อรรถกถา อังคุตตรนิกาย เอกนิบาต เอตทัคคบาลี
Chú giải Anguttara Nikaya Ekaka Nipata Eṭadagga-Bhāla.
วรรคที่ ๑
Chương 1.
หน้าต่างที่ ๒ / ๑๐.
Phần 2 / 10.
เรื่องพระอัญญาโกณฑัญญะเถระ
Chuyện về trưởng lão Aññākoṇḍañña.
บทว่า เอตทคฺคํ ในบาลีนั้น มีอรรถได้กล่าวไว้แล้วทั้งนั้น.
Cụm từ “Etadagga” trong Pāli đã được giải thích đầy đủ.
บทว่า รตฺตญฺญูนํ แปลว่า ผู้รู้ราตรี.
Cụm từ “Rattaññūnaṃ” có nghĩa là người biết rõ đêm.
จริงอยู่ เว้นพระสัมมาสัมพุทธเจ้าเสีย สาวกอื่น ชื่อว่าผู้บวชก่อนท่านพระอัญญาโกณฑัญญเถระ ไม่มี เพราะเหตุนั้น พระเถระย่อมรู้ราตรีตลอดกาลนาน จำเดิมตั้งแต่บวช เหตุนั้น ท่านจึงชื่อว่าเป็นรัตตัญญู.
Thật vậy, ngoại trừ Đức Phật, không có vị đệ tử nào thọ giới trước trưởng lão Aññākoṇḍañña. Vì lý do đó, ngài biết rõ đêm suốt từ khi thọ giới, và do vậy, ngài được gọi là Rattaññū (người biết rõ đêm).
เพราะท่านแทงตลอดธรรมก่อนใครทั้งหมด ท่านรู้ราตรีที่รู้แจ้งธรรมนั้นมานาน แม้เพราะเหตุนั้น ท่านจึงชื่อว่ารัตตัญญู.
Vì ngài là người đầu tiên chứng ngộ chân lý, ngài đã biết rõ đêm của sự giác ngộ từ lâu, và vì lý do đó, ngài được gọi là Rattaññū.
อีกอย่างหนึ่ง การกำหนดคืนและวันของท่านผู้สิ้นอาสวะทั้งหลายเป็นของปรากฎชัด และพระอัญญาโกณฑัญญเถระนี้เป็นผู้สิ้นอาสวะก่อน เพราะเหตุนั้น พระอัญญาโกณฑัญญะนี้แลเป็นผู้เลิศ เป็นยอดคนแรก เป็นผู้ประเสริฐสุดแห่งเหล่าสาวกผู้รัตตัญญู แม้ด้วยประการอย่างนี้ เพราะเหตุนั้น จึงตรัสว่า รตฺตญฺญูนํ ยทิทํ อญฺญาโกณฺฑญฺโญ ดังนี้.
Ngoài ra, sự phân định ngày đêm của những vị đã diệt trừ các lậu hoặc cũng rất rõ ràng, và trưởng lão Aññākoṇḍañña là người đầu tiên diệt trừ lậu hoặc. Vì vậy, Aññākoṇḍañña là người cao quý nhất, là người đứng đầu trong số những đệ tử Rattaññū. Do đó, câu nói “Rattaññūnaṃ yadidaṃ Aññākoṇḍañño” đã được thuyết.
ก็ศัพท์ ยทิทํ ในบาลีนี้เป็นนิบาต (ถ้า) เพ่งเอาพระเถระนั้น มีอรรถว่า โย เอโส เพ่งอัคคศัพท์ มีอรรถว่า ยํ เอตํ.
Từ “Yadidaṃ” trong tiếng Pāli là một tiểu từ, chỉ rõ trưởng lão đó với ý nghĩa “Yo Eso”, và hướng tới cụm từ “Agga” có nghĩa là “Yaṃ Etaṃ”.
บทว่า อญฺญาโกณฺฑญฺโญ แปลว่า โกณฑัญญะรู้ทั่วแล้ว โกณฑัญญะแทงตลอดแล้ว.
Cụm từ “Aññākoṇḍañño” có nghĩa là Koṇḍañña đã hiểu rõ hoàn toàn, đã chứng ngộ hoàn toàn.
ด้วยเหตุนั้นนั่นแล พระผู้มีพระภาคเจ้าจึงตรัสว่า อญฺญาสิ วต โภ โกณฺฑญฺโญ อญฺญาสิ วต โภ โกณฺฑญฺโญ อิติ หิทํ อายสฺมโต โกณฺฑญฺญสฺส อญฺญาโกณฺฑญฺโญเตฺวว นามํ อโหสิ โกณฑัญญะรู้ทั่วแล้วหนอ โกณฑัญญะรู้ทั่วแล้วหนอ เพราะเหตุนั้นแล ท่านพระโกณฑัญญะจึงได้มีชื่อว่า อัญญาโกณฑัญญะ ดังนี้.
Do vậy, Đức Thế Tôn đã thuyết rằng: “Aññāsi vata bho Koṇḍañño, aññāsi vata bho Koṇḍañño.” Và tên của trưởng lão Koṇḍañña trở thành Aññākoṇḍañña. “Koṇḍañña đã chứng ngộ hoàn toàn, Koṇḍañña đã chứng ngộ hoàn toàn.” Vì lý do đó, trưởng lão Koṇḍañña được gọi là Aññākoṇḍañña.
พึงทราบปัญหากรรม (กรรมที่ตั้งปรารถนาไว้ครั้งแรกในอดีต) ในพระสาวกผู้เอตทัคคะทุกรูป โดยนัยนี้ว่า
Nên biết về vấn đề nghiệp (nghiệp đã được đặt ra lần đầu tiên trong quá khứ) của tất cả các vị đệ tử tối thượng theo nghĩa này rằng:
ก็พระเถระนี้ได้กระทำความปรารถนาครั้งก่อนให้เป็นความปรารถนาอันยิ่งใหญ่ในครั้งพระพุทธเจ้าพระองค์ไหน? ท่านบวชเมื่อไร? ท่านบรรลุธรรมครั้งแรกเมื่อไร? ได้รับสถาปนาในตำแหน่งเมื่อไร? บรรดาพระเถระเอตทัคคะเหล่านั้น ก่อนอื่นในปัญหากรรมของพระเถระนี้ มีเรื่องที่จะกล่าวตามลำดับดังต่อไปนี้ :-
Trưởng lão này đã thực hiện điều ước lớn lao trong quá khứ dưới thời Đức Phật nào? Ngài xuất gia khi nào? Ngài chứng ngộ lần đầu khi nào? Ngài được phong chức khi nào? Trong số các vị trưởng lão tối thượng đó, trước tiên về vấn đề nghiệp của vị trưởng lão này, có các câu chuyện sau đây được nêu theo thứ tự:
พึงทราบปัญหากรรมในพระสาวกผู้เอตทัคคะทุกรูป โดยนัยนี้ว่า ก็พระเถระนี้ ได้กระทำความปรารถนาครั้งก่อนให้เป็นความปรารถนาอันยิ่งใหญ่ในครั้งพระพุทธเจ้าพระองค์ไหน? ท่านบวชเมื่อไร ? ท่านบรรลุธรรมครั้งแรกเมื่อไร? ได้รับสถาปนาในตำแหน่งเมื่อไร? บรรดาพระเถระเอตทัคคะเหล่านั้น ก่อนอื่นในปัญหากรรมของพระเถระนี้มีเรื่องที่จะกล่าวตามลำดับดังต่อไปนี้ :
Nên biết về vấn đề nghiệp của tất cả các vị đệ tử tối thượng theo nghĩa này rằng: Trưởng lão này đã thực hiện điều ước lớn lao trong quá khứ dưới thời Đức Phật nào? Ngài xuất gia khi nào? Ngài chứng ngộ lần đầu khi nào? Ngài được phong chức khi nào? Trong số các vị trưởng lão tối thượng đó, trước tiên về vấn đề nghiệp của vị trưởng lão này, có các câu chuyện sau đây được nêu theo thứ tự:
ปลายแสนกัปแต่ภัทรกัปนี้ พระพุทธเจ้าทรงพระนามว่าปทุมุตตระ อุบัติขึ้นในโลก. เมื่อพระองค์ตรัสรู้พระสัพพัญญุตญาณ เสด็จลุกจากมหาโพธิบัลลังก์ พอยกพระบาทขึ้นเพื่อวางบนมหาปฐพี ดอกปทุมขนาดใหญ่ผุดขึ้นรับพระบาท. ดอกปทุมนั้นกลีบยาว ๙๐ ศอก เกสร ๓๐ ศอก ช่อ ๑๒ ศอก ที่ประดิษฐานพระบาท ๑๑ ศอก.
Vào cuối thời kỷ 100.000 đại kiếp, trong thời Bhadra-kappa này, Đức Phật có tên là Padumuttara đã xuất hiện trên thế gian. Khi Ngài chứng đắc trí tuệ toàn giác và đứng lên từ tòa giác ngộ, khi Ngài nhấc chân đặt lên mặt đất, một đóa sen lớn đã mọc lên đón chân Ngài. Đóa sen này có cánh dài 90 thước, nhị hoa dài 30 thước, cuống hoa dài 12 thước và đài hoa nơi chân Ngài đặt dài 11 thước.
ก็พระสรีระของพระผู้มีพระภาคเจ้านั้นสูง ๕๘ ศอก เมื่อพระบาทขวาของพระองค์ประดิษฐานอยู่บนช่อปทุม ละอองเกษรประมาณทะนานใหญ่พลุ่งขึ้นโปรยรดพระสรีระ. แม้ในเวลาวางพระบาทซ้าย ดอกปทุมเห็นปานนั้นนั่นแลผุดขึ้นรับพระบาท. ละอองมีขนาดดังกล่าวแล้วนั่นแลพลุ่งขึ้นจากนั้น โปรยรดพระสรีระของพระผู้มีพระภาคเจ้านั้น. ก็รัศมีพระสรีระของพระผู้มีพระภาคเจ้าเปล่งออกปกคลุมละอองนั้น กระทำที่ประมาณ ๑๒ โยชน์โดยรอบให้มีแสงสว่างเป็นอันเดียวกัน เหมือนสายน้ำทองที่พุ่งออกทะนานยนต์.
Thân thể của Đức Phật cao 58 thước, khi chân phải của Ngài đặt lên trên cuống sen, nhị hoa rơi xuống như một cơn mưa hoa lớn phủ lên thân thể Ngài. Khi Ngài đặt chân trái xuống, một đóa sen tương tự cũng mọc lên đón chân Ngài, và nhị hoa tương tự rơi xuống phủ thân thể Ngài. Ánh sáng từ thân thể của Đức Phật bao trùm lên nhị hoa ấy, tỏa sáng khắp 12 do-tuần, rực rỡ như dòng nước vàng phun ra từ vòi máy bắn xa.
