Chú giải Tăng Chi Bộ Kinh

Chú giải Thái kinh Tăng Chi Bộ I – Chương 1 – 14.16. Phẩm Người Tối Thắng

อรรถกถา อังคุตตรนิกาย เอกนิบาต เอตทัคคบาลี
Chú giải Anguttara Nikaya, Ekaka Nipata, Etadagga Bal.

วรรคที่ ๒
Chương thứ 2.

หน้าต่างที่ ๖ / ๙
Trang số 6/9.

อรรถกถาสูตรที่ ๗

Chú giải kinh số 7.

ประวัติพระโสณโกฬวิสเถระ

Lịch sử của Tôn giả Soṇa Kolivisa.

พึงทราบวินิจฉัยในพระสูตรที่ ๗ ดังต่อไปนี้.
Phần giải thích trong kinh số 7 như sau.

บทว่า อารทฺธวิริยานํ ความว่า ผู้ตั้งความเพียรแล้ว ผู้มีความเพียรบริบูรณ์แล้ว.
Câu “Araddha Viriyānaṃ” có nghĩa là những người đã quyết tâm và có nỗ lực đầy đủ.

คำว่า โสโณ โกฬวิโส เป็นชื่อของพระเถระนั้น.
Tên gọi “Soṇa Kolivisa” là tên của vị tôn giả đó.

คำว่า โกฬวิโส เป็นโคตร.
Tên “Kolivisa” là tên dòng họ.

อีกอย่างหนึ่ง ความว่า ชื่อว่า โกฬเวโส อธิบายว่า เด็กแห่งตระกูลแพศย์ ผู้ถึงที่สุดด้วยความมีอิสสระ ก็เพราะเหตุที่ธรรมดาว่าความเพียรของภิกษุเหล่าอื่น ย่อมต้องทำให้เจริญ แต่ของพระเถระพึงอบรมเท่านั้น เพราะฉะนั้น พระเถระนี้ชื่อว่าเป็นยอดของเหล่าภิกษุผู้มีความเพียรอันปรารภแล้ว.
Thêm nữa, tên gọi Kolivisa mang ý nghĩa là con của gia tộc Vaishya, đạt được vị trí cao nhất với sự tự do. Bởi vì thông thường, sự tinh tấn của các vị Tỳ-khưu khác phải được phát triển, nhưng với tôn giả này thì chỉ cần được tu dưỡng. Do đó, tôn giả này được coi là đứng đầu trong các vị Tỳ-khưu đã đạt được sự tinh tấn.

ในปัญหากรรมของท่าน มีเรื่องที่จะพึงกล่าวตามลำดับดังต่อไปนี้ :-
Trong vấn đề nghiệp báo của ngài, có các câu chuyện được trình bày theo thứ tự như sau:

ได้ยินว่าในอดีตกาล ครั้งพระพุทธเจ้าพระนามว่าปทุมุตตระ พระเถระนี้บังเกิดในตระกูลเศรษฐี พวกญาติขนานนามของท่านว่า สิริวัฑฒกุมาร.
Nghe rằng trong quá khứ, vào thời Đức Phật tên là Padumuttara, tôn giả này sinh ra trong gia đình triệu phú và được người thân đặt tên là Sirivaddha Kumara.

ท่านเจริญวัยแล้วไปวิหารโดยนัยก่อนนั่นแล ยืนฟังธรรมอยู่ท้ายบริษัท เห็นพระศาสดาทรงสถาปนาภิกษุรูปหนึ่งไว้ในตำแหน่งเอตทัคคะ เป็นยอดของเหล่าภิกษุผู้มีความเพียรอันปรารภแล้ว จึงคิดว่า แม้เราก็ควรเป็นอย่างภิกษุนี้ในอนาคต.
Khi trưởng thành, ngài đến tu viện như đã được đề cập trước đó, đứng nghe pháp ở phía sau hội chúng. Thấy Đức Phật thiết lập một vị Tỳ-khưu vào vị trí Etadagga, đứng đầu trong những Tỳ-khưu đã đạt được sự tinh tấn, ngài nghĩ rằng mình cũng nên như vị Tỳ-khưu này trong tương lai.

