(6) 1. Puññābhisandavaggo
Phẩm Dòng Phước Đức.
1. Paṭhamapuññābhisandasuttavaṇṇanā
Chú giải Kinh Dòng Phước Đức Đầu Tiên.
51. Dutiyassa paṭhame puññābhisandāti vā puññanadiyo.
Trong phần thứ hai của đoạn đầu, “puññābhisandā” có nghĩa là dòng phước đức tuôn chảy liên tục.
Avicchedena niccaṃ pavattiyamānāni hi puññāni abhisandanaṭṭhena ‘‘puññābhisandā’’ti vuttā.
Vì rằng các phước đức luôn tuôn chảy không gián đoạn, nên được gọi là “puññābhisandā” (dòng phước đức).
Aparimitanti āḷhakagaṇanāya aparimitaṃ, yojanavasena panassa parimāṇaṃ atthi.
“Aparimita” (vô lượng) theo cách tính toán cao quý, nhưng khi đo bằng đơn vị yojana thì vẫn có giới hạn.
Tathā hi heṭṭhā mahāpathaviyā upari ākāsena parato cakkavāḷapabbatena majjhe tattha tattha ṭhitehi dīpapabbatapariyantehi paricchinnattā yojanato sakkā pamāṇaṃ kātuṃ.
Thật vậy, bên dưới là đại địa, phía trên là hư không, xung quanh là núi bao quanh thế giới (cakkavāḷa), và ở giữa đó, nhờ sự phân định bởi các hòn đảo và núi non mà ta có thể đo lường bằng yojana.
Bheravārammaṇehīti saviññāṇakāviññāṇakehi bheravārammaṇehi.
“Bheravārammaṇehi” nghĩa là những đối tượng gây sợ hãi, cả có thức lẫn vô thức.
Tathā hi taṃ mahāsarīramacchakumbhīlayakkharakkhasamahānāgadānavādīnaṃ saviññāṇakānaṃ vaḷavāmukhapātālādīnaṃ aviññāṇakānañca bheravārammaṇānaṃ vasena ‘‘bahubherava’’nti vuccati.
Thật vậy, thân hình khổng lồ của chư thiên, ma quỷ, rồng, quỷ dữ, voi lớn, và những loài như cá voi, hà bá… là những đối tượng đáng sợ, cả có thức và vô thức, do đó được gọi là “có nhiều điều đáng sợ.”
Sesamettha uttānameva.
Những gì còn lại trong phần này chỉ cần hiểu rõ thêm.
Paṭhamapuññābhisandasuttavaṇṇanā niṭṭhitā.
Chú giải Kinh Dòng Phước Đức Đầu Tiên đến đây là kết thúc.
2. Dutiyapuññābhisandasuttavaṇṇanā
Chú giải Kinh Dòng Phước Đức Thứ Hai.
52. Dutiye sotāpannassa saddhā adhippetāti sotāpannassa maggenāgatā saddhā adhippetā.
Trong phần thứ hai, “đức tin của vị Nhập Lưu” được nói đến, nghĩa là đức tin đã đạt được nhờ con đường của vị Nhập Lưu.
Dutiyapuññābhisandasuttavaṇṇanā niṭṭhitā.
Chú giải Kinh Dòng Phước Đức Thứ Hai đến đây là kết thúc.
3-4. Paṭhamasaṃvāsasuttādivaṇṇanā
Chú giải Kinh Sống Chung Đầu Tiên và các kinh liên quan.
53-54. Tatiye yathākammaṃ tā tā gatiyo aranti upagacchantīti ariyā, sattā.
Trong phần thứ ba, “theo nghiệp của mình, chúng sinh đạt đến những cảnh giới tương ứng,” đây là nói về các bậc Thánh và chúng sinh.
Ime pana kucchitā ariyāti kadariyā.
Những vị Thánh bị phê phán ở đây là những kẻ keo kiệt.
Thaddhamaccharino, thaddhena maccharena samannāgatāti attho.
“Thaddhamaccharino” nghĩa là những người có tính kiêu căng và keo kiệt.
Thaddhamacchariyasadisañhi kucchitaṃ sabbadā nihīnaṃ natthi sabbaguṇānaṃ ādibhūtassa bhogasampattiādisabbasampattīnaṃ mūlabhūtassa dānassa nisedhanato.
Vì rằng sự keo kiệt và kiêu căng luôn là điều thấp hèn, nó ngăn cản việc bố thí – gốc rễ của mọi thành tựu như tài sản và phước đức, vốn là nền tảng của mọi phẩm hạnh.