ในเวลาย่างพระบาทครั้งที่ ๓ ดอกปทุมที่ผุดขึ้นก่อนก็หายไป. ปทุมดอกใหม่อื่นก็ผุดขึ้นรับพระบาท. โดยทำนองนี้แล พระองค์ประสงค์จะเสด็จไปในที่ใดๆ ปทุมดอกใหญ่ก็ผุดขึ้นในที่นั้นๆ ทุกย่างพระบาท.
Khi Ngài bước chân lần thứ ba, đóa sen đã mọc trước đó liền biến mất. Một đóa sen mới khác lại mọc lên đón bước chân Ngài. Bằng cách này, bất kỳ nơi nào Ngài muốn đi, một đóa sen lớn sẽ mọc lên ngay tại đó, theo mỗi bước chân của Ngài.
ด้วยเหตุนั้นนั่นแล พระองค์จึงมีพระนามว่า ปทุมุตตรสัมมาสัมพุทธเจ้า.
Vì lý do đó, Ngài được gọi là Padumuttara, vị Phật Chánh Đẳng Giác.
พระผู้มีพระภาคเจ้านั้นทรงอุบัติขึ้นในโลกอย่างนี้ มีภิกษุแสนรูปเป็นบริวาร เสด็จเที่ยวภิกษาในคามนิคมและราชธานี เพื่อสงเคราะห์มหาชน เสด็จถึงกรุงหังสวดี. มหาราชาผู้เป็นพระพุทธบิดาทรงทราบข่าวว่า พระศาสดานั้นเสด็จมา จึงได้เสด็จออกไปต้อนรับ.
Đức Thế Tôn ấy đã xuất hiện trên thế gian cùng với 100.000 vị Tỳ-khưu làm tùy tùng, Ngài đi khất thực trong các làng mạc và kinh thành để hóa độ chúng sinh và đến thủ đô Hamsavati. Khi vua, phụ thân của Đức Phật, nghe tin Đức Thế Tôn đến, ngài liền ra đón tiếp.
พระศาสดาได้ตรัสธรรมกถาแด่พระพุทธบิดา. จบเทศนา บางพวกเป็นพระโสดาบัน บางพวกเป็นพระสกทาคามี บางพวกเป็นพระอนาคามี บางพวกบรรลุพระอรหัต. พระราชาทรงนิมนต์พระทศพล เพื่อเสวยภัตตาหารในวันพรุ่งนี้ ในวันรุ่งขึ้นทรงให้แจ้งเวลา (ภัตตาหาร) ได้ถวายมหาทานในพระราชนิเวศน์ของพระองค์แด่พระผู้มีพระภาคเจ้าผู้มีภิกษุแสนรูปเป็นบริวาร.
Đức Thế Tôn đã thuyết pháp cho phụ thân của Ngài. Sau khi thuyết giảng, một số người chứng ngộ quả vị Nhập lưu (Sotāpanna), một số chứng quả Nhất lai (Sakadāgāmī), một số chứng quả Bất lai (Anāgāmī), và một số đạt quả vị A-la-hán. Đức vua đã thỉnh mời Đức Phật để thọ trai vào ngày hôm sau, và vào ngày kế tiếp, ngài đã thông báo thời gian và dâng cúng đại thí trong hoàng cung cho Đức Phật cùng với 100.000 vị Tỳ-khưu tùy tùng.
พระศาสดาทรงกระทำภัตตานุโมทนาแล้วเสด็จไปพระวิหารตามเดิม. โดยทำนองนั้นนั่นแล ได้ถวายทานตลอดกาลยืดยาวนาน คือวันรุ่งขึ้น ชาวเมืองถวาย วันรุ่งขึ้น (ต่อไป) พระราชาถวาย.
Sau khi Đức Thế Tôn thọ trai, Ngài trở lại tịnh xá. Và việc cúng dường này tiếp tục kéo dài trong một khoảng thời gian lâu dài: một ngày thì dân thành phố dâng cúng, ngày tiếp theo thì vua cúng dường.
ครั้งนั้น พระเถระนี้บังเกิดในตระกูลคฤหบดีมหาศาล กรุงหังสวดี.
Lúc bấy giờ, vị trưởng lão này sinh ra trong một gia đình giàu có ở thủ đô Hamsavati.
วันหนึ่ง ในเวลาที่พระพุทธเจ้าทรงแสดงธรรม เห็นชาวกรุงหังสวดีต่างถือของหอมและดอกไม้เป็นต้นผู้น้อมไป โอนไป เงื้อมไปทางพระพุทธเจ้า พระธรรมและพระสงฆ์ แล้วได้ไปยังที่แสดงธรรม พร้อมกับมหาชนนั้นนั่นแล.
Một ngày kia, khi Đức Phật đang thuyết pháp, vị trưởng lão thấy dân thành Hamsavati mang hương hoa và các lễ vật khác, dâng lên Đức Phật, Pháp và Tăng, rồi họ đến pháp đường để nghe pháp cùng với đám đông.
สมัยนั้น พระผู้มีพระภาคเจ้าทรงพระนามว่าปทุมุตตระ ทรงสถาปนาภิกษุรูปหนึ่งผู้แทงตลอดธรรมก่อนในพระศาสนาของพระองค์ ไว้ในตำแหน่งเอตทัคคะ.
Lúc bấy giờ, Đức Phật có danh hiệu là Padumuttara, Ngài đã phong một vị Tỳ-khưu, người đã chứng ngộ chân lý đầu tiên trong giáo pháp của Ngài, vào vị trí đệ tử tối thượng.
กุลบุตรนั้นได้สดับเหตุนั้นแล้วคิดว่า ภิกษุนี้เป็นผู้ใหญ่หนอ ได้ยินว่า เว้นพระพุทธเจ้าเสีย ผู้อื่นชื่อว่าผู้แทงตลอดธรรมก่อนกว่าภิกษุนี้ ย่อมไม่มี แม้เราพึงเป็นผู้สามารถแทงตลอดธรรมก่อน ในศาสนาของพระพุทธเจ้าพระองค์หนึ่งในอนาคต.
Người con trai quý tộc này nghe được điều đó, và nghĩ rằng: “Vị Tỳ-khưu này thật vĩ đại. Ngoại trừ Đức Phật, không ai chứng ngộ chân lý trước vị Tỳ-khưu này. Ta cũng sẽ có thể chứng ngộ chân lý đầu tiên trong giáo pháp của một Đức Phật trong tương lai.”
ในเวลาจบเทศนา จึงเข้าเฝ้าพระผู้มีพระภาคเจ้า นิมนต์ว่า พรุ่งนี้ขอพระองค์โปรดทรงรับภิกษาของข้าพระองค์. พระศาสดาทรงรับนิมนต์แล้ว กุลบุตรนั้นถวายอภิวาทพระผู้มีพระภาคเจ้าแล้วกระทำประทักษิณแล้วไปยังที่อยู่ของตน ประดับที่ประทับนั่งสำหรับพระพุทธเจ้า ด้วยของหอมและพวงมาลัยเป็นต้น ให้จัดของควรเคี้ยวและควรบริโภคอันประณีต ตลอดคืนยังรุ่ง.
Sau khi kết thúc buổi thuyết pháp, người con trai quý tộc đến hầu Phật và thỉnh rằng: “Ngày mai xin Đức Thế Tôn nhận phần cúng dường của con.” Đức Thế Tôn nhận lời thỉnh, người con trai ấy đảnh lễ Phật rồi đi vòng quanh Ngài, sau đó trở về nhà mình, trang hoàng nơi ngồi của Đức Phật bằng hương hoa và các đồ trang trí khác, và sắp xếp các thức ăn ngon miệng suốt cả đêm.
ล่วงราตรีนั้นได้ถวายข้าวสาลีหอมมีแกงและกับข้าวต่างๆ รส มีข้าวยาคูและของเคี้ยวอันวิจิตรเป็นบริวาร แด่พระผู้มีพระภาคเจ้าผู้มีภิกษุ ๑๐๐,๐๐๐ รูปเป็นบริวาร ในที่อยู่ของตน ในเวลาเสร็จภัตกิจ ได้วางผ้าคู่พอทำจีวรได้สามผืน ใกล้พระบาทของพระตถาคต คิดว่า
Khi trời rạng sáng, người con trai ấy dâng cúng cho Đức Thế Tôn và 100.000 vị Tỳ-khưu đi cùng với cơm lúa mạch thơm, các món cà ri và thức ăn phụ ngon miệng, có cháo và các món ăn tinh tế khác kèm theo. Sau khi hoàn thành việc cúng dường, người ấy đặt những tấm vải đủ để may ba bộ y gần chân Đức Phật và suy nghĩ rằng:
เราไม่ได้ขอเพื่อประโยชน์แก่ตำแหน่งเล็กน้อย เราปรารถนาตำแหน่งใหญ่จึงขอ แต่เราไม่อาจให้ทานเพียงวันเดียวเท่านั้นแล้วปรารถนาตำแหน่งนั้น จึงคิด (อีก) ว่า จักถวายทานตลอด ๗ วัน ติดต่อกันไป แล้วจึงจักปรารถนา.
“Ta không cầu xin để đạt được một vị trí nhỏ bé, ta cầu xin một vị trí cao quý. Nhưng ta không thể chỉ dâng cúng trong một ngày mà mong đạt được vị trí đó, vì vậy ta quyết định sẽ dâng cúng liên tục trong bảy ngày rồi mới mong cầu điều đó.”
โดยทำนองนั้นนั่นเอง เขาจึงถวายมหาทาน ๗ วัน ในเวลาเสร็จภัตกิจ ได้ให้เปิดคลังผ้าวางผ้าเนื้อละเอียดอย่างดีเยี่ยม ไว้ใกล้พระบาทแห่งพระพุทธเจ้า ให้ภิกษุ ๑๐๐,๐๐๐ รูปครองไตรจีวรแล้วเข้าไปเฝ้าพระผู้มีพระภาคเจ้า กราบทูลว่า ข้าแต่พระองค์ผู้เจริญ ท้าย ๗ วันแต่วันนี้ ข้าพระองค์พึงเป็นผู้สามารถบวชในศาสนาของพระพุทธเจ้าผู้จะอุบัติในอนาคตแล้วรู้แจ้งได้ก่อนเหมือนภิกษุนี้ แล้วหมอบศีรษะลงใกล้พระบาทของพระศาสดา.
Và như thế, người ấy đã dâng cúng đại thí trong suốt bảy ngày. Sau khi hoàn thành việc cúng dường, người ấy đã mở kho vải, lấy ra những tấm vải mịn và đẹp nhất đặt gần chân Đức Phật, và 100.000 vị Tỳ-khưu đã mặc y áo vào. Sau đó, người ấy đến gặp Đức Thế Tôn và thưa rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, sau bảy ngày từ hôm nay, xin cho con được xuất gia trong giáo pháp của một Đức Phật sẽ xuất hiện trong tương lai và chứng ngộ đầu tiên giống như vị Tỳ-khưu này.” Sau đó, người ấy cúi đầu sát đất gần chân Đức Phật.
