Chú giải Tăng Chi Bộ Kinh

Chú giải Thái kinh Tăng Chi Bộ I – Chương 1 – 14.21. Phẩm Người Tối Thắng

อรรถกถา อังคุตตรนิกาย เอกนิบาต เอตทัคคบาลี
Lời giải thích trong Tăng Chi Bộ Kinh, Phẩm Một, Phần Bậc Tối Thắng.

วรรคที่ ๓
Chương thứ 3.

หน้าต่างที่ ๒ / ๑๐.
Cửa sổ thứ 2 / 10.

อรรถกถาสูตรที่ ๒

Lời giải thích Kinh số 2

ประวัติพระรัฐปาลเถระ

Tiểu sử của Tôn giả Rathapala

ในสูตรที่ ๒ (เรื่องพระรัฐปาละ) พึงทราบวินิจฉัยดังต่อไปนี้.
Trong Kinh số 2 (chuyện về Tôn giả Rathapala), cần hiểu các ý nghĩa như sau.

บทว่า สทฺธาปพฺพชิตานํ แปลว่า ผู้บวชด้วยศรัทธา.
Cụm từ “Saddhapabbajitanam” có nghĩa là người xuất gia với lòng tín ngưỡng.

บทว่า รฏฺฐปาโล ได้แก่ ผู้ถึงการนับว่ารัฐปาล แม้เพราะอรรถว่าเป็นผู้สามารถรักษารัฐไว้ได้ หรือผู้เกิดในตระกูลที่สามารถสมานรัฐที่แตกร้าวกันไว้ได้.
Cụm từ “Rathapalo” ám chỉ một người được coi là Rathapala, có nghĩa là người có thể giữ được quốc gia, hoặc người sinh ra trong dòng dõi có khả năng đoàn kết những phần quốc gia đang chia rẽ.

จริงอยู่ ภิกษุรัฐปาละนั้นฟังธรรมเทศนาของพระศาสดา ได้ศรัทธากระทำการอดข้าวถึง ๑๔ วัน จึงให้มารดาบิดาอนุญาตให้บวชได้ จึงบวชแล้ว เพราะฉะนั้น ท่านจึงเป็นยอดของเหล่าภิกษุผู้บวชด้วยศรัทธา.
Thực sự, Tỳ-khưu Rathapala đã nghe pháp từ Đức Phật và vì lòng tín ngưỡng, ngài đã nhịn ăn trong 14 ngày để cha mẹ cho phép ngài xuất gia. Do đó, ngài được coi là tấm gương sáng trong số các Tỳ-khưu xuất gia với lòng tín ngưỡng.

ประวัติพระราหุลเถระและพระรัฐปาลเถระ

Tiểu sử của Tôn giả Rahula và Tôn giả Rathapala

ก็ในปัญหากรรมของพระเถระทั้งสองรูปนี้ มีเรื่องที่จะกล่าวตามลำดับดังต่อไปนี้ :-
Về vấn đề nghiệp của hai vị Tôn giả này, sẽ có các câu chuyện được kể lần lượt như sau:

ได้ยินมาว่า ในอดีตกาล ครั้งพระปทุมุตตรพระพุทธเจ้า พระเถระทั้ง ๒ นี้บังเกิดในครอบครัวคฤหบดีมหาศาลในกรุงหงสวดี ในเวลาที่ท่านยังเป็นเด็กไม่มีใครพูดถึงชื่อและโคตร แต่พอท่านเจริญวัยแล้ว ดำรงอยู่ในฆราวาส เมื่อบิดาของแต่ละคนล่วงไปแล้ว ท่านทั้ง ๒ จึงเรียกคนจัดการคลังรัตนะของตนๆ มาแล้ว เห็นทรัพย์หาประมาณมิได้.
Nghe nói rằng, vào thời quá khứ, thời của Đức Phật Padumuttara, hai vị Tôn giả này sinh ra trong một gia đình đại phú ở thành Hongsawadi. Khi còn nhỏ, không ai nhắc đến tên và dòng dõi của họ, nhưng khi trưởng thành và sống trong cuộc sống gia đình, sau khi cha của mỗi người qua đời, cả hai gọi những người quản lý kho báu của mình đến và thấy tài sản vô lượng.

คิดว่า ชนทั้งหลายมีปู่และปู่ทวดเป็นต้นพาเอากองทรัพย์มีประมาณเท่านี้ไปกับตนไม่ได้ บัดนี้ เราควรจะถือเอาทรัพย์นี้ไปโดยอุบายอย่างใดอย่างหนึ่งดังนี้.
Họ nghĩ rằng những người như ông và cụ của mình không thể mang theo số tài sản này khi rời khỏi cõi đời. Giờ đây, chúng ta nên dùng tài sản này một cách khôn ngoan.

คนทั้ง ๒ นั้นจึงเริ่มให้มหาทานแก่คนกำพร้าและคนเดินทางเป็นต้น ในสถานที่ ๔ แห่ง คนหนึ่งสอบถามคนที่มาแล้วมาอีกในโรงทานของตน ผู้ใดชอบใจสิ่งใดเป็นต้นว่า ข้าวยาคูและของเคี้ยวก็ให้สิ่งนั้นแก่ผู้นั้น เพราะเหตุนั้นแล เขาจึงมีชื่อว่าผู้กล่าวกะผู้ที่มาแล้ว.
Cả hai bắt đầu bố thí rộng rãi cho người mồ côi và khách lữ hành tại bốn nơi. Một người hỏi xem ai đến rồi quay lại trạm cứu trợ của mình và sẽ đưa cho họ bất cứ thứ gì họ thích, như cháo hoặc thức ăn nhai. Vì thế, người đó được gọi là “người hỏi ý người đến.”

อีกคนหนึ่งไม่ถามเลย เอาภาชนะที่เขาถือมาแล้วๆ ใส่ให้เต็มๆ แล้วจึงให้ ด้วยเหตุนั้นแหละ เขาจึงมีชื่อว่าไม่กล่าวกะผู้ที่มาแล้ว. อธิบายว่า ถามด้วยความไม่ประมาท.
Người kia không hỏi gì cả, chỉ đổ đầy vào các vật dụng mà người đến mang theo. Vì vậy, người đó được gọi là “người không hỏi ý người đến.” Giải thích rằng đó là việc làm cẩn trọng.

วันหนึ่ง ชนทั้ง ๒ นั้นออกไปนอกบ้านเพื่อล้างปากแต่เช้าตรู่.
Một ngày nọ, cả hai người rời khỏi nhà vào sáng sớm để rửa miệng.

