Mục lục
อรรถกถา อังคุตตรนิกาย เอกนิบาต เอตทัคคบาลี
Chú giải Aṅguttara Nikāya Eka-Nipāta, Etta-Dagga-Pāli
วรรคที่ ๒
Chương 2
หน้าต่างที่ ๙ / ๙
Trang 9 / 9
อรรถกถาสูตรที่ ๑๐
Chú giải về bài kinh số 10
ประวัติพระวักกลิเถระ
Tiểu sử của Tôn giả Vakkali
พึงทราบวินิจฉัยในพระสูตรที่ ๑๐ ดังต่อไปนี้.
Phần bình giải của bài kinh số 10 nên được hiểu như sau:
ด้วยบทว่า สทฺธาธิมุตฺตานํ ทรงแสดงว่า พระวักกลิเถระเป็นยอดของเหล่าภิกษุผู้น้อมใจไปด้วยศรัทธา มีศรัทธาแรง.
Với câu nói “Saddhā-Adhimuttānaṃ,” Đức Phật chỉ rõ rằng Tôn giả Vakkali đứng đầu trong những vị Tỳ-khưu có lòng tin mãnh liệt.
จริงอยู่ ศรัทธาของคนอื่นๆ มีแต่ทำให้เจริญ ส่วนของพระเถระต้องลดลง เพราะฉะนั้น พระเถระนั้น พระผู้มีพระภาคเจ้าจึงตรัสว่า เป็นยอดของเหล่าภิกษุผู้น้อมใจไปด้วยศรัทธา.
Quả thật, đức tin của những người khác chỉ làm cho họ tiến bộ, trong khi đức tin của Tôn giả lại giảm dần. Vì thế, Đức Phật tuyên bố rằng ngài đứng đầu trong những Tỳ-khưu có lòng tin.
คำว่า วักกลิ เป็นชื่อของพระเถระนั้น.
Từ “Vakkali” là tên của vị Tôn giả này.
ในปัญหากรรมของพระเถระนั้น มีเรื่องที่จะกล่าวตามลำดับดังต่อไปนี้ :-
Trong những nghiệp báo của Tôn giả, có các sự kiện sẽ được kể theo thứ tự như sau:
ดังจะกล่าวโดยย่อ ในอดีตกาล ครั้งพระปทุมุตตรพุทธเจ้า พระเถระนี้ไปวิหารยืนฟังธรรมท้ายบริษัทโดยนัยที่กล่าวแล้วนั่นแล. เห็นพระศาสดาทรงสถาปนาภิกษุรูปหนึ่งไว้ในตำแหน่งเป็นยอดของเหล่าภิกษุผู้น้อมใจไปด้วยศรัทธา จึงคิดว่า
Tóm tắt là, trong thời kỳ của Đức Phật Padumuttara, Tôn giả này đã đến chùa và đứng nghe pháp sau cùng trong hội chúng. Khi thấy Đức Thế Tôn tôn vinh một vị Tỳ-khưu vào vị trí đứng đầu trong những người có lòng tin, ngài nghĩ rằng:
แม้เราก็ควรเป็นเช่นนี้ในอนาคตกาล จึงนิมนต์พระศาสดาโดยนัยที่กล่าวแล้วนั่นแล.
Ngay cả chúng ta cũng nên trở thành như vậy trong tương lai, nên đã thỉnh Đức Thế Tôn như đã được kể lại.
ถวายมหาทาน ๗ วัน ถวายบังคมพระทศพลแล้วกระทำความปรารถนาว่า พระเจ้าข้า ด้วยกุศลกรรมอันนี้ ขอข้าพระองค์พึงเป็นยอดของเหล่าภิกษุผู้น้อมใจไปด้วยศรัทธาในศาสนาของพระพุทธเจ้าพระองค์หนึ่งในอนาคต เหมือนภิกษุที่พระองค์ทรงสถาปนาไว้ในตำแหน่งเอตทัคคะของเหล่าภิกษุผู้น้อมใจไปด้วยศรัทธา.