พระศาสดาทรงสดับคำนั้นแล้ว ทรงส่งอนาคตังสญาณไปตรวจดูว่า กุลบุตรนี้ได้กระทำบุญญาธิการไว้มาก ความปรารถนาของเธอจักสำเร็จไหมหนอ เมื่อทรงรำลึกก็ทรงเห็นความสำเร็จ.
Đức Thế Tôn nghe lời ấy rồi Ngài đã dùng trí tuệ thấy biết về tương lai để kiểm tra xem người con trai quý tộc này đã tạo nhiều công đức hay chưa và điều ước của anh ta có thành tựu hay không. Khi Ngài suy nghĩ, Ngài đã thấy sự thành tựu.
จริงอยู่ เมื่อพระพุทธเจ้าทั้งหลายทรงรำพึงถึงอดีต อนาคตหรือปัจจุบัน ย่อมไม่มีอะไรขัดขวางเลย. เหตุที่เป็นอดีตหรือเหตุที่เป็นอนาคต ที่เป็นไปในภายในระหว่างแสนโกฏิกัปเป็นอันมากก็ดี ปัจจุบันระหว่างแสนจักรวาลก็ดี ย่อมเนื่องด้วยการนึก เนื่องด้วยมนสิการทั้งนั้น.
Thật vậy, khi các Đức Phật suy nghĩ về quá khứ, tương lai hoặc hiện tại, không có điều gì có thể cản trở họ. Những điều thuộc về quá khứ hay tương lai, trong hàng trăm ngàn đại kiếp, hoặc hiện tại trong hàng trăm ngàn thế giới, tất cả đều nằm trong tư tưởng và suy tư của các Ngài.
พระผู้มีพระภาคเจ้านี้ได้ทรงเห็นเหตุนี้ ด้วยญาณที่ไม่มีใครๆ ให้เป็นไปได้ว่า ในอนาคต ในที่สุดแสนกัป พระพุทธเจ้าทรงพระนามว่าโคตมะ จักอุบัติขึ้นในโลก ครั้งนั้น ความปรารถนาของกุลบุตรนี้จักสำเร็จ.
Đức Phật đã thấy điều này qua trí tuệ không ai sánh bằng, rằng trong tương lai, sau 100.000 đại kiếp, Đức Phật có danh hiệu là Gotama sẽ xuất hiện trên thế gian, và khi đó, điều ước của người con trai quý tộc này sẽ thành tựu.
ลำดับนั้น พระผู้มีพระภาคเจ้าตรัสกะกุลบุตรนั้นอย่างนี้ว่า ดูก่อนกุลบุตรผู้เจริญ ในอนาคต ในที่สุดแสนกัป พระพุทธเจ้าทรงพระนามว่าโคตมะ จักอุบัติขึ้นในโลก ท่านจักดำรงอยู่ในโสดาปัตติผล อันถึงพร้อมด้วยนัยพันนัย พร้อมด้วยพรหม ๑๘ โกฏิ เวลาจบพระธรรมจักกัปปวัตตนสูตรอันมีวนรอบ ๓ ด้วยการแสดงธรรมครั้งแรกของพระโคดมพุทธเจ้านั้น.
Sau đó, Đức Phật nói với người con trai quý tộc rằng: “Này người con trai quý tộc tốt lành, trong tương lai, sau 100.000 đại kiếp, Đức Phật có danh hiệu là Gotama sẽ xuất hiện trên thế gian. Khi đó, con sẽ đạt được quả vị Nhập lưu (Sotāpatti) với vô số ngàn phương pháp, cùng với 180 triệu Phạm thiên khi kinh Chuyển Pháp Luân được thuyết giảng lần đầu tiên bởi Đức Phật Gotama.”
พระศาสดาครั้นทรงพยากรณ์กุลบุตรนั้นดังนี้แล้ว ทรงแสดงธรรม ๘๔,๐๐๐ พระธรรมขันธ์ แล้วปรินิพพานด้วยอนุปาทิเสสนิพพานธาตุ, สรีระของพระองค์ผู้ปรินิพพานแล้ว ได้เป็นแท่งอันเดียวกัน เหมือนก้อนทองฉะนั้น.
Sau khi Đức Phật thọ ký cho người con trai quý tộc, Ngài đã thuyết giảng 84.000 pháp môn và nhập Niết Bàn vô dư (Anupādisesa Nibbāna). Thân thể của Ngài, sau khi nhập Niết Bàn, đã trở thành một khối nguyên vẹn, giống như một khối vàng ròng.
ก็ชนทั้งหลายได้สร้างเจดีย์บรรจุพระสรีระของพระองค์สูง ๗ โยชน์ อิฐทั้งหลายล้วนแล้วด้วยทองคำ ชนทั้งหลายใช้หรดาลและมโนสิลาแทนดินเหนียว ใช้น้ำมันงาแทนน้ำ ในเวลาที่พระพุทธเจ้าทั้งหลายยังทรงพระชนม์อยู่รัศมีแห่งพระสรีระแผ่ไป ๑๒ โยชน์. ก็เมื่อพระพุทธเจ้าทั้งหลายปรินิพพานแล้ว รัศมีนั้นสร้านออกปกคลุมที่ร้อยโยชน์โดยรอบ.
Người dân đã xây dựng một bảo tháp cao 7 do-tuần để lưu giữ thân thể của Ngài. Các viên gạch đều làm bằng vàng ròng, và họ dùng hỗn hợp các loại khoáng chất quý thay cho đất sét, sử dụng dầu mè thay cho nước. Khi các Đức Phật còn sống, hào quang từ thân thể của họ tỏa ra bao phủ khắp 12 do-tuần. Khi các Đức Phật nhập Niết Bàn, hào quang ấy lan tỏa và bao trùm phạm vi 100 do-tuần.
เศรษฐีนั้นให้สร้างของควรค่าเท่ารัตนะพันดวงล้อมเจดีย์บรรจุพระสรีระของพระพุทธเจ้าทั้งหลาย. ในวันประดิษฐานพระเจดีย์ ให้สร้างเรือนแก้วภายในเจดีย์. เศรษฐีนั้นกระทำกัลยาณกรรม ล้วนแล้วด้วยทานใหญ่โตถึงแสนปี เคลื่อนจากอัตภาพนั้นแล้ว บังเกิดในสวรรค์.
Người trưởng giả đã xây dựng những vật phẩm quý giá, tương đương với 1.000 viên ngọc quý, bao quanh bảo tháp nơi lưu giữ thân thể của Đức Phật. Vào ngày bảo tháp được dựng lên, ông đã xây dựng một gian nhà bằng pha lê bên trong bảo tháp. Người trưởng giả ấy đã làm nhiều việc phước đức thông qua đại thí kéo dài đến 100.000 năm, sau đó ông rời bỏ kiếp sống đó và tái sinh trên thiên giới.
เมื่อเศรษฐีนั้นท่องเที่ยวอยู่ในเทวดาและมนุษย์ทั้งหลายนั่นเอง ล่วงไป ๙๙,๙๐๙ กัป เมื่อกาลล่วงไปเท่านี้ ในท้ายกัปที่ ๙๑ จากภัทรกัปนี้ กุลบุตรนี้บังเกิดในเรือนแห่งกุฏุมพี ในรามคาม ใกล้ประตูกรุงพันธุมดี ได้นามว่ามหากาล. ส่วนน้องชายของท่านนามว่าจุลกาล.
Khi người trưởng giả ấy trải qua các kiếp sống giữa chư thiên và loài người, 99.909 đại kiếp đã trôi qua. Vào cuối đại kiếp thứ 91 trong thời kỳ Bhadra-kappa này, người con trai quý tộc ấy tái sinh trong một gia đình phú hộ ở Ramagama, gần cổng thành Pundumadhī, và được đặt tên là Mahākāla. Em trai của ông được gọi là Cūḷakāla.
สมัยนั้น พระโพธิสัตว์พระนามว่าวิปัสสี จุติจากดุสิตบุรี บังเกิดในพระครรภ์ของพระอัครมเหสีของพระเจ้าพันธุมะ กรุงพันธุมดี บรรลุพระสัพพัญญุตญาณโดยลำดับ อันท้าวมหาพรหมอาราธนาเพื่อประโยชน์แก่การแสดงธรรม จึงดำริว่า เราจักแสดงธรรมแก่ใครก่อนหนอ ทรงเห็นพระราชกุมารทรงพระนามว่าขัณฑะ ผู้เป็นพระกนิฏฐาของพระองค์ และบุตรปุโรหิตชื่อติสสะ ว่าเป็นผู้สามารถตรัสรู้ธรรมก่อน จึงทรงดำริว่า เราจักแสดงธรรมแก่ชนทั้งสองนั้น และจักสงเคราะห์พระพุทธบิดา จึงเสด็จเหาะมาจากโพธิมัณฑสถาน ลงที่เขมมิคทายวัน รับสั่งให้เรียกคนทั้ง ๒ นั้นมาแล้วแสดงธรรม.
Vào thời đó, vị Bồ Tát có danh hiệu Vipassī, đã rời khỏi cõi trời Đâu Suất và thọ sinh trong bụng của Hoàng hậu, vợ chính của vua Bandhuma tại thành Pundumadhī. Ngài đã chứng đắc trí tuệ toàn giác theo trình tự, và do lời thỉnh cầu của Đại Phạm Thiên vì lợi ích của chúng sinh, Ngài suy nghĩ rằng: “Ta sẽ thuyết pháp cho ai trước đây?” Ngài thấy hoàng tử có tên Khaṇḍa, em trai của Ngài, và con trai của vị tư tế có tên là Tissa, là những người có khả năng chứng ngộ trước tiên. Vì vậy, Ngài quyết định sẽ thuyết pháp cho hai người đó và hóa độ cha mình, Đức Phật đã bay từ nơi giác ngộ đến rừng Khemamigadāya và cho gọi cả hai người đến rồi thuyết pháp.
ในเวลาจบเทศนา ชนทั้งสองดำรงอยู่ในพระอรหัตผลพร้อมกับสัตวโลก ๘๔,๐๐๐ คน อีกพวกหนึ่งผู้บวชตามในเวลาพระองค์เป็นพระโพธิสัตว์ ฟังเรื่องนั้นแล้ว ก็มาเฝ้าพระศาสดา ฟังธรรมเทศนา ดำรงอยู่ในพระอรหัตผล.
Khi kết thúc bài thuyết pháp, cả hai người đã chứng đắc quả A-la-hán cùng với 84.000 người khác. Những người khác, đã xuất gia cùng lúc khi Ngài còn là một vị Bồ Tát, nghe thấy điều đó, cũng đến gặp Đức Phật, lắng nghe bài thuyết pháp và chứng đắc quả A-la-hán.
ณ ที่นั้นเอง พระศาสดาทรงสถาปนาพระขัณฑเถระไว้ ในตำแหน่งพระอัครสาวกรูปที่ ๑ ทรงสถาปนาพระติสสเถระไว้ในตำแหน่งอัครสาวกรูปที่ ๒.