สมัยนั้น ดาบสผู้มีฤทธิ์มาก ๒ รูปเหาะมาแต่ป่าหิมพานต์เพื่อภิกขาจาร ลงไม่ไกลสหายทั้ง ๒ นั้น ยืนในที่ข้างหนึ่งด้วยคิดว่า ชนทั้ง ๒ นั้น เมื่อดาบสทั้ง ๒ นั้น จัดแจงบริขารมีภาชนะน้ำเต้าเป็นต้น เดินมุ่งไปภายในบ้าน จึงมาไหว้ใกล้ๆ.
Lúc đó, hai vị đạo sĩ có nhiều thần thông bay từ rừng Himalaya đến để khất thực và hạ xuống gần hai người bạn này, đứng ở một bên và suy nghĩ. Khi hai vị đạo sĩ chuẩn bị các vật dụng như bình bát, họ hướng về phía ngôi nhà và tiến lại gần để chào.

ครั้งนั้น ดาบสกล่าวกะชนทั้ง ๒ นั้นว่า ท่านผู้มีบุญใหญ่ ท่านมาในเวลาไร.
Lúc đó, đạo sĩ nói với hai người rằng: “Người có phước lớn, các ngươi đến vào lúc nào?”

ชนทั้ง ๒ นั้นตอบว่า มาเดี๋ยวนี้ขอรับ แล้วรับภาชนะน้ำเต้าจากมือของดาบสทั้ง ๒ นั้น นำไปเรือนของตนๆ ในเวลาเสร็จภัตรกิจ จึงขอให้รับปากว่า จะมารับภิกษาเป็นประจำ.
Hai người đó trả lời: “Vừa mới đến, thưa ngài,” rồi nhận bình bát từ tay của hai đạo sĩ và mang về nhà của mình. Khi xong bữa, họ xin lời hứa từ các đạo sĩ rằng sẽ đến nhận vật thực thường xuyên.

ในดาบสทั้งสองนั้น รูปหนึ่งเป็นคนมักร้อน จึงแหวกน้ำในมหาสมุทรออกเป็น ๒ ส่วนด้วยอานุภาพของตน แล้วไปยังภพของปฐวินทรนาคราชนั่งพักกลางวัน.
Trong hai vị đạo sĩ, có một người nóng tính nên đã dùng sức mạnh của mình để tách nước đại dương thành hai phần rồi đến cảnh giới của vua rắn Pathavindra để nghỉ trưa.

ดาบสถือเอาฤดูพอสบายแล้ว จึงกลับมา เมื่อจะกระทำอนุโมทนาภัตรในเรือนแห่งอุปัฎฐากของตน ก็กล่าวว่า ขอจงสำเร็จเหมือนดังภพปฐวินทรนาคราช.
Sau khi đạo sĩ đã nghỉ ngơi vào mùa dễ chịu, ông trở lại và khi làm phép lành trong nhà người hộ pháp của mình, ông nói: “Mong rằng các ngươi được thành tựu như cảnh giới của vua rắn Pathavindra.”

ต่อมาวันหนึ่ง อุปัฏฐากถามดาบสนั้นว่า ท่านผู้เจริญ ท่านกระทำอนุโมทนาว่า จงสำเร็จเหมือนภพปฐวินทรนาคราช โปรดบอกข้อความ พวกข้าพเจ้าไม่ทราบความที่ท่านกล่าวนี้ว่า คำนี้ท่านหมายความว่า อะไร.
Sau đó, một ngày nọ, người hộ pháp hỏi đạo sĩ: “Thưa ngài, ngài đã chúc lành rằng mong được thành tựu như cảnh giới của vua rắn Pathavindra. Xin ngài giải thích, chúng tôi không hiểu ý của ngài. Ngài muốn nói điều gì với lời chúc này?”

ดาบสกล่าวว่า จริงซิ กุฏุมพี เรากล่าวว่าสมบัติของท่านจงเป็นเหมือนสมบัติของพระยานาคชื่อว่าปฐวินทร.
Đạo sĩ trả lời: “Đúng vậy, gia chủ, ta đã nói rằng tài sản của ngươi sẽ giống như tài sản của vua rắn Pathavindra.”

ตั้งแต่นั้นมา กุฏุมพีก็ตั้งจิตไว้ในภพของพระยานาคชื่อว่าปฐวินทร.
Từ đó, gia chủ giữ tâm nguyện hướng về cảnh giới của vua rắn Pathavindra.

ดาบสอีกรูปหนึ่งไปยังภพดาวดึงส์ กระทำการพักกลางวันในเสริสกวิมานที่ว่างเปล่า ดาบสนั้นเที่ยวไปเที่ยวมาเห็นสมบัติของท้าวสักกเทวราช เมื่อจะกระทำอนุโมทนาแก่อุปัฏฐากของตน ก็กล่าวว่าสมบัติของท่านจงเป็นเหมือนสักกวิมาน.
Vị đạo sĩ khác đến thiên giới Đao Lợi để nghỉ trưa trong một tòa lâu đài vắng, đi lại khắp nơi và thấy tài sản của Đế Thích Thiên Vương. Khi làm phép lành cho người hộ pháp của mình, ông nói: “Tài sản của ngươi sẽ giống như lâu đài của Sakka.”

ครั้งนั้น กุฎุมพีแม้นั้นก็ถามดาบสนั้นเหมือนอย่างสหายอีกคนหนึ่งถามดาบสนั้น.
Lúc đó, gia chủ đó cũng hỏi đạo sĩ giống như cách người bạn khác đã hỏi.

กุฏุมพีก็ฟังคำของดาบสนั้นจึงตั้งจิตไว้ในภพของท้าวสักกะ.
Gia chủ nghe lời đạo sĩ và giữ tâm nguyện hướng về cảnh giới của Sakka.

ชนทั้งสองนั้นจึงบังเกิดในที่ที่ตนปรารถนาแล้วนั้นแล.
Cả hai người đó sau đó đã tái sinh vào nơi mà họ mong muốn.

ผู้ที่เกิดในภพของปฐวินทรนาคราช ก็มีชื่อว่าปฐวินทรนาคราชา พระราชานั้นในขณะที่ตนเกิดแล้ว เห็นอัตภาพของตนมีความร้อนใจว่า ดาบสผู้เข้าสู่สกุลสรรเสริญคุณแห่งฐานะของเราไม่น่าพอใจหนอ ที่นี้เป็นที่ต้องเลื้อยไปด้วยท้อง ดาบสนั้นไม่รู้ที่อื่นๆ แน่แท้.
Người sinh ra trong cảnh giới của vua rắn Pathavindra được gọi là vua Pathavindra Nagara. Khi sinh ra, vua thấy phiền lòng về hình hài của mình và nghĩ rằng: “Đạo sĩ đã ca ngợi vị trí của ta, nhưng không ngờ rằng nơi này lại phải bò sát bụng. Đạo sĩ đó chắc chắn không biết đến những nơi khác.”