จบเทศนาจึงนิมนต์พระทศพล ถวายมหาทาน ๗ วัน ได้กระทำความปรารถนา โดยนัยที่กล่าวแล้วนั่นแล.
Kết thúc bài giảng, ngài mời Thập Phật và dâng cúng đại lễ trong 7 ngày, với mong ước như đã trình bày trước đó.

พระศาสดาทรงเห็นว่า ความปรารถนาของท่านสำเร็จ จึงทรงพยากรณ์โดยนัยก่อนนั่นแล เสด็จกลับพระวิหาร.
Đức Phật thấy rằng mong ước của ngài đã được hoàn thành, nên đã tiên đoán như trước và trở về tu viện.

ฝ่ายสิริวัฑฒเศรษฐีนั้นกระทำกุศลตลอดชีวิต เวียนว่ายอยู่ในเทวดาและมนุษย์ล่วงไปแสนกัป เมื่อพระกัสสปทศพลปรินิพพานแล้วในกัปนี้ ครั้งพระผู้มีพระภาคเจ้าของเรายังไม่ทรงบังเกิด ก็มาถือปฏิสนธิในครอบครัวกรุงพาราณสี ท่านไปเล่นน้ำในแม่น้ำคงคา พร้อมกับหมู่สหายของตน.
Sirivaddha triệu phú đã tích lũy công đức suốt đời mình, trải qua hàng trăm ngàn kiếp sống trong các cảnh giới trời và người. Khi Đức Phật Kassapa đã nhập Niết-bàn, trước khi Đức Phật Thích Ca của chúng ta xuất hiện, ông đã tái sinh vào một gia đình tại thành phố Benares và thường đến tắm tại sông Hằng cùng bạn bè.

ครั้งนั้น พระปัจเจกพุทธเจ้าองค์หนึ่งมีจีวรเก่า เข้าอาศัยกรุงพาราณสี สร้างบรรณศาลาอยู่ริมฝั่งแม่น้ำคงคา ตั้งใจว่าจะเข้าจำพรรษา จึงไปดึงท่อนไม้และเถาวัลย์ที่ถูกน้ำพัดมาติดอยู่ออก.
Lúc đó, một vị Phật độc giác mặc áo cà sa cũ, trú tại Benares, dựng một túp lều trên bờ sông Hằng, chuẩn bị nhập mùa an cư. Ngài đã đi nhặt cành cây và dây leo bị nước cuốn trôi đến.

กุมารนี้กับสหายเดินไปยืนอภิวาทอยู่ถามว่า ทำอะไร เจ้าข้า.
Cậu bé này cùng bạn bè đến đứng cúi đầu kính cẩn và hỏi: “Ngài đang làm gì vậy, thưa ngài?”

ป. พ่อเด็ก จวนเข้าพรรษาแล้ว ธรรมดาบรรพชิตควรได้ที่อยู่.
Vị Phật độc giác trả lời: “Này các con, mùa an cư sắp đến và các tu sĩ cần có nơi cư ngụ.”

กุมารกล่าวว่า ท่านเจ้าข้า วันนี้ ขอพระคุณเจ้ารอสักวันหนึ่งก่อน, พรุ่งนี้ ข้าพเจ้าจะกระทำที่อยู่ถวายพระคุณเจ้า.
Cậu bé nói: “Thưa ngài, xin ngài hãy đợi thêm một ngày, ngày mai con sẽ dựng nơi trú ngụ để dâng lên ngài.”

พระปัจเจกพุทธเจ้ายับยั้งอยู่ เพราะเป็นผู้มาแล้วด้วยตั้งใจว่า จักกระทำความสงเคราะห์กุมารนี้เหมือนกัน.
Vị Phật độc giác đã dừng lại vì có ý định muốn giúp đỡ cậu bé này.

