Phụ chú giải Tăng Chi Bộ Kinh

Phụ chú giải kinh Tăng Chi Bộ I – Chương 2 – 2. Phẩm Tranh Luận

2. Adhikaraṇavaggavaṇṇanā
Chú Giải Phần Về Vấn Đề.

11. Dutiyavaggassa paṭhame appaṭisaṅkhāne na kampatīti paṭisaṅkhānabalaṃ, upaparikkhanapaññāyetaṃ nāmaṃ.
Trong phần đầu của phẩm thứ hai, “appaṭisaṅkhāne na kampati” nghĩa là sức mạnh của sự không lay động trước những suy xét sai lầm; điều này được gọi là trí tuệ thông qua sự quán sát kỹ lưỡng.

Vīriyasīsena satta bojjhaṅge bhāventassa uppannaṃ balaṃ bhāvanābalaṃ.
Nhờ vào nỗ lực tinh tấn, bảy giác chi được tu tập và sức mạnh phát sinh từ sự tu tập này được gọi là “bhāvanābala” (sức mạnh của sự tu tập).

Vīriyupatthambhena hi kusalabhāvanā balavatī thirā uppajjati, tathā uppannā balavatī kusalabhāvanā balavanto satta bojjhaṅgātipi vuccanti.
Nhờ vào sự hỗ trợ của tinh tấn, việc tu tập các pháp thiện trở nên mạnh mẽ và vững chắc; và khi việc tu tập các pháp thiện đã mạnh mẽ, thì bảy giác chi cũng được gọi là mạnh mẽ.

Atthato vīriyasambojjhaṅgasīsena satta bojjhaṅgā honti.
Về ý nghĩa thực sự, nhờ vào tinh tấn giác chi làm chủ đạo, bảy giác chi được thành tựu.

Vuttampi cetaṃ – ‘‘tattha katamaṃ bhāvanābalaṃ? Yā kusalānaṃ dhammānaṃ āsevanā bhāvanā bahulīkammaṃ, idaṃ vuccati bhāvanābalaṃ. Sattapi bojjhaṅgā bhāvanābala’’nti (dha. sa. 1361).
Điều này cũng đã được nói đến: “Thế nào là sức mạnh của sự tu tập? Đó là sự thực hành, tu tập, và làm cho sung mãn các pháp thiện. Đây được gọi là sức mạnh của sự tu tập. Và bảy giác chi cũng chính là sức mạnh của sự tu tập” (Dhammasaṅgaṇī 1361).

Akampiyaṭṭhenāti paṭipakkhehi akampanīyaṭṭhena.
“Akampiyaṭṭhena” nghĩa là trạng thái không bị lay động bởi các đối nghịch.

Durabhibhavanaṭṭhenāti durabhibhavanīyaṭṭhena.
“Durabhibhavanaṭṭhena” nghĩa là trạng thái khó bị khuất phục.

Anajjhomaddanaṭṭhenāti adhibhavitvā anavamaddanaṭṭhena.
“Anajjhomaddanaṭṭhena” nghĩa là trạng thái không bị đè bẹp dù đã vượt trội.

Etānīti etāni yathāvuttāni dvepi balāni.
“Etāni” nghĩa là hai sức mạnh đã được đề cập trên đây.

Etadaggaṃ nāgatanti ‘‘etadaggaṃ, bhikkhave, dvinnaṃ balānaṃ yadidaṃ bhāvanābala’’nti evamettha etadaggaṃ nāgatanti attho.
“Etadaggaṃ nāgata” nghĩa là “Này chư Tỳ-khưu, trong hai sức mạnh, sức mạnh cao nhất chính là sức mạnh của sự tu tập.” Ý nghĩa ở đây là như vậy.

12. Dutiye vivekaṃ nissitanti vivekanissitaṃ, yathā vā vivekavasena pavattaṃ jhānaṃ ‘‘vivekaja’’nti vuttaṃ, evaṃ vivekavasena pavatto satisambojjhaṅgo ‘‘vivekanissito’’ti daṭṭhabbo.
Trong phần thứ hai, “vivekaṃ nissita” nghĩa là dựa vào sự tách ly (viveka). Giống như thiền định được gọi là “vivekaja” (sinh ra từ sự tách ly), niệm giác chi cũng cần được hiểu là “dựa vào sự tách ly” khi nó phát khởi nhờ vào sự tách ly.

Nissayaṭṭho ca vipassanāmaggānaṃ vasena maggaphalānaṃ veditabbo, asatipi vā pubbāparabhāve ‘‘paṭiccasamuppādo’’ti ettha paccayena samuppādanaṃ viya avinābhāvidhammabyāpārā nissayanabhāvanā sambhavantīti.
Ý nghĩa của sự hỗ trợ này cũng cần được hiểu qua con đường tuệ quán và quả vị của con đường, hoặc ngay cả trong mối quan hệ trước sau giữa các pháp, giống như sự sinh khởi của duyên khởi (paṭiccasamuppāda) thông qua điều kiện. Sự hỗ trợ và phát triển của các pháp không thể tách rời nhau cũng có thể xảy ra.

‘‘Tadaṅgasamucchedanissaraṇavivekanissita’’ti vatvā paṭippassaddhivivekanissitassa avacanaṃ ‘‘satisambojjhaṅgaṃ bhāvetī’’tiādinā idha bhāvetabbānaṃ sambojjhaṅgānaṃ vuttattā.
Sau khi nói rằng “dựa vào sự tách ly để thoát khỏi từng phần cắt đứt,” việc không đề cập đến “niệm giác chi được tu tập dựa vào sự tách ly để đạt an tịnh” ở đây là do đã được đề cập đến trong bảy giác chi cần được tu tập.

Bhāvitabojjhaṅgassa hi sacchikātabbā balabojjhaṅgā, tesaṃ kiccaṃ paṭippassaddhiviveko.
Khi giác chi được tu tập, thì sức mạnh của giác chi cần được chứng ngộ; nhiệm vụ của chúng là sự tách ly để đạt an tịnh.

Ajjhāsayatoti ‘‘nibbānaṃ sacchikarissāmī’’ti pavattaajjhāsayato.
“Ajjhāsayato” nghĩa là xu hướng tâm hướng đến mục tiêu: “Ta sẽ chứng ngộ Niết Bàn.”

Yadipi hi vipassanākkhaṇe saṅkhārārammaṇaṃ cittaṃ, saṅkhāresu pana ādīnavaṃ disvā tappaṭipakkhe nibbāne ninnatāya ajjhāsayato nissaraṇavivekanissito hoti uṇhābhibhūtassa puggalassa sītaninnacittatā viya.
Vì dù trong thời điểm tuệ quán, tâm có đối tượng là hành (saṅkhāra), nhưng sau khi thấy rõ sự nguy hiểm trong các hành, tâm nghiêng về phía ngược lại là Niết Bàn, dựa vào sự tách ly để thoát ra, giống như người bị nóng bức mong muốn sự mát mẻ.

‘‘Pañcavidhavivekanissitampīti eke’’ti vatvā tattha yathāvuttavivekattayato aññaṃ vivekadvayaṃ uddharitvā dassetuṃ ‘‘te hī’’tiādi vuttaṃ.
Sau khi nói rằng “một số người nói rằng có năm loại tách ly,” ở đây ba loại tách ly đã được đề cập, và hai loại còn lại được rút ra để giải thích thêm qua câu “te hī” v.v…

Tattha jhānakkhaṇe tāva kiccato vikkhambhanavivekanissitaṃ, vipassanākkhaṇe ajjhāsayato paṭippassaddhivivekanissitaṃ bhāvetīti vattabbaṃ ‘‘evāhaṃ anuttaraṃ vimokkhaṃ upasampajja viharissāmī’’ti tattha ninnajjhāsayatāya.
Trong thời điểm thiền định, trước hết nhiệm vụ là tách ly để tạm thời đè nén các chướng ngại; trong thời điểm tuệ quán, dựa vào xu hướng tâm, cần tu tập sự tách ly để đạt an tịnh. Điều này phù hợp với lời dạy: “Như vậy, ta sẽ chứng nhập và an trú trong sự giải thoát tối thượng,” dựa vào xu hướng tâm đã nghiêng về đó.

Tenāha ‘‘tasmā tesaṃ matenā’’tiādi.
Do đó, nói rằng: “Vì vậy, theo cách hiểu này…”

Heṭṭhā kasiṇajjhānaggahaṇena āruppānampi gahaṇaṃ daṭṭhabbaṃ, tasmā ‘‘etesaṃ jhānāna’’nti imināpi tesaṃ saṅgaho veditabbo.
Phía dưới, sự nắm bắt các tầng thiền vô sắc (āruppa) cũng cần được hiểu thông qua việc nắm bắt các kasiṇa và thiền sắc giới (jhāna); do đó, “các tầng thiền này” cũng được hiểu là sự bao gồm cả hai loại thiền.

Yasmā pahānavinayo viya virāganirodhāpi idhādhippetavivekena atthato nibbisiṭṭhā, tasmā vuttaṃ ‘‘esa nayo virāganissitantiādīsū’’ti.
Vì sự đoạn trừ phiền não giống như sự từ bỏ thói quen xấu, nên sự tách ly được đề cập ở đây thực chất là chỉ cho sự tịch diệt (Niết Bàn). Do đó, nói rằng: “Cách hiểu này là dựa vào sự ly tham v.v…”

Tenāha ‘‘vivekatthā eva hi virāgādayo’’ti.
Do đó, nói rằng: “Thực chất, ý nghĩa của sự tách ly chính là ly tham v.v…”

Vossagga-saddo pariccāgattho pakkhandanattho cāti vossaggassa duvidhatā vuttā.
Từ “vossagga” có hai ý nghĩa: sự từ bỏ và sự tiến đến. Vì vậy, nói rằng vossagga có hai khía cạnh.

Vossajjanañhi pahānaṃ vissaṭṭhabhāvena nirodhanapakkhandanampi ca.
Sự buông bỏ (vossajjana) chính là sự từ bỏ (pahāna), được hiểu theo nghĩa của sự giải thoát và cũng là sự tiến đến đoạn diệt.

Tasmā vipassanākkhaṇe tadaṅgavasena maggakkhaṇe samucchedavasena paṭipakkhassa pahānaṃ vossaggo, tathā vipassanākkhaṇe tanninnabhāvena, maggakkhaṇe ārammaṇakaraṇena vissaṭṭhasabhāvatā vossaggoti veditabbaṃ.
Do đó, trong thời điểm tuệ quán, sự từ bỏ từng phần (tadaṅga) được gọi là vossagga; trong thời điểm con đường (maggakkhaṇa), sự từ bỏ hoàn toàn (samuccheda) được gọi là vossagga. Tương tự, trong thời điểm tuệ quán, trạng thái nghiêng về đối tượng (tanninnatā) được hiểu là vossagga; trong thời điểm con đường, việc lấy đối tượng làm nền tảng (ārammaṇa) được hiểu là vossagga.

Tenevāha ‘‘tattha pariccāgavossaggo’’tiādi.
Do đó, nói rằng: “Ở đây, sự từ bỏ là vossagga…”

Ayaṃ satisambojjhaṅgoti ayaṃ missakavasena vutto satisambojjhaṅgo.
Đây là niệm giác chi, được đề cập ở đây dưới dạng kết hợp (missaka).

Yathāvuttena pakārenāti tadaṅgappahānasamucchedappahānappakārena tanninnatadārammaṇappakārena ca.
Theo cách đã nói, tức là dưới hình thức từ bỏ từng phần, từ bỏ hoàn toàn, và nghiêng về đối tượng hoặc lấy đối tượng làm nền tảng.

Pubbe vossaggavacanasseva atthassa vuttattā āha ‘‘sakalena vacanenā’’ti.
Vì trước đây ý nghĩa của từ “vossagga” đã được đề cập, nên nói rằng: “Bằng tất cả các từ ngữ.”

Pariṇamantanti vipassanākkhaṇe tadaṅgatanninnappakārena pariṇamantaṃ.
“Pariṇamantaṃ” nghĩa là trong thời điểm tuệ quán, sự chuyển hóa xảy ra thông qua việc từ bỏ từng phần và nghiêng về đối tượng.

Pariṇatinti maggakkhaṇe samucchedatadārammaṇappakārena pariṇataṃ.
“Pariṇataṃ” nghĩa là trong thời điểm con đường, sự chuyển hóa hoàn thành thông qua việc từ bỏ hoàn toàn và lấy đối tượng làm nền tảng.