Tại nơi đó, Đức Phật đã phong trưởng lão Khaṇḍa vào vị trí đệ tử tối thượng thứ nhất và trưởng lão Tissa vào vị trí đệ tử tối thượng thứ hai.
ฝ่ายพระราชาทรงสดับเรื่องนั้นแล้ว ทรงพระดำริว่าจักเยี่ยมบุตรจึงเสด็จไปพระราชอุทยาน ทรงสดับพระธรรมเทศนา ดำรงอยู่ในรัตนะ ๓ นิมนต์พระศาสดาเพื่อเสวยภัตตาหาร ถวายบังคมแล้ว กระทำประทักษิณแล้วเสด็จกลับ พระองค์ขึ้นสู่ปราสาทอันประเสริฐแล้วประทับนั่ง ทรงดำริว่า บุตรคนโตของเราออกบวชเป็นพระพุทธเจ้า บุตรคนที่ ๒ ของเราก็เป็นอัครสาวก บุตรปุโรหิตเป็นสาวกที่ ๒ และภิกษุที่เหล่านี้ ในเวลาเป็นคฤหัสถ์ เที่ยวแวดล้อมบุตรของเราเท่านั้น ภิกษุเหล่านี้ทั้งเมื่อก่อน ทั้งบัดนี้เป็นภาระของเราผู้เดียว เราเท่านั้นจักบำรุงภิกษุเหล่านั้นด้วยปัจจัย ๔ จักไม่ให้โอกาสแก่คนเหล่าอื่น.
Khi vua nghe được điều đó, ngài quyết định đến thăm con trai mình và đã đi đến vườn hoàng gia. Sau khi nghe bài thuyết pháp, ngài đã trở thành một người nương tựa vào Tam Bảo và thỉnh mời Đức Phật thọ trai. Sau khi đảnh lễ và đi vòng quanh Đức Phật, ngài trở về và lên ngồi trên tòa lâu đài cao quý. Ngài suy nghĩ: “Con trai cả của ta đã xuất gia trở thành Đức Phật, con trai thứ hai của ta đã trở thành đệ tử tối thượng, và con trai của vị tư tế trở thành đệ tử thứ hai. Những vị Tỳ-khưu này, khi còn là cư sĩ, chỉ quanh quẩn bên con trai ta. Những vị Tỳ-khưu này từ trước đến nay đều là trách nhiệm của riêng ta. Chỉ ta sẽ chu cấp cho họ bằng bốn yếu tố vật chất (y phục, thực phẩm, chỗ ở, thuốc men), và sẽ không để ai khác có cơ hội này.”
จึงให้สร้างรั้วไม้ตะเคียนสองข้าง ตั้งแต่ซุ้มประตูพระวิหารจนถึงทวารพระตำหนักพระราชนิเวศน์ ให้ปิดด้วยผ้า ให้สร้างเพดานพวงดอกไม้ต่างๆ แม้ขนาดต้นตาล วิจิตรด้วยดาวทองห้อยเป็นระย้า ให้ลาดพื้นล่างด้วยเครื่องลาดอันวิจิตร ให้ตั้งหม้อน้ำเต็ม ไว้ใกล้กอมาลัยและของหอมทั้งสองข้าง วางดอกไม้ไว้ระหว่างของหอม และวางของหอมไว้ในระหว่างดอกไม้ เพื่อให้กลิ่นตลบตลอดทาง แล้วกราบทูลเวลาแด่พระผู้มีพระภาคเจ้า.
Ngài đã ra lệnh xây dựng một hàng rào gỗ hai bên, kéo dài từ cổng chùa cho đến cửa cung điện, và phủ lên bằng vải. Trần nhà được trang trí với những vòng hoa lớn như cây cọ, rực rỡ với các ngôi sao vàng treo lấp lánh. Mặt đất được lót bằng các tấm thảm tinh tế, và ngài đã đặt các bình nước đầy gần các bông hoa và hương liệu dọc hai bên lối đi. Hoa được đặt xen kẽ với hương liệu, và hương liệu được đặt xen kẽ với hoa, tạo ra mùi hương thơm ngát suốt dọc đường. Sau đó, ngài thông báo thời gian thọ trai với Đức Phật.
พระผู้มีพระภาคเจ้าอันหมู่ภิกษุแวดล้อมแล้วเสด็จไปสู่พระราชมณเฑียร กระทำภัตกิจแล้ว กลับมายังวิหารภายในม่านนั่นแหละ. ใครๆ อื่น แม้จะดูก็ยังไม่ได้ แล้วไฉนจะได้ถวายภิกษาหารและการบูชาเล่า.
Đức Thế Tôn, được vây quanh bởi các Tỳ-khưu, đã đi đến cung điện hoàng gia, thọ trai, rồi trở về tịnh xá bên trong bức màn. Người khác thậm chí không thể nhìn thấy, vậy làm sao họ có thể cúng dường thực phẩm và lễ vật?
ชาวพระนครคิดว่าเมื่อพระศาสดาเสด็จอุบัติขึ้นในโลกเป็นเวลา ๗ ปี ๗ เดือน ในวันนี้ พวกเราก็ยังไม่ได้เฝ้า จะป่วยกล่าวไปไยที่จะได้ถวายภิกษา กระทำการบูชา หรือฟังธรรมเล่า. พระราชายึดถือว่า พระพุทธเจ้าเป็นของเรา พระสงฆ์เป็นของเรา จึงทรงบำรุงด้วยพระองค์เองผู้เดียว.
Dân thành phố nghĩ rằng: “Đã bảy năm bảy tháng kể từ khi Đức Phật xuất hiện trên thế gian, nhưng đến ngày nay chúng ta vẫn chưa được diện kiến Ngài. Làm sao chúng ta có thể cúng dường, lễ bái hay nghe pháp được? Đức vua xem rằng Đức Phật và Tăng đoàn là của riêng mình và tự mình chu cấp mà không chia sẻ với ai khác.”
พระศาสดา เมื่อเสด็จอุบัติก็อุบัติเพื่อประโยชน์แก่โลกพร้อมด้วยเทวโลก หาอุบัติเพื่อประโยชน์แก่พระราชาเท่านั้นไม่ นรกเป็นของร้อนสำหรับพระราชาพระองค์เดียว สำหรับชนเหล่าอื่นเป็นเหมือนดอกอุบลเขียว ก็หาไม่ เพราะฉะนั้น เราจะกราบทูลพระราชาอย่างนี้ว่า ถ้าพระราชาจะประทานพระศาสดาแก่พวกเราไซร้ ข้อนั้นเป็นการดี ถ้าไม่ให้ พวกเราจะรบกับพระราชาแล้วรับสงฆ์ไปกระทำบุญมีทานเป็นต้น.
Đức Phật xuất hiện không chỉ vì lợi ích của vua mà là vì toàn bộ thế gian, bao gồm cả chư thiên. Địa ngục không chỉ nóng với vua mà không phải là nơi mát lành như một đóa sen xanh cho những người khác. Vì thế, chúng ta sẽ thưa với vua rằng: “Nếu vua cho phép chúng ta tiếp cận Đức Phật, điều đó thật tốt. Nếu không, chúng ta sẽ nổi loạn và tự mình chăm sóc Tăng đoàn để thực hiện các nghi lễ cúng dường.”
ก็แลชาวพระนครล้วนๆ ไม่อาจทำอย่างนี้ได้ พวกเราจะยึดเอาแม้คนผู้เป็นหัวหน้าไว้คนหนึ่ง ดังนี้แล้วจึงเข้าไปหาเสนาบดี บอกความนั้นแก่ท่าน แล้วกล่าวว่า นาย ท่านเป็นฝ่ายของเรา หรือฝ่ายพระราชา.
Nhưng dân thành phố không thể làm việc này một mình, vì vậy họ quyết định chọn một người đứng đầu để đại diện. Sau đó họ đến gặp đại thần và trình bày vấn đề với ông, hỏi rằng: “Ngài đứng về phía chúng ta hay phía vua?”
เสนาบดีกล่าวว่า เราจะเป็นฝ่ายท่าน ก็แต่ว่า พวกท่านต้องให้เราวันแรก.
Đại thần trả lời: “Ta sẽ đứng về phía các ngươi, nhưng các ngươi phải cho ta ngày đầu tiên.”
ชาวพระนครก็รับคำ.
Dân thành phố đồng ý với điều kiện đó.
เสนาบดีเข้าไปเฝ้าพระราชากราบทูลว่า ข้าแต่สมมติเทพ ชาวพระนครโกรธพระองค์. พระราชาถามว่า โกรธเรื่องไรละพ่อ.
Đại thần vào yết kiến vua và tâu rằng: “Tâu đức vua, dân thành phố đang rất giận dữ với ngài.” Vua hỏi: “Họ giận vì chuyện gì?”
เสนาบดีกราบทูลว่า ได้ยินว่า พระองค์เท่านั้นบำรุงพระศาสดา พวกเราไม่ได้ แล้วทูลว่า ถ้าพวกอื่นได้ เขาไม่โกรธ เมื่อไม่ได้ ประสงค์จะรบกับพระองค์ พระเจ้าข้า.
Đại thần tâu: “Thưa đức vua, họ nghe nói rằng chỉ có ngài được chăm sóc Đức Phật, còn họ thì không. Nếu họ cũng được, họ sẽ không giận. Nhưng vì không được, họ đang muốn nổi loạn chống lại ngài.”
พระราชาตรัสว่า รบก็รบซิพ่อ เราไม่ให้ภิกษุสงฆ์ละ.
Vua đáp: “Nếu họ muốn nổi loạn thì cứ để họ nổi loạn. Ta sẽ không nhường Tăng đoàn.”
เสนาบดีทูลว่า ข้าแต่พระองค์ผู้สมมติเทพ พวกทาสของพระองค์พูดว่าจะรบกับพระองค์ แล้วพระองค์จักเอาใครรบ. พระราชาตรัสว่า ท่านเป็นเสนาบดี มิใช่หรือ? เสนาบดีทูลว่า เว้นชาวพระนครเสีย ข้าพระองค์ไม่สามารถ พระเจ้าข้า.
Đại thần tâu: “Tâu đức vua, bọn nô lệ của ngài đang nói rằng họ sẽ nổi loạn chống lại ngài. Ngài sẽ dùng ai để chống lại họ?” Vua hỏi: “Ngươi không phải là đại thần sao?” Đại thần tâu: “Thưa ngài, ngoài dân thành phố ra, thần không thể làm gì được.”
ลำดับนั้น พระราชาทราบว่า ชาวพระนครมีกำลัง ทั้งเสนาบดีก็เป็นฝ่ายของชาวพระนครเหล่านั้นเหมือนกัน จึงตรัสว่า. ชาวพระนครจงให้ภิกษุสงฆ์แก่เราอีก ๗ ปี ๗ เดือน. ชาวพระนครไม่รับ พระราชาทรงให้ลดลงอย่างนี้คือ ๖ ปี ๕ ปี จึงขออีก ๗ วัน.