กุมารนั้นทราบว่า พระปัจเจกพุทธเจ้ารับนิมนต์แล้ว วันรุ่งขึ้นจึงจัดแจงเครื่องสักการะสัมมานะไปยืนคอยพระปัจเจกพุทธเจ้ามา.
Cậu bé biết rằng vị Phật độc giác đã nhận lời mời, nên vào ngày hôm sau, cậu chuẩn bị đồ lễ để chờ đón ngài.

ฝ่ายพระปัจเจกพุทธเจ้าทรงรำลึกว่า วันนี้เราจักเที่ยวหาอาหารที่ไหนหนอ จึงไปยังประตูเรือนของกุมารนั้น กุมารเห็นพระปัจเจกพุทธเจ้าแล้วก็นึกรัก รับบาตรถวายอาหาร นิมนต์ว่า ตลอดภายในพรรษานี้ ขอได้โปรดมายังประตูเรือนของข้าพเจ้าเท่านั้น.
Vị Phật độc giác nghĩ: “Hôm nay, mình nên đi khất thực ở đâu?” Rồi ngài đến trước cửa nhà cậu bé, và khi thấy vị Phật, cậu đã đón nhận bát của ngài, dâng cúng thức ăn và thỉnh mời ngài đến nhà mình mỗi ngày trong suốt mùa an cư.

พระปัจเจกพุทธเจ้ารับคำฉันเสร็จแล้วก็หลีกไป, จึงไปกับสหายของตนช่วยกันสร้างบรรณศาลาที่อยู่ ที่จงกรมและที่พักกลางวันและกลางคืน ถวายพระปัจเจกพุทธเจ้าแล้วเสร็จในวันเดียว.
Sau khi nhận lời, vị Phật độc giác đã đi. Cậu bé cùng bạn bè đã dựng một túp lều, lối đi kinh hành, và nơi nghỉ ngơi cho ngài, hoàn thành mọi thứ trong một ngày.

กุมารนั้นคิดว่า เวลาพระปัจเจกพุทธเจ้าเข้าบรรณศาลา เปือกตมบนพื้นดินที่ฉาบด้วยของเขียวสด อย่าได้ติดที่เท้า จึงลาดผ้ากัมพลแดงมีค่าพันหนึ่งอันเป็นผ้าห่มของตนปิดพื้น เห็นรัศมีมีสรีระของพระปัจเจกพุทธเจ้า เป็นเช่นเดียวกับสีของผ้ากัมพลก็เลื่อมใสอย่างยิ่ง กล่าวว่า จำเดิมแต่เวลาที่พระคุณเจ้าเหยียบแล้ว ประกายแห่งผ้ากัมพลนี้แวววาวอย่างยิ่งฉันใด แม้วรรณะแห่งมือและเท้าของข้าพเจ้าก็จงมีสีเหมือนดอกหงอนไก่ ในที่ที่ข้าพเจ้าเกิดแล้วเกิดอีกฉะนั้น ขอให้ผัสสะจงเป็นเช่นกับผัสสะแห่งแผ่นผ้าฝ้ายที่เขายีแล้วถึง ๗ ครั้งเทียว.
Cậu bé nghĩ rằng khi vị Phật độc giác bước vào túp lều, đất bùn trên sàn nhà lát bằng cỏ tươi không dính vào chân ngài. Cậu đã trải tấm vải đỏ quý giá của mình trên sàn và khi thấy ánh sáng từ thân thể của vị Phật giống với màu của tấm vải đỏ, cậu cảm thấy rất kính phục và nói: “Kể từ khi bàn chân của ngài chạm vào đây, ánh sáng của tấm vải đã trở nên sáng rực. Cầu cho màu da tay và chân của con được như hoa cẩm chướng đỏ trong mọi lần tái sinh của con và mong rằng mọi xúc chạm của con luôn mềm mại như tấm vải bông đã được đập 7 lần.”