Pariṇāmo nāma idha paripākoti āha ‘‘paripaccantaṃ paripakkañcā’’ti.
“Pariṇāma” ở đây nghĩa là sự chín muồi. Do đó, nói rằng: “Đang chín muồi và đã chín muồi.”

Paripāko ca āsevanalābhena laddhasāmatthiyassa kilese pariccajituṃ nibbānaṃ pakkhandituṃ tikkhavisadabhāvo.
Sự chín muồi này đạt được nhờ vào sự thực hành liên tục, giúp hành giả có đủ khả năng từ bỏ phiền não và tiến đến Niết Bàn với tâm sắc bén và trong sáng.

Tenāha ‘‘ayañhī’’tiādi.
Do đó, nói rằng: “Như vậy…”

Esa nayoti yvāyaṃ nayo ‘‘vivekanissita’’ntiādinā satisambojjhaṅge vutto, sesesu dhammavicayasambojjhaṅgādīsupi eseva nayo, evaṃ tattha netabbanti attho.
“Phương pháp này,” tức là cách hiểu mà niệm giác chi được đề cập dựa trên “vivekanissita” (dựa vào sự tách ly), cũng áp dụng cho pháp giác chi và các giác chi khác. Ý nghĩa là cần được hiểu như vậy.

‘‘Vivekanissita’’ntiādīsu labbhamānamatthaṃ sāmaññato dassetvā idāni idhādhippetamatthaṃ dassento ‘‘idha panā’’tiādimāha.
Trong các thuật ngữ như “vivekanissita,” sau khi chỉ rõ ý nghĩa phổ quát, bây giờ ý nghĩa đặc biệt của chúng được giải thích qua câu “idha panā” v.v…

Tattha sabbasaṅkhatehīti sabbehi paccayasamuppannadhammehi.
Ở đây, “sabbasaṅkhatehi” nghĩa là tất cả các pháp được sinh ra do điều kiện.

Sabbesanti saṅkhatadhammānaṃ.
“Sabbesaṃ” nghĩa là tất cả các pháp hữu vi.

Vivekaṃ ārammaṇaṃ katvāti nibbānasaṅkhātaṃ vivekaṃ ārammaṇaṃ katvā.
“Lấy sự tách ly làm đối tượng” nghĩa là lấy Niết Bàn, được xem như sự tách ly tối thượng, làm đối tượng.

Tañca khoti tadeva satisambojjhaṅgaṃ.
Và niệm giác chi ấy chính là điều được nói đến.

13. Tatiye cittekaggatthāyāti cittasamādhānatthāya, diṭṭhadhamme sukhavihārāyāti attho.
Trong phần thứ ba, “cittekaggatthāya” nghĩa là vì mục đích nhất tâm, tức là để đạt được an trú hạnh phúc trong hiện tại.

Cittekaggatāsīsena hi diṭṭhadhammasukhavihāro vutto.
Nhờ vào sự dẫn đầu của nhất tâm mà trạng thái hạnh phúc trong hiện tại được đề cập.

Sukkhavipassakakhīṇāsavānaṃ vasena hetaṃ vuttaṃ.
Điều này được nói đến dựa trên những vị A-la-hán đã đoạn tận lậu hoặc và hành giả tuệ khô (sukkhavipassaka).

Te hi samāpajjitvā ‘‘ekaggacittā sukhaṃ divasaṃ viharissāmā’’ti icceva kasiṇaparikammaṃ katvā aṭṭha samāpattiyo nibbattenti.
Họ nhập định và nghĩ rằng: “Với tâm nhất điểm, chúng ta sẽ sống hạnh phúc suốt ngày,” rồi thực hành các đề mục như kasiṇa, từ đó phát sinh tám tầng thiền (samāpatti).

Vipassanāpādakatthāyātiādīsu pana sekkhaputhujjanā ‘‘samāpattito vuṭṭhāya samāhitena cittena vipassāmā’’ti nibbattentā vipassanāpādakatthāya bhāventi.
Còn đối với hàng hữu học và phàm nhân, sau khi xuất khỏi thiền định, họ dùng tâm định tĩnh để tu tập tuệ quán, và do đó họ tu tập vì mục đích dẫn đến tuệ quán.

Ye pana aṭṭha samāpattiyo nibbattetvā abhiññāpādakajjhānaṃ samāpajjitvā samāpattito vuṭṭhāya ‘‘ekopi hutvā bahudhā hotī’’ti (dī. ni. 1.238; ma. ni. 1.147; saṃ. ni. 2.70; 5.834, 842) vuttanayā abhiññāyo patthentā nibbattenti, te abhiññāpādakatthāya bhāventi.
Những ai phát sinh tám tầng thiền, nhập vào thiền chứng dẫn đến thần thông, sau khi xuất khỏi thiền định và mong muốn đạt được các thần thông như “biến một thành nhiều” v.v… (Dī. Ni. 1.238; Ma. Ni. 1.147; Saṃ. Ni. 2.70; 5.834, 842), thì họ tu tập vì mục đích dẫn đến thần thông.

Ye aṭṭha samāpattiyo nibbattetvā nirodhasamāpattiṃ samāpajjitvā ‘‘sattāhaṃ acittā hutvā diṭṭheva dhamme nirodhaṃ nibbānaṃ patvā sukhaṃ viharissāmā’’ti nibbattenti, te nirodhapādakatthāya bhāventi.
Những ai phát sinh tám tầng thiền, nhập vào diệt thọ tưởng định, và mong muốn sống hạnh phúc trong bảy ngày với tâm không hoạt động, đạt đến Niết Bàn ngay trong hiện tại, thì họ tu tập vì mục đích dẫn đến diệt thọ tưởng định.

Ye pana aṭṭha samāpattiyo nibbattetvā ‘‘aparihīnajjhānā brahmaloke uppajjissāmā’’ti nibbattenti, te bhavavisesatthāya bhāventi.
Những ai phát sinh tám tầng thiền và mong muốn tái sinh vào cõi Phạm thiên với thiền chứng không bị thoái thất, thì họ tu tập vì mục đích tái sinh đặc biệt.

Yuttaṃ tāva cittekaggatāya bhavavisesatthatā viya vipassanāpādakatthatāpi catukkajjhānasādhāraṇāti tesaṃ vasena ‘‘cattāri jhānānī’’ti vacanaṃ,
Điều này phù hợp, vì mục đích dẫn đến tái sinh đặc biệt cũng giống như mục đích dẫn đến tuệ quán đều chung cho bốn tầng thiền. Do đó, thuật ngữ “bốn tầng thiền” được sử dụng.
Dịch lần 2:
Việc nói rằng ‘có bốn tầng thiền’ là hợp lý, vì sự nhất tâm (cittekaggatā) không chỉ có mục đích đặc biệt liên quan đến tái sinh, mà còn là nền tảng cho tuệ quán (vipassanā). Hơn nữa, bốn tầng thiền là điểm chung khi xét theo quan điểm này.

abhiññāpādakatthatā pana nirodhapādakatthatā ca catutthasseva jhānassa āveṇikā, sā kathaṃ catukkajjhānasādhāraṇā vuttāti?
Tuy nhiên, mục đích dẫn đến thần thông và mục đích dẫn đến diệt thọ tưởng định chỉ thuộc về tầng thiền thứ tư. Vậy tại sao chúng lại được nói là chung cho bốn tầng thiền?

Paramparādhiṭṭhānabhāvato.
Bởi vì chúng được thiết lập theo trình tự liên tục.

Padaṭṭhānapadaṭṭhānampi hi padaṭṭhānanti vuccati kāraṇakāraṇanti yathā ‘‘tiṇehi bhattaṃ siddha’’nti.
Vì nguyên nhân của nguyên nhân cũng được gọi là nguyên nhân, giống như câu “cỏ làm nên cơm.”

14. Catutthe sasakassa uppatanaṃ viya hotīti pathavijigucchanasasakassa uppatanaṃ viya hoti.
Trong phần thứ tư, sự bay lên của con thỏ giống như sự bay lên của con thỏ vì sự ghê tởm mặt đất.

Tatthāyaṃ atthasallāpikā upamā – pathavī kira sasakaṃ āha – ‘‘he sasakā’’ti.
Ở đây là một ví dụ giải thích ý nghĩa: Đất liền gọi thỏ: “Này chú thỏ!”

Sasako āha – ‘‘ko eso’’ti.
Thỏ hỏi lại: “Ai đó?”

Kasmā mameva upari sabbairiyāpathe kappento uccārapassāvaṃ karonto maṃ na jānāsīti?
“Tại sao ngươi không biết ta khi ta đang đi trên lưng ngươi và làm những việc bất tịnh?”

Suṭṭhu tayā ahaṃ diṭṭho, mayā akkantaṭṭhānañhi aṅgulaggehi phuṭṭhaṭṭhānaṃ viya hoti, vissaṭṭhaudakaṃ appamattakaṃ, karīsaṃ kaṭakaphalamattaṃ, hatthiassādīhi pana akkantaṭṭhānampi mahantaṃ, passāvopi nesaṃ ghaṭamatto, uccāropi pacchimatto hoti, alaṃ mayhaṃ tayāti uppatitvā aññasmiṃ ṭhāne patito.
“Ngươi đã thấy ta rõ ràng rồi. Nơi bị ta giẫm lên chỉ nhỏ như đầu ngón tay, nước tiểu của ta chỉ vài giọt, phân của ta chỉ bằng quả me. Nhưng đối với voi hay ngựa, nơi chúng giẫm lên rất lớn, nước tiểu của chúng to bằng chiếc bình, và phân của chúng to bằng cái chậu. Ta đã đủ rồi,” nói xong, nó bay lên và rơi xuống chỗ khác.

Tato naṃ pathavī āha – ‘‘aho dūraṃ gatopi nanu mayhaṃyeva upari patitosī’’ti?
Sau đó, đất liền nói: “Dù ngươi có đi xa đến đâu, chẳng phải ngươi vẫn rơi xuống trên ta sao?”

So puna taṃ jigucchanto uppatitvā aññattha patito.
Rồi thỏ, vì ghê tởm, lại bay lên và rơi xuống chỗ khác.

Evaṃ vassasahassampi uppatitvā uppatitvā patamāno sasako neva pathaviyā antaṃ pāpuṇituṃ sakkoti.
Như vậy, dù bay lên và rơi xuống suốt ngàn năm, con thỏ vẫn không thể đạt đến giới hạn của mặt đất.

Na koṭinti na pubbakoṭiṃ.
Không có điểm cuối cùng, không có điểm khởi đầu.

Itaresanti vipañcitaññuneyyapadaparamānaṃ.
Các điều còn lại được hiểu theo cách tương tự thông qua các thuật ngữ đã được giải thích.

15. Pañcame samathehi adhikarīyati vūpasammatīti adhikaraṇaṃ,
Trong phần thứ năm, vấn đề được giải quyết thông qua hòa giải (samatha), tức là vấn đề đã được dập tắt.

aṭṭhārasa bhedakaravatthūni nissāya uppanno vivādoyeva vivādādhikaraṇaṃ.
Vấn đề tranh cãi phát sinh dựa trên mười tám nguyên nhân gây chia rẽ chính là vấn đề tranh cãi (vivādādhikaraṇa).

‘‘Idha bhikkhū bhikkhuṃ anuvadanti sīlavipattiyā vā’’tiādinā (cūḷava. 215) catasso vipattiyo nissāya uppanno anuvādoyeva anuvādādhikaraṇaṃ.
Dựa trên bốn loại lỗi lầm như trong câu: “Ở đây, các Tỳ-khưu khiển trách một Tỳ-khưu vì lỗi lầm về giới v.v…” (Cūḷavagga 215), vấn đề khiển trách (anuvādādhikaraṇa) phát sinh.

Pañcapi āpattikkhandhā āpattādhikaraṇaṃ.
Năm nhóm tội cũng chính là vấn đề tội phạm (āpattādhikaraṇa).

‘‘Sattapi āpattikkhandhā āpattādhikaraṇa’’nti (cūḷava. 215) vacanato āpattiyeva āpattādhikaraṇaṃ.
“Năm hoặc bảy nhóm tội đều là vấn đề tội phạm” (Cūḷavagga 215). Theo lời này, tội phạm chính là vấn đề tội phạm.

