Mục lục
อรรถกถา อังคุตตรนิกาย เอกนิบาต เอตทัคคบาลี
Giới thiệu về Aṅguttara Nikāya, bộ một số điều.
วรรคที่ ๒
Phần thứ 2.
หน้าต่างที่ ๔ / ๙.
Cửa sổ thứ 4/9.
อรรถกถาสูตรที่ ๕
Giới thiệu về bài kệ thứ 5.
ประวัติพระเรวตเถระ
Tiểu sử của Thầy Revata.
พึงทราบวินิจฉัยในพระสูตรที่ ๕ ดังต่อไปนี้.
Cần biết những giải thích trong bài kệ thứ 5 như sau.
บทว่า อารญฺญากานํ ได้แก่ ผู้มีปกติอยู่ป่าเป็นวัตร.
Đoạn văn rằng “Araññakā” nghĩa là người có thói quen sống trong rừng.
บทว่า เรวโต ขทิรวนิโย ได้แก่ น้องชายคนเล็กของพระธรรมเสนาบดีเถระ ท่านมิได้อยู่เหมือนอย่างพระเถระเหล่าอื่น เมื่อจะอยู่ในป่าก็ต้องเลือกป่า น้ำและที่ภิกขาจารที่ถูกใจจึงอยู่ในป่า แต่ท่านไม่ยึดถือของที่ถูกใจเหล่านี้ อาศัยอยู่ในป่าตะเคียนที่ขระขระด้วยก้อนกรวดและก้อนหินบนที่ดอน ฉะนั้น ท่านจึงชื่อว่าเป็นยอดของเหล่าภิกษุผู้อยู่ป่าเป็นวัตร.
Đoạn văn rằng “Revato” là em trai nhỏ của Thượng tọa Dhammasena, không sống như những vị thầy khác, khi ở trong rừng phải chọn rừng, nước và nơi khất thực mà mình thích, nhưng Ngài không chấp vào những thứ mình thích, sống trong rừng có nhiều đá sỏi và đá trên vùng đất cao, vì vậy Ngài được gọi là người cao quý nhất trong các vị khất sĩ sống trong rừng.
ในปัญหากรรมของท่านมีเรื่องที่จะกล่าวตามลำดับดังต่อไปนี้.
Trong vấn đề nghiệp của Ngài có những điều sẽ được đề cập theo thứ tự như sau.
ได้ยินว่า ในอดีตกาลครั้งพระปทุมุตตระพุทธเจ้า พระเรวตะนี้บังเกิดในหงสวดี อาศัยกระทำการงานทางเรือที่ท่าปยาคประดิษฐานในแม่น้ำคงคา.
Nghe nói rằng, trong thời quá khứ, khi Đức Phật Padumuttara xuất hiện, Revata này được sinh ra ở Hongsawadee, làm việc trên thuyền tại bến Payaka đặt ở sông Hằng.
สมัยนั้น พระศาสดามีภิกษุแสนหนึ่งเป็นบริวาร เสด็จจาริกไปจนถึงท่าปยาคประดิษฐาน เขาเห็นพระทศพลแล้วคิดว่า เราไม่ได้เห็นพระพุทธเจ้าเป็นครั้งคราว ขณะนี้เป็นขณะที่เราจะได้ขวนขวายกัลยาณกรรมไว้ จึงให้ผูกเรือขนานต่อกัน ดาดเพดานผ้าข้างบน ห้อยพวงมาลาของหอมเป็นต้น ลาดเครื่องลาดอันวิจิตรประกอบด้วยผ้าเปลือกไม้ นิมนต์พระศาสดาพร้อมทั้งบริวารเสด็จข้ามฟาก.
Vào thời điểm đó, Đức Phật có một ngàn vị khất sĩ làm tùng hạ, Ngài đi du hành đến bến Payaka. Người thấy Đức Thế Tôn rồi nghĩ rằng, “Chúng ta không thấy Đức Phật vào những dịp khác, đây là lúc chúng ta sẽ tạo ra những hành động tốt đẹp”, vì vậy đã buộc các thuyền vào nhau, lót mái bằng vải trên cùng, treo vòng hoa thơm, trải những thứ lót tuyệt đẹp làm bằng vỏ cây, mời Đức Thế Tôn cùng với những người đi theo Ngài sang bờ bên kia.
ในสมัยนั้น พระศาสดาทรงสถาปนาภิกษุผู้อยู่ป่าเป็นวัตรองค์หนึ่งไว้ในตำแหน่งเอตทัคคะ.
Trong thời điểm đó, Đức Phật đã thiết lập một vị khất sĩ sống trong rừng vào vị trí cao quý nhất.
นายเรือนั้นเห็นภิกษุนั้น จึงคิดว่า แม้เราก็ควรเป็นยอดของเหล่าภิกษุผู้อยู่ป่าเป็นวัตรในศาสนาของพระพุทธเจ้าพระองค์หนึ่งในอนาคตดังนี้เหมือนกัน จึงนิมนต์พระศาสดาถวายมหาทาน ๗ วัน หมอบ ณ แทบบาทมูลของพระศาสดา กระทำความปรารถนาว่า ข้าแต่พระองค์ผู้เจริญ แม้ข้าพระองค์พึงเป็นยอดของเหล่าภิกษุผู้อยู่ป่าเป็นวัตรในศาสนาของพระพุทธเจ้าพระองค์หนึ่งในอนาคต เหมือนอย่างภิกษุที่พระองค์ทรงสถาปนาไว้ในตำแหน่งเอตทัคคะเถิด.