กุมารนั้นบำรุงพระปัจเจกพุทธเจ้าตลอดไตรมาส ได้ถวายไตรจีวรเมื่อเวลาปวารณาแล้ว พระปัจเจกพุทธเจ้ามีบาตรและจีวรบริบูรณ์แล้ว จึงไปยังภูเขาคันธมาทน์ตามเดิม.
Cậu bé đã chăm sóc vị Phật độc giác trong suốt mùa an cư và dâng cúng y phục ba mảnh sau khi lễ Pavāraṇā kết thúc. Vị Phật độc giác có đầy đủ bát và y phục, nên ngài đã trở về núi Gandhamādana như trước.

ฝ่ายกุลบุตรนั้นเวียนว่ายอยู่ในเทวดาและมนุษย์มาถือปฏิสนธิ ในเรือนของอุสภเศรษฐี ในเมืองกาลจัมปาก ครั้งพระผู้มีพระภาคเจ้าของเรา ตั้งแต่เวลาที่กุลบุตรนั้นถือปฏิสนธิ เครื่องบรรณาการหลายพันมาในสกุลเศรษฐี ในวันที่เกิดนั่นเอง ทั่วพระนครได้มีเครื่องสักการะสัมมานะเป็นอันเดียวกัน.
Về phần chàng trai ấy, anh đã luân hồi giữa các cõi trời và nhân gian rồi tái sinh trong gia đình của Usabha triệu phú tại thành phố Kālachampaka. Từ khi tái sinh, gia đình triệu phú đã nhận được hàng ngàn lễ vật. Vào ngày sinh của anh, khắp thành phố đều dâng cúng các lễ vật để tôn kính.

ต่อมาในวันตั้งชื่อกุมารนั้น มารดาบิดาคิดว่า บุตรของเรารับชื่อของตนมาแล้ว รัศมีสรีระของเขาเหมือนรดด้วยทองมีสีสุกแดง เพราะฉะนั้น จึงตั้งชื่อของกุมารนั้นว่า โสณกุมาร.
Vào ngày đặt tên cho cậu bé, cha mẹ nghĩ rằng con của họ đã nhận được tên của mình. Làn da của cậu tỏa sáng như được tưới bằng vàng đỏ rực rỡ, vì thế họ đặt tên cho cậu là Soṇa Kumāra.

ครั้งนั้น เศรษฐีให้พี่เลี้ยงนางนมบำรุงบุตรนั้นให้เจริญด้วยความสุขประหนึ่งเทพกุมาร การจัดแจงอาหารสำหรับกุมารนั้นได้มีแล้วอย่างนี้ หว่านข้าวลงยังที่มีประมาณ ๖๐ กรีส เลี้ยงด้วยน้ำ ๓ อย่าง เอาตุ่มใส่น้ำนมและน้ำหอมหลายพันตุ่ม รดลงในเหมือนน้ำที่ไหลเข้าไปในนาดอน เวลารวงข้าวสาลีเป็นน้ำนม ก็ฝังหลักล้อมรอบๆ และในระหว่างๆ เพื่อป้องกันสัตว์ทั้งหลายมีนกแก้วเป็นต้น กระทำเป็นเดนและเพื่อจะให้รวงข้าวมีความนุ่มนวล ลาดผ้าเนื้อละเอียดไว้บนหลัก เอาไม้พาดข้างบน ปิดด้วยเสื่อลำแพน กั้นม่านโดยรอบ จัดอารักขาไว้ในที่รอบๆ ทุกส่วน.
Vị triệu phú đã giao cho bảo mẫu chăm sóc cậu bé để lớn lên trong sự sung sướng như một thiên thần. Việc chuẩn bị thức ăn cho cậu bé được thực hiện như sau: Họ gieo lúa trên diện tích khoảng 60 gri (một đơn vị đo diện tích), tưới bằng ba loại nước khác nhau, và đổ hàng ngàn bình sữa và nước hoa vào ruộng như dòng nước chảy vào cánh đồng. Khi bông lúa còn non, họ dựng các cột xung quanh để ngăn chim và các loài vật khác, phủ khăn mịn lên cột, trải chiếu trên đó, và bao quanh bằng màn che, đặt vệ sĩ bảo vệ ở mọi phía.