Khi ấy, nhà vua biết rằng dân thành phố rất mạnh, và cả đại thần cũng đứng về phía họ, nên ngài nói: “Hãy cho ta chăm sóc Tăng đoàn thêm 7 năm 7 tháng nữa.” Dân thành phố không đồng ý. Vua tiếp tục giảm xuống còn 6 năm, rồi 5 năm, và cuối cùng xin được chăm sóc thêm 7 ngày.
ชาวพระนครอนุญาตด้วยเห็นว่า การที่เรากระทำกรรมอันหยาบช้า กับพระราชาในบัดนี้ ไม่สมควร.
Dân thành phố đồng ý vì nhận thấy rằng việc họ làm điều thô bạo với vua lúc này là không thích hợp.
พระราชาทรงจัดทานมุข (ทานที่เป็นประธาน) ที่จัดไว้สำหรับ ๗ ปี ๗ เดือน เพื่อ ๗ วันเท่านั้น เมื่อใครๆ ไม่เห็นอยู่เลย ให้ทานอยู่ ๖ วัน ในวันที่ ๗ จึงให้เรียกชาวพระนครมาตรัสว่า ดูก่อน พ่อทั้งหลาย พวกท่านจักอาจให้ทานเห็นปานนี้หรือ.
Vua đã chuẩn bị một đại lễ cúng dường, ban đầu được dự định kéo dài 7 năm 7 tháng, nhưng giờ chỉ diễn ra trong 7 ngày. Trong suốt 6 ngày, vua đã bí mật cúng dường, và vào ngày thứ 7, ngài gọi dân thành phố lại và hỏi: “Này các con, các người có thể thực hiện lễ cúng dường như thế này không?”
ชาวพระนครแม้เหล่านั้นกราบทูลว่า ทานนั้นเกิดขึ้นแก่พระองค์ เพราะอาศัยพวกข้าพระองค์เท่านั้นมิใช่หรือ? เพราะฉะนั้น พวกข้าพระองค์จักอาจถวายทานได้.
Dân thành phố thưa rằng: “Thưa ngài, lễ cúng dường đó xảy ra là nhờ chúng tôi, phải không? Vì thế, chúng tôi có thể thực hiện lễ cúng dường.”
พระราชาทรงเอาหลังพระหัตถ์เช็ดน้ำพระเนตร ถวายบังคมพระผู้มีพระภาคเจ้า แล้วกราบทูลว่า ข้าแต่พระองค์ผู้เจริญ ข้าพระองค์คิดว่า จักทำภิกษุ ๖,๘๐๐,๐๐๐ รูปให้เป็นภาระของคนอื่นแล้วบำรุงด้วยปัจจัย ๔ ตลอดชีวิต บัดนี้ ข้าพระองค์อนุญาตให้ชาวพระนครแล้ว ข้าแต่พระผู้มีพระภาคเจ้า ชาวพระนครเขาโกรธว่า พวกเขาไม่ได้ถวายทาน ตั้งแต่พรุ่งนี้ไป โปรดทรงอนุเคราะห์แก่ชาวพระนครเหล่านั้นเถิด.
Vua lau nước mắt bằng mu bàn tay, rồi đảnh lễ Đức Thế Tôn và thưa rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, con đã nghĩ rằng con sẽ chăm sóc cho 6.800.000 vị Tỳ-khưu suốt đời. Nhưng giờ đây, con đã nhường lại cho dân thành phố. Họ giận vì họ chưa được cúng dường, nên từ ngày mai xin Ngài hãy giúp đỡ họ.”
ครั้นในวันที่ ๒ เสนาบดีได้ถวายมหาทาน. ต่อแต่นั้น ชาวพระนครกระทำสักการะและสัมมานะให้ยิ่งกว่าสักการะที่พระราชาทรงกระทำแล้ว ได้ถวายทานโดยทำนองนั้นนั่นแหละ เมื่อถึงลำดับของชาวพระนครทั่วๆ ไป ชาวบ้านที่อยู่ใกล้ประตูได้ตระเตรียมสักการะสัมมานะแล้ว.
Vào ngày thứ hai, đại thần đã thực hiện đại lễ cúng dường. Sau đó, dân thành phố đã tổ chức nghi lễ cung kính và trọng thể, thậm chí còn vượt trội hơn so với những gì vua đã làm. Họ cúng dường theo cách đó. Khi đến lượt dân chúng chung quanh thành, những người gần cổng đã chuẩn bị lễ vật và sẵn sàng cho nghi lễ.
กุฏุมพีมหากาลกล่าวกะกุฏุมพีจุลกาลว่า สักการะและสัมมานะของพระทศพล ถึงแก่เราวันพรุ่งนี้ เราจะทำสักการะอย่างไร? จุลกาลกล่าวว่า ดูก่อนพี่ท่าน ท่านเท่านั้นจงรู้.
Người phú hộ Mahākāla nói với người em Cūḷakāla rằng: “Ngày mai là đến lượt chúng ta cúng dường Đức Phật Toàn Giác, chúng ta sẽ cúng dường như thế nào?” Cūḷakāla trả lời: “Này anh, anh tự quyết định đi.”
มหากาลกล่าวว่า ถ้าท่านทำตามชอบใจของเรา ข้าวสาลีที่ตั้งท้องแล้วๆ มีอยู่ในนา ประมาณ ๑๖ กรีสของเรา เราจักให้ฉีกท้องข้าวสาลี ถือเอามาหุงให้สมควรแก่พระพุทธเจ้าทั้งหลาย. จุลกาลกล่าวว่า เมื่อทำอย่างนี้ย่อมไม่เป็นอุปการะแก่ใครๆ เพราะฉะนั้น ข้าพเจ้าจึงไม่พอใจข้อนั้น.
Mahākāla nói: “Nếu em làm theo ý của ta, chúng ta sẽ lấy lúa mì đang chín trong ruộng của ta, khoảng 16 gree, và sẽ xé bụng lúa mì để nấu cho xứng đáng với Đức Phật và các vị Tỳ-khưu.” Cūḷakāla nói: “Làm như vậy không có lợi cho ai cả, vì thế ta không đồng ý.”
มหากาลกล่าวว่า ถ้าท่านกล่าวอย่างนี้ ข้าก็จะทำตามความชอบใจของข้า แล้วจึงแบ่งนา ๑๖ กรีส ผ่ากลางเป็น ๒ ส่วนเท่าๆ กัน ปักเขตในที่ ๘ กรีส ผ่าท้องข้าวสาลีเอาไปเคี่ยวด้วยน้ำนมไม่ผสม ใส่ของอร่อย ๔ ชนิด แล้วถวายแด่ภิกษุสงฆ์มีพระพุทธเจ้าเป็นประธาน.
Mahākāla nói: “Nếu em nói vậy, thì ta sẽ làm theo ý của ta.” Sau đó, ông chia ruộng 16 gree thành hai phần bằng nhau, và từ một phần 8 gree, ông xé bụng lúa mì để nấu với sữa không pha trộn, thêm 4 loại thực phẩm ngon, và dâng lên Tăng đoàn, với Đức Phật là người đứng đầu.
ที่ที่ฉีกท้องข้าวสาลีแม้นั้นแล้วถือเอาๆ ก็กลับเต็มอีก. ในเวลาข้าวเม่า ได้ถวายส่วนเลิศในข้าวเม่า ได้ถวายข้าวกล้าอย่างเลิศ พร้อมกับชาวบ้าน ในเวลาเกี่ยว ถวายส่วนเลิศในข้าวเกี่ยว ในเวลาทำเขน็ดก็ถวายส่วนเลิศในข้าวเขน็ด ในเวลามัดเป็นฟ่อนเป็นต้นก็ถวายส่วนเลิศในข้าวฟ่อน ได้ถวายส่วนเลิศในข้าวในลาน ในเวลานวดก็ถวายส่วนเลิศในข้าวนวด ในเวลาข้าวขึ้นยุ้งก็ถวายส่วนเลิศในข้าวขึ้นยุ้ง.
Những chỗ lúa mì bị xé bung ra, sau khi lấy đi, đều được đầy trở lại. Vào thời điểm gặt, ông đã dâng phần lúa ngon nhất cho Tăng đoàn cùng với dân làng. Khi thu hoạch, ông dâng phần lúa tốt nhất trong lúc gặt. Khi bó lúa thành bó, ông dâng phần lúa tốt nhất trong các bó lúa. Khi lúa được thu hoạch, ông dâng phần tốt nhất trong thửa ruộng. Khi lúa được đập, ông dâng phần tốt nhất trong lúc đập. Khi lúa được đưa vào kho, ông dâng phần tốt nhất trong kho lúa.
ได้ถวายทานตามคราว ๙ ครั้งสำหรับข้าวกล้าอย่างเดียวเท่านั้น ดังกล่าวมาฉะนี้ ข้าวกล้าแม้นั้นก็คงยังตั้งขึ้นเหลือเฟือ.
Ông đã cúng dường 9 lần liên tục chỉ với lúa mì, như đã kể trên, và lúa mì vẫn không bị cạn kiệt.
ท่านกระทำกรรมงามตามทำนองนั้นแลตราบเท่าที่พระพุทธเจ้ายังทรงพระชนม์อยู่ และตราบเท่าที่พระสงฆ์ยังมีอยู่. (ครั้น) จุติจากอัตภาพนั้นแล้ว บังเกิดในเทวโลก. ท่านท่องเที่ยวไปในเทวดาและมนุษย์ เสวยสมบัติตลอด ๙๑ กัป.
Ngài đã thực hiện các việc phước đức như vậy cho đến khi Đức Phật còn tại thế và Tăng đoàn còn tồn tại. Sau khi qua đời, ngài tái sinh vào cõi trời. Ngài đã chu du giữa các cõi trời và loài người, thọ hưởng phước báu suốt 91 kiếp.
ในเวลาที่พระศาสดาของเราทรงอุบัติขึ้นในโลก ก็บังเกิดในตระกูลพราหมณ์มหาศาล ในบ้านพราหมณ์โทณวัตถุ ไม่ไกลกรุงกบิลพัสดุ. ในวันขนานนาม พวกญาติขนานนามท่านว่า โกณฑัญญมาณพ. ท่านเจริญวัยแล้ว เรียนไตรเพทจบ ลักษณะมนต์ทั้งหลาย (ตำราทายลักษณะ).
Khi Đức Phật của chúng ta xuất hiện trên thế gian, ngài tái sinh trong một gia đình Bà la môn giàu có tại làng Bà la môn Donavatthu, không xa thành Kapilavatthu. Vào ngày đặt tên, họ hàng đặt tên ngài là Koṇḍañña-māṇava. Khi trưởng thành, ngài đã hoàn thành việc học ba bộ Vệ đà và các kinh điển về tướng học.