‘‘Yā saṅghassa kiccayatā karaṇīyatā apalokanakammaṃ ñattikammaṃ ñattidutiyakammaṃ ñatticatutthakamma’’nti (cūḷava. 215) evamāgataṃ catubbidhaṃ saṅghakiccaṃ kiccādhikaraṇanti veditabbaṃ.
“Việc cần làm của chúng Tăng như việc công bố, việc tuyên bố lần thứ nhất, lần thứ hai, lần thứ ba” (Cūḷavagga 215). Như vậy, bốn loại công việc của Tăng được hiểu là vấn đề công việc (kiccādhikaraṇa).

Sesamettha uttānameva.
Các điều còn lại ở đây được hiểu theo cách tương tự.

16. Chaṭṭhe apākaṭanāmoti ‘‘selo, kūṭadanto’’tiādinā anabhiññāto.
Trong phần thứ sáu, “apākaṭanāma” nghĩa là không được biết rõ qua các đặc điểm như “sela” (đá), “kūṭadanta” (răng nhọn) v.v…

Yena vā kāraṇenāti hetumhi idaṃ karaṇavacanaṃ.
“Yena vā kāraṇena” nghĩa là trong nguyên nhân này, đây là cách diễn đạt về hành động.

Hetuattho hi kiriyākāraṇaṃ, na karaṇaṃ viya kiriyattho, tasmā nānappakāraguṇavisesādhigamatthā idha upasaṅkamanakiriyāti ‘‘annena vasati, ajjhenena vasatī’’tiādīsu viya hetuatthamevetaṃ karaṇavacanaṃ yuttaṃ, na karaṇatthaṃ tassa ayujjamānattāti vuttaṃ ‘‘yena vā kāraṇenā’’ti.
Ý nghĩa của nguyên nhân là hành động làm nên nguyên nhân, chứ không phải chỉ đơn thuần là hành động. Do đó, việc đạt được các phẩm chất đặc biệt khác nhau ở đây thông qua hành động đến gần (upasaṅkamana) giống như các ví dụ “ăn bằng thực phẩm, sống bằng đồ ăn” v.v… Vì vậy, cách diễn đạt này phù hợp với ý nghĩa của nguyên nhân, không phải ý nghĩa của hành động, vì nó không thể áp dụng cho tất cả. Do đó nói rằng: “bởi nguyên nhân nào.”

Avibhāgato satataṃ pavattitaniratisayasāduvipulāmatarasasaddhammaphalatāya sāduphalaniccaphalitamahārukkhena bhagavā upamito.
Đức Thế Tôn được ví như một cây đại thọ luôn trổ sinh quả ngọt và thường xuyên mang lại lợi ích vô biên của Chánh Pháp mà không phân biệt.

Sāduphalūpabhogādhippāyaggahaṇeneva hi rukkhassa sāduphalatā gahitāti.
Sự ngọt ngào của quả cây được hiểu là nhờ vào mục đích chính của việc sử dụng trái cây.

Upasaṅkamīti upasaṅkanto.
“Upasaṅkami” nghĩa là đã đến gần.

Sampattakāmatāya hi kiñci ṭhānaṃ gacchanto taṃtaṃpadesātikkamanena upasaṅkami, upasaṅkantoti ca vattabbataṃ labhati.
Vì mong muốn đạt được điều gì đó, khi đi qua từng nơi, người ấy đến gần; và từ đó nhận được sự hướng dẫn để có thể được gọi là “đã đến gần.”

Tenāha ‘‘gatoti vuttaṃ hotī’’ti, upagatoti attho.
Do đó nói rằng: “đi đến,” nghĩa là đã đến.

Upasaṅkamitvāti pubbakālakiriyāniddesoti āha ‘‘upasaṅkamanapariyosānadīpana’’nti.
“Upasaṅkamitvā” nghĩa là mô tả hành động đã thực hiện trước đó. Điều này được giải thích là nhằm làm rõ sự kết thúc của việc đến gần.

Tatoti yaṃ ṭhānaṃ patto ‘‘upasaṅkamī’’ti vutto, tato upagataṭṭhānato.
“Tato” nghĩa là nơi mà người ấy đã đến được gọi là “đến gần,” và từ đó trở thành nơi đã đến.

Yathā khamanīyādīni pucchantoti yathā bhagavā ‘‘kacci te, brāhmaṇa, khamanīyaṃ, kacci yāpanīya’’ntiādinā khamanīyādīni pucchanto tena brāhmaṇena saddhiṃ samappavattamodo ahosi pubbabhāsitāya, evaṃ sopi brāhmaṇo tadanukaraṇena bhagavatā saddhiṃ samappavattamodo ahosīti yojanā.
Giống như Đức Thế Tôn hỏi Bà-la-môn: “Này Bà-la-môn, có chịu đựng được không? Có duy trì được không?” v.v… và nhờ đó, giữa Đức Thế Tôn và Bà-la-môn có sự hòa hợp trong lời nói. Cũng vậy, Bà-la-môn ấy, theo gương Đức Thế Tôn, cũng có sự hòa hợp tương tự.

Taṃ pana samappavattamodataṃ upamāya dassetuṃ ‘‘sītodakaṃ viyā’’tiādi vuttaṃ.
Để minh họa sự hòa hợp này, ví dụ “như nước mát” v.v… đã được đưa ra.

Tattha sammoditanti saṃsanditaṃ.
Ở đây, “sammodita” nghĩa là sự hòa hợp.

Ekībhāvanti sammodanakiriyāya samānataṃ.
“Ekībhāva” nghĩa là trạng thái đồng nhất thông qua hành động hòa hợp.

Khamanīyanti ‘‘idaṃ catucakkaṃ navadvāraṃ sarīrayantaṃ dukkhabahulatāya sabhāvato dussahaṃ, kacci khamituṃ sakkuṇeyya’’nti pucchati.
“Khamanīya” nghĩa là Đức Thế Tôn hỏi: “Thân này gồm bốn yếu tố, chín cửa, đầy đau khổ, khó chịu đựng, có thể chịu đựng được không?”

Yāpanīyanti āhārādippaṭibaddhavuttikaṃ cirappabandhasaṅkhātāya yāpanāya kacci yāpetuṃ sakkuṇeyyaṃ.
“Yāpanīya” nghĩa là liệu có thể duy trì lâu dài nhờ vào thức ăn v.v…?

Sīsarogādiābādhābhāvena kacci appābādhaṃ.
Liệu có ít bệnh tật như đau đầu v.v…?

Dukkhajīvikābhāvena kacci appātaṅkaṃ.
Liệu có ít đau khổ trong cuộc sống?

Taṃtaṃkiccakaraṇe uṭṭhānasukhatāya kacci lahuṭṭhānaṃ.
Liệu có thuận tiện trong việc thực hiện các nhiệm vụ?

Tadanurūpabalayogato kacci balaṃ.
Liệu có sức mạnh phù hợp với công việc?

Sukhavihārasambhavena kacci phāsuvihāro atthīti sabbattha kacci-saddaṃ yojetvā attho veditabbo.
Liệu có sự an trú hạnh phúc? Ý nghĩa cần được hiểu qua việc kết nối từ “kacci” (liệu có) trong tất cả các câu hỏi trên.

Balappattā pīti pītiyeva.
Khi đạt được sức mạnh, niềm hân hoan (pīti) chính là niềm hân hoan.

Taruṇapīti pāmojjaṃ.
Niềm hân hoan của người trẻ tuổi là sự vui mừng (pāmojja).

Sammodaṃ janeti karotīti sammodanīkaṃ, tadeva sammodanīyaṃ.
“Sammodaṃ janeti karoti” nghĩa là tạo ra sự hòa hợp, và điều đó chính là “sammodanīya.”

Sammoditabbato sammodanīyanti imaṃ pana atthaṃ dassetuṃ ‘‘sammodituṃ yuttabhāvato’’ti āha.
“Sammoditabbo” nghĩa là cần phải hòa hợp; để giải thích ý nghĩa này, nói rằng: “Vì có khả năng hòa hợp.”

Saritabbabhāvatoti anussaritabbabhāvato.
“Saritabbabhāva” nghĩa là trạng thái cần được nhớ lại.

‘‘Saraṇīya’’nti vattabbe dīghaṃ katvā ‘‘sāraṇīya’’nti vuttaṃ.
“Saraṇīya” được phát âm dài thành “sāraṇīya.”

Suyyamānasukhatoti āpāthagatamadhurataṃ āha, anussariyamānasukhatoti vimaddaramaṇīyataṃ.
“Suyyamānasukha” nghĩa là sự ngọt ngào đã đạt được; “anussariyamānasukha” nghĩa là sự đáng yêu khi được nhớ đến.

Byañjanaparisuddhatāyāti sabhāvaniruttibhāvena tassā kathāya vacanacāturiyamāha.
“Byañjanaparisuddhatā” nghĩa là sự trong sáng về từ ngữ, được hiểu qua đặc tính tự nhiên và cách phát âm, chỉ sự khéo léo trong lời nói.

Atthaparisuddhatāyāti atthassa nirupakkilesataṃ.
“Atthaparisuddhatā” nghĩa là sự trong sáng về ý nghĩa, tức là ý nghĩa không bị ô nhiễm.

Anekehi pariyāyehīti anekehi kāraṇehi.
“Anekehi pariyāyehi” nghĩa là bởi nhiều phương tiện hay nguyên nhân.

Atidūraaccāsannappaṭikkhepena nātidūraṃ naccāsannaṃ nama gahitaṃ, taṃ pana avakaṃsato ubhinnaṃ pasāritahatthāsaṅghaṭṭanena daṭṭhabbaṃ.
Không quá xa cũng không quá gần, mà ở một khoảng cách vừa phải. Điều này cần được hiểu qua việc hai bên đưa tay ra và chạm vào nhau.

Gīvaṃ pasāretvāti gīvaṃ parivaṭṭanavasena pasāretvā.
“Gīvaṃ pasāretvā” nghĩa là xoay cổ để đưa ra.

Etadavocāti etaṃ ‘‘ko nu kho, bhante, hetū’’tiādipucchāvacanaṃ avoca.
“Etadavoca” nghĩa là câu hỏi bắt đầu bằng “Bạch Thế Tôn, nguyên nhân nào…” đã được nói ra.

Teneva ‘‘etadavocā’’ti padaṃ uddharitvā duvidhā hi pucchātiādinā pucchāvibhāgaṃ dasseti.
Do đó, từ “etadavoca” được trích dẫn để phân chia câu hỏi thành hai phần.

Tattha agāre niyutto agāriko, tassa pucchā agārikapucchā.
Ở đây, người sống đời gia đình là cư sĩ, và câu hỏi của họ là câu hỏi của cư sĩ.

Agārikato añño anagāriko pabbajjūpagato, tassa pucchā anagārikapucchā.
Người khác với cư sĩ là người xuất gia, và câu hỏi của họ là câu hỏi của người xuất gia.

Kiñcāpi aññattha ‘‘janako hetu, paggāhako paccayo. Asādhāraṇo hetu, sādhāraṇo paccayo. Sabhāgo hetu, asabhāgo paccayo. Pubbakāliko hetu, sahapavatto paccayo’’tiādinā hetupaccayā vibhajja vuccanti.
Mặc dù ở nơi khác, các thuật ngữ “hetu” (nguyên nhân) và “paccaya” (điều kiện) được phân biệt qua các cách như: “nguyên nhân sinh ra, điều kiện hỗ trợ,” “nguyên nhân đặc biệt, điều kiện chung,” “nguyên nhân tương ứng, điều kiện không tương ứng,” “nguyên nhân trước, điều kiện đồng thời” v.v…

Idha pana ‘‘cattāro kho, bhikkhave, mahābhūtā hetu cattāro mahābhūtā paccayo rūpakkhandhassa paññāpanāyā’’tiādīsu (ma. ni. 3.86) viya hetupaccayasaddā samānatthāti dassento ‘‘ubhayampetaṃ kāraṇavevacanamevā’’ti āha.
Tuy nhiên, ở đây, giống như trong đoạn: “Này các Tỳ-khưu, bốn đại chủng là nguyên nhân, bốn đại chủng là điều kiện để biểu hiện uẩn sắc” (Ma. Ni. 3.86), các từ “hetu” và “paccaya” có cùng ý nghĩa. Do đó, nói rằng: “Cả hai đều là tên gọi của nguyên nhân.”

Visamacariyāti bhāvanapuṃsakaniddeso.
“Visamacariyā” là mô tả về hành giả tu tập.