เมื่อข้าวสุกขึ้นฉางก็ประพรมด้วยคันธชาติ ๔ อย่าง อบด้วยของหอมอย่างดีเลิศไว้ข้างบน หมู่คนหลายแสนลงแขกเกี่ยวขั้วรวงข้าวสาลี ทำเป็นกำๆ มัดด้วยเชือก ตากให้แห้ง ต่อนั้น ลาดของหอมที่พื้นล่างฉาง แผ่รวงข้าวไว้ข้างบน แผ่ไปให้มีระหว่างช่อง อย่างนี้จน เต็มฉางจึงปิดประตู เมื่อครบ ๓ ปี จึงค่อยเปิดฉางข้าว เวลาเปิดก็มีกลิ่นอบอวลไปทั่วพระนคร.
Khi lúa chín và được thu hoạch, họ rắc bốn loại hương liệu lên trên và ướp với các loại hương tốt nhất. Hàng trăm ngàn người đã cùng nhau thu hoạch và bó lúa thành từng bó, phơi khô. Sau đó, họ rải hương trên sàn kho và xếp lúa lên, cách đều các tầng cho đến khi kho đầy thì đóng cửa. Sau 3 năm, khi mở kho, hương thơm lan tỏa khắp thành phố.

เมื่อฟาดข้าวสาลี พวกนักเลงก็พากันมาซื้อแกลบเอาไป ส่วนรำ จุลลปัฏฐากได้ไป เวลาซ้อมด้วยสากก็มาเลือกเก็บเอาข้าวสารไป คนเหล่านั้นใส่ข้าวนั้นไว้ในกระเช้าแฝกทอง จุ่มลงครั้งเดียวในชาติรส ใส่ข้าวไว้ในกระเช้าที่สานด้วยแฝกทอง ใส่ชาติรสน้ำผลจันทน์ที่ยังร้อน ซึ่งกรอง ๗ ครั้ง เอามาครั้งเดียวแล้วก็ยกขึ้น น้ำผลจันทน์ที่เดือดแล้วซึ่งเขากรอง ๗ ครั้งแล้วยกขึ้นตรอง ข้าวสาลีที่ยกขึ้นพ้นน้ำแล้วก็เหมือนดอกมะลิ.
Khi lúa mì được đập, những người thương gia đến mua cám, phần cám mịn được lấy đi, và khi hạt lúa được xay bằng chày, họ thu lấy gạo. Những hạt gạo ấy được đặt vào giỏ kết bằng lá tre vàng, nhúng qua nước hương chiết xuất từ trái gỗ đàn hương, đã được lọc bảy lần khi còn nóng, rồi lấy lên. Khi hạt lúa mì được vớt ra khỏi nước, nó trông như những bông hoa nhài.

ชนทั้งหลายจึงใส่โภชนะนั้นไว้ในถาดทอง เอาไว้บนถาดเงินที่เต็มด้วยข้าวมธุปายาสมีน้ำน้อยที่ยังร้อนอยู่ ถือไปวางไว้ข้างหน้าบุตรเศรษฐี เศรษฐีบุตรนั้นบริโภคพอยังอัตภาพให้เป็นไปสำหรับตน แล้วล้างปากด้วยน้ำที่อบด้วยของหอม แล้วล้างมือและเท้า ตอนนั้นจึงนำเครื่องอบปากมีประการต่างๆ มาให้แก่เศรษฐีบุตรนั้นซึ่งได้ล้างมือและเท้าแล้ว ลาดเครื่องลาดอันวิจิตรด้วยผ้าเปลือกไม้อย่างดี.
Mọi người đặt thức ăn trong mâm vàng, đặt lên trên một mâm bạc đầy bột gạo ngọt nóng, rồi mang đến trước mặt con trai triệu phú. Cậu bé ăn để nuôi dưỡng cơ thể, sau đó rửa miệng bằng nước thơm, rồi rửa tay và chân. Lúc đó, các vật dụng để làm sạch miệng với các loại khác nhau được mang đến cho cậu bé sau khi cậu đã rửa tay và chân, cùng với một tấm thảm trải bằng vải từ vỏ cây cao cấp.

