(18) 3. Upāsakavaggo
Chương Ba: Phẩm Cư Sĩ.
1-6. Sārajjasuttādivaṇṇanā
Phần Chú Giải Kinh Có Lẫn Sự Tò Mò và Các Kinh Liên Quan.
171-176. Tatiyassa paṭhamadutiyatatiyacatutthe natthi vattabbaṃ.
Trong phần thứ ba, không có gì đáng được nói thêm ở bốn kinh đầu tiên.
Pañcame upāsakapacchimakoti upāsakanihīno.
Ở phần thứ năm, “upāsaka-pacchimako” nghĩa là người thiếu sót phẩm chất của một cư sĩ.
‘‘Iminā diṭṭhādinā idaṃ nāma maṅgalaṃ bhavissatī’’ti evaṃ bālajanaparikappitakotūhalasaṅkhātena diṭṭhasutamutamaṅgalena samannāgato kotūhalamaṅgaliko.
Người ấy nghĩ rằng: “Nhờ việc thấy, nghe, hoặc thực hành điều này mà điều gọi là phước lành sẽ hiện hữu,” và với sự tò mò nông cạn như vậy, họ tự cho mình đã đầy đủ các phước lành qua những gì đã thấy, nghe, hoặc hiểu. Do đó, họ trở thành người có phước lành dựa trên sự tò mò.
Tenāha ‘‘iminā idaṃ bhavissatī’’tiādi.
Do đó có lời dạy rằng: “Nhờ việc này mà điều ấy sẽ hiện hữu.”
Maṅgalaṃ paccetīti diṭṭhamaṅgalādibhedaṃ maṅgalameva patthiyāyati.
“Maṅgalaṃ pacceti” nghĩa là người ấy chỉ mong cầu các loại phước lành như đã thấy hoặc nghe.
No kammanti kammassakataṃ no patthiyāyati.
“Họ không mong cầu nghiệp” nghĩa là họ không hướng đến việc nhận thức rằng mọi người là chủ nhân của nghiệp mình tạo.
Imamhā sāsanāti ito sabbaññubuddhasāsanato.
“Imamhā sāsanā” nghĩa là từ giáo pháp toàn giác của Đức Phật Toàn Tri này.
Bahiddhāti bāhirakasamaye.
“Bahiddhā” nghĩa là vào thời điểm khi tâm bị phân tán ra ngoài.
Dakkhiṇeyyaṃ pariyesatīti ‘‘duppaṭipannā dakkhiṇeyyā’’ti saññī gavesati.
“Dakkhiṇeyyaṃ pariyesati” nghĩa là người ấy tìm kiếm những đối tượng đáng cúng dường, nhưng do nhận thức sai lầm rằng “những người khó thực hành là đáng cúng dường,” họ đi tìm kiếm.
Ettha dakkhiṇapariyesanapubbakāre ekaṃ katvā pañca dhammā veditabbā.
Ở đây, sau khi thực hiện việc tìm kiếm cúng dường như là bước chuẩn bị đầu tiên, cần phải hiểu rõ năm pháp.
Chaṭṭhaṃ uttānameva.
Phần thứ sáu có ý nghĩa rõ ràng và dễ hiểu.
Sārajjasuttādivaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần Chú Giải Kinh Có Lẫn Sự Tò Mò và Các Kinh Liên Quan đã kết thúc.
7-8. Vaṇijjāsuttādivaṇṇanā
Phần Chú Giải Kinh Về Thương Mại và Các Kinh Liên Quan.
177-8. Sattame satthavaṇijjāti āvudhabhaṇḍaṃ katvā vā kāretvā vā kataṃ vā paṭilabhitvā tassa vikkayo.
Trong phần thứ bảy, “satthavaṇijjā” nghĩa là việc buôn bán vũ khí; tức là làm ra, sai người làm ra, hoặc thu nhận rồi đem bán các loại vũ khí.
Āvudhabhaṇḍaṃ kāretvā tassa vikkayoti idaṃ pana nidassanamattaṃ.
“Làm ra vũ khí rồi đem bán” chỉ là cách diễn đạt để minh họa mà thôi.
Sūkaramigādayo posetvā tesaṃ vikkayoti sūkaramigādayo posetvā tesaṃ maṃsaṃ sampādetvā vikkayo.
“Nuôi lợn, nai, v.v… rồi đem bán” nghĩa là nuôi chúng, giết thịt, chế biến rồi đem bán.