Người quản gia thấy vị khất sĩ đó rồi nghĩ rằng, “Chúng ta cũng nên trở thành người cao quý nhất trong các vị khất sĩ sống trong rừng trong tôn giáo của Đức Phật trong tương lai”, nên đã mời Đức Phật cúng dường đại lễ 7 ngày, quỳ bên dưới chân Đức Phật, bày tỏ nguyện vọng rằng, “Kính bạch Ngài, nếu con được trở thành người cao quý nhất trong các vị khất sĩ sống trong rừng trong tôn giáo của Đức Phật trong tương lai, như vị khất sĩ mà Ngài đã đặt vào vị trí cao quý.”
พระศาสดาทรงเห็นว่าหาอันตรายมิได้ ทรงพยากรณ์ว่า ในอนาคต ท่านจักเป็นผู้ยอดในศาสนาของพระโคดมพุทธเจ้า แล้วเสด็จกลับไป แต่มิได้กล่าวถึงกรรมในระหว่างไว้.
Đức Phật thấy rằng không có nguy hiểm, đã tiên đoán rằng, trong tương lai, Ngài sẽ trở thành người cao quý trong tôn giáo của Đức Phật Gotama, rồi trở về nhưng không đề cập đến nghiệp trong giữa chừng.
ท่านกระทำกัลยาณกรรมจนตลอดชีพ เวียนว่ายอยู่ในเทวโลกและมนุษย์ในพุทธุปบาทกาลนี้ จึงมาถือปฏิสนธิในท้องแห่งนางสารีพราหมณี ในตำบลบ้านพราหมณ์ชื่อนาลกะ เขตมคธ เกิดเป็นน้องสุดท้องของพี่ชาย ๓ คน พี่สาว ๓ คน มารดาบิดาชื่อว่าเรวตะ.
Ngài đã thực hiện những hành động tốt đẹp suốt cuộc đời, luân hồi trong cõi thiên và nhân loại trong thời kỳ của Đức Phật, vì vậy Ngài đã được thụ thai trong bụng của bà Sári Brahmanee tại làng Bà Brahmin tên là Nālaka, thuộc vùng Magadha, và trở thành em út của ba người anh trai và ba người chị gái, cha mẹ tên là Revata.
[ติณฺณํ ภาติกานํ ติสฺสนฺนํ ภคินีนํ สพฺพกนิฏฺโฐ หุตฺวา นิพฺพตฺติ เรวโตติสฺส นามํ อกํสุ ฯ]
[Nghe rằng, “Khi bảy người chị em và ba người em trai hoàn tất, họ đã sinh ra Revata.”]
คราวนั้น มารดาบิดาของท่านคิดว่า เมื่อลูกของเราเจริญโตแล้ว เหล่าพระสมณศากยะบุตรก็มานำเอาไปบวชเสีย เราจักผูกเรวตะลูกคนเล็กของเราไว้ด้วยเครื่องผูกคือเรือนดังนี้ แล้วนำนางทาริกาจากสกุลที่เสมอกันมา ให้ไหว้ย่าของเรวตะแล้วกล่าวว่า แน่ะแม่ เจ้าจงเป็นคนแก่ยิ่งกว่าย่าของเจ้า.
Lúc đó, cha mẹ của Ngài nghĩ rằng, “Khi con của chúng ta lớn lên, các vị khất sĩ sẽ đến và cho nó xuất gia. Chúng ta sẽ gả Revata, con trai út của chúng ta, cho một cô gái từ gia đình tương xứng, và bảo cô ta cúi lạy bà của Revata rồi nói rằng, ‘Mẹ ơi, con sẽ là người lớn hơn bà của con.'”
เรวตะฟังถ้อยคำของคนเหล่านั้นแล้วคิดว่า นางทาริกานี้ยังอยู่ในปฐมวัย เขาว่ารูปมีอย่างนี้ของนางทาริกานี้จักเป็นเหมือนรูปย่าของเรา เราจักถามความประสงค์ของคนเหล่านั้นก่อน แล้วจึงกล่าวว่า ท่านทั้งหลายจะกระทำอย่างไร.
Revata nghe lời nói của những người đó thì nghĩ rằng, “Cô gái này còn trẻ, họ nói rằng hình dáng của cô ấy sẽ giống như hình dáng của bà nội chúng ta. Tôi sẽ hỏi ý kiến của họ trước rồi mới nói rằng, ‘Các bạn sẽ làm gì đây?'”
มารดาบิดาตอบว่า “เราบอกว่า พ่อเอ๋ย หญิงนี้จะถึงความชราเหมือนอย่างย่าของเจ้า”.
Cha mẹ trả lời, “Chúng tôi nói rằng, ‘Con ơi, cô gái này sẽ trở nên già nua như bà của con.'”