ในที่ที่เศรษฐีบุตรนั้นเหยียบ ฝ่ามือและฝ่าเท้าของเศรษฐีบุตรนั้นมีสีดุจสีดอกหงอนไก่ โลมาซึ่งมีวรรณะดุจสีแก้วมณีและแก้วกุณฑล เกิดที่ฝ่าเท้า ดุจสัมผัสของผ้าฝ้ายที่เขายีแล้วถึง ๗ ครั้ง.
Nơi mà con trai triệu phú đặt chân lên, lòng bàn tay và bàn chân của cậu có màu đỏ giống hoa mào gà. Lông ở chân có màu sắc như đá quý, với cảm giác mềm mại như vải bông đã được chải đến bảy lần.

เศรษฐีบุตรนั้นโกรธใครๆ จะพูดว่า จงรู้ไว้ ฉันจะเหยียบพื้นดิน เมื่อเธอเจริญวัยแล้วให้สร้างปราสาท ๓ หลังที่เหมาะแก่ฤดู ๓ แล้วให้นางฟ้อนบำรุงบำเรอเศรษฐีบุตรนั้นเสวยมหาสมบัติอาศัยอยู่ปานเทพเจ้า.
Khi con trai triệu phú tức giận với ai, cậu sẽ nói rằng: “Hãy biết rằng tôi sẽ bước trên mặt đất.” Khi cậu trưởng thành, họ đã xây ba tòa lâu đài phù hợp cho ba mùa và thuê các vũ nữ phục vụ cậu, để cậu tận hưởng sự giàu có như một vị thần.

ต่อมา เมื่อพระศาสดาของเราทรงบรรลุพระสัพพัญญุตญาณ ทรงประกาศพระธรรมจักรอันประเสริฐแล้ว อาศัยกรุงราชคฤห์ ประทับอยู่.
Sau này, khi Đức Phật của chúng ta đã giác ngộ, ngài tuyên bố Pháp Luân Cao Quý và trú tại thành Rājagaha.

เศรษฐีบุตรนั้นอันพระเจ้ามคธตรัสเรียกมาเพื่อจะทอดพระเนตรขนที่เท้าแล้วส่งไปเฝ้าพระศาสดาพร้อมกับชาวบ้าน ๘๐,๐๐๐ ฟังพระธรรมเทศนาได้ศรัทธา จึงขอบรรพชากะพระศาสดา.
Con trai của triệu phú được vua xứ Magadha triệu tập để xem lông ở chân và gửi đến gặp Đức Phật cùng với 80,000 dân làng. Sau khi nghe Pháp thoại, anh đã phát tâm và xin xuất gia với Đức Phật.

ครั้งนั้นพระผู้มีพระภาคเจ้าตรัสถามเขาว่า มารดาบิดาอนุญาตแล้วหรือ ทรงสดับว่า ยังมิได้อนุญาต จึงทรงเห็นว่า โสณะ ตถาคตไม่ให้กุลบุตรที่มารดาบิดาไม่อนุญาตบวชได้.
Lúc đó, Đức Phật hỏi anh rằng cha mẹ đã đồng ý chưa. Khi nghe rằng vẫn chưa được đồng ý, ngài nói rằng Tathāgata không cho phép các con trai xuất gia nếu không có sự đồng ý của cha mẹ.