ในขณะนั้นนั่นแล เหล่านาคผู้ฟ้อนรำแต่งตัวแล้วได้ประคองเครื่องดนตรีในทุกทิศแก่พระยานาคนั้น ในขณะนั้นนั่นแหละ พระยานาคนั้นก็ละอัตภาพนั้นกลายเพศเป็นมาณพน้อย.
Lúc đó, những con rắn Nagara trang phục và cầm nhạc cụ đến từ mọi hướng để phục vụ vua rắn. Ngay lúc ấy, vua rắn từ bỏ hình dạng cũ và biến thành một chàng trai trẻ.

ท้าวมหาราชทั้ง ๔ เข้าเฝ้าท้าวสักกะทุกกึ่งเดือน เพราะฉะนั้นแม้พระยานาคนั้นก็ต้องไปเฝ้าท้าวสักกะพร้อมกับพระยานาคชื่อวิรูปักษ์ด้วย.
Bốn vị Đại Vương đến thăm Đế Thích mỗi nửa tháng một lần, vì vậy vua rắn cũng phải đi cùng với vị rắn tên Virupakkha để yết kiến Đế Thích.

ท้าวสักกะเห็นพระยานาคนั้นมาแต่ไกลก็จำได้ ทีนั้นท้าวสักกะจึงถามพระยานาคนั้นในเวลายืนอยู่ในที่ใกล้ว่า สหาย ท่านไปเกิดที่ไหน.
Khi Đế Thích thấy vua rắn đến từ xa, ngài nhận ra ngay và khi vua rắn đến gần, Đế Thích hỏi: “Này bạn, ngươi đã tái sinh ở đâu?”

พระยานาคกล่าวว่า ท่านมหาราช อย่าถามเลย ข้าพเจ้าไปเกิดในที่ที่ต้องเลื้อยไปด้วยท้อง ส่วนท่านได้มิตรที่ดีแล้ว.
Vua rắn đáp: “Thưa Đại Vương, xin đừng hỏi. Tôi đã tái sinh vào một nơi mà tôi phải bò sát đất. Còn ngài đã có một người bạn tốt rồi.”

ท่านสักกะตรัสว่า สหาย ท่านอย่าวิตกเลยว่าเกิดในที่ไม่สมควร พระทศพลพระนามว่าปทุมุตตระทรงบังเกิดในโลกแล้ว ท่านจงกระทำกุศลกรรมแด่พระองค์นั้นแล้วปรารถนาฐานะนี้เถิด เราทั้ง ๒ จักอยู่ร่วมกันเป็นสุข.
Đế Thích nói: “Bạn thân, đừng lo lắng về việc tái sinh vào một nơi không phù hợp. Đức Thập Lực Padumuttara đã xuất hiện trong thế giới này. Hãy tạo ra thiện nghiệp cho Ngài và mong cầu vị trí này. Cả hai chúng ta sẽ cùng nhau sống trong an lạc.”

พระยานาคนั้นกล่าวว่า เทวะ ข้าพเจ้าจักกระทำอย่างนั้น ไปนิมนต์พระปทุมุตตระทศพล จัดแจงเครื่องสักการะสัมมานะตลอดคืนยันรุ่ง กับนาคบริษัทในภพนาคของตน.
Vua rắn nói: “Thưa Thiên Vương, tôi sẽ làm như vậy.” Sau đó, ngài mời Đức Thập Lực Padumuttara, chuẩn bị lễ vật cúng dường suốt đêm đến sáng cùng với hội chúng rắn trong cảnh giới của mình.

วันรุ่งขึ้น เมื่อรุ่งอรุณ พระศาสดาตรัสเรียกพระสุมนเถระผู้อุปัฏฐากของพระองค์ว่า สุมนะ วันนี้ตถาคตจักไปภิกษาจาร ณ ที่ไกล ภิกษุปุถุชนจงอย่ามา, จงมาแต่พระผู้บรรลุปฏิสัมภิทาผู้ทรงพระไตรปิฎก ผู้มีอภิญญา ๖ เท่านั้น
Sáng hôm sau, khi bình minh vừa ló dạng, Đức Phật gọi Tôn giả Suman, vị thị giả của Ngài, và nói rằng: “Này Suman, hôm nay Như Lai sẽ đi khất thực ở nơi xa. Chỉ những vị Tỳ-khưu đã đạt được các năng lực siêu việt và thông thạo Tam Tạng mới nên đến.”

พระเถระสดับพระดำรัสของพระศาสดาแล้ว แจ้งแก่ภิกษุทั้งปวง ภิกษุประมาณแสนหนึ่งเหาะไปพร้อมกับพระศาสดา พระยานาคปฐวินทรกับนาคบริษัทมารับเสด็จพระทศพล แลดูพระภิกษุสงฆ์ที่ล้อมพระศาสดาซึ่งกำลังเหยียบคลื่นซึ่งมีสีดังแก้วมณีบนยอดคลื่น แลเห็นพระศาสดาอยู่เบื้องต้น พระสงฆ์นวกะจนถึงสามเณรชื่ออุปเรวตะผู้เป็นโอรสของพระตถาคต อยู่ท้าย จึงเกิดปีติปราโมทย์ว่า อิทธานุภาพเห็นปานนี้ของพระสาวกที่เหลือไม่น่าอัศจรรย์ แต่อิทธานุภาพแห่งทารกเล็กนี้ ช่างน่าอัศจรรย์เหลือเกินดังนี้.
Sau khi nghe lời dạy của Đức Phật, Tôn giả truyền lại cho các Tỳ-khưu, khoảng một trăm ngàn vị cùng bay theo Đức Phật. Vua rắn Pathavindra và hội chúng của mình đón Đức Phật và nhìn ngắm đoàn Tăng vây quanh Ngài, đi trên những con sóng xanh màu như ngọc. Vua rắn thấy Đức Phật ở đầu, các Tỳ-khưu từ lớn đến nhỏ và vị Sa-di tên Uparevata, người là con của Như Lai, ở cuối. Cảnh tượng đó khiến vua rắn hoan hỷ và thán phục rằng: “Thần lực của các vị đệ tử là điều kỳ diệu, nhưng thần lực của đứa trẻ này mới thật phi thường!”