Abhikkantāti atikkantā, vigatāti atthoti āha ‘‘khaye dissatī’’ti.
“Abhikkantā” nghĩa là đã vượt qua, “vigata” nghĩa là đã biến mất. Do đó nói rằng: “Trong sự tiêu diệt, nó được thấy.”

Tathā hi ‘‘nikkhanto paṭhamo yāmo’’ti upari vuttaṃ.
Như vậy, câu “đã vượt qua thời gian đầu tiên” đã được đề cập ở trên.

Abhikkantataroti ativiya kantataro manoramo, tādiso ca sundaro bhaddako nāma hotīti āha ‘‘sundare dissatī’’ti.
“Abhikkantatara” nghĩa là rất đáng yêu, đẹp đẽ và may mắn. Do đó nói rằng: “Nó được thấy như một điều đẹp đẽ.”

Koti devanāgayakkhagandhabbādīsu ko katamo? Meti mama.
Trong các cõi thần, Dạ-xoa, Càn-thát-bà v.v…, đâu là giới hạn? Điều này thuộc về ta.

Pādānīti pāde.
“Pādāni” nghĩa là bàn chân.

Iddhiyāti imāya evarūpāya deviddhiyā.
“Iddhi” nghĩa là năng lực thần thông của chư thiên.

Yasasāti iminā edisena parivārena paricchedena ca.
“Yasasā” nghĩa là với sự bao quanh và giới hạn như thế này.

Jalanti vijjotamāno.
“Jalanti” nghĩa là tỏa sáng, rực rỡ.

Abhikkantenāti ativiya kantena kamanīyena abhirūpena.
“Abhikkantena” nghĩa là bởi vẻ đẹp đặc biệt, đáng yêu và dễ nhìn.

Vaṇṇenāti chavivaṇṇena sarīravaṇṇanibhāya.
“Vaṇṇena” nghĩa là màu sắc của da, ánh sáng của thân thể.

Sabbā obhāsayaṃ disāti dasa disā pabhāsento, cando viya sūriyo viya ca ekobhāsaṃ ekālokaṃ karontoti gāthāya attho.
“Tất cả đều chiếu sáng mười phương, giống như mặt trăng và mặt trời tạo ra ánh sáng đồng nhất.” Đây là ý nghĩa của bài kệ.

Abhirūpeti uḷārarūpe sampannarūpe.
“Abhirūpeti” nghĩa là có hình dáng cao quý, đầy đủ vẻ đẹp.

‘‘Coro, coro; sappo, sappo’’tiādīsu bhaye āmeḍitaṃ.
Trong các câu như “Kẻ trộm, kẻ trộm; rắn, rắn,” biểu lộ sự sợ hãi.

‘‘Vijjha, vijjha; pahara, paharā’’tiādīsu kodhe.
Trong các câu như “Đâm đi, đâm đi; đánh đi, đánh đi,” biểu lộ sự tức giận.

‘‘Sādhu, sādhū’’tiādīsu (ma. ni. 327.saṃ. ni. 2.127; 3.35; 5.1085) pasaṃsāyaṃ.
Trong các câu như “Lành thay, lành thay” (Ma. Ni. 327; Saṃ. Ni. 2.127; 3.35; 5.1085), biểu lộ sự tán dương.

‘‘Gaccha, gaccha; lunāhi, lunāhī’’tiādīsu turite.
Trong các câu như “Đi đi, cắt đi,” biểu lộ sự vội vã.

‘‘Āgaccha, āgacchā’’tiādīsu kotūhale.
Trong các câu như “Hãy đến, hãy đến,” biểu lộ sự khẩn thiết.

‘‘Buddho, buddhoti cintento’’tiādīsu (bu. vaṃ. 2.44) acchare.
Trong các câu như “Phật, Phật” (Bu. Vaṃ. 2.44), biểu lộ sự suy niệm.

‘‘Abhikkamathāyasmanto, abhikkamathāyasmanto’’tiādīsu hāse.
Trong các câu như “Hãy bước đi, chư Tôn giả,” biểu lộ sự hài lòng.

‘‘Kahaṃ ekaputtaka, kahaṃ ekaputtakā’’tiādīsu (ma. ni. 2.353; saṃ. ni. 2.63) soke.
Trong các câu như “Con trai độc nhất của ta, con gái độc nhất của ta” (Ma. Ni. 2.353; Saṃ. Ni. 2.63), biểu lộ nỗi buồn.

‘‘Aho sukhaṃ, aho sukha’’ntiādīsu (udā. 20; dī. ni. 3.305; cūḷava. 332) pasāde.
Trong các câu như “Ôi hạnh phúc thay, ôi hạnh phúc thay” (Udā. 20; Dī. Ni. 3.305; Cūḷava. 332), biểu lộ niềm hoan hỷ.

Ca-saddo avuttasamuccayatto.
Chữ “ca” biểu thị sự tổng hợp những gì chưa được nói.

Tena garahāasammānādīnaṃ saṅgaho daṭṭhabbo.
Do đó, cần hiểu sự kết hợp giữa khiển trách và tôn trọng.

Tattha ‘‘pāpo, pāpo’’tiādīsu garahāyaṃ.
Trong các câu như “Ác độc thay, ác độc thay,” biểu lộ sự khiển trách.

‘‘Abhirūpaka, abhirūpakā’’tiādīsu asammāne daṭṭhabbaṃ.
Trong các câu như “Đẹp đẽ thay, đẹp đẽ thay,” biểu lộ sự tôn trọng.

Nayidaṃ āmeḍitavasena dvikkhattuṃ vuttaṃ, atha kho atthadvayavasenāti dassento ‘‘atha vā’’tiādimāha.
Điều này không được nói hai lần theo cách biểu lộ sợ hãi, mà là để chỉ hai ý nghĩa. Do đó, nói rằng: “hay là…”

‘‘Abhikkanta’’nti vacanaṃ apekkhitvā napuṃsakavasena vuttaṃ, taṃ pana bhagavato vacanaṃ dhammassa desanāti katvā tathā vuttaṃ ‘‘bhoto gotamassa dhammadesanā’’ti.
Từ “abhikkanta” được nói đến với ý nghĩa trung tính (napuṃsaka), nhưng khi Đức Thế Tôn thuyết giảng Pháp, điều đó được gọi là “lời thuyết giảng của Đức Gotama.”

Dutiyapadepi eseva nayo.
Cách hiểu này cũng áp dụng cho từ thứ hai.

Dosanāsanatoti rāgādikilesavidhamanato.
“Việc loại bỏ sân hận” nghĩa là sự tiêu diệt các phiền não như tham ái v.v…

Guṇādhigamanatoti sīlādiguṇānaṃ sampāpanato.
“Việc đạt được phẩm chất” nghĩa là việc đạt được các phẩm chất như giới đức v.v…

Ye guṇe desanā adhigameti, tesu padhānabhūte tāva dassetuṃ ‘‘saddhājananato paññājananato’’ti vuttaṃ.
Những phẩm chất nào mà bài thuyết giảng giúp đạt được, trước hết cần được trình bày qua nỗ lực chính yếu, như “việc sinh khởi đức tin và trí tuệ.”

Saddhāpamukhā hi lokiyā guṇā, paññāpamukhā lokuttarā.
Các phẩm chất thuộc thế gian thì đức tin đứng đầu, còn các phẩm chất siêu thế thì trí tuệ đứng đầu.

Sīlādiatthasampattiyā sātthato, sabhāvaniruttisampattiyā sabyañjanato.
Do sự thành tựu về ý nghĩa của giới v.v…, nên có ý nghĩa sâu sắc; do sự thành tựu về bản chất và âm thanh, nên có từ ngữ rõ ràng.

Suviññeyyasaddappayogatāya uttānapadato, saṇhasukhumabhāvena duviññeyyatthatāya gambhīratthato.
Do sử dụng từ dễ hiểu, nên từ ngữ trở nên nổi bật; do ý nghĩa tế nhị và khó hiểu, nên ý nghĩa trở nên sâu sắc.

Siniddhamudumadhurasaddappayogatāya kaṇṇasukhato, vipulavisuddhapemanīyatthatāya hadayaṅgamato.
Do sử dụng từ rõ ràng, mềm mại và ngọt ngào, nên mang lại sự thoải mái cho tai; do ý nghĩa rộng lớn, trong sáng và đáng yêu, nên chạm đến trái tim.

Mānātimānavidhamanena anattukkaṃsanato, thambhasārambhanimmaddanena aparavambhanato.
Do sự phá hủy kiêu mạn và ngã mạn, nên không có sự tự ca ngợi; do sự loại bỏ kiêu căng và tranh cãi, nên không có sự khinh miệt người khác.

Hitādhippāyappavattiyā paresaṃ rāgapariḷāhādivūpasamanena karuṇāsītalato, kilesandhakāravidhamanena paññāvadātato.
Do mục đích mang lại lợi ích, nên lòng bi làm nguội tắt ngọn lửa tham ái của người khác; do sự phá hủy bóng tối của phiền não, nên trí tuệ tỏa sáng.

Karavīkarutamañjutāya āpātharamaṇīyato, pubbāparāviruddhasuvisuddhatthatāya vimaddakkhamato.
Do hương vị ngọt ngào của lời dạy, nên dễ chịu khi tiếp xúc; do sự thanh tịnh hoàn hảo không bị cản trở bởi quá khứ hay tương lai, nên dễ dàng tiêu hóa.

Āpātharamaṇīyatāya evaṃ suyyamānasukhato, vimaddakkhamatāya hitajjhāsayappavattitatāya ca vīmaṃsiyamānahitato.
Do sự dễ chịu khi tiếp xúc, nên mang lại niềm vui khi lắng nghe; do dễ dàng tiêu hóa, nên phát sinh ý định tốt đẹp.

Evamādīhīti ādi-saddena saṃsāracakkanivattanato, saddhammacakkappavattanato, micchāvādavigamanato, sammāvādapatiṭṭhāpanato, akusalamūlasamuddharaṇato, kusalamūlasaṃropanato, apāyadvārapidhānato, saggamokkhadvāravivaraṇato, pariyuṭṭhānavūpasamanato, anusayasamugghātanatoti evamādīnaṃ saṅgaho daṭṭhabbo.
“Như vậy v.v…” – bằng chữ “v.v…”, cần hiểu bao gồm các ý nghĩa như: sự dừng lại của bánh xe luân hồi, sự vận hành của bánh xe Chánh Pháp, sự loại bỏ tà kiến, sự thiết lập chánh kiến, sự nhổ bỏ gốc rễ bất thiện, sự trồng rễ thiện lành, sự đóng cửa ác đạo, sự mở cửa thiên đường và giải thoát, sự dập tắt các phiền não hiện hành, và sự đoạn tận tùy miên.

Adhomukhaṭṭhapitanti kenaci adhomukhaṃ ṭhapitaṃ.
“Adhomukhaṭṭhapita” nghĩa là được ai đó đặt úp mặt xuống.

Heṭṭhāmukhajātanti sabhāveneva heṭṭhāmukhajātaṃ.
“Heṭṭhāmukhajāta” nghĩa là tự nhiên sinh ra với mặt hướng xuống dưới.

Uparimukhanti uddhaṃmukhaṃ.
“Uparimukha” nghĩa là mặt hướng lên trên.

Ugghāṭeyyāti vivaṭaṃ kareyya.
“Ugghāṭeyya” nghĩa là làm cho mở ra, khai thông.

Hatthe gahetvāti ‘‘puratthābhimukho uttarābhimukho vā gacchā’’tiādīni avatvā hatthe gahetvā ‘‘nissandehaṃ esa maggo, evaṃ gaccheyyā’’ti vadeyya.
“Hatthe gahetvā” nghĩa là sau khi cầm vào tay và chỉ dẫn: “Hãy đi về phía đông hoặc phía bắc,” rồi nói chắc chắn rằng: “Đây là con đường không nghi ngờ, hãy đi như vậy.”

Kāḷapakkhacātuddasīti kāḷapakkhe cātuddasī.
“Kāḷapakkhacātuddasī” nghĩa là ngày mười bốn trong nửa tháng tối (kāḷapakkha).

Nikkujjitaṃ ādheyyassa anādhārabhūtaṃ bhājanaṃ Ādhārabhāvāpādanavasena ukkujjeyya.
“Nikkujjitaṃ” nghĩa là một vật bị lật úp, không có chỗ dựa; cần phải lật ngửa lại để tạo chỗ dựa.