เศรษฐีบุตรนั้นรับพระดำรัสของพระตถาคตด้วยเศียรเกล้าว่า ดีละพระเจ้าข้า จึงไปหามารดาบิดาให้ท่านอนุญาตแล้ว จึงกลับมาเฝ้าพระตถาคต ได้บวชในสำนักของภิกษุรูปหนึ่ง.
Con trai của triệu phú cúi đầu đón nhận lời của Tathāgata và thưa rằng: “Vâng, bạch Đức Thế Tôn.” Sau đó, anh đã về nhà xin phép cha mẹ, và khi được đồng ý, anh quay lại gặp Tathāgata và được xuất gia dưới sự hướng dẫn của một Tỳ-khưu.

นี้เป็นความย่อในเรื่องนี้, โดยพิสดาร พิธีบรรพชาของท่านมาแล้วในพระบาลีนั่นแล.
Đây là phần tóm tắt câu chuyện này. Chi tiết lễ xuất gia của ngài đã được trình bày trong các kinh điển Pāli.

เมื่อท่านได้บรรพชาอุปสมบทแล้ว อยู่ในกรุงราชคฤห์ หมู่ญาติและสายโลหิตเป็นอันมาก และเพื่อเห็นเพื่อนเป็นอันมาก ต่างนำสักการะและสัมมานะมา กล่าวสรรเสริญความสำเร็จแห่งรูป แม้คนเหล่าอื่นก็พากันมาดู.
Sau khi ngài xuất gia và thọ giới, ngài ở tại thành Rājagaha. Rất nhiều họ hàng và người quen biết đã mang lễ vật và bày tỏ lòng kính trọng, tôn vinh sự thành công của ngài. Thậm chí người khác cũng đến chiêm ngưỡng.

พระเถระคิดว่า คนเป็นอันมากมายังสำนักของเรา เราจักทำกิจกรรมในกัมมัฏฐานหรือในวิปัสสนา ได้อย่างไร ถ้ากะไร เราพึงเรียนกัมมัฏฐานในสำนักของพระศาสดาแล้วไปสุสานสีตวัน บำเพ็ญสมณธรรม เพราะคนเป็นอันมากเกลียดสุสานสีตวันนั้น จักไม่ไป เมื่อเป็นอย่างนี้ กิจของเราจักถึงที่สุดได้ จึงรับกัมมัฏฐานในสำนักของพระศาสดาแล้วไปยังสีตวัน เริ่มบำเพ็ญสมณธรรม.
Vị trưởng lão suy nghĩ: “Có quá nhiều người đến gặp ta, làm sao ta có thể thực hành thiền định hoặc tu tập minh sát? Nếu có thể, ta nên học thiền tại chỗ Đức Phật rồi đến nghĩa trang Sitavana để tu tập, vì hầu hết mọi người không thích đến đó. Như vậy, ta sẽ có thể hoàn thành công việc của mình.” Sau đó, ngài nhận thiền đề từ Đức Phật và đến Sitavana để bắt đầu tu hành.

ท่านคิดว่า สรีระของเราละเอียดอย่างยิ่ง แต่ไม่อาจจะให้ถึงความสุขโดยความสะดวกนั่นเอง แม้ถึงจะลำบาก กายก็ควรบำเพ็ญสมณธรรม แต่นั้นจึงอธิษฐานการยืนและการจงกรมมีแต่โลหิตอย่างเดียว เมื่อเท้าเดินไม่ได้ ก็พยายามจงกรมด้วยเข่าบ้าง ด้วยมือบ้าง แม้ถึงกระทำความเพียรอย่างมั่นคงถึงเพียงนี้ ก็ไม่อาจทำคุณแม้เพียงโอภาสให้บังเกิด จึงคิดว่า แม้หากว่าคนอื่นพึงปรารถนาความเพียรพึงเป็นเช่นกับเราไซร้ แต่เราพยายามอยู่อย่างนี้ ก็ไม่อาจทำมรรคหรือผลให้เกิดขึ้นได้ เราไม่ใช่อุคฆฏิตัญญูบุคคล หรือไม่ใช่วิปจิตัญญูบุคคล ไม่ใช่ไนยบุคคล เราพึงเป็นปทปรมบุคคลแน่แท้ เราจะประโยชน์อะไรด้วยบรรพชา เราจะสึกออกไปบริโภคโภคะและกระทำบุญ.
Ngài nghĩ rằng: “Thân thể của ta rất tinh tế, nhưng không dễ dàng đạt được hạnh phúc. Dù có khó khăn, thân ta vẫn nên tu hành. Ngài quyết tâm đứng và đi kinh hành mặc cho máu chảy, khi không thể đi bằng chân, ngài cố đi bằng đầu gối và tay. Dù nỗ lực hết sức, ngài vẫn không thể đạt được ánh sáng trí tuệ. Ngài tự nghĩ: ‘Nếu có ai khác tinh tấn như ta, thì họ sẽ đạt được đạo quả, nhưng ta thì không. Ta không phải là người có trí tuệ cấp cao hay người có thể hiểu biết sâu sắc. Ta nên là người bậc thấp nhất. Xuất gia với ta có ý nghĩa gì? Ta sẽ hoàn tục để hưởng thụ và làm điều thiện.'”