ครั้งนั้น เมื่อพระทศพลประทับนั่งที่ภพของพระยานาคนั้นแล้ว เมื่อภิกษุนอกนี้นั่งจำเดิมแต่ที่สุด จนมาถึงอาสนะของสามเณรอุปเรวตะ ในที่เฉพาะพระพักตร์ของพระศาสดา พระยานาคเมื่อถวายข้าวยาคูก็ดี เมื่อถวายของเคี้ยวก็ดี แลดูพระทศพลทีหนึ่ง ดูสามเณรอุปเรวตะทีหนึ่ง นัยว่ามหาปุริสลักษณะ ๓๒ ประการ ในสรีระของสามเณรนั้นย่อมปรากฏเสมือนพระพุทธเจ้า เป็นอะไรกันหนอ ดังนี้จึงถามภิกษุรูปหนึ่งผู้นั่งไม่ไกลว่า ท่านเจ้าข้า สามเณรรูปนี้เป็นอะไรกับพระทศพล. ภิกษุนั้นตอบว่า เป็นโอรส มหาบพิตร.
Khi Đức Phật an tọa trong cảnh giới của vua rắn, các Tỳ-khưu lần lượt ngồi từ xa đến gần Đức Phật cho đến vị trí của Sa-di Uparevata ngay trước Đức Phật. Vua rắn dâng cháo và đồ ăn, liếc nhìn Đức Phật một lần rồi nhìn Sa-di Uparevata. Ngài thấy rằng 32 tướng tốt của đại nhân trên thân của Sa-di này giống hệt Đức Phật, nên hỏi một vị Tỳ-khưu ngồi gần: “Thưa ngài, vị Sa-di này là gì của Đức Phật?” Tỳ-khưu đáp: “Là con của Ngài, thưa Đại Vương.”

พระองค์จึงดำริว่า ภิกษุรูปนี้ใหญ่หนอ จึงได้ความเป็นโอรสของพระตถาคตผู้สง่างามเห็นปานนี้ แม้สรีระของท่านก็ปรากฏเสมือนพระสรีระของพระพุทธเจ้าโดยส่วนเดียว แม้ตัวเราก็ควรเป็นอย่างนี้ในอนาคตกาล จึงถวายมหาทาน ๗ วันแล้วกระทำความปรารถนาว่า พระเจ้าข้า ข้าพระองค์พึงเป็นโอรสของพระพุทธเจ้าพระองค์หนึ่งในอนาคต เหมือนอุปเรวตะสามเณรนี้ ด้วยอานุภาพแห่งกุศลกรรมนี้.
Vua rắn nghĩ rằng: “Vị Tỳ-khưu này thật vĩ đại, nên đã trở thành con của Đức Phật cao quý như vậy. Thân hình của ngài cũng giống Đức Phật. Trong tương lai, ta cũng nên như thế.” Sau đó, vua rắn cúng dường suốt bảy ngày và cầu nguyện: “Thưa Đức Thế Tôn, trong tương lai, xin cho con được làm con của một vị Phật giống như Sa-di Uparevata này, nhờ vào sức mạnh của thiện nghiệp này.”

พระศาสดาทรงเห็นว่าหาอันตรายมิได้ จึงทรงพยากรณ์ว่า ในอนาคต มหาบพิตรจักเป็นโอรสแห่งพระพุทธเจ้าพระนามว่าโคตมะ ดังนี้แล้วเสด็จกลับไป.
Đức Phật thấy điều đó không có chướng ngại nên đã thọ ký: “Trong tương lai, Đại Vương sẽ là con của Đức Phật tên là Cồ Đàm.” Sau đó, Ngài trở về.

ส่วนปฐวินทรนาคราช เมื่อถึงกึ่งเดือนอีกครั้งหนึ่งก็ไปเฝ้าท้าวสักกะกับพระยานาคชื่อวิรูปักษ์ คราวนั้น ท้าวสักกะตรัสถามพระยานาคนั้นผู้มายืนอยู่ในที่ใกล้ว่า สหาย ท่านปรารถนาเทวโลกนี้แล้วหรือ.
Về phần vua rắn Pathavindra, khi đến nửa tháng một lần nữa, ông đến yết kiến Đế Thích cùng với vua rắn tên Virupakkha. Lúc đó, Đế Thích hỏi vua rắn đứng gần mình: “Này bạn, ngươi có mong muốn cõi trời này không?”

ร. ข้าพเจ้ามิได้ปรารถนาดอกเพื่อน.
Vua rắn đáp: “Tôi không hề mong muốn điều đó, bạn à.”

ส. ท่านเห็นโทษอะไรเล่า?
Đế Thích hỏi: “Ngươi thấy có điều gì bất lợi sao?”

ร. โทษไม่มี มหาราช แต่ข้าพเจ้าเห็นสามเณรอุปเรวตะโอรสของพระทศพล ตั้งแต่ข้าพเจ้าได้เห็นสามเณรนั้นก็มิได้น้อมจิตไปในที่อื่น ข้าพเจ้านั้นกระทำความปรารถนาว่าในอนาคตกาล ขอข้าพเจ้าพึงเป็นโอรสเห็นปานนี้ของพระพุทธเจ้าพระองค์หนึ่ง ข้าแต่มหาราช แม้พระองค์ก็จงกระทำความปรารถนาอย่างหนึ่งเถิด เราทั้ง ๒ จักไม่พรากกันในที่ๆ เกิดแล้ว.
Vua rắn trả lời: “Không có bất lợi nào cả, thưa Đại Vương. Nhưng từ khi tôi nhìn thấy Sa-di Uparevata, con của Đức Thế Tôn, tôi không thể hướng tâm đến nơi nào khác. Tôi cầu nguyện rằng trong tương lai, tôi sẽ là con của một vị Phật giống như vậy. Thưa Đại Vương, ngay cả ngài cũng nên có một mong muốn nào đó để chúng ta không bao giờ phải rời xa nhau trong cõi tái sinh.”

ท้าวสักกะรับคำของพระยานาคนั้นแล้วเห็นภิกษุผู้มีอานุภาพมากรูปหนึ่ง จึงนึกว่า กุลบุตรนี้ออกบวชจากสกุลไหนหนอดังนี้ ทราบว่ากุลบุตรผู้นี้เป็นบุตรของสกุลผู้สามารถสมานรัฐที่แตกแยกกันแล้ว กระทำการอดอาหารถึง ๑๔ วัน ให้มารดาบิดาอนุญาตให้บรรพชาแล้วบวชแล้ว.
Đế Thích chấp nhận lời của vua rắn rồi nhìn thấy một vị Tỳ-khưu có sức mạnh phi thường. Ngài nghĩ: “Người này xuất gia từ gia đình nào?” Rồi ngài biết rằng vị này là con của một dòng họ có khả năng đoàn kết các quốc gia chia rẽ, đã nhịn ăn suốt 14 ngày để cha mẹ cho phép xuất gia và đã xuất gia.

ก็แลครั้นทราบแล้วจึงเป็นเหมือนไม่ทราบ ทูลถามพระทศพลแล้วกระทำมหาสักการะ ๗ วัน กระทำความปรารถนาว่า พระเจ้าข้า ด้วยผลแห่งกัลยาณกรรมนี้ ข้าพระองค์พึงเป็นยอดของเหล่าภิกษุผู้บวชด้วยศรัทธา ในศาสนาของพระพุทธเจ้าพระองค์หนึ่งในอนาคต เหมือนอย่างกุลบุตรผู้นี้ในศาสนาของพระองค์เถิด.
Khi biết điều đó, Đế Thích làm như không biết và hỏi Đức Thế Tôn, sau đó cúng dường suốt bảy ngày và cầu nguyện: “Thưa Đức Thế Tôn, nhờ vào thiện nghiệp này, xin cho con được trở thành người xuất sắc nhất trong số những Tỳ-khưu xuất gia với lòng tín ngưỡng, trong giáo pháp của một vị Phật trong tương lai, giống như người này trong giáo pháp của Ngài.”