เรวตะนั้นถามว่า รูปของหญิงนี้จักเป็นเหมือนอย่างนี้หรือ.
Revata hỏi, “Hình dáng của người phụ nữ này sẽ giống như vậy sao?”
มารดาบิดาตอบว่า พ่อเอ๋ย เจ้าพูดอะไร ผู้มีบุญมากก็จะเป็นอย่างนี้.
Cha mẹ trả lời, “Con ơi, con đang nói gì vậy? Những người có phước sẽ trở thành như thế này.”
เรวตะนั้นคิดว่า ได้ยินว่า รูปนี้ก็จักมีหนังเหี่ยวโดยทำนองนี้ จักมีผมหงอก ฟันหักโดยทำนองนี้ เรายินดีในรูปเช่นนี้จะทำอะไรได้ เราจักไปตามทางที่พี่ชายของเราไปแล้วนั่นแหละ จึงทำเป็นเหมือนยืนพูดกะเด็กหนุ่มๆ รุ่นๆ กันว่า มาเถอะพวกเรา เราไปวิ่งกันแล้วออกไปเสีย.
Revata nghĩ rằng, “Nghe nói rằng, hình dáng này sẽ có làn da nhăn nheo như vậy, sẽ có tóc bạc và răng hỏng như thế. Tôi không muốn nhìn thấy hình dáng như vậy. Tôi sẽ đi theo con đường mà các anh trai của tôi đã đi, vì vậy tôi đã giả vờ như đang đứng nói chuyện với những chàng trai trẻ rằng, ‘Hãy đến đây, chúng ta hãy cùng nhau chạy đi!'”
มารดาบิดากล่าวว่า พ่อในวันมงคล เจ้าอย่าไปข้างนอกเลย.
Cha mẹ nói, “Con ơi, vào ngày tốt lành này, con đừng có ra ngoài.”
เรวตะนั้นทำเป็นเหมือนเล่นกับเด็กทั้งหลายอยู่ พอถึงวาระตนวิ่งก็ไปหน่อยหนึ่งแล้วกลับเดินกลับช้าๆ พอถึงวาระอีกก็ไปให้เหมือนไกลกว่านั้นแล้วกลับมา ครั้งถึงวาระที่สามก็รู้ว่า คราวนี้เป็นเวลาของเราจะหนีไปในที่ต่อหน้านั่นเอง ไปจนถึงป่าซึ่งเป็นที่อยู่ของภิกษุผู้ถือบังสุกุลเป็นวัตร อภิวาทพระเถระแล้วขอบรรพชา.
Revata giả vờ như đang chơi với bọn trẻ, đến lúc đến lượt mình chạy thì chạy một chút rồi quay trở lại từ từ. Khi đến lượt lần nữa, thì chạy xa hơn một chút rồi quay lại. Đến lượt thứ ba, Ngài biết rằng, “Đây là lúc tôi sẽ trốn đi.” Ngài đi đến khu rừng nơi các vị khất sĩ sống theo quy định, chào vị thầy rồi xin xuất gia.
พระเถระกล่าวว่า สัปบุรุษ เราไม่รู้จักเธอ เธอเป็นลูกของใคร และเธอก็มาโดยทั้งที่แต่งตัวอยู่เช่นนี้ ใครจะสามารถให้เธอบวชได้เล่า. เขายกแขนทั้ง ๒ ขึ้นร้องเสียงดังว่า เขาปล้นฉัน เขาปล้นฉัน ดังนี้.
Vị thầy nói rằng, “Người bạn, tôi không biết cô là ai, con của ai, và cô đến đây trong bộ dạng như thế này. Ai có thể cho cô xuất gia được chứ?” Ngài giơ cả hai tay lên và kêu lớn rằng, “Họ đã cướp của tôi! Họ đã cướp của tôi!”
พวกภิกษุก็มามุงทั้งข้างโน้นข้างนี้กล่าวว่า สัปบุรุษ ในที่นี้ ไม่มีใครที่ชื่อว่าปล้นผ้าหรือเครื่องประดับของเธอเลย เธอจะพูดว่า เขาปล้นอย่างไร.
Những vị khất sĩ cũng tụ tập lại, nói rằng, “Người bạn, ở đây không có ai tên là cướp vải hay trang sức của cô cả. Cô có thể nói họ đã cướp như thế nào?”
เรวตะกล่าวว่า ท่านผู้เจริญ ผมมิได้กล่าวหมายถึงผ้าและเครื่องประดับ แต่กล่าวหมายถึงพวกท่านยังปล้นสมบัติข้างใน ไม่ต้องบวชผมก่อน โปรดบอกให้พี่ชายของข้าพเจ้าทราบก่อน.
Revata nói, “Kính thưa, tôi không nói về vải và trang sức, mà tôi nói về việc các ngài đã cướp tài sản bên trong. Không cần phải cho tôi xuất gia trước, xin hãy cho tôi biết với anh trai của tôi trước.”
ภิกษุถามว่า ก็พี่ชายของเธอชื่อไร
Vị khất sĩ hỏi, “Vậy anh trai của cô tên gì?”