Tenāha ‘‘kadariyāti thaddhamaccharino’’ti.
Do đó, nói rằng “keo kiệt là những kẻ kiêu căng và ích kỷ.”
Ekacco hi attano vasanaṭṭhāne bhikkhū hatthaṃ pasāretvāpi na vandati.
Có người khi thấy chư Tỳ-khưu đứng trước cửa nhà mình xin ăn, dù giơ tay chào nhưng không chịu cúi đầu đảnh lễ.
Aññattha gato vihāraṃ pavisitvā sakkaccaṃ vanditvā madhurappaṭisanthāraṃ karoti ‘‘kiṃ, bhante, amhākaṃ vasanaṭṭhānaṃ nāgacchatha, sampanno padeso, paṭibalāhaṃ ayyānaṃ yāgubhattādīhi upaṭṭhānaṃ kātu’’nti.
Nhưng khi đến một nơi khác, vào trong chùa, họ lại cung kính đảnh lễ và ngọt ngào mời chào: “Bạch Chư Tôn giả, sao không ghé qua chỗ chúng con ở? Nơi ấy rất thuận tiện, con có thể lo liệu đầy đủ y áo, thức ăn cho Chư Tôn giả.”
Bhikkhu ‘‘saddho ayaṃ upāsako’’ti yāgubhattādīhi saṅgaṇhāti.
Chư Tỳ-khưu nghĩ rằng: “Đây là một cư sĩ có đức tin,” nên nhận lời cúng dường y áo, thức ăn.
Atheko thero tassa gāmaṃ gantvā piṇḍāya carati.
Rồi một vị Trưởng lão đến làng ấy khất thực.
So taṃ disvā aññena vā gacchati, gharaṃ vā pavisati.
Người ấy thấy vị Trưởng lão thì hoặc đi đường khác, hoặc vào nhà đóng cửa lại.
Sacepi sammukhībhāvaṃ āgacchati, hatthena vanditvā ‘‘ayyassa bhikkhaṃ detha, ahaṃ ekena kammena gacchāmī’’ti pakkamati.
Nếu bất đắc dĩ phải đối mặt, họ chỉ giơ tay chào rồi nói: “Xin hãy cho vị Tôn giả này đồ ăn, tôi còn bận việc khác,” rồi bỏ đi.
Thero sakalagāmaṃ caritvā tucchapattova nikkhamati.
Vị Trưởng lão đi khắp làng khất thực nhưng chỉ nhận được chiếc bình không.
Idaṃ tāva mudumacchariyaṃ nāma.
Đây gọi là sự keo kiệt nhẹ.
Yena adāyakopi dāyako viya paññāyati.
Dù không cho gì nhưng vẫn tỏ ra như thể là người bố thí.
Idha pana thaddhamacchariyaṃ adhippetaṃ.
Ở đây, điều đang được đề cập là sự keo kiệt và kiêu căng nặng nề hơn.
Yena samannāgato bhikkhūsu piṇḍāya paviṭṭhesu ‘‘therā ṭhitā’’ti vutte ‘‘kiṃ mayhaṃ pādā rujjantī’’tiādīni vatvā silāthambho viya khāṇuko viya ca thaddho hutvā tiṭṭhati, sāmīcimpi na karoti, kuto dānaṃ.
Kẻ mang tính kiêu căng và keo kiệt, khi nghe nói các vị Trưởng lão đang đứng khất thực, liền viện cớ: “Chân tôi đau,” rồi đứng cứng như đá, cố chấp và kiêu căng, không hề tỏ chút tôn trọng, huống chi là bố thí.
Ayamidha adhippeto.
Đây chính là điều đang được đề cập.
Tena vuttaṃ ‘‘thaddhamaccharinoti thaddhena maccharena samannāgatāti attho’’ti.
Do đó, câu “thaddhamaccharino” có nghĩa là những người có tính kiêu căng và keo kiệt.
Maccharaṃ maccheraṃ macchariyanti atthato ekaṃ.
“Macchara,” “macchera,” và “macchariya” về ý nghĩa đều chỉ một điều: sự keo kiệt.
Paribhāsakāti bhikkhū gharadvāre ṭhite disvā ‘‘kiṃ tumhe kasitvā āgatā vapitvā lāyitvā, mayaṃ attanopi na labhāma, kuto tumhākaṃ, sīghaṃ nikkhamathā’’tiādīhi santajjakā.