Heṭṭhāmukhajātatāya saddhammavimukhaṃ, adhomukhaṭhapitatāya asaddhamme patitanti evaṃ padadvayaṃ yathārahaṃ yojetabbaṃ, na yathāsaṅkhyaṃ.
Do bản chất quay mặt xuống dưới nên xa rời Chánh Pháp, do bị úp xuống nên rơi vào phi pháp. Do đó, hai từ này cần được kết hợp theo ý nghĩa phù hợp, không phải theo số lượng.

Kāmaṃ kāmacchandādayopi paṭicchādakā nīvaraṇabhāvato, micchādiṭṭhi pana savisesaṃ paṭicchādikā satte micchābhinivesanavasenāti āha ‘‘micchādiṭṭhigahanapaṭicchanna’’ti.
Các dục như tham ái cũng che đậy như các chướng ngại, nhưng tà kiến đặc biệt che đậy chúng sinh qua sự chấp thủ sai lầm. Do đó, nói rằng: “Bị che đậy bởi tà kiến.”

Tenāha bhagavā ‘‘micchādiṭṭhiparamāhaṃ, bhikkhave, vajjaṃ vadāmī’’ti (a. ni. 1.310).
Do đó, Đức Thế Tôn dạy rằng: “Này các Tỳ-khưu, Ta tuyên bố rằng tà kiến là tội lỗi lớn nhất” (A. Ni. 1.310).

Sabbo apāyagāmimaggo kummaggo ‘‘kucchito maggo’’ti katvā.
Mọi con đường dẫn đến ác đạo đều là con đường xấu, được gọi là “con đường tồi tệ.”

Sammādiṭṭhiādīnaṃ ujupaṭipakkhatāya micchādiṭṭhiādayo aṭṭha micchattadhammā micchāmaggo.
Do tính thẳng và ngược lại của Chánh Kiến v.v…, tám pháp sai lầm như tà kiến v.v… được gọi là con đường sai lầm.

Teneva hi tadubhayappaṭipakkhataṃ sandhāya ‘‘saggamokkhamaggaṃ āvikarontenā’’ti vuttaṃ.
Do đó, nói rằng: “Người ấy làm sáng tỏ con đường dẫn đến thiên đường và giải thoát,” dựa trên sự đối lập của cả hai điều này.

Sappiādisannissayo padīpo na tathā ujjalo, yathā telasannissayoti telapajjotaggahaṇaṃ.
Đèn dựa vào bơ thì không sáng bằng đèn dựa vào dầu, do đó lấy ví dụ đèn dầu.

Etehi pariyāyehīti etehi nikkujjitukkujjanappaṭicchannavivaraṇādiupamopamitabbākārehi.
“Bằng những cách này” nghĩa là qua các phương tiện so sánh như lật úp, lật ngửa, che đậy, mở ra v.v…

Pasannakāranti pasannehi kātabbaṃ sakkāraṃ.
“Pasannakāra” nghĩa là sự tôn kính cần được thực hiện đối với những người đã có lòng tin.

Saraṇanti paṭisaraṇaṃ.
“Saraṇa” nghĩa là nơi nương tựa.

Tenāha ‘‘parāyaṇa’’ti.
Do đó, nói rằng “parāyaṇa” (nơi nương tựa tối hậu).

Parāyaṇabhāvo ca anatthanisedhanena atthasampaṭipādanena ca hotīti āha ‘‘aghassa, tātā, hitassa ca vidhātā’’ti.
Trạng thái của “parāyaṇa” được thành tựu thông qua việc ngăn chặn điều bất thiện và thực hiện điều thiện. Do đó, nói rằng: “Người chấm dứt khổ đau, này người thân yêu, là người mang lại lợi ích.”

Aghassāti dukkhatoti vadanti, pāpatoti pana attho yutto.
“Agha” được giải thích là khổ đau, nhưng ý nghĩa của “pāpa” (ác) cũng phù hợp.

Nissakke cetaṃ sāmivacanaṃ.
Đây là cách diễn đạt không có giới từ (nissakka).

Ettha ca nāyaṃ gami-saddo nī-saddādayo viya dvikammako, tasmā yathā ‘‘ajaṃ gāmaṃ netī’’ti vuccati, evaṃ ‘‘bhagavantaṃ saraṇaṃ gacchāmī’’ti vattuṃ na sakkā.
Ở đây, từ “gami” không phải là động từ kép như “nī” v.v… Do đó, giống như câu “dẫn dê vào làng,” không thể nói “con đi đến Đức Thế Tôn làm nơi nương tựa.”

‘‘Saraṇanti gacchāmī’’ti pana vattabbaṃ.
Tuy nhiên, có thể nói: “Con đi đến nơi nương tựa.”

Iti-saddo cettha luttaniddiṭṭho.
Từ “iti” ở đây mang ý nghĩa bị lược bỏ.

Tassa cāyamattho – gamanañca tadadhippāyena bhajanaṃ jānanaṃ vāti dassento ‘‘iti iminā adhippāyenā’’tiādimāha.
Ý nghĩa của nó là: “Việc đi đến với mục đích ấy, hoặc việc hiểu rõ về sự nương tựa.” Do đó, nói rằng: “Với ý nghĩa này…”

Tattha bhajāmītiādīsu purimassa purimassa pacchimaṃ pacchimaṃ atthavacanaṃ.
Trong các từ như “bhajāmi” (con nương tựa), từ trước chỉ ý nghĩa của từ sau.

Bhajanaṃ vā saraṇādhippāyena upasaṅkamanaṃ.
“Nương tựa” nghĩa là đến gần với mục đích làm nơi nương tựa.

Sevanaṃ santikāvacaratā.
“Sevana” nghĩa là sự phục vụ trong sự hiện diện.

Payirupāsanaṃ vattappaṭivattakaraṇena upaṭṭhānanti evaṃ sabbathāpi anaññasaraṇataṃyeva dīpeti.
“Payirupāsana” nghĩa là chăm sóc thông qua việc phục vụ và hỗ trợ. Như vậy, tất cả đều nhằm làm sáng tỏ sự không nương tựa vào ai khác.

‘‘Gacchāmī’’ti padassa bujjhāmīti ayamattho kathaṃ labbhatīti āha ‘‘yesaṃ hī’’tiādi.
Ý nghĩa của từ “gacchāmi” (con đi đến) là “con hiểu.” Làm thế nào để hiểu được điều này? Nói rằng: “Đối với những ai…”

Adhigatamagge sacchikatanirodheti padadvayenapi phalaṭṭhā eva dassitā, na maggaṭṭhāti te dassento ‘‘yathānusiṭṭhaṃ paṭipajjamāne cā’’ti āha.
Dù bằng hai từ “đạt được con đường” hay “chứng ngộ Niết Bàn,” thì quả vị vẫn được chỉ rõ, không phải trạng thái trên con đường. Để làm rõ điều này, nói rằng: “Khi hành trì đúng theo lời dạy…”

Nanu ca kalyāṇaputhujjanopi yathānusiṭṭhaṃ paṭipajjatīti vuccatīti?
Nhưng chẳng phải người tại gia thiện nam cũng được gọi là hành trì đúng theo lời dạy sao?

Kiñcāpi vuccati, nippariyāyena pana maggaṭṭhā eva tathā vattabbā, na itare sammattaniyāmokkamanābhāvato.
Mặc dù được gọi như vậy, nhưng thực tế chỉ những ai đang trên con đường (maggaṭṭha) mới có thể được mô tả như vậy, không phải những người khác, vì họ chưa bước vào dòng chảy của sự tu tập đúng đắn.

Tathā hi te eva vuttā ‘‘apāyesu apatamāne dhāretī’’ti.
Chính vì lý do này mà nói rằng: “Họ không rơi vào ác đạo.”

Sammattaniyāmokkamanena hi apāyavinimuttisambhavo.
Bởi vì sự giải thoát khỏi ác đạo chỉ có thể xảy ra khi bước vào dòng chảy của sự tu tập đúng đắn.

Akkhāyatīti ettha iti-saddo ādyattho, pakārattho vā.
“Akkhāyati” ở đây, từ “iti” mang ý nghĩa ban đầu hoặc ý nghĩa minh họa.

Tena ‘‘yāvatā, bhikkhave, dhammā saṅkhatā vā asaṅkhatā vā, virāgo tesaṃ aggamakkhāyatī’’ti (itivu. 90; a. ni. 4.34) suttapadaṃ saṅgaṇhāti, ‘‘vitthāro’’ti vā iminā.
Do đó, đoạn kinh này được tóm tắt: “Này các Tỳ-khưu, trong tất cả các pháp hữu vi hay vô vi, ly tham là cao quý nhất” (Itivuttaka 90; A. Ni. 4.34). Hoặc có thể giải thích chi tiết hơn.

Ettha ca ariyamaggo niyyānikatāya, nibbānaṃ tassa tadatthasiddhihetutāyāti ubhayameva nippariyāyena dhammoti vutto.
Ở đây, con đường Thánh được nói là phương tiện dẫn đến giải thoát, và Niết Bàn là nguyên nhân đạt được mục tiêu của nó. Cả hai đều được gọi là pháp theo cách không còn nghi ngờ.

Nibbānañhi ārammaṇapaccayabhūtaṃ labhitvā ariyamaggo tadatthasiddhiyā saṃvattati,
Vì khi đạt được Niết Bàn như một điều kiện hỗ trợ, con đường Thánh dẫn đến sự hoàn thành mục tiêu của nó.

tathāpi yasmā ariyaphalānaṃ ‘‘tāya saddhāya avūpasantāyā’’tiādivacanato maggena samucchinnānaṃ kilesānaṃ paṭippassaddhippahānakiccatāya niyyānānuguṇatāya niyyānapariyosānatāya ca.
Tuy nhiên, vì trong các quả vị Thánh, nói rằng “niềm tin không còn dao động,” nên con đường Thánh có nhiệm vụ làm lắng dịu và loại bỏ các phiền não, nhờ đó tạo ra khả năng giải thoát và hoàn thiện sự giải thoát.

Pariyattidhammassa pana niyyānikadhammasamadhigamahetutāyāti iminā pariyāyena vuttanayena dhammabhāvo labbhati eva.
Còn đối với pháp học, nhờ cách thức này, bản chất của pháp được hiểu rõ ràng.

Svāyamattho pāṭhāruḷho evāti dassento ‘‘na kevala’’ntiādimāha.
Để làm rõ ý nghĩa tự thân của nó, nói rằng: “Không chỉ đơn thuần…”

Kāmarāgo bhavarāgoti evamādibhedo sabbopi rāgo virajjati pahīyati etenāti rāgavirāgoti maggo kathito.
“Kāmarāga” (tham ái dục vọng) và “bhavarāga” (tham ái tồn tại) v.v… tất cả các loại tham đều được tẩy sạch và đoạn trừ. Do đó, con đường được gọi là “rāgavirāga” (ly tham).

Ejāsaṅkhātāya taṇhāya antonijjhānalakkhaṇassa sokassa ca taduppattiyaṃ sabbaso parikkhīṇattā anejamasokanti phalaṃ kathitaṃ.
Do sự hoàn toàn chấm dứt khát ái, đặc tính của sự bám víu vào bên trong và nỗi buồn cũng bị tiêu diệt hoàn toàn. Do đó, quả vị được gọi là “anejamasoka” (không phiền não và không đau khổ).

Appaṭikūlanti avirodhadīpanato kenaci aviruddhaṃ, iṭṭhaṃ paṇītanti vā attho.
“Appaṭikūla” nghĩa là không gây trở ngại, không xung đột với bất kỳ ai, hoặc có thể hiểu là điều dễ chịu, tốt đẹp.

Paguṇarūpena pavattitattā, pakaṭṭhaguṇavibhāvanato vā paguṇaṃ.
Do bản chất quen thuộc của nó khi vận hành, hoặc do sự phát triển rõ ràng của các phẩm chất, nên được gọi là “paguṇa” (thuần thục).

Sabbadhammakkhandhā kathitāti yojanā.
Tất cả các pháp được nói đến như một khối hợp nhất, đây là cách kết nối ý nghĩa.