ร. ในเวลาเป็นคฤหัสถ์ชื่ออุปติสสะ แต่ในเวลานี้คนทั้งหลายเรียกว่าสารีบุตร.
Revata đáp, “Khi còn là cư sĩ, tên là Upatissa, nhưng bây giờ mọi người gọi là Sāriputta.”
ภิกษุทั้งหลายกล่าวว่า อาวุโส เมื่อเป็นอย่างนั้น กุลบุตรผู้นี้ก็เป็นน้องชายคนเล็กของพวกเรา พระธรรมเสนาบดีพี่ชายใหญ่ของเราพูดไว้ก่อนเทียวว่า พวกญาติของเราล้วนเป็นมิจฉาทิฏฐิ ญาติของเราคนใดคนหนึ่งมาก็จงให้เขาบวชด้วยอุบายอย่างใดอย่างหนึ่งเถิด ดังนั้นจึงกล่าวว่า กุลบุตรนี้เป็นน้องตัวของพระเถระ ท่านทั้งหลายจงให้เธอบวชเถิด ดังนี้แล้วบอกตจปัญจกกัมมัฏฐานแล้ว.
Các vị khất sĩ nói rằng, “Thưa trưởng lão, nếu như vậy, thì người con trai này là em trai út của chúng ta. Thượng tọa Dhammasena, anh trai lớn của chúng ta đã nói trước rằng, “Tất cả bà con của chúng ta đều có quan điểm sai lầm, nếu một trong số họ đến thì hãy cho họ xuất gia bằng một cách nào đó.” Do đó, họ nói rằng người con trai này là em trai của vị thầy, các vị hãy cho cô ấy xuất gia đi.” Sau đó họ đã nói về năm pháp hành.
พระเถระเรียนกัมมัฏฐานแล้วเข้าไปสู่ป่าไม้ตะเคียนซึ่งมีประการดังกล่าวไว้ ในที่ไม่ไกลอุปัชฌาย์อาจารย์ บำเพ็ญสมณธรรม เมื่อท่านเพียรพยายามอยู่ด้วยตั้งใจว่าเรายังไม่บรรลุพระอรหัต ก็จักไม่ไปเฝ้าพระทศพลหรือพระเถระพี่ชาย.
Vị thầy đã học các pháp hành rồi đi vào khu rừng cây dầu nơi đã đề cập, gần đó có vị thầy hướng dẫn. Ngài thực hành các pháp môn của người xuất gia, với ý chí rằng, “Chúng ta chưa đạt được quả vị A La Hán, vì vậy không nên đến gặp Đức Thế Tôn hay anh trai thầy.”
ล่วงไป ๓ เดือนเป็นสัตว์ผู้สุขุมาลชาติบริโภคโภชนะอันปอน จิตก็ไม่ประณีต ไม่มุ่งหน้าอยู่ในพระกัมมัฏฐาน โดยล่วงไป ๓ เดือน ปวารณาออกพรรษาแล้วจึงบำเพ็ญสมณธรรมในที่นั้นนั่นแหละ.
Sau ba tháng, vì là chúng sinh đã tiêu thụ thức ăn ngon, tâm trí không thanh tịnh, không tập trung vào các pháp hành. Sau ba tháng, sau mùa an cư kết thúc, Ngài lại tiếp tục thực hành các pháp môn tại nơi đó.
เมื่อท่านบำเพ็ญสมณธรรมอยู่ จิตก็มีอารมณ์เป็นอันเดียวแล้ว ท่านเจริญวิปัสสนาแล้วบรรลุพระอรหัต.
Khi Ngài thực hành các pháp môn, tâm trí trở nên nhất tâm, Ngài phát triển thiền tuệ và đạt được quả vị A La Hán.
ครั้งนั้น ท่านพระสารีบุตรทูลพระศาสดาว่า ข้าแต่พระองค์ผู้เจริญ ได้ยินว่า เรวตะน้องคนเล็กของข้าพระองค์ออกบวช เธอจะยินดีหรือไม่ยินดี ข้าพระองค์จักไปเยี่ยมเธอ.
Lần đó, Thầy Sāriputta thưa với Đức Phật rằng, “Kính bạch Thế Tôn, tôi nghe rằng Revata, em trai út của tôi, đã xuất gia. Cô ấy sẽ vui hay không vui? Tôi sẽ đi thăm cô ấy.”
พระผู้มีพระภาคเจ้าทรงทราบว่า พระเรวตะเริ่มวิปัสสนาแล้ว จึงทรงห้ามเสีย ๒ ครั้ง ในครั้งที่ ๓ ท่านทูลวิงวอนอีก.
Đức Thế Tôn biết rằng Revata đã bắt đầu thiền quán, nên Ngài đã cấm không cho đi hai lần. Lần thứ ba, Ngài lại xin.
ทรงทราบว่าบรรลุพระอรหัตแล้วจึงตรัสว่า สารีบุตร แม้เราก็จักไปด้วย เธอจงบอกภิกษุทั้งหลายเถิด.
Ngài biết rằng Revata đã đạt được quả vị A La Hán, rồi Ngài nói rằng, “Sāriputta, tôi cũng sẽ đi cùng, hãy nói cho các vị khất sĩ biết.”
