่า พูดอะไร พ่อ แล้วห้ามชนทั้งสองแม้นั้น แสดงแต่การได้ลาภอันเลิศและยศอันเลิศเท่านั้น แก่ชนทั้งสองนั้น.
Sanchai Paribbajaka nói: “Bạn đang nói gì vậy? Hãy ngăn cản hai người này, chỉ cần cho họ thấy những lợi ích và danh vọng cao quý mà thôi.”

ชนทั้งสองนั้นกล่าวว่า การอยู่เป็นอันเตวาสิกเห็นปานนี้ของข้าพเจ้าทั้งหลายเป็นประจำไปทีเดียว จงยกเสียเถิด.
Hai người đã nói: “Việc sống như những người khất thực như chúng tôi là điều bình thường. Hãy từ bỏ đi.”

แต่ท่านจงรู้ตัวท่านว่าจะไปหรือไม่ไป.
“Nhưng Ngài hãy tự biết là có đi hay không đi.”

สัญชัยปริพาชกรู้ว่า ชนเหล่านี้รู้ความต้องการมีประมาณเท่านี้แล้ว จักไม่เชื่อถือคำพูดของเรา.
Sanchai Paribbajaka biết rằng những người này đã hiểu nhu cầu của mình, và sẽ không tin vào lời nói của ông.

จึงกล่าวว่า ไปเถิดพ่อทั้งหลาย เราไม่อาจอยู่เป็นอันเตวาสิก (ของคนอื่น) ในคราวเป็นคนแก่.
Vì vậy, ông nói: “Đi thôi các bạn, tôi không thể sống như một người khất thực (của người khác) khi đã lớn tuổi.”

ชนทั้งสองนั้นไม่อาจให้สัญชัยปริพาชกนั้นเข้าใจด้วยเหตุแม้เป็นอันมาก จึงได้พาชนผู้ประพฤติตามโอวาทของตนไปยังพระเวฬุวัน.
Hai người không thể làm cho Sanchai hiểu, mặc dù có nhiều lý do, vì vậy họ đã dẫn những người thực hành theo lời dạy của mình đến Vườn Tì-ni.

ครั้งนั้น ในบรรดาอันเตวาสิก ๕๐๐ คนของชนทั้งสองนั้น ๒๕๐ คนกลับ อีก ๒๕๐ คนได้ไปกับชนทั้งสองนั้น.
Lúc đó, trong số 500 người khất thực của hai người, có 250 người quay trở lại, còn 250 người đã đi cùng hai người đó.

พระศาสดากำลังทรงแสดงธรรมอยู่ท่ามกลางบริษัท ๔ ทรงเห็นชนเหล่านั้นแต่ไกล.
Đức Phật đang thuyết pháp giữa bốn đoàn thể và nhìn thấy những người đó từ xa.

จึงตรัสเรียกภิกษุทั้งหลายมาว่า ภิกษุทั้งหลาย สหาย ๒ คนนั้นคือโกลิตะและอุปติสสะกำลังเดินมา.
Ngài gọi các Tỳ-khưu lại và nói: “Các Tỳ-khưu, hai người bạn đó là Golitta và Uppatissa đang đến đây.”

คู่สาวกนี้แหละจักเป็นคู่สาวกที่เลิศที่เจริญ.
“Cặp thánh đệ tử này sẽ là cặp thánh đệ tử tuyệt vời và tiến bộ.”

ครั้นแล้วทรงขยายพระธรรมเทศนา เนื่องด้วยจริยาแห่งบริษัทของ ๒ สหายนั้น.
Sau đó, Ngài đã mở rộng bài thuyết pháp về phẩm hạnh của hai người bạn đó.

เว้นพระอัครสาวกทั้งสอง ปริพาชก ๒๕๐ คนแม้ทั้งหมดนั้นบรรลุพระอรหัต.
Ngoại trừ hai vị Thánh đệ tử, 250 vị Paribbajaka còn lại đều đạt được quả vị A La Hán.

พระศาสดาทรงเหยียดพระหัตถ์ตรัสว่า จงเป็นภิกษุมาเถิด.
Đức Phật đưa tay ra và nói: “Hãy trở thành Tỳ-khưu.”

ผมและหนวดของปริพาชกเหล่านั้นหายไป บาตรและจีวรอันล้วนแล้วด้วยฤทธิ์ก็ได้มีมาแม้แก่พระอัครสาวกทั้งสองด้วย.
Tóc và râu của các vị Paribbajaka đó đã biến mất, và bình bát cùng y áo thần thánh cũng đã xuất hiện cho cả hai vị Thánh đệ tử.

แต่กิจด้วยมรรคทั้ง ๓ เบื้องสูงยังไม่สำเร็จ.
Nhưng việc thực hiện theo ba con đường cao thượng vẫn chưa hoàn thành.

เพราะเหตุไร? เพราะสาวกบารมีญาณเป็นของใหญ่.
Tại sao? Bởi vì phẩm hạnh của các thánh đệ tử là điều vĩ đại.