สมัยนั้น พระโพธิสัตว์ของเราทั้งหลายจุติจากสวรรค์ชั้นดุสิต บังเกิดในกรุงกบิลพัสดุ์ ในวันถวายพระนามของพระองค์ พระประยูรญาติได้เชิญพราหมณ์ ๑๐๘ คนครองผ้าใหม่ ให้ดื่มข้าวมธุปายาสมีน้ำน้อย เลือกพราหมณ์ ๘ คน ในระหว่างพราหมณ์ ๑๐๘ นั้นให้นั่งบนพื้นใหญ่ ให้พระโพธิสัตว์ผู้ประดับตกแต่งแล้วนอนบนเบาะผ้าที่ทำด้วยผ้าเนื้อละเอียด นำมายังสำนักของพราหมณ์เหล่านั้น เพื่อตรวจพระลักษณะ.
Vào thời điểm đó, đức Bồ Tát của chúng ta đã giáng trần từ cõi trời Đâu Suất, sinh ra ở thành phố Kapilavastu. Vào ngày đặt tên cho ngài, thân nhân đã mời 108 người Brahmin mặc áo mới, cho họ uống món cơm mật dừa có ít nước, chọn 8 người Brahmin trong số 108 người đó ngồi trên mặt đất lớn, và đức Bồ Tát được trang hoàng đã nằm trên đệm làm từ vải mịn, được đưa đến nơi của những người Brahmin đó để kiểm tra tướng mạo của ngài.
พราหมณ์ผู้นั่งบนอาสนะใหญ่ ตรวจดูสมบัติแห่งพระสรีระของพระมหาบุรุษแล้วยกขึ้น ๒ นิ้ว. ๗ คนยกขึ้น ตามลำดับอย่างนี้.
Những người Brahmin ngồi trên ghế lớn đã kiểm tra đặc điểm của thân thể của bậc vĩ đại và nâng lên 2 ngón tay. 7 người đã nâng lên theo thứ tự như vậy.
ก็บรรดาพราหมณ์ ๘ คนนั้น โกณฑัญญมาณพผู้หนุ่มกว่าเขาหมด ตรวจดูลักษณะอันประเสริฐ ยกนิ้วขึ้นนิ้วเดียวเท่านั้นว่า ไม่มีเหตุที่พระองค์จะทรงดำรงอยู่ท่ามกลางเรือน พระกุมารนี้จักเป็นพระพุทธเจ้ามีกิเลสดังหลังคาอันเปิดแล้วโดยส่วนเดียว.
Trong số 8 người Brahmin đó, Gonandhya, người trẻ tuổi hơn tất cả, đã xem xét những đặc điểm tuyệt vời và chỉ nâng một ngón tay nói rằng không có lý do gì mà ngài sẽ sống giữa đời thường, vị hoàng tử này sẽ trở thành Phật, như một mái nhà mở ra một phần duy nhất.
ฝ่ายคนทั้ง ๗ นี้เห็นคติเป็น ๒ ว่า ถ้าอยู่ครองเรือนจักเป็นพระเจ้าจักรพรรดิ ถ้าบวชจักเป็นพระพุทธเจ้า จึงยกขึ้น ๒ นิ้ว.
Còn 7 người này thấy ý kiến có 2 rằng, nếu sống giữa đời thì sẽ là một vua chúa, còn nếu xuất gia sẽ là Phật, vì vậy họ nâng 2 ngón tay.
ก็พระอัญญาโกณฑัญญะนี้ได้สร้างบุญญาธิการไว้ เป็นสัตว์เกิดในภพสุดท้าย เหนือคนทั้ง ๗ นอกนี้ด้วยปัญญา ได้เห็นคติเพียงอย่างเดียวว่าชื่อว่าท่านผู้ประกอบด้วยลักษณะเหล่านี้ ไม่ดำรงอยู่ท่ามกลางเรือน จักเป็นพระพุทธเจ้าอย่างไม่ต้องสงสัย เพราะฉะนั้น จึงยกนิ้วเดียว.
Và thầy Ananda Gonandhya này đã tạo ra công đức, là một sinh vật được sinh ra trong kiếp cuối cùng, hơn 7 người này bằng trí tuệ, chỉ thấy có một quan điểm rằng người có những đặc điểm này, không sống giữa đời thường, sẽ là Phật mà không cần nghi ngờ, vì vậy, ngài đã nâng một ngón tay.
ลำดับนั้น พราหมณ์เหล่านั้นไปสู่เรือนของตนๆ ปรึกษากับบุตรทั้งหลายว่า ลูกเอย พ่อแก่แล้วจะได้ชมเชยหรือไม่ได้ชมเชยพระโอรสของพระเจ้าสุทโธทนมหาราช ผู้บรรลุพระสัพพัญญุตญาณ พวกเจ้าเมื่อพระกุมารบรรลุพระสัพพัญญุตญาณแล้ว พึงบวชในพระศาสนาของพระองค์.
Tiếp theo đó, những người Brahmin đã trở về nhà của họ và thảo luận với các con cái rằng: “Các con à, cha già rồi có được khen ngợi hay không khen ngợi vị hoàng tử của vua Suddhodana, người đã đạt được trí tuệ hoàn toàn? Các con khi hoàng tử đạt được trí tuệ hoàn toàn, hãy xuất gia trong giáo pháp của ngài.”
ฝ่ายพระเจ้าสุทโธทนมหาราชทรงจัดการบริหาร เช่นแต่งตั้งแม่นมเป็นต้นสำหรับพระโพธิสัตว์ ทรงเลี้ยงดูพระโพธิสัตว์ให้เติบโต.
Về phần vua Suddhodana, ngài đã tổ chức quản lý, chẳng hạn như bổ nhiệm vú nuôi cho Bồ Tát, và nuôi dưỡng Bồ Tát lớn lên.
ฝ่ายพระโพธิสัตว์ทรงเจริญวัยแล้ว เสวยสมบัติเหมือนเทพเจ้า เมื่อพระญาณแก่กล้าแล้ว ทรงเห็นโทษในกาม เห็นอานิสงส์ในการออกจากกาม จึงในวันที่พระราหุลกุมารประสูติ มีนายฉันนะเป็นพระสหาย ทรงขึ้นม้ากัณฐกะเสด็จออกมหาภิเนษกรมณ์ ทางประตูที่เทวดาเปิดให้ เสด็จเลยไป ๓ ราชอาณาเขตโดยตอนกลางคืนนั้นนั่นเอง.
Về phần Bồ Tát, ngài đã trưởng thành và hưởng thụ tài sản như một vị thần. Khi trí tuệ của ngài đã chín muồi, ngài thấy được cái khổ của dục vọng và thấy được lợi ích của việc ra khỏi dục vọng. Vì vậy, vào ngày mà hoàng tử Rahula ra đời, với người bạn là Channa, ngài cưỡi ngựa Kanchuka và rời khỏi cung điện qua cánh cửa mà các vị thiên thần mở ra, đi qua 3 vương quốc vào ban đêm.
ทรงบรรพชาที่ฝั่งแม่น้ำอโนมานที พอทรงรับธงชัยแห่งพระอรหันต์ที่ท้าวฆฏิการมหาพรหมนำมาถวายเท่านั้น เป็นเหมือนพระเถระ ๑๐๐ พรรษา เสด็จถึงกรุงราชคฤห์ด้วยพระอิริยาบถอันน่าเลื่อมใส เสด็จเที่ยวบิณฑบาตในกรุงราชคฤห์นั้น เสวยบิณฑบาตที่ร่มเงาแห่งภูเขา ชื่อว่าปัณฑวะ.
Ngài xuất gia bên bờ sông Anoma, ngay khi nhận lá cờ của đấng Arahant mà vua Khattiya Maha Brahma mang đến dâng cho, ngài như một vị tôn sư 100 năm. Ngài đã đến thành Rajagaha với dáng vẻ đầy trang nghiêm, đi khất thực trong thành phố Rajagaha, nhận thức ăn khất thực dưới bóng râm của ngọn núi có tên là Pandava.
ถูกพระเจ้ามคธทรงเชื้อเชิญให้ครองราชสมบัติ ก็ทรงปฏิเสธ เสด็จถึงอุรุเวลาประเทศโดยลำดับ ทรงเกิดพระดำริมุ่งหน้าต่อความเพียรขึ้นว่า ภูมิภาคนี้น่ารื่นรมย์หนอ ที่นี้เหมาะจะทำความเพียรของกุลบุตรที่ต้องการจะทำความเพียรหนอ ดังนี้แล้วจึงเสด็จประทับอยู่ ณ ที่นั้น.
Ngài đã được vua Magadha mời gọi để lên ngôi vua nhưng ngài từ chối, rồi đến vùng Uruvela, nơi ngài bắt đầu suy nghĩ rằng: “Khu vực này thật dễ chịu, nơi đây phù hợp để thực hành khổ hạnh của những người con quý tộc muốn tu tập.” Vậy nên ngài đã ở lại tại đó.
สมัยนั้น พราหมณ์อีก ๗ คน ได้ไปตามกรรม. ส่วนโกณฑัญญมาณพผู้ตรวจพระลักษณะ หนุ่มกว่าเขาทั้งหมด เป็นผู้ปราศจากป่วยไข้.
Vào thời điểm đó, còn lại 7 người Brahmin đã đi theo số phận của họ. Trong số đó, Gonandhya, người đã kiểm tra tướng mạo, là người trẻ tuổi hơn tất cả và không bị bệnh tật.
ท่านทราบว่า พระมหาบุรุษทรงผนวชแล้ว จึงเข้าไปหาพวกบุตรพราหมณ์เหล่านั้น กล่าวอย่างนี้ว่า ได้ยินว่า พระสิทธัตถราชกุมารทรงผนวชแล้ว ท่านจักเป็นพระพุทธเจ้า โดยไม่ต้องสงสัย ถ้าบิดาของพวกท่านไม่ป่วยไข้สบายดี วันนี้ก็พึงออกบวช ถ้าแม้ท่านทั้งหลายปรารถนาไซร้ มาเถิด พวกเราจะบวชตามเสด็จพระมหาบุรุษนั้น.
Ngài biết rằng đức vĩ nhân đã xuất gia rồi, nên đã đến gặp các con của những người Brahmin đó và nói rằng: “Tôi đã nghe rằng hoàng tử Siddhartha đã xuất gia rồi, ngài sẽ trở thành Phật mà không nghi ngờ gì. Nếu cha của các bạn không bị bệnh và khỏe mạnh, thì hôm nay hãy xuất gia. Nếu các bạn muốn, hãy đến đây, chúng ta sẽ xuất gia theo ngài.”
บุตรพราหมณ์เหล่านั้นก็ไม่อาจจะมีฉันทเป็นอันเดียวกันได้หมดทุกคน. ๓ คนไม่บวช. อีก ๔ คนมีโกณฑัญญพราหมณ์เป็นหัวหน้า บวชแล้ว.
Các con của những người Brahmin đó không thể có cùng một quyết định. 3 người không xuất gia, còn 4 người với Gonandhya làm đầu đã xuất gia.