พระศาสดาทรงเห็นความปรารถนาหาอันตรายมิได้ จึงพยากรณ์ว่า มหาบพิตร พระองค์จักเป็นยอดของเหล่าภิกษุผู้บวชด้วยศรัทธา ในศาสนาของพระพุทธเจ้าพระนามว่าโคตมะ ในอนาคต แล้วเสด็จกลับไป
Đức Phật thấy rằng lời cầu nguyện đó không có chướng ngại nên đã thọ ký: “Thưa Đại Vương, ngài sẽ trở thành người xuất sắc nhất trong số những Tỳ-khưu xuất gia với lòng tín ngưỡng trong giáo pháp của Đức Phật tên Cồ Đàm trong tương lai.” Sau đó, Ngài trở về.

ฝ่ายท้าวสักกะก็เสด็จกลับไปยังเทพบุรีของพระองค์ตามเดิม.
Đế Thích cũng trở về thiên cung của mình như thường lệ.

ชนทั้งสองนั้นจุติจากที่ที่ตนเกิดแล้วเวียนว่ายอยู่ในเทวดาและมนุษย์ล่วงไปหลายพันกัป ในที่สุดกัปที่ ๙๒ แต่กัปนี้ พระพุทธเจ้าพระนามว่า ผุสสะ ทรงอุบัติขึ้นในโลก พระพุทธบิดาของพระองค์เป็นพระราชาพระนามว่า มหินทะ มีน้องชายต่างมารดากัน ๓ องค์ พระราชาทรงยึดถือว่า พระพุทธเจ้าเป็นของเราเท่านั้น พระธรรมเป็นของเรา พระสงฆ์เป็นของเรา ทุกๆ วันทรงให้พระทศพล เสวยโภชนะด้วยพระองค์เองเป็นประจำ
Hai người đó trải qua luân hồi giữa cõi trời và người trong hàng nghìn kiếp. Cuối cùng, đến kiếp thứ 92, Đức Phật có danh hiệu là Phussa xuất hiện trên thế gian. Phụ vương của Ngài là vua Mahinda, có ba người em khác mẹ. Nhà vua tin rằng Đức Phật, Pháp, và Tăng đều thuộc về mình, mỗi ngày đích thân dâng đồ ăn cho Đức Thế Tôn.

ต่อมาภายหลัง วันหนึ่งเมื่อชายแดนของพระองค์กำเริบ พระองค์ตรัสเรียกโอรสมาสั่งว่า ลูกเอ๋ย ชายแดนกำเริบ พวกเจ้าหรือเราควรไป ถ้าเราไป เจ้าจะต้องปรนนิบัติพระทศพลโดยทำนองนี้.
Sau đó, một ngày nọ, khi biên giới nổi loạn, nhà vua gọi các hoàng tử đến và nói: “Các con à, biên giới đang bất ổn. Các con hay chúng ta nên đi? Nếu chúng ta đi, các con phải chăm sóc Đức Thế Tôn theo cách này.”

พระราชโอรสทั้ง ๓ นั้นทูลเป็นเสียงเดียวกันว่า ข้าแต่พระชนก พระองค์ไม่จำต้องเสด็จไป พวกข้าพระองค์จักช่วยกันปราบโจรดังนี้ จึงถวายบังคมพระชนกแล้วเสด็จไปยังปัจจันตชนบท ปราบโจรแล้วมีชัยชนะแก่ข้าศึกแล้วเสด็จกลับ พระราชกุมารเหล่านั้นปรึกษากับเหล่าผู้ใกล้ชิดในระหว่างทางว่า พ่อเอ๋ย ในเวลาที่เรามาเฝ้าพระชนกจักประทานพร เราจะรับพรอะไร.
Ba hoàng tử đồng thanh thưa: “Thưa phụ vương, ngài không cần đi. Chúng con sẽ hợp sức để đánh bại giặc.” Sau khi cúi chào nhà vua, họ đi đến vùng biên cương, tiêu diệt giặc và giành thắng lợi. Trên đường về, các hoàng tử bàn bạc với những người cận kề rằng: “Khi phụ vương ban phước cho chúng ta, chúng ta nên nhận phước gì?”

พวกข้าบาทมูลิกาทูลว่า พระลูกเจ้าเมื่อพระชนกของพระองค์ล่วงลับไป ไม่มีอะไรที่ชื่อว่าได้ยาก แต่พระองค์โปรดรับพรคือการปรนนิบัติพระผุสสพุทธเจ้า ซึ่งเป็นพระเชฏฐภาดาของพระองค์เถิด. พระราชกุมารเหล่านั้นกล่าวว่า พวกท่านพูดดี จึงพร้อมใจกันทุกๆ องค์ไปเฝ้าพระชนก.
Những người hầu thân cận thưa rằng: “Thưa các vị hoàng tử, khi phụ vương băng hà, không có gì là khó đạt được. Nhưng xin các ngài nhận phước là chăm sóc Đức Phật Phussa, người là anh trưởng của các ngài.” Các hoàng tử nói: “Các người nói đúng,” rồi cùng nhau trở về gặp phụ vương.

ในกาลนั้น พระชนกทรงเลื่อมใสพระราชกุมารเหล่านั้น แล้วทรงประทานพร พระราชกุมารเหล่านั้นทูลขอพรว่า พวกข้าพระองค์จักปรนนิบัติพระตถาคตตลอดไตรมาส. พระราชาตรัสว่า พรนี้เราให้ไม่ได้ จงขอพรอย่างอื่นเถิด.
Khi đó, nhà vua xúc động trước các hoàng tử và ban phước. Các hoàng tử thỉnh cầu: “Chúng con xin được phụng sự Như Lai trong suốt ba tháng.” Nhà vua đáp: “Ta không thể ban phước này, hãy xin phước khác.”

พระราชกุมารกราบทูลว่า ข้าแต่พระชนก พวกข้าพระองค์ก็ไม่ต้องการพรอย่างอื่น ถ้าหากพระองค์ประสงค์จะพระราชทาน ขอจงพระราชทานพรนั้นนั่นแหละแก่พวกข้าพระองค์เถิด.
Các hoàng tử thưa: “Thưa phụ vương, chúng con không cần phước nào khác. Nếu ngài thực sự muốn ban phước, xin hãy ban phước này cho chúng con.”