Diṭṭhisīlasaṅghātenāti ‘‘yāyaṃ diṭṭhi ariyā niyyānikā niyyāti takkarassa sammā dukkhakkhayāya, tathārūpāya diṭṭhiyā diṭṭhisāmaññagato viharatī’’ti (dī. ni. 3.324, 357; ma. ni. 1.492; 3.54; a. ni. 6.12; pari. 274) evaṃ vuttāya diṭṭhiyā,
“Diṭṭhisīlasaṅghāta” nghĩa là: “Đức tin này là cao quý, dẫn đến giải thoát, đưa người ấy đến sự chấm dứt hoàn toàn khổ đau đúng đắn. Người ấy sống với đức tin như vậy” (Dī. Ni. 3.324, 357; Ma. Ni. 1.492; 3.54; A. Ni. 6.12; Pari. 274).

‘‘Yāni tāni sīlāni akhaṇḍāni acchiddāni asabalāni akammāsāni bhujissāni viññuppasatthāni aparāmaṭṭhāni samādhisaṃvattanikāni, tathārūpehi sīlehi sīlasāmaññagato viharatī’’ti (dī. ni. 3.324; ma. ni. 1.492; 3.54; a. ni. 6.12; pari. 274) ca evaṃ vuttānaṃ sīlānañca saṃhatabhāvena, diṭṭhisīlasāmaññenāti attho.
“Những giới luật không bị phá vỡ, không bị tổn hại, không bị ô nhiễm, không bị lỗi lầm, dễ thực hành, được tuyên bố rõ ràng, không bị phóng túng, dẫn đến định tâm. Người ấy sống với những giới luật như vậy.” Cả hai đức tin và giới luật này hợp nhất lại được gọi là “diṭṭhisīlasāmañña.”

Saṃhatoti ghaṭito, sametoti attho.
“Saṃhata” nghĩa là được tích hợp, “sameta” nghĩa là được tập hợp lại.

Ariyapuggalā hi yattha katthaci dūre ṭhitāpi attano guṇasāmaggiyā saṃhatā eva.
Các bậc Thánh dù đứng xa nhau nhưng vẫn được tích hợp nhờ vào sự viên mãn của các phẩm chất của chính họ.

Aṭṭha ca puggala dhammadasā teti te purisayugavasena cattāropi puggalavasena aṭṭheva ariyadhammassa paccakkhadassāvitāya dhammadasā.
Tám hạng người, được phân loại theo từng cặp, gồm bốn hạng người, tổng cộng là tám, là những người chứng kiến trực tiếp Chánh Pháp.

Tīṇi vatthūni saraṇanti gamanena tikkhattuṃ gamanena ca tīṇi saraṇagamanāni.
Ba nơi nương tựa được đi đến ba lần qua hành động đi đến, và như vậy có ba lần đi đến nơi nương tựa.

Paṭivedesīti attano hadayagataṃ vācāya pavedesi.
“Paṭivedesi” nghĩa là Ngài đã công bố bằng lời nói xuất phát từ trái tim của mình.

Saraṇagamanassa visayappabhedaphalasaṃkilesabhedānaṃ viya kattuvibhāvanā tattha kosallāya hotīti saraṇagamanesu atthakosallatthaṃ ‘‘saraṇaṃ, saraṇagamanaṃ, yo ca saraṇaṃ gacchati, saraṇagamanappabhedo, saraṇagamanaphalaṃ, saṃkileso, bhedoti ayaṃ vidhi veditabbo’’ti vuttaṃ tena vinā saraṇagamanasseva asambhavato.
Đối với việc đi đến nơi nương tựa (saraṇagamana), sự phân biệt về phạm vi, kết quả, ô nhiễm và chia rẽ cần được hiểu rõ để đạt được sự khéo léo trong hành động. Do đó, nói rằng: “Nơi nương tựa, việc đi đến nơi nương tựa, người đi đến nơi nương tựa, các loại đi đến nơi nương tựa, kết quả của việc đi đến nơi nương tựa, ô nhiễm, và chia rẽ – tất cả những điều này cần được hiểu.” Nếu không có điều này, việc đi đến nơi nương tựa sẽ không thể thực hiện được.

Kasmā panettha vodānaṃ na gahitaṃ, nanu vodānavibhāvanāpi tattha kosallāya hotīti?
Tại sao ở đây không đề cập đến việc tẩy rửa (vodāna)? Chẳng phải việc tẩy rửa cũng mang lại sự khéo léo trong hành động hay sao?

Saccametaṃ, taṃ pana saṃkilesaggahaṇena atthato dīpitaṃ hotīti na gahitaṃ.
Đúng vậy, nhưng điều này đã được giải thích qua việc nắm bắt ý nghĩa của ô nhiễm. Do đó, nó không được đề cập riêng.

Yāni hi nesaṃ saṃkilesakāraṇāni aññāṇādīni, tesaṃ sabbena sabbaṃ anuppannānaṃ anuppādanena, uppannānañca pahānena vodānaṃ hotīti.
Vì nguyên nhân của ô nhiễm là vô minh v.v… Tất cả những điều chưa sinh cần ngăn chặn không cho sinh khởi, và những điều đã sinh cần được đoạn trừ. Đó chính là sự tẩy rửa.

Hiṃsatthassa dhātusaddassa vasenetaṃ padaṃ daṭṭhabbanti ‘‘hiṃsatīti saraṇa’’nti vatvā taṃ pana hiṃsanaṃ kesaṃ, kathaṃ, kassa vāti codanaṃ sodhento ‘‘saraṇagatāna’’ntiādimāha.
Dựa vào từ “hiṃsattha” (ý nghĩa gây hại), từ này cần được hiểu là “saraṇa” (nơi nương tựa). Tuy nhiên, để làm rõ việc gây hại đối với ai, như thế nào, hoặc vì lý do gì, nên nói rằng: “đối với những người đã đi đến nơi nương tựa.”

Tattha bhayanti vaṭṭabhayaṃ.
Ở đây, “bhaya” nghĩa là nỗi sợ hãi trong vòng luân hồi.

Santāsanti cittutrāsaṃ.
“Santāsa” nghĩa là sự lo lắng trong tâm.

Teneva cetasikadukkhassa gahitattā dukkhanti kāyikaṃ dukkhaṃ.
Do đó, nỗi đau khổ về tâm được hiểu là đau khổ thân xác.

Duggatiparikilesanti duggatipariyāpannaṃ sabbampi dukkhaṃ.
“Duggatiparikilesa” nghĩa là tất cả đau khổ liên quan đến cảnh giới xấu ác.

Tayidaṃ sabbaṃ parato phalakathāya āvi bhavissati.
Tất cả những điều này sẽ trở nên rõ ràng khi giải thích về kết quả sau này.

Etanti saraṇanti padaṃ.
“Etanti” nghĩa là từ “saraṇa.”

Evaṃ avisesato saraṇasaddassa padatthaṃ dassetvā idāni visesato dassetuṃ ‘‘atha vā’’tiādi vuttaṃ.
Như vậy, sau khi trình bày ý nghĩa tổng quát của từ “saraṇa,” bây giờ sẽ trình bày ý nghĩa đặc biệt qua câu: “hay là…”

Hite pavattanenāti ‘‘sampannasīlā, bhikkhave, viharathā’’tiādinā (ma. ni. 1.64, 69) atthe niyojanena.
Việc thúc đẩy điều tốt đẹp được giải thích qua câu: “Này các Tỳ-khưu, hãy sống với giới luật đầy đủ” (Ma. Ni. 1.64, 69), nhằm gắn kết với ý nghĩa.

Ahitā nivattanenāti ‘‘pāṇātipātassa kho pāpako vipāko abhisamparāya’’tiādinā ādīnavadassanādimukhena anatthato nivattanena.
Việc từ bỏ điều bất thiện được giải thích qua câu: “Hành động giết hại sinh mạng có quả báo xấu xa trong tương lai” v.v…, thông qua việc nhìn thấy nguy hiểm và từ bỏ điều bất lợi.

Bhayaṃ hiṃsatīti hitāhitesu appavattippavattihetukaṃ byasanaṃ appavattikaraṇena vināseti buddho.
Đức Phật xóa bỏ nỗi sợ hãi bằng cách ngăn chặn tai họa, nguyên nhân của việc không thực hiện điều tốt và thực hiện điều xấu.

Bhavakantārā uttāraṇena maggasaṅkhāto dhammo.
Pháp được gọi là con đường, giúp vượt qua khu rừng dày đặc của hữu (bhava).

Itaro assāsadānena sattānaṃ bhayaṃ hiṃsatīti yojanā.
Cách hiểu khác là: Pháp giúp xua tan nỗi sợ hãi của chúng sinh thông qua sự ban tặng sự an ổn.

Kārānanti dānavasena pūjāvasena ca upanītānaṃ sakkārānaṃ.
“Kārāna” nghĩa là sự tôn kính được biểu lộ qua việc cúng dường và tôn thờ.

Vipulaphalappaṭilābhakaraṇena sattānaṃ bhayaṃ hiṃsati saṅgho anuttaradakkhiṇeyyabhāvatoti adhippāyo.
Chúng sinh được bảo vệ khỏi nỗi sợ hãi nhờ vào việc đạt được kết quả to lớn, và Tăng đoàn được coi là đối tượng cúng dường tối thượng.

Imināpi pariyāyenāti imināpi vibhajitvā vuttena kāraṇena.
Bằng cách này, thông qua việc phân tích và giải thích từng nguyên nhân.

‘‘Sammāsambuddho bhagavā, svākkhāto dhammo, suppaṭipanno saṅgho’’ti evaṃ pavatto tattha ratanattaye pasādo tappasādo, tadeva rattanattayaṃ garu etassāti taggaru, tabbhāvo taggarutā, tappasādo ca taggarutā ca tappasādataggarutā.
“Đức Thế Tôn là bậc Chánh Đẳng Giác, Pháp được thuyết giảng rõ ràng, và Tăng đoàn thực hành đúng đắn.” Qua lời tuyên bố này, niềm tin vào Tam Bảo (ratanattaya) được gọi là “tappasāda,” sự tôn kính đối với Tam Bảo là “taggaru,” bản chất của sự tôn kính là “taggarutā,” và cả niềm tin lẫn sự tôn kính hợp nhất thành “tappasādataggarutā.”

Tāhi tappasādataggarutāhi.
Thông qua những yếu tố này, tức là niềm tin và sự tôn kính đối với Tam Bảo.

Vidhutadiṭṭhivicikicchāsammohaassaddhiyāditāya vihatakileso.
Những phiền não như tà kiến, hoài nghi, si mê, và sợ hãi đã bị loại bỏ.

Tadeva ratanattayaṃ parāyaṇaṃ gati tāṇaṃ leṇanti evaṃ pavattiyā tapparāyaṇatākārappavatto cittuppādosaraṇagamanaṃ saraṇanti gacchati etenāti.
Chính Tam Bảo là nơi nương tựa tối hậu, là con đường, là nơi trú ẩn an toàn. Do đó, tâm hướng đến việc đi đến nơi nương tựa (saraṇagamana) được hình thành thông qua trạng thái nương tựa vào Tam Bảo.

Taṃsamaṅgīti tena yathāvuttacittuppādena samannāgato.
“Taṃsamaṅgī” nghĩa là người có đầy đủ các yếu tố của tâm đã được mô tả trên đây.

Evaṃ upetīti evaṃ bhajati sevati payirupāsati, evaṃ vā jānāti bujjhatīti evamattho veditabbo.
“Người ấy thực hành” nghĩa là họ nương tựa, phục vụ, chăm sóc, hoặc hiểu biết và giác ngộ theo cách này. Ý nghĩa cần được hiểu như vậy.

Ettha ca pasādaggahaṇena lokiyasaraṇagamanamāha.
Ở đây, việc nắm bắt niềm tin đề cập đến việc đi đến nơi nương tựa thuộc về thế gian (lokiya).

Tañhi pasādappadhānaṃ.
Vì niềm tin là yếu tố chính trong việc này.

Garutāgahaṇena lokuttaraṃ.
Việc nắm bắt sự tôn kính đề cập đến việc đi đến nơi nương tựa thuộc về siêu thế (lokuttara).

Ariyā hi ratanattayaguṇābhiññatāya pāsāṇacchattaṃ piya garuṃ katvā passanti, tasmā tappasādena vikkhambhanavasena vihatakileso, taggarutāya samucchedavasenāti yojetabbaṃ agāravakaraṇahetūnaṃ samucchindanato.
Các bậc Thánh, nhờ nhận thức rõ các phẩm chất của Tam Bảo, nhìn thấy ngay cả một mảnh đá hay mái che cũng trở nên đáng quý và đáng kính. Do đó, nhờ niềm tin, các phiền não tạm thời bị đè nén; nhờ sự tôn kính, chúng bị đoạn trừ hoàn toàn. Điều này cần được kết nối với việc cắt đứt nguyên nhân gây ra sự thiếu tôn trọng.