Ettha ca satthavaṇijjā paroparādhanimittatāya akaraṇīyā vuttā, sattavaṇijjā abhujissabhāvakaraṇato, maṃsavisavaṇijjā vadhahetuto, majjavaṇijjā pamādaṭṭhānato.
Ở đây, việc buôn bán vũ khí được nói là không nên làm vì là nguyên nhân gây hại cho người khác; buôn bán sinh vật vì dẫn đến sự giết hại; buôn bán thịt vì là nguyên nhân của cái chết; và buôn bán rượu vì là nền tảng của sự phóng dật.
Aṭṭhamaṃ uttānameva.
Phần thứ tám có ý nghĩa rõ ràng và dễ hiểu.
Vaṇijjāsuttādivaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần Chú Giải Kinh Về Thương Mại và Các Kinh Liên Quan đã kết thúc.
9. Gihisuttavaṇṇanā
Chú Giải Kinh Người Tại Gia.
179. Navame ābhicetasikānanti abhicetoti abhikkantaṃ visuddhacittaṃ vuccati adhicittaṃ vā, abhicetasi jātāni ābhicetasikāni, abhiceto sannissitānīti vā ābhicetasikāni.
Trong phần thứ chín, “ābhicetasikāni” nghĩa là những trạng thái tâm cao thượng; tức là tâm trong sáng, thanh tịnh, hay tâm phát triển vượt bậc; cũng gọi là những trạng thái thuộc về tâm cao thượng.
Tenevāha ‘‘uttamacittanissitāna’’nti.
Do đó có lời dạy rằng: “Dựa vào tâm tối thượng.”
Diṭṭhadhammasukhavihārānanti diṭṭhadhamme sukhavihārānaṃ.
“Diṭṭhadhammasukhavihārāni” nghĩa là những trạng thái an trú hạnh phúc ngay trong hiện tại.
Diṭṭhadhammoti paccakkho attabhāvo vuccati, tattha sukhavihārānanti attho.
“Diṭṭhadhamma” nghĩa là trạng thái thân hiện tiền, và “sukhavihārāni” là ý nghĩa của nó.
Rūpāvacarajjhānānametaṃ adhivacanaṃ.
Đây là cách gọi khác của các tầng thiền thuộc cõi Sắc.
Tāni hi appetvā nisinnā jhāyino imasmiṃyeva attabhāve asaṃkiliṭṭhaṃ nekkhammasukhaṃ vindanti, tasmā ‘‘diṭṭhadhammasukhavihārānī’’ti vuccanti.
Vì những vị thiền giả sau khi đạt được các tầng thiền ấy, ngồi xuống và an trú ngay trong trạng thái thân này, hưởng niềm hạnh phúc thanh tịnh của sự xuất ly, do đó gọi là “những trạng thái an trú hạnh phúc ngay trong hiện tại.”
Catubbidhamerayanti pupphāsavo, phalāsavo, guḷāsavo, madhvāsavoti evaṃ catuppabhedaṃ merayaṃ.
“Meraya bốn loại” nghĩa là rượu làm từ hoa, từ trái cây, từ đường thốt nốt, và từ mật ong; như vậy có bốn loại meraya.
Pañcavidhañca suranti pūvasurā, piṭṭhasurā, odanasurā, kiṇṇapakkhittā, sambhārasaṃyuttāti evaṃ pañcappabhedaṃ suraṃ.
“Rượu năm loại” nghĩa là rượu làm từ bánh mì, từ bột, từ cơm, từ hỗn hợp lên men, và từ các thành phần phối trộn; như vậy có năm loại rượu.
Puññaṃ attho etassāti puññattho.
“Nghĩa của từ này là phước đức,” tức là mục tiêu của phước đức.
Yasmā panesa puññena atthiko nāma hoti, tasmā vuttaṃ ‘‘puññena atthikassā’’ti.
Vì người ấy được gọi là người mong cầu lợi ích thông qua phước đức, do đó có câu: “người mong cầu lợi ích nhờ phước đức.”
Sesamettha uttānameva.
Các phần còn lại đều có ý nghĩa rõ ràng và dễ hiểu.
Gihisuttavaṇṇanā niṭṭhitā.
Chú Giải Kinh Người Tại Gia đã kết thúc.
10. Gavesīsuttavaṇṇanā
Chú Giải Kinh Gavesī.
180. Dasame sukāraṇanti bodhiparipācanassa ekantikaṃ sundaraṃ kāraṇaṃ.
Trong phần thứ mười, “sukāraṇa” nghĩa là nguyên nhân hoàn toàn tốt đẹp để nuôi dưỡng sự giác ngộ.