พระเถระประชุมภิกษุสงฆ์แล้วแจ้งแก่พระภิกษุทั้งปวงว่า อาวุโส พระศาสดามีพระประสงค์จะเสด็จจาริก รูปใดประสงค์จะไปด้วยก็จงมาเถิด.
Vị thầy đã triệu tập các vị khất sĩ và thông báo với tất cả các vị khất sĩ rằng, “Kính thưa, Đức Thế Tôn có ý muốn đi du hành. Ai muốn đi cùng thì hãy đến đây.”
ในเวลาที่พระทศพลเสด็จจาริก ชื่อว่าภิกษุผู้ล้าหลังอยู่มีน้อย โดยมากภิกษุเป็นอันมากประสงค์จะไป เพราะคิดว่าจะเห็นพระสรีระของพระศาสดาที่มีวรรณะเพียงดังทอง หรือจักฟังธรรมกถาอันไพเราะด้วยประการฉะนี้.
Khi Đức Thế Tôn đi du hành, có rất ít vị khất sĩ lùi lại, phần lớn các vị khất sĩ đều mong muốn đi cùng vì nghĩ rằng họ sẽ được thấy thân tướng của Đức Thế Tôn, có màu vàng rực rỡ, hoặc được nghe thuyết pháp tuyệt vời như vậy.
พระศาสดามีภิกษุหมู่ใหญ่เป็นบริวาร เสด็จออกไปด้วยหมายจะเยือนพระเรวตะ.
Đức Thế Tôn có một nhóm đông các vị khất sĩ làm tùng hạ, Ngài xuất hành với ý định sẽ đến thăm Revata.
พระอานนท์เถระ ถึงทาง ๒ แพร่งในที่แห่งหนึ่งครั้งนั้นจึงทูลถามพระผู้มีพระภาคเจ้าว่า ตรงนี้ทางเป็น ๒ แพร่ง ภิกษุสงฆ์จะไปทางไหน พระเจ้าข้า.
Thầy Ananda đến một ngã ba và hỏi Đức Thế Tôn rằng, “Thưa Ngài, ở đây có hai con đường, các vị khất sĩ sẽ đi theo con đường nào?”
พระผู้มีพระภาคเจ้าตรัสถามว่า อานนท์ ทางไหนละเป็นทางตรง.
Đức Thế Tôn hỏi lại, “Ananda, con đường nào là con đường thẳng?”
พระเถระทูลว่า ข้าแต่พระองค์ผู้เจริญ ทางตรงมีระยะทาง ๓๐ โยชน์ เป็นทางของอมนุษย์ (เดิน) ส่วนทางอ้อมมีระยะทาง ๖๐ โยชน์เป็นทางปลอดภัยหาภิกษาได้ง่าย.
Vị thầy đáp, “Thưa Ngài, con đường thẳng dài 30 do tuần, là con đường của chúng sinh không có hình tướng, trong khi con đường vòng dài 60 do tuần thì an toàn và dễ tìm được thức ăn.”
พระผู้มีพระภาคเจ้าตรัสว่า อานนท์ พระสีวลีมากับเราแล้วหรือ.
Đức Thế Tôn nói, “Ananda, có phải Sīvalī đã đi cùng chúng ta không?”
พระเถระมาด้วย พระเจ้าข้า.
Vị thầy đáp, “Thưa Ngài, có.”
ถ้าอย่างนั้น พระสงฆ์จงไปทางตรง เราจักทดลองบุญของพระสีวลี.
“Nếu vậy, các vị khất sĩ hãy đi theo con đường thẳng. Chúng ta sẽ thử thách phước báu của Sīvalī.”
พระศาสดามีภิกษุสงฆ์เป็นบริวาร เสด็จทางดง เพื่อทดลองบุญของพระสีวลีเถระ ตั้งต้นแต่ที่พระศาสดาเสด็จดำเนินขึ้นทาง หมู่เทพเนรมิตนครในที่ทุกๆ โยชน์ ตกแต่งวิหารเพื่อเป็นที่อยู่ถวายภิกษุสงฆ์มีพระพุทธเจ้าเป็นประมุข.
Đức Thế Tôn có các vị khất sĩ làm tùng hạ, Ngài đi vào rừng để thử thách phước báu của Sīvalī. Khi Ngài bắt đầu đi, các vị thiên thần đã dựng nên thành phố ở mỗi do tuần, trang trí các đền thờ làm nơi cư trú cho các vị khất sĩ dưới sự dẫn dắt của Đức Phật.
เหล่าเทวบุตรเป็นเหมือนพวกกรรมกรที่พระราชาส่งไป ถือข้าวยาคูและของเคี้ยวเป็นต้นไปถามว่า พระคุณเจ้าสีวลีอยู่ไหน พระคุณเจ้าสีวลีอยู่ไหน.
Các thiên thần giống như những người làm công được nhà vua cử đi, mang theo thức ăn và đồ nhắm, hỏi rằng, “Ngài Sīvalī ở đâu? Ngài Sīvalī ở đâu?”
พระเถระให้รับเครื่องสักการะสัมมานะไปยังสำนักพระศาสดา.