Tapparāyaṇatā panettha taggatikatāti tāya catubbidhampi vakkhamānaṃ saraṇagamanaṃ gahitanti daṭṭhabbaṃ.
Tính chất nương tựa vào Tam Bảo ở đây được hiểu là lòng tin sâu sắc. Do đó, việc đi đến nơi nương tựa được giải thích qua bốn khía cạnh này.

Avisesena vā pasādagarutā jotitāti pasādaggahaṇena aveccappasādassa itarassa ca gahaṇaṃ, tathā garutāgahaṇenāti ubhayenapi ubhayaṃ saraṇagamanaṃ yojetabbaṃ.
Ngoài ra, niềm tin và sự tôn kính chiếu sáng đặc biệt. Việc nắm bắt niềm tin liên quan đến sự tín nhiệm sâu sắc (aveccappasāda), và việc nắm bắt sự tôn kính cũng tương tự. Cả hai đều cần được kết nối với việc đi đến nơi nương tựa.

Maggakkhaṇe ijjhatīti yojanā.
“Việc đạt được sức mạnh trong thời điểm của con đường (magga)” là cách giải thích.

Nibbānārammaṇaṃ hutvāti etena atthato catusaccādhigamo eva lokuttarasaraṇagamananti dasseti.
“Trở thành đối tượng của Niết Bàn” nghĩa là, theo ý nghĩa thực sự, việc đạt được Tứ Diệu Đế chính là việc đi đến nơi nương tựa siêu thế (lokuttarasaraṇagamana).

Tattha hi nibbānadhammo sacchikiriyābhisamayavasena, maggadhammo bhāvanābhisamayavasena paṭivijjhiyamāno yeva saraṇagamanattaṃ sādheti,
Ở đây, pháp Niết Bàn được chứng ngộ thông qua sự hiểu biết và thực hành, và pháp con đường (magga) được nhận thức thông qua sự tu tập và hiểu biết. Nhờ vậy, việc đi đến nơi nương tựa được hoàn thành.

buddhaguṇā pana sāvakagocarabhūtā pariññābhisamayavasena, tathā ariyasaṅghaguṇā.
Các phẩm chất của Đức Phật được hiểu rõ bởi hàng đệ tử thông qua sự quán sát và hiểu biết, và các phẩm chất của Tăng đoàn thánh thiện cũng tương tự.

Tenāha ‘‘kiccato sakalepi ratanattaye ijjhatī’’ti.
Do đó, nói rằng: “Về mặt chức năng, tất cả ba ngôi báu đều phát huy sức mạnh.”

Ijjhantañca saheva ijjhati, na lokiyaṃ viya paṭipāṭiyā asammohappaṭivedhena paṭividdhattāti adhippāyo.
Điều này có nghĩa là sức mạnh của chúng không bị gián đoạn như ở cấp độ thế gian, mà được hoàn toàn thấu suốt nhờ vào sự đoạn trừ vô minh.

Ye pana vadanti ‘‘na saraṇagamanaṃ nibbānārammaṇaṃ hutvā pavattati, maggassa adhigatattā pana adhigatameva hoti ekaccānaṃ tevijjādīnaṃ lokiyavijjādayo viyā’’ti,
Những ai cho rằng: “Việc đi đến nơi nương tựa không thể diễn ra với Niết Bàn làm đối tượng, nhưng chỉ khi con đường đã được đạt đến thì nó mới tồn tại, giống như các tri thức thế gian như tevijjā v.v…”

tesaṃ lokiyameva saraṇagamanaṃ siyā, na lokuttaraṃ, tañca ayuttaṃ duvidhassapi icchitabbattā.
Đối với họ, việc đi đến nơi nương tựa chỉ thuộc về thế gian, không phải siêu thế, và điều này không phù hợp vì cả hai loại đều được mong muốn.

Tanti lokiyasaraṇagamanaṃ.
“Tanti” ám chỉ việc đi đến nơi nương tựa thuộc về thế gian.

Saddhāpaṭilābho ‘‘sammāsambuddho bhagavā’’tiādinā.
Sự đạt được niềm tin thông qua lời tuyên bố: “Đức Thế Tôn là bậc Chánh Đẳng Giác” v.v…

Saddhāmūlikāti yathāvuttasaddhāpubbaṅgamā.
“Saddhāmūlikā” nghĩa là niềm tin đứng đầu như đã mô tả.

Sammādiṭṭhi buddhasubuddhataṃ, dhammasudhammataṃ, saṅghasuppaṭipattiñca lokiyāvabodhavaseneva sammā ñāyena dassanato.
Chánh Kiến hiểu rõ tính giác ngộ của Phật, tính tốt đẹp của Pháp, và tính thực hành đúng đắn của Tăng, tất cả đều dựa trên sự hiểu biết thế gian một cách đúng đắn.

Saddhāmūlikā ca sammādiṭṭhīti etena saddhūpanissayā yathāvuttalakkhaṇā paññā lokiyasaraṇagamananti dasseti.
Niềm tin là nền tảng, và Chánh Kiến dựa trên niềm tin ấy, với trí tuệ mang đặc tính như đã mô tả, biểu hiện việc đi đến nơi nương tựa thuộc về thế gian.

Tenāha ‘‘diṭṭhijukammanti vuccatī’’ti.
Do đó, nói rằng: “Nó được gọi là ‘diṭṭhijukamma’ (việc làm ngay thẳng do Chánh Kiến).”

Diṭṭhiyeva attano paccayehi uju karīyatīti katvā, diṭṭhi vā uju karīyati etenāti diṭṭhijukammaṃ, tathāpavatto cittuppādo.
Chánh Kiến tự thân nó trở nên ngay thẳng nhờ vào các điều kiện, hoặc Chánh Kiến làm cho mọi thứ trở nên ngay thẳng. Do đó, nó được gọi là “diṭṭhijukamma,” và trạng thái tâm phát sinh theo cách này.

Evañca katvā ‘‘tapparāyaṇatākārappavatto cittuppādo’’ti idañca vacanaṃ samatthitaṃ hoti,
Khi đã làm như vậy, câu “trạng thái tâm phát sinh với hình thức nương tựa vào Tam Bảo” trở nên đầy đủ ý nghĩa.

saddhāpubbaṅgamasammādiṭṭhiggahaṇaṃ pana cittuppādassa tappadhānatāyāti daṭṭhabbaṃ.
Việc nắm bắt Chánh Kiến dẫn đầu bởi niềm tin là yếu tố chính trong sự phát sinh của tâm.

Saddhāpaṭilābhoti iminā mātādīhi ussāhitadārakādīnaṃ viya ñāṇavippayuttaṃ saraṇagamanaṃ dasseti,
“Saddhāpaṭilābha” qua từ này, việc đi đến nơi nương tựa không liên quan đến trí tuệ được biểu hiện, giống như trẻ em được mẹ v.v… khuyến khích.

sammādiṭṭhīti iminā ñāṇasampayuttaṃ saraṇagamanaṃ.
“Sammādiṭṭhi” qua từ này, việc đi đến nơi nương tựa liên quan đến trí tuệ được biểu hiện.

Tayidaṃ lokiyaṃ saraṇagamanaṃ.
Đây là việc đi đến nơi nương tựa thuộc về thế gian (lokiya).

Attā sanniyyātīyati appīyati pariccajīyati etenāti attasanniyyātanaṃ, yathāvuttaṃ diṭṭhijukammaṃ.
“Bản ngã” bị từ bỏ, không còn được yêu thích và bị buông bỏ. Do đó, nó được gọi là “attasanniyyātana” (việc từ bỏ bản ngã), như đã mô tả trong “diṭṭhijukamma” (việc làm ngay thẳng do Chánh Kiến).

Taṃ ratanattayaṃ parāyaṇaṃ paṭisaraṇaṃ etassāti tapparāyaṇo, puggalo cittuppādo vā, tassa bhāvo tapparāyaṇatā, yathāvuttaṃ diṭṭhijukammameva.
Tam Bảo trở thành nơi nương tựa tối hậu và nơi quay về của người ấy. Do đó, cá nhân hoặc trạng thái tâm phát sinh này có bản chất là “tapparāyaṇatā” (tính chất nương tựa vào Tam Bảo), giống như “diṭṭhijukamma” đã mô tả.

Saraṇanti adhippāyena sissabhāvaṃ antevāsikabhāvaṃ upagacchati etenāti sissabhāvūpagamanaṃ.
“Nơi nương tựa” theo ý nghĩa sâu xa là đạt được trạng thái của một học trò hoặc đệ tử. Do đó, nó được gọi là “sissabhāvūpagamana” (việc đạt được trạng thái học trò).

Saraṇagamanādhippāyeneva paṇipatati etenāti paṇipāto.
Việc đi đến nơi nương tựa với ý nghĩa chính yếu dẫn đến sự quy phục. Do đó, nó được gọi là “paṇipāto” (sự quy phục).

Sabbattha yathāvuttadiṭṭhijukammavaseneva attho veditabbo.
Ở mọi nơi, ý nghĩa cần được hiểu thông qua khái niệm “diṭṭhijukamma” như đã mô tả.

Attapariccajananti saṃsāradukkhanissaraṇatthaṃ attano atthabhāvassa pariccajanaṃ.
“Attapariccajana” nghĩa là việc từ bỏ lợi ích cá nhân vì mục đích thoát khỏi khổ đau của luân hồi.

Esa nayo sesesupi.
Cách giải thích này cũng áp dụng cho các phần còn lại.

Buddhādīnaṃyevāti avadhāraṇaṃ attasanniyyātanādīsupi tattha tattha vattabbaṃ.
“Chỉ liên quan đến Đức Phật v.v…” là cách xác định rằng việc từ bỏ bản ngã v.v… cần được áp dụng tùy theo từng trường hợp.

Evañhi tadaññanivattanaṃ kataṃ hoti.
Như vậy, việc từ bỏ những điều khác đã được hoàn thành.

Evaṃ attasanniyyātanādīni ekena pakārena dassetvā idāni aparehipi pakārehi dassetuṃ ‘‘apicā’’tiādi āraddhaṃ.
Sau khi trình bày “attasanniyyātana” v.v… theo một cách, bây giờ sẽ trình bày chúng theo các cách khác qua câu: “apicā…”

Tena pariyāyantarehipi attasanniyyātanaṃ katameva hoti atthassa abhinnattāti dasseti.
Do đó, qua các phương tiện khác nhau, việc từ bỏ bản ngã vẫn giữ nguyên ý nghĩa mà không bị thay đổi.

Āḷavakādīnanti ādi-saddena sātāgirihemavatādīnaṃ saṅgaho daṭṭhabbo.
“Āḷavakādīni” qua từ “ādi,” bao gồm cả Sātāgiri, Hemavata v.v…

Nanu cete āḷavakādayo maggeneva āgatasaraṇagamanā, kathaṃ tesaṃ tapparāyaṇatāsaraṇagamanaṃ vuttanti?
Nhưng chẳng phải những người như Āḷavaka v.v… đã đi đến nơi nương tựa thông qua con đường (magga) hay sao? Tại sao lại nói rằng họ thực hiện việc đi đến nơi nương tựa với tính chất nương tựa (tapparāyaṇatā)?

Maggenāgatasaraṇagamanehipi ‘‘so ahaṃ vicarissāmi…pe… sudhammataṃ (saṃ. ni. 1.246; su. ni. 194). Te mayaṃ vicarissāma, gāmā gāmaṃ nagā nagaṃ…pe… sudhammata’’nti (su. ni. 182) ca tehi tapparāyaṇatākārassa paveditattā tathā vuttaṃ.
Ngay cả khi họ đi đến nơi nương tựa thông qua con đường, vẫn có những tuyên bố như: “Tôi sẽ đi khắp nơi… để giảng dạy Chánh Pháp tốt đẹp” (Saṃ. Ni. 1.246; Su. Ni. 194). Và: “Chúng tôi sẽ đi từ làng này sang làng khác, từ thành phố này sang thành phố khác… để giảng dạy Chánh Pháp tốt đẹp” (Su. Ni. 182). Do đó, việc mô tả tính chất nương tựa (tapparāyaṇatā) của họ đã được thuyết giảng rõ ràng.