Ngài đã dâng cúng dường lớn trong 7 ngày, bày tỏ lòng thành kính đến Đức Thế Tôn và nguyện rằng: “Thưa Đức Phật, nhờ công đức này, nguyện cho con sẽ trở thành vị đứng đầu trong những Tỳ-khưu có lòng tin vững chắc trong đạo Phật của một Đức Phật nào đó trong tương lai, giống như vị Tỳ-khưu mà ngài đã tôn vinh trong vị trí cao nhất trong số những người có lòng tin.”
พระศาสดาทรงเห็นว่า ท่านไม่มีอันตรายจึงทรงพยากรณ์แล้ว เสด็จกลับไป.
Đức Phật nhận thấy rằng ngài sẽ không gặp nguy hiểm, nên đã thọ ký cho ngài và trở về.
ฝ่ายท่านกระทำกุศลตลอดชีพแล้วเวียนว่ายอยู่ในเทวดาและมนุษย์ ถือเอาปฏิสนธิในตระกูลพราหมณ์กรุงสาวัตถี ครั้งพระศาสดาของเรา ญาติทั้งหลายได้ขนานนามของท่านว่า วักกลิ.
Ngài đã hành thiện suốt đời, trải qua nhiều kiếp sinh trong cõi trời và nhân gian, cuối cùng tái sinh vào dòng dõi Bà-la-môn ở thành Xá-vệ trong thời của Đức Phật Thích-ca. Người thân đã đặt tên cho ngài là Vakkali.
ท่านเจริญวัยแล้ว เรียนไตรเพท เห็นพระทศพลมีภิกษุสงฆ์แวดล้อม เสด็จจาริกในกรุงสาวัตถี ตรวจดูสรีรสมบัติของพระศาสดา ไม่อิ่มด้วยการเห็นสรีรสมบัติ จึงเที่ยวไปพร้อมกับพระทศพลนั้นด้วย เสด็จไปวิหารก็ไปกับพระทศพล ยืนมองความสำเร็จแห่งพระสรีรสมบัติอยู่เทียว ยืนฟังธรรมในที่เฉพาะพระพักตร์แห่งพระศาสดาผู้ประทับนั่งตรัสธรรมในธรรมสภา.
Ngài lớn lên, học ba bộ Vệ-đà và khi thấy Đức Phật cùng với chư Tăng đang du hành trong thành Xá-vệ, đã chiêm ngưỡng thân tướng của Đức Phật và không thấy chán. Ngài luôn đi theo Đức Phật, đến tịnh xá cũng đi theo, đứng nhìn thân tướng của Đức Phật với sự say mê, và lắng nghe pháp khi Đức Phật thuyết giảng trong hội trường pháp.
ท่านได้ศรัทธาแล้วคิดว่า เราอยู่ครองเรือนไม่ได้เห็นพระทศพลเป็นนิตย์ จึงทูลขอบรรพชา บวชแล้วในสำนักของพระศาสดา ตั้งแต่นั้น เว้นเวลากระทำอาหารในเวลาที่เหลือยืนอยู่ในที่ที่ยืนเห็นพระทศพล จึงละโยนิโสมนสิการเสีย อยู่ดูพระทศพลอย่างเดียว.
Ngài đã có niềm tin và suy nghĩ rằng: “Nếu sống đời sống tại gia, ta sẽ không thể gặp Đức Phật thường xuyên.” Vì vậy, ngài đã xin xuất gia và sau khi xuất gia dưới sự hướng dẫn của Đức Phật, từ đó ngài luôn dành thời gian đứng ở nơi có thể nhìn thấy Đức Phật, bỏ qua mọi suy tư để chỉ tập trung chiêm ngưỡng Đức Phật.