Vị thầy đã tiếp nhận các lễ vật và phẩm vật đến nơi Đức Thế Tôn.
พระศาสดาพร้อมกับภิกษุสงฆ์ทรงชื่นชมเครื่องสักการะและสัมมานะ โดยทำนองนี้แหละเสด็จดำเนินไปสิ้นระยะทางวันละโยชน์เป็นอย่างยิ่ง ล่วงทางกันดารถึง ๓๐ โยชน์ จนถึงที่พักอาศัยของพระขทิรวนิยเถระ.
Đức Thế Tôn cùng với các vị khất sĩ đã vui vẻ nhận các lễ vật và phẩm vật, rồi Ngài tiếp tục đi với tốc độ rất nhanh, vượt qua đoạn đường khó khăn dài 30 do tuần, cho đến nơi cư trú của thầy Kṭhīravaniya.
พระเถระทราบว่าพระศาสดาเสด็จมา จึงเนรมิตวิหาร สถานที่อยู่ของตนให้พอแก่ภิกษุสงฆ์มีพระพุทธเจ้าเป็นประธาน และพระคันธกุฎีที่พักกลางคืนที่พักกลางวันเป็นต้นถวายพระทศพลด้วยฤทธิ์ ออกไปรับเสด็จพระตถาคตแล้ว.
Vị thầy biết rằng Đức Thế Tôn đã đến, nên đã xây dựng một ngôi chùa, nơi ở của mình, đủ cho các vị khất sĩ có Đức Phật làm chủ, và các căn phòng nghỉ đêm và nghỉ ngày, dâng lên Đức Thế Tôn bằng thần lực, rồi đi ra đón Ngài.
พระศาสดาเสด็จเข้าสู่วิหารโดยทางที่ประดับแล้ว ตกแต่งแล้ว.
Đức Thế Tôn đã vào ngôi chùa qua con đường đã được trang trí và trang hoàng.
คราวนั้น เมื่อพระตถาคต เสด็จเข้าพระคันธกุฎี ภิกษุทั้งหลายก็เข้าไปสู่เสนาสนะที่ถึงแล้วโดยควรแก่พรรษา.
Lúc đó, khi Đức Thế Tôn vào căn phòng nghỉ, các vị khất sĩ cũng vào trong chỗ ngồi thích hợp với tuổi thọ của họ.
เทวดาคิดว่า เวลานิ้มิใช่เวลาอาหาร จึงนำน้ำอัฏฐบานมาถวาย.
Các vị thiên thần nghĩ rằng, “Đây không phải là giờ ăn”, nên đã mang nước Aṭṭhabāna đến để dâng lên.
พระศาสดาทรงดื่มน้ำอัฏฐบานพร้อมกับพระภิกษุสงฆ์ โดยทำนองนี้ เมื่อพระตถาคตทรงชื่นชมสักการะสัมมานะล่วงไปกึ่งเดือน.
Đức Thế Tôn đã uống nước Aṭṭhabāna cùng với các vị khất sĩ. Như vậy, khi Đức Thế Tôn thưởng thức các lễ vật đã qua nửa tháng.
ครั้งนั้น ภิกษุที่กระสันขึ้นบางพวกนั่งอยู่ในที่เดียวกัน สนทนากันขึ้นว่า พระศาสดาผู้ทศพลตรัสว่า “น้องชายคนเล็กของพระอัครสาวกของเรา” เสด็จมาเยือนภิกษุผู้นวกัมมิกะผู้ก่อสร้างเห็นปานนี้ คิดว่าเชตวันมหาวิหารหรือเวฬุวันมหาวิหารเป็นต้น จักทำอะไรในสำนักแห่งวิหารนี้ได้.
Lần đó, một số vị khất sĩ đang ngồi cùng nhau bàn luận rằng, “Đức Thế Tôn đã nói rằng ’em trai út của các thượng tọa của chúng ta’ đã đến thăm vị khất sĩ người thợ xây như vậy, họ nghĩ rằng tại đây, tại ngôi chùa này, sẽ làm gì ở đại thính đường Jetavana hoặc Veluvana?”
ภิกษุแม้นี้เป็นผู้กระทำนวกรรมเห็นปานนี้ จักกระทำสมณธรรมชื่ออะไรได้ ดังนี้.
Vị khất sĩ này là người thực hiện công việc xây dựng như vậy, thì sẽ thực hiện các pháp hành của người xuất gia với tên gọi nào đây?
ครั้งนั้น พระศาสดาทรงดำริว่า เมื่อเราอยู่นานไป ที่นี้ก็จักเกลื่อนกล่น ธรรมดาภิกษุผู้อยู่ป่าเป็นวัตรย่อมมีความต้องการความสงัด เรวตะจักอยู่ไม่ผาสุก แต่นั้นจึงเสด็จไปยังที่พักกลางวันของพระเรวตะ.
Lúc đó, Đức Thế Tôn suy nghĩ rằng, “Khi chúng ta ở đây lâu, nơi này sẽ trở nên hỗn loạn. Thông thường, các vị khất sĩ sống trong rừng cần sự yên tĩnh, Revata sẽ không thoải mái ở đây.” Do đó, Ngài đã đi đến nơi nghỉ giữa ngày của Revata.