บรรพชิตทั้ง ๕ นี้เที่ยวภิกษาในคามนิคมและราชธานีได้ไปยังสำนักพระโพธิสัตว์.
Năm người xuất gia này đã đi khất thực trong các làng và thành phố và đến nơi của Bồ Tát.
บรรพชิตเหล่านั้น เมื่อพระโพธิสัตว์เริ่มตั้งความเพียรใหญ่ตลอด ๖ ปี คิดว่า บัดนี้พระโพธิสัตว์จักเป็นพระพุทธเจ้า บัดนี้พระโพธิสัตว์จักเป็นพระพุทธเจ้า จึงบำรุงพระมหาสัตว์ ได้เป็นผู้เที่ยวไปเที่ยวมาในสำนักพระโพธิสัตว์นั้น.
Những người xuất gia đó, khi Bồ Tát bắt đầu nỗ lực lớn trong suốt 6 năm, nghĩ rằng: “Bây giờ Bồ Tát sẽ trở thành Phật, bây giờ Bồ Tát sẽ trở thành Phật,” nên đã chăm sóc cho Bồ Tát và thường xuyên đến thăm ngài.
ก็เมื่อใด พระโพธิสัตว์ แม้ทรงยับยั้งอยู่ด้วยงาและข้าวสารเมล็ดเดียวเป็นต้น ทรงรู้ว่าจะไม่แทงตลอดอริยธรรมด้วยทุกกรกิริยา จึงเสวยพระกระยาหารหยาบ.
Khi Bồ Tát dừng lại chỉ với một chút thức ăn thô và một ít gạo, ngài nhận ra rằng không thể đạt được mục tiêu tối thượng bằng những hành động này, vì vậy ngài đã ăn thức ăn thô.
เมื่อนั้น บรรพชิตเหล่านั้นก็หลบไปอยู่ป่าอิสิปตนมฤคทายวัน.
Lúc đó, những người xuất gia đó đã rút lui vào rừng Isipatana để ở lại.
ครั้งนั้น พระโพธิสัตว์เสวยพระกระยาหารหยาบ ทำพระฉวีวรรณ พระมังสะและพระโลหิตให้บริบูรณ์แล้ว.
Lúc đó, Bồ Tát đã ăn thức ăn thô, làm cho làn da, thịt và máu của ngài trở nên đầy đặn.
ในวันวิสาขบุรณมี ทรงเสวยโภชนะอย่างดีที่นางสุชาดาถวาย ทรงลอยถาดทองไป ทวนกระแสแม่น้ำจึงตกลงพระทัยว่า เราจักเป็นพระพุทธเจ้าในวันนี้.
Vào ngày Vesak, ngài đã ăn món ăn ngon mà nàng Sujata dâng, thả đĩa vàng trôi ngược dòng sông và quyết định rằng hôm nay ngài sẽ trở thành Phật.
ในเวลาเย็น พญากาลนาคราชชมเชยด้วยการชมเชยหลายร้อย ทรงขึ้นสู่มหาโพธิมัณฑสถาน บ่ายพระพักตร์ไปสู่โลกธาตุด้านตะวันออก นั่งขัดสมาธิในที่อันไม่หวั่นไหว อธิษฐานความเพียรประกอบด้วยองค์ ๔ เมื่อพระอาทิตย์ยังโคจรอยู่นั่นแล.
Vào buổi chiều, vua Nagakāla đã ca ngợi bằng những lời khen ngợi hàng trăm lần. Ngài đã lên đến Đại Bồ Đề Đạo Tràng, hướng mặt về phía thế giới bên đông, ngồi kiết già ở nơi không bị lay động và phát nguyện tinh tấn với 4 yếu tố trong khi mặt trời vẫn còn đang chuyển động.
ทรงกำจัดมารและพลมาร ปฐมยามทรงรำลึกถึงปุพเพนิวาสญาณ มัชฌิมยามทรงชำระทิพจักษุณาณ ในเวลาต่อเนื่องกันแห่งปัจจุสสมัย ทรงหยั่งพระญาณลงในปฏิจจสมุปบาท พิจารณาปัจจยาการทั้งอนุโลมและปฏิโลม ตรัสรู้เฉพาะพระสัพพัญญุตญาณ อันเป็นอสาธารณญาณ๑- (ญาณที่ไม่มีทั่วไปแก่สาวกอื่น) ที่พระพุทธเจ้าทุกพระองค์ทรงแทงตลอดแล้ว.
Ngài đã tiêu diệt ma và quân đoàn ma. Ở thời điểm đầu tiên, ngài nhớ lại trí tuệ về quá khứ; ở thời điểm giữa, ngài đã thanh tịnh thiên nhãn; trong thời gian liên tục của hiện tại, ngài thấu hiểu về nhân duyên, xem xét cả nhân duyên thuận lợi và nghịch lý. Ngài đã chứng ngộ trí tuệ toàn giác mà không ai khác có được (trí tuệ không phổ biến cho các đệ tử khác), mà các vị Phật khác cũng đã đạt được.
ทรงยับยั้งในโพธิมัณฑสถานนั้นนั่นแล ๗ วัน ด้วยผลสมาบัติอันมีพระนิพพานเป็นอารมณ์.
Ngài đã ngừng lại tại Đại Bồ Đề Đạo Tràng trong 7 ngày, với kết quả thiền định có Niết Bàn làm đối tượng.
____________________________
๑- ญาณนี้มี ๖ คือ
1- Trí tuệ này có 6 loại:
๑. อินทริยปโรปริยัตติญาณ ปรีชากำหนดรู้ความยิ่งและความหย่อนแห่งอินทรีย์ของสัตว์ทั้งหลาย
1. Indriya-paropariyāṇa-ñāṇa: Trí tuệ xác định sự thịnh vượng và thiếu hụt của các giác quan của chúng sinh.
๒. อาสยานุสยญาณ ปรีชากำหนดรู้อัธยาศัยและกิเลสที่นอนเนื่องในสันดาน
2. Āsaya-anusaya-ñāṇa: Trí tuệ nhận biết tâm tính và các dục vọng tiềm ẩn trong bản chất.
๓. ยมกปาฏิหิรญาณ ญาณในยมกปาฏิหาริย์
3. Yamakapāṭihāriya-ñāṇa: Trí tuệ trong những phép lạ của sự đối kháng.
๔. มหากรุณาสมาบัติญาณ ญาณในมหากรุณาสมาบัติ
4. Mahākaruṇā-samāpatti-ñāṇa: Trí tuệ trong thiền định của đại từ bi.
๕. สัพพัญญุตญาณ ญาณในความเป็นพระสัพพัญญู
5. Sabbānā-ñāṇa: Trí tuệ trong sự giác ngộ hoàn toàn.
๖. อนาวรญาณ ญาณที่ไม่มีอะไรขัดขวางได้.
6. Anāvara-ñāṇa: Trí tuệ không bị cản trở bởi bất kỳ điều gì.
ขุ.ป. เล่ม เล่ม ๓๑/หน้า ๔
Cūlapanthaka, Tập 31 / Trang 4.
ด้วยอุบายนั้นนั่นแล ทรงประทับอยู่ ณ โพธิมัณฑสถาน ๗ สัปดาห์ เสวยข้าวสัตตุก้อน ที่โคนต้นไม้เกต แล้วเสด็จกลับมาที่โคนต้นอชปาลนิโครธอีก ประทับนั่ง ณ ที่นั้น ทรงพิจารณาความที่ธรรมอันลึกซึ้ง เมื่อพระทัยน้อมไปในความเป็นผู้ขวนขวายน้อย อันท้าวมหาพรหมทูลอาราธนาแล้ว ทรงตรวจดูสัตวโลกด้วยพุทธจักษุ ทรงเห็นสัตว์ทั้งหลายต่างด้วยสัตว์มีอินทรีย์กล้าและมีอินทรีย์อ่อนเป็นต้น จึงประทานปฏิญญาแด่ท้าวมหาพรหมเพื่อแสดงธรรม ทรงพระดำริว่า เราจักแสดงธรรมแก่ใครก่อนหนอ ทรงทราบว่าอาฬารดาบสและอุททกดาบสทำกาละแล้ว เมื่อทรงดำริต่อไป ก็เกิดพระดำริขึ้นว่า ภิกษุปัญจวัคคีย์ผู้บำรุงเราตอนเราตั้งความเพียร นับว่าเป็นผู้มีอุปการะมากแก่เรา ถ้ากระไร เราจะพึงแสดงธรรมแก่ภิกษุปัญจวัคคีย์ก่อน.
Với duyên cớ đó, ngài đã ngồi tại Đại Bồ Đề Đạo Tràng trong 7 tuần lễ, ăn món cơm Sattuka dưới gốc cây Gada, sau đó ngài trở lại ngồi dưới gốc cây Ashvattha. Tại đó, ngài đã suy nghĩ về những chân lý sâu xa. Khi tâm ngài hướng về những điều không mưu cầu, sau khi đấng Maha Brahma đã tán thán, ngài đã quan sát thế giới chúng sinh bằng đôi mắt Phật, thấy rằng có nhiều loài chúng sinh khác nhau, bao gồm cả những sinh vật có giác quan mạnh mẽ và yếu ớt. Ngài quyết định sẽ thuyết pháp cho đấng Maha Brahma. Ngài suy nghĩ: “Ta sẽ thuyết pháp cho ai trước đây?” Ngài nhận thấy rằng Alara Kalama và Uddaka Ramaputta đã qua đời. Khi suy nghĩ tiếp, ngài chợt nhớ đến năm vị khất sĩ đã từng hỗ trợ ngài khi ngài tu tập, và ngài thấy họ là những người có nhiều công đức, vì vậy ngài sẽ thuyết pháp cho năm vị khất sĩ này trước.
ก็ข้อนี้ทั้งหมดเทียวเป็นเพียงพระปริวิตกของพระพุทธเจ้าทั้งหลายเท่านั้น.
Tất cả những điều này chỉ là những suy nghĩ của các vị Phật mà thôi.
ก็เว้นโกณฑัญญพราหมณ์เสีย คนอื่นใครเล่า ชื่อว่าเป็นผู้สามารถแทงตลอดธรรมก่อนไม่มี.
Ngoại trừ Thầy Gonandhya, không ai khác có thể nói rằng họ đã thấu hiểu hết thảy chân lý trước ngài.
จริงอยู่ โกณฑัญญพราหมณ์นั้นได้กระทำกรรมคือบุญญาธิการไว้ ๑๐๐,๐๐๐ กัป เพื่อประโยชน์นี้เอง จึงได้ถวายทานในเพราะข้าวกล้าอันเลิศ ๙ ครั้งแก่สงฆ์มีพระพุทธเจ้าเป็นประธาน.
Thật vậy, Thầy Gonandhya đã thực hiện công đức trong 100,000 kiếp để phục vụ cho mục đích này, và do đó, ngài đã dâng cúng món ăn ngon 9 lần cho tăng chúng mà có Đức Phật làm chủ trì.