Mandahasitanti īsakaṃ hasitaṃ.
“Mandahasita” nghĩa là nụ cười nhẹ nhàng.
Kahaṃ kahanti hāsasaddassa anukaraṇametaṃ.
“Kahaṃ kahanti” là cách bắt chước âm thanh của tiếng cười.
Haṭṭhappahaṭṭhākāramattanti haṭṭhassa pahaṭṭhākāramattaṃ.
“Haṭṭhappahaṭṭhākāramatta” nghĩa là chỉ dáng vẻ của bàn tay và ngón tay.
Yathā gahitasaṅketā ‘‘pahaṭṭho bhagavā’’ti sañjānanti, evaṃ ākāranidassanamattaṃ.
Như những người đã hiểu dấu hiệu “Đức Thế Tôn đang mỉm cười,” điều này chỉ là biểu hiện qua dáng vẻ bên ngoài.
Idāni iminā pasaṅgena hāsasamuṭṭhānaṃ vibhāgato dassetuṃ ‘‘hasitañca nāmeta’’ntiādi āraddhaṃ.
Bây giờ, bằng cách này, nguồn gốc của tiếng cười được trình bày chi tiết qua phân loại, với câu mở đầu: “Tiếng cười không phải như thế.”
Tattha ajjhupekkhanavasenapi hāso na sambhavati, pageva domanassavasenāti āha ‘‘terasahi somanassasahagatacittehī’’ti.
Ở đây, ngay cả trong trạng thái xả tâm cũng không thể phát sinh tiếng cười, huống chi là trong trạng thái ưu sầu; do đó có lời dạy rằng: “Có mười ba loại tâm liên kết với niềm vui.”
Nanu ca keci kodhavasenapi hasantīti? Na, te sampiyanti kodhavatthuṃ tattha ‘‘mayaṃ dāni yathākāmakāritaṃ āpajjissāmā’’ti duviññeyyantarena somanassacitteneva hāsassa uppajjanato.
Nhưng có phải một số người cười khi tức giận không? Không, vì trong trường hợp ấy, họ chuyển hóa đối tượng của cơn giận thành niềm vui khó nhận biết, và tiếng cười phát sinh từ tâm liên kết với niềm vui.
Tesūti pañcasu somanassasahagatakiriyacittesu.
“Nơi những tâm này” nghĩa là năm loại tâm liên kết với niềm vui thuộc về tác ý.
Balavārammaṇeti uḷāratame ārammaṇe yamakapāṭihāriyasadise.
“Balavārammaṇa” nghĩa là đối tượng mạnh mẽ, ví như phép màu song trùng.
Dubbalārammaṇeti anuḷāraārammaṇe.
“Dubbalārammaṇa” nghĩa là đối tượng yếu ớt.
‘‘Imasmiṃ pana ṭhāne…pe… uppādetī’’ti idaṃ porāṇaṭṭhakathāyaṃ tathā āgatattā vuttaṃ, na sahetukasomanassasahagatacittehi bhagavato sitaṃ na hotīti dassanattaṃ.
“Về vấn đề này… làm phát sinh…” Đây là lời giải thích trong Chú Giải Cổ, và nó được nói theo cách ấy. Theo quan điểm này, nụ cười của Đức Thế Tôn không phát sinh từ tâm liên kết với niềm vui có nhân tố kèm theo.
Abhidhammaṭīkāyaṃ (dha. sa. mūlaṭī. 968) pana ‘‘atītaṃsādīsu appaṭihataṃ ñāṇaṃ vatvā ‘imehi dhammehi samannāgatassa buddhassa bhagavato sabbaṃ kāyakammaṃ ñāṇapubbaṅgamaṃ ñāṇānuparivattī’tiādivacanato (mahāni. 156; paṭi. ma. 3.5) ‘bhagavato idaṃ cittaṃ uppajjatī’ti vuttavacanaṃ vicāretabba’’nti vuttaṃ.
Trong Vi Diệu Pháp Chú Giải (Dhammasaṅgaṇī Mūlaṭīkā 968), có nói rằng: “Sau khi tuyên bố tri kiến không bị ngăn che trong quá khứ, hiện tại, và tương lai, và rằng mọi hành động thân của Đức Phật đều đi trước bởi trí tuệ và xoay quanh trí tuệ,” cần suy xét kỹ lưỡng về lời dạy rằng “tâm này của Đức Thế Tôn phát sinh.”