พระราชาเมื่อพระราชโอรสเหล่านั้นทูลขออยู่บ่อยๆ ทรงดำริว่า เราไม่ให้ไม่ได้ เพราะเราได้ปฏิญญาไว้แล้วจึงตรัสว่า พ่อเอ๋ย เราให้พรแก่พวกเจ้า ก็แต่ว่าธรรมดาพระพุทธเจ้าเป็นผู้อันใครๆ เข้าเฝ้าได้ยาก เป็นผู้มีปกติเที่ยวไปพระองค์เดียวดุจสีหะ พวกเจ้าจงเป็นผู้ไม่ประมาทปรนนิบัติพระทศพลเถิด.
Nhà vua, khi thấy các hoàng tử thỉnh cầu liên tục, suy nghĩ rằng mình không thể từ chối vì đã hứa ban phước. Ngài nói: “Này các con, ta sẽ ban phước cho các con. Tuy nhiên, Đức Phật vốn khó gặp và thường đi một mình như sư tử. Các con hãy cẩn thận và phụng sự Đức Thế Tôn một cách chu đáo.”

พระราชกุมารเหล่านั้นดำริว่า เมื่อพวกเราจะปรนนิบัติพระตถาคต ก็ควรจะปรนนิบัติให้สมควร จึงพร้อมใจกันสมาทานศีล ๑๐ เป็นผู้ไม่มีกลิ่นคาว ตั้งบุรุษไว้ ๓ คนให้ดูแลโรงทานสำหรับพระศาสดา. บรรดาบุรุษ ๓ คนนั้น คนหนึ่งเป็นผู้จัดแจงการเงินและข้าวปลาอาหาร คนหนึ่งมีหน้าที่ตวงข้าว คนหนึ่งมีหน้าที่จัดทาน.
Các hoàng tử suy nghĩ rằng, nếu chúng ta phụng sự Như Lai, thì phải phụng sự một cách xứng đáng. Họ cùng nhau phát nguyện giữ mười giới và duy trì sự thanh tịnh. Họ chỉ định ba người để quản lý nhà ăn cho Đức Phật: một người phụ trách tiền bạc và thức ăn, một người đong gạo, và một người chuẩn bị lễ vật.

ในบุรุษ ๓ คนนั้น คนจัดแจงการเงินและข้าวมาเกิดเป็นพระเจ้าพิมพิสารมหาราชในปัจจุบัน คนตวงข้าวมาเกิดเป็นวิสาขอุบาสก, คนจัดทานมาเกิดเป็นรัฐปาลเถระแล.
Trong ba người này, người quản lý tiền và thực phẩm tái sinh làm vua Bình Sa Vương trong hiện tại, người đong gạo tái sinh làm cư sĩ Visakha, và người chuẩn bị lễ vật tái sinh làm Tôn giả Rathapala.

กุลบุตรนั้นบำเพ็ญกุศลในภพนั้นตลอดชีพแล้วบังเกิดในเทวโลก.
Người con trai đó làm nhiều việc thiện trong kiếp sống ấy và sau đó tái sinh vào cõi trời.

ส่วนพระยานาคนี้เกิดเป็นพระเชฏฐโอรสของพระเจ้ากิกิ ครั้งพระทศพลพระนามว่ากัสสป ชื่อว่าราหุลเถระ พระญาติทั้งหลายขนานนามพระองค์ว่าปฐวินทรกุมาร. พระองค์มีภคินี ๗ พระองค์ พระภคินีเหล่านั้นสร้างบริเวณถวายพระทศพลถึง ๗ แห่ง พระปฐวินทรกุมารทรงได้ตำแหน่งอุปราช พระองค์ตรัสกะภคินีเหล่านั้นว่า ในบรรดาบริเวณที่พระนางได้สร้างไว้นั้น ขอจงประทานให้หม่อมฉันแห่งหนึ่ง.
Về phần vua rắn, ngài tái sinh làm hoàng tử trưởng của vua Kiki vào thời Đức Phật Kassapa, với tên là Tôn giả Rahula, được thân quyến gọi là hoàng tử Pathavindra. Ngài có bảy chị em gái, các vị này đã xây dựng bảy khu vực để dâng lên Đức Thế Tôn. Hoàng tử Pathavindra được phong làm thái tử, nên đã thỉnh cầu chị em mình ban cho ngài một trong các khu vực đã xây dựng.

พระภคินีเหล่านั้นทูลว่า พระพี่เจ้า พระองค์ดำรงอยู่ในฐานะเป็นอุปราช พระองค์พึงประทานแก่หม่อมฉันต่างหาก พระองค์โปรดสร้างบริเวณอื่นเถิด.
Các chị em thưa rằng: “Thưa huynh, ngài đã là thái tử, nên ngài hãy ban tặng cho chúng em thay vì ngược lại. Huynh hãy tự xây dựng khu vực khác.”

พระราชกุมารนั้นได้สดับคำของพระภคินีเหล่านั้นแล้ว จึงให้สร้างวิหารถึง ๕๐๐ แห่ง. อาจารย์บางพวกกล่าวว่า บริเวณ ๕๐๐ แห่งก็มี.
Hoàng tử nghe lời các chị em và quyết định xây dựng đến 500 ngôi chùa. Một số vị thầy cho rằng cũng có thể là 500 khu vực.

พระราชกุมารนั้นทรงบำเพ็ญกุศลตลอดชีพในอัตภาพนั้นไปบังเกิดในเทวโลก ในพุทธุบาทกาลนี้ ปฐวินทรกุมารถือปฏิสนธิ ในพระครรภ์แห่งพระอัครมเหสีแห่งพระโพธิสัตว์ของเรา สหายของท่านบังเกิดในเรือนแห่งรัฐปาลเศรษฐี ในถุลลโกฏฐิตนิคม แคว้นกุรุ.
Hoàng tử đó làm các thiện nghiệp trong suốt kiếp sống và sau đó tái sinh vào cõi trời. Trong thời Đức Phật hiện tại, hoàng tử Pathavindra tái sinh vào trong bụng của hoàng hậu của Bồ-tát của chúng ta. Bạn đồng hành của ngài sinh ra trong gia đình của thương gia Rathapala, ở làng Thullakotthita, thuộc xứ Kuru.

ครั้งนั้น พระทศพลของเราทรงบรรลุอภิสัมโพธิญาณแล้ว ทรงประกาศธรรมจักรอันประเสริฐแล้ว เสด็จมายังกรุงกบิลพัสดุ์โดยลำดับ ทรงให้ราหุลกุมารบรรพชาแล้ว.
Khi ấy, Đức Thế Tôn của chúng ta đã chứng đạt Vô Thượng Chánh Đẳng Giác, tuyên dương bánh xe pháp cao quý và lần lượt đến thành Kapilavatthu. Ngài đã cho hoàng tử Rahula xuất gia.

วิธีบรรพชาราหุลกุมารนั้น มาแล้วในพระบาลี.
Phương pháp xuất gia của Rahula đã được ghi lại trong kinh điển.