“Paribhāsaka” là những kẻ chế giễu chư Tỳ-khưu đứng trước cửa nhà bằng những lời như: “Các ông đã làm gì mà đến đây? Chúng tôi làm việc, trồng trọt, kiếm sống, mà bản thân chúng tôi còn chẳng đủ ăn, huống chi là cho các ông. Hãy đi ngay đi!”
Yācakānaṃ vacanassa atthaṃ jānantīti ettha kiñcāpi bhikkhū gharadvāre ṭhitā tuṇhī honti, atthato pana ‘‘bhikkhaṃ dethā’’ti vadanti nāma ariyāya yācanāya.
Hiểu rõ ý nghĩa lời cầu xin của người xin: mặc dù chư Tỳ-khưu đứng trước cửa nhà im lặng, nhưng thực chất đó là cách xin theo truyền thống cao quý, như đã nói: “Họ đứng vì mục đích cao quý, đây là cách xin của bậc Thánh.” (Milindapañhā 4.5.9).
Tatra ye ‘‘mayaṃ pacāma, ime na pacanti, pacamāne patvā alabhantā kuhiṃ labhissatī’’ti deyyadhammaṃ saṃvibhajanti, te vadaññū yācakānaṃ vacanassa atthaṃ jānanti nāma ñatvā kattabbakaraṇato.
Trong trường hợp này, những ai hiểu rõ ý nghĩa lời cầu xin của người xin và biết rằng: “Chúng ta nấu ăn, những người này không nấu, nếu không cho họ khi đang nấu thì họ sẽ lấy gì để ăn?” rồi chia sẻ đồ bố thí; những người như vậy được gọi là người rộng lượng, hiểu rõ ý nghĩa của lời cầu xin và hành động phù hợp.
Catutthaṃ uttānameva.
Phần thứ tư chỉ cần hiểu thêm như vậy.
Paṭhamasaṃvāsasuttādivaṇṇanā niṭṭhitā.
Chú giải Kinh Sống Chung Đầu Tiên và các kinh liên quan đến đây là kết thúc.
5-6. Samajīvīsuttādivaṇṇanā
Chú giải Kinh Sống Chung và các kinh liên quan.
55-56. Pañcame anuggaṇhanatthanti nakulamātā nakulapitāti imesaṃ dvinnaṃ saṅgahatthāya.
Trong phần thứ năm, “anuggaṇhanattha” nghĩa là nhằm mục đích bảo vệ và che chở cho hai người: mẹ của Nakula và cha của Nakula.
Nakulassa dārakassa pitā nakulapitā.
Cha của cậu bé Nakula được gọi là “Nakulapitā.”
Nakulamātāti etthāpi eseva nayo.
Tương tự, “Nakulamātā” cũng theo cách hiểu này.
Sesamettha uttānameva.
Những gì còn lại trong phần này chỉ cần hiểu thêm như vậy.
Chaṭṭhe natthi vattabbaṃ.
Trong phần thứ sáu không có gì cần phải nói thêm.
Samajīvīsuttādivaṇṇanā niṭṭhitā.
Chú giải Kinh Sống Chung và các kinh liên quan đến đây là kết thúc.
7-10. Suppavāsāsuttādivaṇṇanā
Chú giải Kinh Suppavāsā và các kinh liên quan.
57-60. Sattame āyubhāgapaṭilābhinī hotīti āyukoṭṭhāsassa paṭilābhinī hoti.
Trong phần thứ bảy, “āyubhāgapaṭilābhinī” nghĩa là đạt được phần tuổi thọ.
Tividhalokanti sattasaṅkhārabhājanasaṅkhātaṃ tividhaṃ lokaṃ.
“Tividhaloka” nghĩa là ba loại thế giới, được định nghĩa là sự phân chia thành bảy yếu tố (saṅkhāra).
Viditaṃ katvāti vibhūtaṃ katvā.
“Viditaṃ katvā” nghĩa là đã làm cho rõ ràng, đã thực hiện đầy đủ.
Lokavidūnanti karaṇatthe sāmivacananti āha ‘‘buddhehi pasatthā’’ti.
“Lokavidū” là danh từ chủ ngữ, mang ý nghĩa “được tán dương bởi các vị Phật,” dùng để chỉ hành động.
Aṭṭhamanavamadasamāni uttānatthāneva.
Phần thứ tám, thứ chín và thứ mười chỉ cần hiểu thêm như vậy.
Suppavāsāsuttādivaṇṇanā niṭṭhitā.
Chú giải Kinh Suppavāsā và các kinh liên quan đến đây là kết thúc.
Puññābhisandavaggavaṇṇanā niṭṭhitā.
Chú giải Phẩm Dòng Phước Đức đến đây là kết thúc.