Tattha iminā hasituppādacittena pavattiyamānampi bhagavato sitakaraṇaṃ pubbenivāsaanāgataṃsasabbaññutaññāṇānaṃ anuvattakattā ñāṇānuparivattiyevāti evaṃ pana ñāṇānuparivattibhāve sati na koci pāḷiaṭṭhakathānaṃ virodho.
Trong trường hợp này, dù việc tạo ra tiếng cười có vận hành, thì việc mỉm cười của Đức Thế Tôn vẫn luôn xoay quanh trí tuệ về tiền kiếp, hậu kiếp, và nhất thiết trí. Trong trạng thái xoay quanh trí tuệ này, không có gì mâu thuẫn với các Chú Giải Pāli.
Tathā hi abhidhammaṭṭhakathāyaṃ (dha. sa. aṭṭha. 568) ‘‘tesaṃ ñāṇānaṃ ciṇṇapariyante idaṃ cittaṃ uppajjatī’’ti vuttaṃ.
Thật vậy, trong Chú Giải Vi Diệu Pháp (Dhammasaṅgaṇī Aṭṭhakathā 568), có nói rằng: “Tâm này phát sinh sau khi những trí tuệ ấy đã hoàn tất phạm vi của chúng.”
Avassañcetaṃ evaṃ icchitabbaṃ, aññathā āvajjanacittassapi bhagavato tathārūpe kāle na yujjeyya.
Do đó, điều này nên được mong muốn như vậy. Nếu không, tâm hướng đến đối tượng của Đức Thế Tôn sẽ không phù hợp vào thời điểm ấy.
Tassapi hi viññattisamuṭṭhāpakabhāvassa nicchitattā.
Vì trạng thái gây ra biểu hiện của tâm này đã được xác định rõ ràng.
Tathā hi vuttaṃ ‘‘evañca katvā manodvārāvajjanassapi viññattisamuṭṭhāpakattaṃ upapannaṃ hotī’’ti (dha. sa. mūlaṭī. 1 kāyakammadvārakathāvaṇṇanā) na ca viññattisamuṭṭhāpakatte taṃsamuṭṭhānakāyaviññattiyā kāyakammādibhāvaṃ āpajjanabhāvo vissajjatīti.
Thật vậy, có nói rằng: “Khi thực hiện như vậy, tâm hướng đến cửa ý cũng trở thành nguyên nhân gây ra biểu hiện.” Nhưng trong trường hợp này, biểu hiện của thân nghiệp hoặc khẩu nghiệp không được quy cho nguyên nhân gây ra biểu hiện.
Hasitanti sitameva sandhāya vadati.
“Hasita” nghĩa là mỉm cười.
Tenāha ‘‘evaṃ appamattakampī’’ti.
Do đó có lời dạy rằng: “Mỉm cười như vậy chỉ là một chút thôi.”
Samosaritā vijjulatā.
Ánh sáng tỏa ra lan tỏa khắp nơi.
Sā hi itaravijjulatā viya khaṇaṭṭhitiyā sīghanirodhā ca na hoti, apica kho dandhanirodhā, na ca sabbakālikā.
Nó khác với ánh sáng thông thường, vì không tồn tại lâu trong khoảnh khắc, mà biến mất nhanh chóng, nhưng không phải lúc nào cũng như vậy.
Dīdhiti pāvakamahāmeghato vā cātuddīpikamahāmeghato vā niccharati.
“Tia chớp” phát ra từ đám mây lửa khổng lồ hoặc từ đám mây bốn châu thiên hạ.
Tenāha ‘‘cātuddīpikamahāmeghamukhato’’ti.
Do đó có lời dạy rằng: “Từ miệng của đám mây bốn châu thiên hạ.”
Ayaṃ kira tāsaṃ rasmīnaṃ dhammatā, yadidaṃ tikkhattuṃ sīsaṃ padakkhiṇaṃ katvā dāṭhaggesuyeva antaradhānaṃ.
Đây là bản chất của những tia sáng ấy, tức là sau khi quay quanh ba lần, chúng biến mất ở đỉnh răng.
Sesamettha suviññeyyameva.
Các phần còn lại đều dễ hiểu.
Gavesīsuttavaṇṇanā niṭṭhitā.
Chú Giải Kinh Gavesī đã kết thúc.
Upāsakavaggavaṇṇanā niṭṭhitā.
Chú Giải Phẩm Cư Sĩ đã kết thúc.