ลำดับนั้น พระศาสดาทรงถือบาตรและจีวร เสด็จไปป่าอิสิปตนมฤคทายวัน โดยลำดับ เสด็จไปหาภิกษุปัญจวัคคีย์.
Sau đó, Đức Phật cầm bình bát và y, rời khỏi để đến rừng Isipatana, lần lượt đi đến gặp các khất sĩ Panjavagga.
พระปัญจวัคคีย์เหล่านั้นเห็นพระตถาคตเสด็จมา ไม่อาจดำรงอยู่ในกติกาของพวกตน (ที่ตกลงกันไว้) องค์หนึ่งล้างพระบาท องค์หนึ่งจับพัดใบตาลยืนถวายงานพัด.
Khi các vị khất sĩ Panjavagga thấy Đức Thế Tôn đến, họ không thể giữ được quy tắc đã thỏa thuận. Một vị thì rửa chân, một vị thì cầm quạt lá cọ đứng hầu hạ.
เมื่อพระปัญจวัคคีย์เหล่านั้นแสดงวัตรอย่างนี้แล้วนั่ง ณ ที่ใกล้ พระศาสดาทรงกระทำพระโกณฑัญญเถระให้เป็นกายสักขีพยานแล้ว ทรงเริ่มธัมมจักกัปปวัตตนสูตร มีวนรอบ ๓ อันยอดเยี่ยม.
Khi các vị khất sĩ Panjavagga thực hiện như vậy và ngồi gần, Đức Phật đã làm cho Thầy Gonandhya làm nhân chứng, rồi ngài bắt đầu thuyết pháp về bài Kinh Chuyển Pháp Luân với 3 vòng tuyệt vời.
มนุษยบริษัท ก็คือชนทั้ง ๕ (ปัญจวัคคีย์) เท่านั้น เทวบริษัท พระศาสดาทรงกระทำพระโกณฑัญญะ ก็ดำรงอยู่ในโสดาปัตติผล พร้อมกับท้าวมหาพรหม ๑๘ โกฎิ.
Công chúng nhân loại chỉ có 5 người (Panjavagga) mà thôi. Tăng chúng mà Đức Phật đã làm cho Thầy Gonandhya, ngài đã đạt được quả thánh thứ nhất (Sotapanna) cùng với 18 vạn Brahma.
ครั้งนั้น พระศาสดาทรงดำริว่า โกณฑัญญะรู้ทั่วธรรมที่เราได้ ได้มาด้วยการทำความเพียรอย่างหนัก ก่อนผู้อื่นทั้งนั้น เมื่อทรงเรียกพระเถระว่า ภิกษุนี้ชื่ออัญญาโกณฑัญญะ จึงตรัสว่า อญฺญาสิ วต โภ โกณฺฑญฺโญ อญฺญาสิ วต โภ โกณฺฑญฺโญ โกณฑัญญะ รู้ทั่วแล้วหนอ โกณฑัญญะ รู้ทั่วแล้วหนอ ดังนี้.
Lúc đó, Đức Phật suy nghĩ rằng Gonandhya đã thấu hiểu chân lý mà chúng ta đã đạt được nhờ sự tinh tấn trước những người khác. Khi ngài gọi thầy rằng: “Vị khất sĩ này có tên là Anya Gonandhya,” ngài đã nói rằng: “Thật là Gonandhya đã hiểu biết, Gonandhya đã hiểu biết.”
คำนั้นนั่นแลจึงเป็นชื่อของท่าน. ด้วยเหตุนั้น ท่านจึงกล่าวว่า อิติ หิทํ อายสฺมโต โกณฺฑญฺญสฺส อญฺญาโกณฑัญญฺโญ เตฺวว นามํ อโหสิ โกณฑัญญะรู้ทั่วแล้วหนอ โกณฑัญญะรู้ทั่วแล้วหนอ ดังนี้.
Câu nói đó đã trở thành tên của ngài. Do đó, ngài nói rằng: “Vì vậy, vị khất sĩ Gonandhya này đã có tên là Anya Gonandhya.”
ดังนั้น พระเถระจึงดำรงอยู่ในโสดาปัตติผล ในวันอาสาฬหปุรณมี เพ็ญกลางเดือน ๘ วันแรม ๑ ค่ำ พระภัททิยเถระ วันแรม ๒ ค่ำ พระวัปปเถระ. วันแรม ๓ ค่ำ พระมหานามเถระ. วันแรม ๔ ค่ำ พระอัสสชิเถระดำรงอยู่ในโสดาปัตติผล.
Do vậy, thầy này đã đạt được quả thánh thứ nhất vào ngày Aṣāḷha Pūjā, vào ngày rằm giữa tháng 8. Thầy Phatthiya đạt được vào ngày 1 tháng 9. Thầy Vappa vào ngày 2 tháng 9. Thầy Mahānāma vào ngày 3 tháng 9. Thầy Assaji vào ngày 4 tháng 9 cũng đã đạt được quả thánh thứ nhất.
ส่วนวันแรม ๕ ค่ำ จบอนัตตลักขณสูตร ก็ดำรงอยู่ในพระอรหัตหมดทุกรูป.
Còn vào ngày 5 tháng 9, sau khi hoàn tất bài Kinh Anatta Lakkhana, tất cả các vị đều đã đạt được quả Arahant.
สมัยนั้นแล จึงมีพระอรหันต์ในโลก ๖ องค์
Vào thời điểm đó, có 6 vị Arahant trên thế giới.
ตั้งแต่นั้นมา พระศาสดาทรงให้มหาชนหยั่งลงสู่อริยภูมิอย่างนี้คือ บุรุษ ๕๕ คนมียสกุลบุตรเป็นหัวหน้า ภัททวัคคิยกุมารจำนวน ๓๐ คนที่ป่าฝ้าย ปุราณชฎิลจำนวน ๑,๐๐๐ รูปที่หลังแผ่นหิน คยาสีสประเทศ ทรงให้ราชบริพาร ๑๑ นหุตมีพระเจ้าพิมพิสารเป็นประมุข ให้ดำรงอยู่ในโสดาปัตติผล ๑ นหุตให้ดำรงอยู่ในไตรสรณะ ทรงทำพระศาสนาให้ผลิตดอกออกผล บนพื้นชมพูทวีป ทรงทำทั่วมณฑลชมพูทวีปให้รุ่งเรืองด้วยกาสาวพัสตร คลาคล่ำไปด้วยนักแสวงบุญ.
Từ đó trở đi, Đức Phật đã dẫn dắt nhân dân vào con đường thánh thiện như sau: 55 người, có dòng dõi Yasa làm thủ lĩnh; 30 người trẻ tuổi Patthavaki ở rừng bông; 1,000 người Purāṇa Chāṭa ở sau phiến đá tại quốc gia Kyaṃsī. Ngài đã cho 11 thị vệ có vua Bimbisāra làm lãnh đạo, đạt được quả thánh thứ nhất; 1 người khác được nhận vào Tam bảo. Ngài đã làm cho giáo pháp của ngài đâm chồi nảy lộc trên đất Châu Hồng, khiến cho toàn bộ vùng đất này phát triển với áo cà sa, đông đúc các tín đồ hành hương.
สมัยหนึ่ง เสด็จถึงพระเชตวันมหาวิหาร สถิตอยู่ ณ ที่นั้น ประทับบนพระพุทธอาสน์อย่างดีที่เขาจัดไว้แล้ว ทรงแสดงธรรมท่ามกลางภิกษุสงฆ์เพื่อทรงแสดงว่า โกณฑัญญะ บุตรเราเป็นยอดระหว่างเหล่าภิกษุผู้แทงตลอดธรรมก่อนใคร จึงทรงสถาปนาท่านไว้ในตำแหน่งเอตทัคคะ.
Một lần, ngài đến Đại tinh xá Jetavana, ngồi ở đó trên chỗ ngồi mà họ đã chuẩn bị cho ngài. Ngài thuyết pháp giữa các vị khất sĩ để chỉ ra rằng Gonandhya, con trai của chúng ta là người vĩ đại nhất trong số các vị khất sĩ đã thấu hiểu chân lý trước mọi người, vì vậy ngài đã đặt ngài vào vị trí đáng kính nhất.
แม้พระเถระเห็นพระอัครสาวกทั้งสองกระทำความเคารพนบนอบตน ประสงค์จะหลีกไปเสียจากสำนักของพระพุทธเจ้าทั้งหลาย เห็นว่า ปุณณมานพบวชแล้วจักเป็นยอดธรรมกถึกในพระศาสนา จึงกลับไปตำบลบ้านพราหมณ์ชื่อโทณวัตถุ (ชาติภูมิของท่าน) ให้ปุณณมานพหลานชายบรรพชาแล้ว คิดว่า ปุณณมาณพนี้จักอยู่ในสำนักของพระพุทธเจ้า จึงได้ปุณณมานพนั้นอยู่ในสำนักของพระพุทธเจ้าทั้งหลาย.
Thầy cũng thấy hai vị Thượng tọa đang thể hiện sự tôn kính mình và có ý định rời khỏi giáo đoàn của các vị Phật. Ngài nhận thấy rằng Punṇamān, người đã xuất gia, sẽ trở thành một bậc thầy vĩ đại trong giáo pháp, nên ngài trở về làng Brahmin tên là Thona Vattu (quê hương của ngài) để cho Punṇamān, cháu trai của ngài, xuất gia. Ngài nghĩ rằng Punṇamān này sẽ ở trong giáo đoàn của các vị Phật, vì vậy đã đưa Punṇamān vào trong giáo đoàn.
ท่านเองก็เข้าไปเฝ้าพระทศพล ขออนุญาตพระผู้มีพระภาคเจ้าว่า ข้าแด่พระผู้มีพระภาคเจ้า เสนาสนะใกล้บ้านไม่เป็นสัปปายะสำหรับข้าพระองค์ ข้าพระองค์ไม่อาจอยู่เกลื่อนกล่น จำจักไปอยู่สระฉัททันต์ พระเจ้าข้า.
Ngài đã đến gặp Đức Thế Tôn, xin phép ngài rằng: “Kính bạch Đức Thế Tôn, nơi ở gần nhà không phù hợp với con. Con không thể ở đây, con sẽ đi đến hồ Chattanta.”
ลุกจากอาสนะ ถวายบังคมแล้วไปยังสระฉัททันต์ อาศัยโขลงช้างสกุลฉัททันต์ ยับยั้งอยู่ ๑๒ ปี ปรินิพพานด้วยอนุปาทิเสสนิพพานธาตุ ณ ที่นั้นเอง.
Sau khi đứng dậy khỏi chỗ ngồi, cúi lạy và đi đến hồ Chattanta, ngài sống ở đó 12 năm trong đàn voi dòng Chattanta, và đã nhập Niết Bàn với Niết Bàn không còn tái sinh tại nơi đó.
จบอรรถกถาสูตรที่ ๑
Kết thúc chú giải về bài Kinh số 1.