พระศาสดาทรงรอให้ญาณของท่านสุกเสียก่อน เมื่อท่านเที่ยวไปดูรูปในที่นั้นๆ เป็นเวลายาวนานก็ไม่ตรัสอะไร ทรงทราบว่า บัดนี้ญาณของท่านแก่กล้าแล้ว ท่านอาจตรัสรู้ได้ จึงตรัสอย่างนี้ว่า วักกลิ ท่านจะประโยชน์อะไรด้วยมองรูปกายอันเปื่อยเน่านี้ที่ท่านเห็น วักกลิ ผู้ใดแลเห็นธรรม ผู้นั้นชื่อว่าเห็นเรา ผู้ใดเห็นเรา ผู้นั้นชื่อว่าเห็นธรรม วักกลิ เห็นธรรมจึงจะชื่อว่าเห็นเรา.
Đức Phật đợi cho đến khi trí tuệ của ngài chín muồi. Sau một thời gian dài ngài chỉ tập trung nhìn ngắm thân tướng của Đức Phật mà không có sự phát triển trong thiền quán, Đức Phật biết rằng giờ đây trí tuệ của ngài đã mạnh mẽ và ngài có thể giác ngộ, nên nói rằng: “Vakkali, ngươi có ích gì khi chỉ nhìn thân xác phân rã này? Ai thấy pháp thì người đó thấy ta, ai thấy ta thì người đó thấy pháp. Vakkali, thấy pháp mới là thấy ta.”
เมื่อพระศาสดาแม้ทรงโอวาทอยู่อย่างนี้ พระเถระก็ไม่อาจละการดูพระทศพลแล้วไปในที่อื่น แต่นั้นพระศาสดาทรงดำริว่า ภิกษุนี้ไม่ได้ความสังเวชจักไม่ตรัสรู้ เมื่อใกล้เข้าพรรษา ทรงประกาศขับไล่พระเถระนั้นว่า วักกลิจงหลีกไป.
Dù Đức Phật đã khuyên dạy như vậy, nhưng Tôn giả vẫn không thể rời khỏi việc nhìn ngắm Đức Phật mà đi đến nơi khác. Sau đó, Đức Phật nghĩ rằng, “Nếu vị Tỳ-khưu này không có lòng chán ngán, thì sẽ không đạt giác ngộ.” Khi gần đến mùa an cư, Ngài tuyên bố đuổi Tôn giả rằng: “Vakkali, hãy đi đi.”
ธรรมดาพระพุทธเจ้าทั้งหลายทรงมีพระดำรัสที่พึงยึดถือ เพราะฉะนั้น พระเถระจึงยืนโต้ตอบพระศาสดาไม่ได้ ไม่บังอาจมาเฉพาะพระพักตร์พระทศพล คิดว่า บัดนี้เราจะทำอย่างไรได้ เราถูกพระตถาคตประณามเสียแล้ว เราก็ไม่ได้อยู่ต่อหน้าพระองค์ ประโยชน์อะไรด้วยชีวิตของเรา จึงขึ้นสู่ที่เขาขาดที่เขาคิชฌกูฏ.
Thông thường, lời dạy của Đức Phật luôn được coi trọng, nên Tôn giả không thể cãi lời Đức Phật và cũng không dám đến gặp Ngài. Tôn giả nghĩ rằng: “Bây giờ ta phải làm sao đây? Ta đã bị Đức Như Lai quở trách và không thể ở trước mặt Ngài được. Sống còn có ý nghĩa gì?” Vì vậy, ngài leo lên vách đá ở núi Kì-xà-quật.
พระศาสดาทรงทราบว่า พระเถระนั้นมีความลำบาก ทรงดำริว่า ภิกษุนี้เมื่อไม่ได้ความปลอบใจจากเรา ก็จะพึงทำลายอุปนิสัยแห่งมรรคผลเสีย จึงทรงเปล่งรัศมีไปแสดงพระองค์ ครั้งนั้น ตั้งแต่พระวักกลินั้นเห็นพระศาสดาก็ละความโศกศัลย์อย่างใหญ่ ด้วยประการฉะนี้.