พระเถระนั่งบนแผ่นหินพิงแผ่นกระดานที่ห้อยลงไป ณ ท้ายที่จงกรมแต่ลำพังองค์เดียว เห็นพระศาสดาเสด็จมาแต่ที่ไกล จึงต้อนรับถวายบังคม.
Vị thầy ngồi trên một phiến đá dựa vào tấm ván treo xuống, tại cuối khu đi bộ, một mình, thấy Đức Thế Tôn đến từ xa, nên đã chào đón và kính cẩn cúi lạy Ngài.
ทีนั้น พระศาสดาตรัสถามท่านว่า เรวตะ ที่นี้เป็นที่ประกอบด้วยพาลมฤค (สัตว์ร้าย) เธอได้ยินเสียงช้างและม้าเป็นต้นที่ดุร้าย ทำอย่างไรกะเสียงนั้น.
Lúc đó, Đức Thế Tôn hỏi Ngài, “Revata, nơi này có nhiều thú dữ, cô có nghe thấy tiếng voi và ngựa hung dữ không? Cô làm thế nào với âm thanh đó?”
พระเรวตะทูลว่า ข้าแต่พระองค์ผู้เจริญ เมื่อข้าพระองค์ได้ยินเสียงของสัตว์เหล่านั้น ย่อมเกิดความปีติอยู่ในป่า.
Revata thưa rằng, “Kính bạch Ngài, khi con nghe tiếng của những con vật đó, con cảm thấy vui mừng trong rừng.”
พระศาสดาตรัสพระดำรัสชื่ออรัญญปัสสกถาด้วยคาถา ๕๐๐ คาถาแด่พระเรวตะเถระ.
Đức Thế Tôn đã nói lời kệ mang tên “Araññapassaka” với 500 câu kệ dành cho thầy Revata.
วันรุ่งขึ้นเสด็จไปเพื่อบิณฑบาต ในที่ไม่ไกลแล้วเรียกพระเรวตะมา ทรงกระทำให้พวกภิกษุที่กล่าวติเตียนพระเถระให้หลงลืมไม้เท้า รองเท้า ทะนานน้ำมันและร่มไว้.
Ngày hôm sau, Ngài đi để khất thực. Ở nơi không xa, Ngài đã gọi Revata đến và khiến cho những vị khất sĩ đã chê bai thầy quên mất gậy, giày, bình dầu và dù.
ภิกษุเหล่านั้นต้องกลับมาเพื่อเอาบริขารของตน เดินไปตามทางที่ตนมาแล้วนั่นเองก็กำหนดสถานที่ที่ตนวางไว้ไม่ได้.
Các vị khất sĩ đó phải quay lại để lấy vật dụng của mình, đi theo con đường mà họ đã đến, nhưng không thể xác định được vị trí mà họ đã đặt.
ก็ทีแรกภิกษุเหล่านั้นเดินไปตามทางที่เขาประดับแล้วตกแต่งแล้ว แต่ในวันนั้น กลับเดินไปตามทางขรุขระ ต้องนั่งกระหย่ง ต้องเดินไปด้วยเข่าในที่นั้นๆ
Lúc đầu, các vị khất sĩ đi theo con đường đã được trang trí và trang hoàng, nhưng trong ngày hôm đó, họ lại đi theo con đường gồ ghề, phải ngồi xổm và bò bằng đầu gối ở nơi đó.
ภิกษุเหล่านั้นต่างเหยียบย่ำพุ่มไม้ กอไม้และหนามไปถึงที่ๆ ต้องอัธยาศัยที่ตนเคยอยู่ ก็พบร่มของตนบนตอไม้ตะเคียนนั้นๆ ได้ จำรองเท้า ไม้เท้าและทะนานน้ำมันได้.
Các vị khất sĩ lần lượt dẫm lên các bụi cây, cây cỏ và gai cho đến khi đến nơi mà họ đã ở, và tìm thấy chiếc ô của mình trên gốc cây dầu, cùng với giày, gậy và bình dầu của họ.
ในตอนนั้น พวกเธอจึงรู้ว่าภิกษุนี้เป็นผู้มีฤทธิ์ ครั้นถือเอาบริขารของตนๆ แล้วพูดว่า ชื่อว่าสักการะที่ตกแต่งถวายพระทศพลย่อมเป็นถึงเพียงนี้ พากันไปแล้ว.
Lúc đó, họ nhận ra rằng vị khất sĩ này có quyền năng, và khi cầm lấy vật dụng của mình rồi nói rằng, “Các lễ vật dâng lên Đức Thế Tôn chỉ đáng giá đến thế này”, rồi họ cùng nhau đi.
นางวิสาขามหาอุบาสิกาถามพวกภิกษุที่ไปข้างหน้าในเวลาที่ท่านนั่งในเรือนของตนว่า ท่านผู้เจริญ ที่อยู่ของพระเรวตเถระน่าพอใจหรือไม่ล่ะ.
Bà Visākhā, một nữ tín đồ lớn, đã hỏi các vị khất sĩ đang ngồi trong nhà của bà rằng, “Kính thưa, nơi ở của thầy Revata có làm hài lòng không?”