ก็พระศาสดาได้ตรัสราหุโลวาทสูตร เป็นโอวาทเนืองๆ แก่พระราหุลนั้นผู้บรรพชาแล้วอย่างนี้ แม้พระราหุลลุกขึ้นแต่เช้าตรู่ เอามือกอบทรายขึ้นกล่าวว่า วันนี้เราพึงได้โอวาทมีประมาณเท่านี้จากพระทศพล และอุปัชฌาย์อาจารย์ทั้งหลาย. เกิดการสนทนากันในท่ามกลางสงฆ์ว่า “ราหุลสามเณรทนต่อพระโอวาทหนอ เป็นโอรสที่คู่ควรแก่พระชนก”
Đức Thế Tôn đã dạy Kinh Rahulaovada, như là lời khuyên bảo thường xuyên cho Rahula sau khi xuất gia. Mỗi sáng sớm, Rahula thức dậy, nắm lấy một nắm cát và nói: “Hôm nay, ta sẽ nhận được lời dạy từ Đức Thế Tôn và các vị thầy tương tự như số cát này.” Giữa chúng Tăng đã có cuộc thảo luận: “Sa-di Rahula thật kiên nhẫn lắng nghe lời dạy, xứng đáng là con của Đức Thế Tôn.”

พระศาสดาทรงจิตวาระแห่งภิกษุทั้งหลาย ทรงพระดำริว่า เมื่อเราไปแล้ว ธรรมเทศนาอย่างหนึ่งจักขยาย และคุณของเราหุลจักปรากฏ จึงเสด็จไปประทับนั่งเหนือพุทธอาสน์ในธรรมสภา ตรัสเรียกภิกษุทั้งหลายว่า ดูก่อนภิกษุทั้งหลาย พวกเธอนั่งประชุมสนทนากันด้วยเรื่องอะไรหนอ.
Đức Thế Tôn, nhận biết tâm ý của các Tỳ-khưu, suy nghĩ rằng: “Khi ta xuất hiện, giáo pháp sẽ được truyền bá và phẩm hạnh của Rahula sẽ được công nhận.” Sau đó, Ngài đến ngồi trên pháp tòa trong pháp hội và hỏi các Tỳ-khưu: “Này các Tỳ-khưu, các ngươi đang bàn luận về điều gì vậy?”

ภิกษุทั้งหลายกราบทูลว่า ข้าแต่พระผู้มีพระภาคเจ้า พวกข้าพระองค์สนทนากันถึงความที่ราหุลสามเณรเป็นผู้อดทนต่อโอวาท พระเจ้าข้า.
Các Tỳ-khưu bạch rằng: “Thưa Đức Thế Tôn, chúng con đang bàn về sự kiên nhẫn trong việc nghe lời dạy của Sa-di Rahula.”

พระศาสดาทรงดำรงอยู่ในฐานะนี้เพื่อทรงแสดงถึงคุณของราหุลสามเณร จึงทรงนำมิคชาดกมาตรัสว่า
Đức Thế Tôn, để ca ngợi phẩm chất của Sa-di Rahula, đã kể chuyện tiền thân Migajataka:

มิคฺนฺติปลฺลตฺถมเนกมายํ
อฏฺฐกฺขรํ อฑฺฒรตฺตาวปายึ
เอเกน โสเตน ฉมาสฺสสนฺโต
ฉหิ กลาหีติ โภ ภาคิเนยฺโยติ

“Con nai già trên đồng cỏ, vượt qua nhiều khó khăn. Đến nửa đêm, nghe chỉ bằng một bên tai trong sáu tháng. Ngay cả khi có sáu khó khăn, vẫn nhẫn nhục, này cháu thân yêu của ta.”

ฉันยังเนื้อหลานชายผู้มี ๘ กีบ นอนโดยอาการ ๓ ท่า
Ta còn thấy con nai cháu trai với tám móng, nằm trong ba tư thế.

มีมารยาหลายอย่าง ดื่มกินน้ำในเวลาเที่ยงคืน ให้เล่า
Có nhiều mưu kế, uống nước vào lúc nửa đêm.

เรียนมายาของเนื้อดีแล้ว ดูก่อนน้องหญิง เนื้อหลาน
Nó đã học cách lừa phỉnh khéo léo, này em gái.

ชายกลั้นลมหายใจไว้ได้โดยช่องโสตข้างหนึ่งแนบติด
Nai cháu trai nín thở qua một bên tai ép sát xuống đất.

อยู่กับพื้น จะทำกลลวงนายพรานด้วยอุบาย ๖ ประการ.
Sẽ dùng sáu kế mưu để đánh lừa thợ săn.

ต่อมาในเวลาที่สามเณรมีอายุ ๗ พรรษา ทรงแสดงอัมพลัฏฐิยราหุโลวาทแก่ราหุลสามเณรนั้นว่า ราหุลอย่ากล่าวสัมปชานมุสา แม้เพื่อจะเล่นโดยความเป็นเด็กเลย ดังนี้เป็นต้น.
Sau đó, khi Sa-di Rahula được bảy tuổi, Đức Thế Tôn dạy Kinh Ambalatthiyarahulovada, nhắn nhủ Rahula không được nói dối, dù là để đùa nghịch như trẻ con.

ในเวลาที่สามเณรมีอายุ ๑๘ พรรษา ตรัสมหาราหุโลวาทสูตร โดยนัยว่า ราหุล รูปอย่างใดอย่างหนึ่ง ดังนี้เป็นต้น แก่ราหุลผู้เข้าไปบิณฑบาตตามหลังของพระตถาคต มองดูรูปสมบัติของพระศาสดาและของตน ตรึกวิตกที่เนื่องด้วยครอบครัว.
Khi Rahula được 18 tuổi, Đức Thế Tôn thuyết giảng Kinh Maharahulovada, với lời dạy: “Này Rahula, bất cứ sắc nào…” dành cho Rahula khi ngài đi khất thực theo sau Như Lai, nhìn vào dung mạo của Đức Phật và của chính mình, suy nghĩ về gia đình.

ส่วนราหุโลวาทในสังยุตก็ดี ราหุโลวาทในอังคุตตรนิกายก็ดี เป็นอาจารย์แห่งวิปัสสนาของพระเถระทั้งนั้น.
Các bài kinh dạy Rahula trong Tương Ưng Bộ và Tăng Chi Bộ đều là những lời chỉ dạy về thiền quán cho các vị Trưởng lão.