Đức Phật biết rằng Tôn giả đang gặp khổ đau, nên Ngài nghĩ rằng, “Nếu vị Tỳ-khưu này không được an ủi từ ta, sẽ làm hỏng đi tiềm năng của đạo quả.” Vì thế, Ngài phóng hào quang để hiện thân mình. Từ khi Vakkali nhìn thấy Đức Phật, ngài đã từ bỏ nỗi buồn sâu sắc.
พระศาสดาเพื่อจะให้พระวักกลิเถระเกิดปีติโสมนัสแรงขึ้น เหมือนหลั่งกระแสน้ำลงในสระที่แห้ง จึงตรัสพระคาถาในพระธรรมบทว่า
Đức Phật, để giúp Tôn giả Vakkali khởi lên niềm vui mạnh mẽ, giống như đổ dòng nước vào một ao khô cạn, đã thuyết kệ trong Kinh Pháp Cú rằng:
ปาโมชฺชพหุโล ภิกฺขุ ปสนฺโน พุทฺธสาสเน
Vị Tỳ-khưu luôn tràn đầy hoan hỷ, đã đạt niềm tin vững chắc vào giáo pháp của Đức Phật.
อธิคจฺเฉ ปทํ สนฺตํ สงฺขารุปสมํ สุขนฺติ.
Người ấy sẽ đạt được cảnh giới an tịnh, nơi chấm dứt mọi tạo tác, nơi an lạc.
ภิกษุผู้มากด้วยความปราโมทย์ เลื่อมใสในพระพุทธศาสนา จะพึงบรรลุบทอันสงบที่ระงับสังขาร เป็นความสุขดังนี้
Vị Tỳ-khưu đầy hoan hỷ, tín ngưỡng sâu sắc vào giáo pháp của Đức Phật, sẽ đạt được cảnh giới an tịnh, chấm dứt mọi tạo tác, đó là hạnh phúc chân thật.
อนึ่ง พระศาสดาทรงเหยียดพระหัตถ์ประทานแก่พระวักกลิเถระว่า มาเถิดวักกลิ.
Đức Phật đã đưa tay ra và gọi Tôn giả Vakkali: “Hãy đến đây, Vakkali.”
พระเถระบังเกิดปีติอย่างแรงว่า เราเห็นพระทศพลแล้ว ได้รับพระดำรัสตรัสเรียกว่า มาเถิดวักกลิ ทั้งไม่รู้การไปของตนว่าจะไปทางไหน จึงโลดแล่นไปในอากาศต่อพระพักตร์พระทศพลแล้ว ทั้งเท้าแรกเหยียบบนภูเขา นึกถึงพระดำรัสที่พระศาสดาตรัสแล้ว ข่มปีติในอากาศนั่นเอง บรรลุพระอรหัตพร้อมด้วยปฏิสัมภิทา ลงมาถวายบังคมพระตถาคต.
Tôn giả tràn ngập niềm vui mạnh mẽ khi nghĩ rằng, “Ta đã được thấy Đức Phật và nhận được lời gọi ‘Hãy đến đây, Vakkali’.” Không biết mình đang đi đâu, ngài lướt qua không trung đến trước mặt Đức Phật. Khi bàn chân chạm núi, ngài nhớ đến lời Đức Phật dạy, chế ngự niềm vui trong không trung và đạt quả A-la-hán cùng với bốn tuệ phân tích, rồi xuống để đảnh lễ Đức Như Lai.
ภายหลัง พระศาสดาประทับนั่งท่ามกลางหมู่พระอริยะ ทรงสถาปนาพระเถระไว้ในตำแหน่งเป็นยอดของเหล่าภิกษุผู้น้อมใจไปด้วยศรัทธา.
Sau đó, Đức Phật ngồi giữa hội chúng Thánh Tăng và tôn vinh Tôn giả vào vị trí đứng đầu trong những vị Tỳ-khưu có lòng tin.
จบอรรถกถาสูตรที่ ๑๐
Chấm dứt phần chú giải của bài kinh số 10.
จบวรรคที่ ๒.
Chấm dứt chương 2.