ครั้นในวันที่ ๗ ตั้งแต่วันบวช ท่านพระมหาโมคคัลลานะเข้าไปอาศัยบ้านกัลลวาลคามแคว้นมคธ กระทำสมณธรรมอยู่.
Vào ngày thứ bảy kể từ ngày xuất gia, Tôn giả Moggallāna đã đến sống tại nhà của Gallavāla ở vương quốc Magadha, thực hành các pháp Sa-môn.

เมื่อถูกถีนมิทธะครอบงำ พระศาสดาทรงทำให้สังเวชใจ บรรเทาถีนมิทธะเสียได้.
Khi bị ảnh hưởng bởi sự uể oải, Đức Phật đã khiến tâm trí Ngài tỉnh táo và giải trừ sự uể oải đó.

กำลังฟังธาตุกรรมฐานที่พระตถาคตประทานอยู่ทีเดียว ทำกิจแห่งมรรค ๓ เบื้องสูงให้สำเร็จถึงที่สุดแห่งสาวกบารมีญาณ.
Đang khi nghe giáo lý về các yếu tố căn bản mà Đức Phật đã truyền dạy, Ngài đã thực hiện việc hoàn thành ba con đường cao thượng đến đỉnh cao của phẩm hạnh thánh đệ tử.

แม้พระสารีบุตรเถระล่วงเลยเวลาไปครึ่งเดือนตั้งแต่วันบวช เข้าไปอาศัยกรุงราชคฤห์นั้นนั่นแหละอยู่ในถ้ำสุกรขาตา กับพระศาสดา.
Tôn giả Sāriputta, sau nửa tháng từ ngày xuất gia, đã vào sống tại thành Rājagaha, trong động Suvanna với Đức Phật.

เมื่อพระศาสดาทรงแสดงเวทนาปริคคหสูตรแก่ทีฆนขปริพาชกผู้เป็นหลานของตน ได้ส่งญาณไปตามกระแสพระสูตร.
Khi Đức Phật giảng về kinh Vệ Đà cho Tīhankha, cháu của Ngài, Ngài đã phát triển trí tuệ theo dòng chảy của giáo lý.

ก็ได้บรรลุถึงที่สุดสาวกบารมีญาณ เหมือนบริโภคข้าวที่คดไว้เพื่อคนอื่น.
Ngài đã đạt đến đỉnh cao của phẩm hạnh thánh đệ tử, giống như ăn cơm đã được chuẩn bị sẵn cho người khác.

ส่วนหลานของท่านตั้งอยู่ในโสดาปัตติผล ในเวลาจบเทศนา.
Còn cháu của Ngài thì đã đạt được quả vị Nhập Lưu vào lúc kết thúc bài thuyết pháp.

ดังนั้น เมื่อพระตถาคตประทับอยู่ในกรุงราชคฤห์นั่นแล กิจแห่งสาวกบารมีญาณของพระอัครสาวกแม้ทั้งสองได้ถึงที่สุดแล้ว.
Vì vậy, khi Đức Phật đang ở thành Rājagaha, phẩm hạnh của hai vị Thánh đệ tử đã đạt đến đỉnh cao.

ก็ในเวลาต่อมาอีก พระศาสดาประทับอยู่ในพระเชตวัน ได้ทรงสถาปนาพระมหาสาวกแม้ทั้งสองไว้ในตำแหน่งเอตทัคคะว่า.
Và sau đó, khi Đức Phật đang ở Vườn Jetavana, Ngài đã phong cho hai vị Thánh đệ tử danh hiệu cao quý.

สารีบุตรเป็นยอดของภิกษุสาวกของเราผู้มีปัญญามาก มหาโมคคัลลานะเป็นยอดของภิกษุสาวกของเราผู้มีฤทธิ์มาก ดังนี้.
Tôn giả Sāriputta là vị thánh đệ tử vượt trội trong số các Tỳ-khưu về trí tuệ, còn Tôn giả Moggallāna là vị thánh đệ tử vượt trội về sức mạnh.

จบอรรถกถาสูตรที่ ๒-๓
Kết thúc phần giải thích về bài Kinh số 2-3.

Hộp bình luận Facebook

Soṇa Thiện Kim

Panha.org là trang web chuyên sâu về Pháp học của Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Tông), nơi cung cấp kiến thức và tài liệu quý báu về kinh điển, giáo lý, và triết học Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Tông). Tại đây, bạn có thể tìm hiểu về các giáo pháp truyền thống, kinh nghiệm tu tập, và những bài giảng từ các vị tôn sư hàng đầu trong cộng đồng Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Tông). Với mục tiêu giúp người học hiểu sâu hơn về con đường giác ngộ và sự giải thoát, Panha.org mang đến nguồn tài nguyên phong phú, chính xác và cập nhật để hỗ trợ hành giả trên hành trình tu tập Pháp học.

Bài viết liên quan

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.

0 Góp ý
Được bỏ phiếu nhiều nhất
Mới nhất Cũ nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Back to top button