ภายหลังพระศาสดาทรงทราบว่าญาณของท่านแก่กล้า ในเวลาที่ราหุลเป็นภิกษุยังไม่มีพรรษา ประทับนั่งที่อันธวัน ตรัสจุลลราหุโลวาทสูตรแล้ว เวลาจบเทศนา พระราหุลเถระบรรลุพระอรหัตพร้อมกับเทวดาแสนพันโกฏิ เทวดาที่เป็นพระโสดาบัน พระสกทาคามีและพระอนาคามีนับไม่ถ้วน.
Sau đó, Đức Phật nhận thấy trí tuệ của Rahula đã trưởng thành. Khi Rahula là một Tỳ-khưu chưa có tuổi hạ, Đức Phật ngồi tại Andhavana, thuyết giảng Kinh Cularahulovada. Cuối bài giảng, Tôn giả Rahula chứng quả A-la-hán cùng với hàng triệu chư thiên, bao gồm các vị đã chứng quả Dự Lưu, Nhất Lai và Bất Lai vô số kể.

ต่อมาภายหลัง พระศาสดาทรงประทับนั่งท่ามกลางพระอริยสงฆ์ ทรงสถาปนาพระเถระในตำแหน่งเป็นยอดของเหล่าภิกษุผู้ใคร่ต่อการศึกษาในศาสนานี้.
Sau đó, Đức Thế Tôn ngồi giữa chư Tăng thánh giả, tôn phong Tôn giả Rahula làm vị xuất sắc nhất trong những Tỳ-khưu khao khát học tập trong giáo pháp này.

ก็เมื่อพระศาสดาทรงเสด็จออกจาริกไปในกุรุรัฐ ทรงบรรลุถึงถุลลโกฏฐิตนิคมโดยลำดับ. กุลบุตรชื่อรัฐปาลฟังพระธรรมเทศนาของพระศาสดา ได้ศรัทธาให้มารดาบิดาอนุญาตแล้ว เข้าเฝ้าพระทศพล บวชแล้วในสำนักของพระเถระรูปหนึ่งตามพระบัญชาของพระศาสดา.
Khi Đức Phật đi du hành đến vương quốc Kuru, Ngài lần lượt đến làng Thullakotthita. Một thanh niên tên Rathapala nghe bài pháp của Đức Phật, cảm thấy niềm tin mãnh liệt, xin phép cha mẹ rồi đến gặp Đức Thế Tôn và xuất gia dưới sự hướng dẫn của một vị Trưởng lão theo lệnh của Đức Phật.

ตั้งแต่วันที่ท่านบวชแล้ว เศรษฐีคหบดีเห็นภิกษุทั้งหลายไปยังที่ประตูนิเวศน์ของตนย่อมด่าบริภาษาว่า มีงานอะไรของท่านในเรือนนี้ (เรา) มีบุตรน้อยคนเดียวเท่านั้น พวกท่านก็มานำเขาไปเสีย บัดนี้จะทำอะไรอีกล่ะ.
Kể từ ngày Tôn giả xuất gia, vị trưởng giả gia chủ khi thấy các Tỳ-khưu đến cửa nhà mình thường mắng chửi rằng: “Các ngài đến đây làm gì nữa? Ta chỉ có một người con trai duy nhất, và các ngài đã đưa nó đi mất rồi. Bây giờ còn muốn gì nữa?”

พระศาสดาประทับอยู่ที่ถุลลโกฏฐิตคามกึ่งเดือนแล้วเสด็จมายังกรุงสาวัตถีอีก.
Đức Phật lưu lại làng Thullakotthita nửa tháng rồi tiếp tục hành trình về thành Savatthi.

ครั้งนั้น พระรัฐปาลกระทำกิจในโยนิโสมนสิการ เจริญวิปัสสนาบรรลุพระอรหัตแล้ว ท่านทูลขออนุญาตพระศาสดาแล้วไปยังถุลลโกฏฐิตนิคม เพื่อเยี่ยมบิดามารดา เที่ยวบิณฑบาตไปตามลำดับตรอกในนิคมนั้น ได้ขนมกุมมาสบูดที่ค้างคืนในนิเวศน์ของบิดา เกิดอสุภสัญญาในเหล่าหญิงที่แต่งตัวแล้วจึงยืนขึ้นแสดงธรรม เหาะไปแล้วประดุจศรเพลิงที่พ้นแล้วจากแล่ง ไปยังมิคาจิรอุทยานของพระเจ้าโกรพย ลงนั่งที่แผ่นศิลาอันเป็นมงคล แสดงธรรมอันประดับแล้วด้วยความเลื่อมใส ๔ ประการแด่พระราชาผู้เสด็จมาเยี่ยม จาริกไปโดยลำดับกลับมาเฝ้าพระศาสดาอีก.
Khi đó, Tôn giả Rathapala thực hành niệm và phát triển thiền quán, chứng đắc quả A-la-hán. Sau khi xin phép Đức Phật, ngài trở về làng Thullakotthita để thăm cha mẹ. Trong lúc khất thực theo từng con hẻm, ngài nhận được bánh kumma bị thiu để qua đêm tại nhà cha mình. Khi thấy những phụ nữ trang điểm, ngài sinh khởi ý niệm bất tịnh, rồi đứng lên thuyết pháp, sau đó bay lên như một mũi tên rực lửa từ cánh cung, đến khu rừng Migachira của vua Koravya, ngồi trên tảng đá linh thiêng và thuyết pháp với bốn pháp kính tin cho vua đang đến thăm. Ngài tiếp tục hành trình rồi quay lại yết kiến Đức Phật.

เรื่องนี้ตั้งขึ้นแล้วด้วยอาการอย่างนี้.
Câu chuyện này được thuật lại theo cách như vậy.

ต่อมาภายหลัง พระศาสดาประทับนั่งท่ามกลางพระอริยสงฆ์ ทรงสถาปนาพระเถระไว้ในตำแหน่งเป็นยอดของเหล่ากุลบุตรผู้บวชด้วยศรัทธาในศาสนานี้แล.
Sau đó, Đức Thế Tôn ngồi giữa chúng Tăng thánh giả và tôn phong Tôn giả vào vị trí cao nhất trong số những thanh niên xuất gia với lòng tín ngưỡng trong giáo pháp này.

จบอรรถกถาสูตรที่ ๒

Kết thúc lời giải thích Kinh số 2

Hộp bình luận Facebook

Soṇa Thiện Kim

Panha.org là trang web chuyên sâu về Pháp học của Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Tông), nơi cung cấp kiến thức và tài liệu quý báu về kinh điển, giáo lý, và triết học Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Tông). Tại đây, bạn có thể tìm hiểu về các giáo pháp truyền thống, kinh nghiệm tu tập, và những bài giảng từ các vị tôn sư hàng đầu trong cộng đồng Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Tông). Với mục tiêu giúp người học hiểu sâu hơn về con đường giác ngộ và sự giải thoát, Panha.org mang đến nguồn tài nguyên phong phú, chính xác và cập nhật để hỗ trợ hành giả trên hành trình tu tập Pháp học.

Bài viết liên quan

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.

0 Góp ý
Được bỏ phiếu nhiều nhất
Mới nhất Cũ nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Back to top button