สมัยนั้น พระศาสดาทรงทราบความปริวิตกของพระเถระ เวลาเย็นทรงมีหมู่ภิกษุแวดล้อมไปในสุสานสีตวันนั้น ทอดพระเนตรเห็นที่จงกรมเปื้อนเลือด ทรงโอวาทพระเถระโดยโอวาทเทียบดังพิณ ตรัสบอกกัมมัฏฐานแก่พระเถระ เพื่อให้ประกอบความเพียรเพลาๆ ลงบ้าง แล้วเสด็จไปยังภูเขาคิชฌกูฏ.
Lúc đó, Đức Phật biết được sự lo âu của ngài. Vào buổi chiều, Đức Phật cùng các Tỳ-khưu đến nghĩa trang Sitavana và thấy dấu chân máu trên lối đi kinh hành. Ngài khuyên nhủ ngài giống như điều chỉnh dây đàn và dạy ngài phương pháp hành thiền với mức độ nỗ lực nhẹ nhàng hơn. Sau đó, Đức Phật rời đi và lên núi Gijjhakuta.

ฝ่ายพระโสณเถระได้พระโอวาทในที่ต่อพระพักตร์ของพระทศพล ไม่นานนักก็ตั้งอยู่ในพระอรหัตตผล.
Với sự hướng dẫn từ Thập Phật ngay trước mặt, không bao lâu sau, Tôn giả Soṇa đã đạt đến quả vị A-la-hán.

ต่อมาภายหลัง พระศาสดามีหมู่ภิกษุแวดล้อมทรงแสดงธรรมในพระเชตวันวิหาร ทรงสถาปนาพระเถระไว้ในตำแหน่งเป็นยอดของเหล่าภิกษุผู้ปรารภความเพียร.
Sau đó, trong khi Đức Phật cùng các Tỳ-khưu giảng pháp tại tịnh xá Jetavana, ngài đã tôn vinh Tôn giả vào vị trí đứng đầu trong những vị Tỳ-khưu tinh tấn.

จบอรรถกถาสูตรที่ ๗

Kết thúc chú giải kinh số 7.

Hộp bình luận Facebook

Soṇa Thiện Kim

Panha.org là trang web chuyên sâu về Pháp học của Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Tông), nơi cung cấp kiến thức và tài liệu quý báu về kinh điển, giáo lý, và triết học Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Tông). Tại đây, bạn có thể tìm hiểu về các giáo pháp truyền thống, kinh nghiệm tu tập, và những bài giảng từ các vị tôn sư hàng đầu trong cộng đồng Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Tông). Với mục tiêu giúp người học hiểu sâu hơn về con đường giác ngộ và sự giải thoát, Panha.org mang đến nguồn tài nguyên phong phú, chính xác và cập nhật để hỗ trợ hành giả trên hành trình tu tập Pháp học.

Bài viết liên quan

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.

0 Góp ý
Được bỏ phiếu nhiều nhất
Mới nhất Cũ nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Back to top button