ภิกษุเหล่านั้นตอบว่า น่าพอใจอุบาสิกา เสนาสนะนั้นเปรียบด้วยสวนนันทวันและสวนจิตรลดาเป็นต้น.
Các vị khất sĩ đáp, “Thật hài lòng, bà tín đồ, nơi ở đó so với vườn Nandana và vườn Jitulada là như nhau.”
ทีนั้นจึงถามภิกษุที่มาถึงภายหลังสุดของภิกษุเหล่านั้นว่า พระคุณเจ้าที่อยู่ของพระเรวตเถระน่าพอใจไหม.
Rồi bà hỏi vị khất sĩ đến sau cùng trong số các vị đó rằng, “Thưa ngài, nơi ở của thầy Revata có làm hài lòng không?”
ภิกษุเหล่านั้นตอบว่า อย่าถามเลย อุบาสิกา ที่นั้นเป็นที่ๆ ไม่สมควรจะพูดถึง ที่ดอน มีก้อนกรวด ก้อนหินป่าไม้ตะเคียนอย่างนี้ ภิกษุนั้นยังอยู่ในที่นั้นได้.
Các vị khất sĩ đáp, “Đừng hỏi nữa, bà tín đồ, nơi đó không nên nói đến. Trên vùng đất cao có nhiều đá sỏi, đá và rừng cây dầu như thế này, vị khất sĩ đó vẫn ở nơi đó.”
มหาอุบาสิกาวิสาขาฟังถ้อยคำของภิกษุที่มาก่อนและที่มาทีหลังแล้วคิดว่า ถ้อยคำของภิกษุพวกไหนหนอเป็นคำจริง.
Nữ tín đồ Visākhā nghe những lời của các vị khất sĩ đến trước và sau, rồi nghĩ rằng, “Lời nào của các vị khất sĩ là lời thật?”
ภายหลังภัตรถือเอาของหอมและดอกไม้ไปกระทำบำรุงพระทศพล ถวายบังคมแล้วนั่ง ณ ที่สมควรส่วนข้างหนึ่ง จึงทูลถามพระศาสดาว่า ข้าแต่พระองค์ผู้เจริญ พระคุณเจ้าบางพวกสรรเสริญที่อยู่ของพระเรวตเถระ บางพวกติ ข้อนี้เป็นอย่างไร พระเจ้าข้า.
Sau khi ăn xong, bà đã mang hương và hoa đến để cúng dường Đức Thế Tôn, cúi lạy và ngồi ở một bên thích hợp, rồi hỏi Đức Thế Tôn rằng, “Kính bạch Ngài, một số người khen ngợi nơi ở của thầy Revata, còn một số khác thì chê bai. Điều này như thế nào, thưa Ngài?”
พระศาสดาตรัสว่า ดูก่อนวิสาขามหาอุบาสิกา ที่ของพระอริยะจะเป็นที่น่ารื่นรมย์หรือไม่เป็นที่น่ารื่นรมย์จงยกไว้ จิตของพระอริยะย่อมยินดีทั้งนั้น ที่นั้นชื่อว่าเป็นที่น่ารื่นรมย์แท้จริง.
Đức Thế Tôn nói, “Này Visākhā, nơi ở của bậc thánh có thể là nơi đáng vui hay không, điều đó hãy để qua một bên. Tâm của bậc thánh luôn vui vẻ, nơi đó chính là nơi đáng vui thật sự.”
ดังนี้แล้วตรัสพระคาถานี้ว่า
Nói xong, Ngài đã phát biểu bài kệ này:
คาเม วา ยทิ วารญฺเญ นินฺเน วา ยทิ วา ถเล
Dù là nơi nào, trong nhà, rừng, hay ở vùng đất thấp hay cao,
ยตฺถ อรหนฺโต วิหรนฺติ ตํ ภูมิรามเณยฺยกนฺติ.
nơi nào các bậc A La Hán trú ngụ, nơi đó được gọi là miền đất đáng vui vẻ.
พระอรหันต์ทั้งหลาย อยู่ในที่ใด ไม่ว่าเป็นบ้าน ป่า ที่ลุ่มหรือที่ดอนก็ตาม ที่นั้น เป็นภูมิภาคที่ น่ารื่นรมย์ทั้งนั้น ดังนี้.
Các bậc A La Hán ở bất cứ đâu, dù là trong nhà, rừng, ở vùng đất thấp hay cao, nơi đó đều là miền đất đáng vui vẻ.
ต่อมาในภายหลัง พระศาสดาประทับนั่งในท่ามกลางหมู่พระอริยะในเชตวันมหาวิหาร ทรงสถาปนาพระเถระไว้ในตำแหน่งเป็นยอดของเหล่าภิกษุทั้งหลายผู้มีปกติอยู่ในป่าเป็นวัตรแล.
Sau đó, Đức Thế Tôn ngự tọa giữa các bậc thánh trong đại thính đường Jetavana, đã thiết lập vị thầy ở vị trí cao quý nhất trong số các vị khất sĩ sống theo quy tắc trong rừng.
จบอรรถกถาสูตรที่ ๕
Kết thúc bài kệ thứ 5.