So panesa ñāti…pe… vasenāti ettha ñātivasena, bhayavasena, ācariyavasena, dakkhiṇeyyavasenāti paccekaṃ ‘‘vasenā’’ti padaṃ yojetabbaṃ.
“Vì lý do họ hàng…,” ở đây, từ “vasena” cần được kết hợp riêng biệt theo từng nghĩa: vì lý do họ hàng (ñātivasena), vì lý do sợ hãi (bhayavasena), vì lý do thầy giáo (ācariyavasena), và vì lý do đáng kính (dakkhiṇeyyavasena).

Tattha ñātivasenāti ñātibhāvavasena.
Trong đó, “ñātivasena” nghĩa là theo trạng thái của mối quan hệ họ hàng.

Evaṃ sesesupi.
Cũng vậy đối với các trường hợp còn lại.

Dakkhiṇeyyapaṇipātenāti dakkhiṇeyyatāhetukena paṇipatanenāti attho.
“Dakkhiṇeyyapaṇipāta” nghĩa là sự quy phục do tính chất đáng kính.

Itarehīti ñātibhāvādivasappavattehi tīhi paṇipātehi.
“Itarehi” nghĩa là ba loại quy phục dựa trên trạng thái họ hàng v.v…

Itarehītiādinā saṅkhepato vuttamatthaṃ vitthārato dassetuṃ ‘‘tasmā’’tiādi vuttaṃ.
Qua câu “itarehi” v.v…, ý nghĩa đã được nói một cách ngắn gọn được giải thích chi tiết qua cụm từ “tasmā” v.v…

Vandatīti paṇipātassa lakkhaṇavacanaṃ.
“Vandati” là từ mô tả đặc tính của sự quy phục (paṇipāta).

Evarūpanti diṭṭhadhammikaṃ sandhāya vadati.
“Evarūpa” nghĩa là liên quan đến những gì có thể thấy trong hiện tại.

Samparāyikañhi niyyānikaṃ vā aniyyānikaṃ vā anusāsaniṃ paccāsīsanto dakkhiṇeyyapaṇipātameva karotīti adhippāyo.
Ý nghĩa là, khi mong đợi lời dạy dẫn đến hoặc không dẫn đến tương lai, người ấy chỉ thực hiện sự quy phục đối với điều đáng kính.

Saraṇagamanappabhedoti saraṇagamanavibhāgo.
“Saraṇagamanappabheda” nghĩa là sự phân chia các loại đi đến nơi nương tựa.

Ariyamaggo eva lokuttaraṃ saraṇagamananti āha ‘‘cattāri sāmaññaphalāni vipākaphala’’nti.
Con đường Thánh chính là việc đi đến nơi nương tựa siêu thế. Do đó, nói rằng: “Bốn quả vị Sa-môn là kết quả của nghiệp.”

Sabbadukkhakkhayoti sakalassa vaṭṭadukkhassa anuppādanirodho.
“Sabbadukkhakkhaya” nghĩa là sự chấm dứt hoàn toàn mọi khổ đau trong vòng luân hồi, ngăn chặn sự tái sinh.

Etanti ‘‘cattāri ariyasaccāni, sammappaññāya passatī’’ti (dha. pa. 190) evaṃ vuttaṃ ariyasaccānaṃ dassanaṃ.
“Etanti” nghĩa là “bốn sự thật cao quý được thấy rõ bằng trí tuệ đúng đắn” (Dha. Pa. 190). Đây là việc thấy rõ Tứ Diệu Đế.

Niccato anupagamanādivasenāti niccanti aggahaṇādivasena.
“Niccato” nghĩa là theo khía cạnh thường xuyên, tức là khái niệm nắm bắt (aggahaṇa).

Aṭṭhānanti hetuppaṭikkhepo.
“Aṭṭhāna” nghĩa là sự bác bỏ nguyên nhân.

Anavakāsoti paccayappaṭikkhepo.
“Anavakāsa” nghĩa là sự bác bỏ điều kiện.

Ubhayenapi kāraṇameva paṭikkhipati.
Cả hai đều bác bỏ nguyên nhân và điều kiện.

Yanti yena kāraṇena.
“Yanti” nghĩa là bởi bất kỳ nguyên nhân nào.

Diṭṭhisampannoti maggadiṭṭhiyā samannāgato sotāpanno.
“Diṭṭhisampanna” nghĩa là người đã đạt được Chánh Kiến của con đường, tức là bậc Sơ Quả (Sotāpanna).

Kañci saṅkhāranti catubhūmakesu saṅkhatasaṅkhāresu ekasaṅkhārampi.
“Kañci saṅkhāra” nghĩa là bất kỳ hành nào trong bốn phạm trù hành hữu vi.

Niccato upagaccheyyāti niccoti gaṇheyya.
“Niccato upagaccheyya” nghĩa là “nếu nắm bắt theo khía cạnh thường hằng.”

Sukhato upagaccheyyāti ‘‘ekantasukhī attā hoti arogo paraṃ maraṇā’’ti (dī. ni. 1.76, 79) evaṃ attadiṭṭhivasena sukhato gāhaṃ sandhāyetaṃ vuttaṃ.
“Sukhato upagaccheyya” nghĩa là “một bản ngã hoàn toàn hạnh phúc, không bệnh tật sau khi chết” (Dī. Ni. 1.76, 79). Điều này được nói theo quan điểm chấp thủ vào tự ngã và niềm tin vào hạnh phúc.

Diṭṭhivippayuttacittena pana ariyasāvako pariḷāhavūpasamanatthaṃ mattahatthiparitāsito viya cokkhabrāhmaṇo ukkārabhūmiṃ kañci saṅkhāraṃ sukhato upagacchati.
Nhưng với tâm không còn chấp thủ vào tà kiến, đệ tử Thánh, nhằm mục đích dập tắt ngọn lửa tham ái, giống như Bà-la-môn Cakkhupāla, bước lên mặt đất vững chắc để nắm lấy bất kỳ hành nào theo khía cạnh hạnh phúc.

Attavāre kasiṇādipaññattisaṅgahatthaṃ ‘‘saṅkhāra’’nti avatvā ‘‘kañci dhamma’’nti vuttaṃ.
Để bao gồm cả các đề mục thiền định như kasiṇa v.v…, thay vì “saṅkhāra,” thuật ngữ “kañci dhamma” (bất kỳ pháp nào) đã được sử dụng.

Imesupi ṭhānesu catubhūmakavaseneva paricchedo veditabbo tebhūmakavaseneva vā.
Trong các trường hợp này, ranh giới cần được hiểu theo bốn phạm trù hành hoặc ba phạm trù hành.

Yaṃ yañhi puthujjano gāhavasena gaṇhāti, tato tato ariyasāvako gāhaṃ viniveṭheti.
Bất cứ điều gì mà phàm nhân nắm giữ thông qua sự chấp thủ, đệ tử Thánh sẽ từ bỏ sự chấp thủ đó.

Mātarantiādīsu janikā mātā, janako pitā, manussabhūto khīṇāsavo arahāti adhippeto.
Trong các từ như “mātar” (mẹ), ý nghĩa bao hàm là: người sinh ra là mẹ, người sinh ra là cha, và một con người đã đoạn tận lậu hoặc là bậc A-la-hán.

Kiṃ pana ariyasāvako aññaṃ jīvitā voropeyyāti?
Nhưng liệu đệ tử Thánh có cắt đứt mạng sống của người khác không?

Etampi aṭṭhānaṃ, puthujjanabhāvassa pana mahāsāvajjabhāvadassanatthaṃ ariyabhāvassa ca phaladassanatthaṃ evaṃ vuttaṃ.
Điều này cũng là một trường hợp để thấy rõ bản chất xấu xa lớn lao của phàm nhân và để thấy rõ kết quả của trạng thái Thánh.

Paduṭṭhacittoti vadhakacittena paduṭṭhacitto.
“Paduṭṭhacitto” nghĩa là tâm bị ô nhiễm bởi ý định giết hại.

Lohitaṃ uppādeyyāti jīvamānakasarīre khuddakamakkhikāya pivanamattampi lohitaṃ uppādeyya.
“Lohitaṃ uppādeyya” nghĩa là làm cho máu chảy ra, dù chỉ một chút, từ thân thể còn sống, ví dụ như do muỗi cắn.

Saṅghaṃ bhindeyyāti samānasaṃvāsakaṃ samānasīmāyaṃ ṭhitaṃ saṅghaṃ ‘‘kammena uddesena voharanto anussāvanena salākaggāhenā’’ti (pari. 458) evaṃ vuttehi pañcahi kāraṇehi bhindeyya.
“Saṅghaṃ bhindeyya” nghĩa là phá vỡ sự hòa hợp của Tăng đoàn đang sống chung trong cùng một giới hạn, thông qua năm lý do được nêu ra, chẳng hạn như hành động, lời nói, tuyên bố, v.v… (Pari. 458).

Aññaṃ satthāranti aññaṃ titthakaraṃ ‘‘ayaṃ me satthā’’ti evaṃ gaṇheyyāti netaṃ ṭhānaṃ vijjatīti attho.
“Aññaṃ satthāraṃ” nghĩa là nắm lấy một vị thầy khác, ví dụ như “Đây là thầy của tôi.” Điều này không xảy ra đối với đệ tử Thánh.

Na tegamissanti apāyanti te buddhaṃ saraṇaṃ gatā tannimittaṃ apāyaṃ na gamissanti, devakāyaṃ pana paripūressantīti attho.
“Họ sẽ không đi đến ác đạo,” nghĩa là những người đã đi đến Đức Phật làm nơi nương tựa sẽ không rơi vào ác đạo vì lý do đó, mà thay vào đó sẽ làm đầy đủ các cõi trời.

Dasahi ṭhānehīti dasahi kāraṇehi.
“Dasahi ṭhānehi” nghĩa là bởi mười lý do.

Adhigaṇhantīti adhibhavanti.
“Adhigaṇhanti” nghĩa là vượt trội hơn.

Velāmasuttādivasenāti ettha ‘‘karīsassa catutthabhāgappamāṇānaṃ caturāsītisahassasaṅkhānaṃ suvaṇṇapātirūpiyapātikaṃsapātīnaṃ yathākkamaṃ rūpiyasuvaṇṇahiraññapūrānaṃ sabbālaṅkārappaṭimaṇḍitānaṃ caturāsītiyā hatthisahassānaṃ, caturāsītiyā assasahassānaṃ, caturāsītiyā rathasahassānaṃ, caturāsītiyā dhenusahassānaṃ, caturāsītiyā kaññāsahassānaṃ, caturāsītiyā pallaṅkasahassānaṃ, caturāsītiyā vatthakoṭisahassānaṃ, aparimāṇassa ca khajjabhojjādibhedassa āhārassa pariccajanavasena sattamāsādhikāni satta saṃvaccharāni nirantaraṃ pavattavelāmamahādānato ekassa sotāpannassa dinnadānaṃ mahapphalataraṃ.
Theo cách giải thích trong Kinh Velāma, việc thí chủ Velāma đã cúng dường đại lễ kéo dài bảy năm bảy tháng liên tục, bao gồm vô số vàng bạc, châu báu, voi ngựa, xe cộ, nữ nhân, giường chiếu, quần áo, thực phẩm, v.v… Dù vậy, việc cúng dường cho một vị Sơ Quả (Sotāpanna) mang lại phước báu lớn hơn.

Tato sataṃ sotāpannānaṃ dinnadānato ekassa sakadāgāmino, tato ekassa anāgāmino, tato ekassa arahato, tato ekassa paccekabuddhassa, tato sammāsambuddhassa, tato buddhappamukhassa saṅghassa dinnadānaṃ mahapphalataraṃ, tato cātuddisaṃ saṅghaṃ uddissa vihārakaraṇaṃ, tato saraṇagamanaṃ mahapphalatara’’nti imamatthaṃ pakāsentassa velāmasuttassa (a. ni. 9.20) vasena.
Từ đó, việc cúng dường cho một trăm vị Sơ Quả mang lại phước báu lớn hơn; sau đó là cúng dường cho một vị Nhất Lai (Sakadāgāmi), rồi đến một vị Bất Lai (Anāgāmi), tiếp theo là một vị A-la-hán, rồi đến một vị Độc Giác Phật (Paccekabuddha), sau đó là Đức Phật Chánh Đẳng Giác, rồi đến Tăng đoàn do Đức Phật đứng đầu, và cuối cùng là việc xây dựng tịnh xá cúng dường cho Tăng đoàn bốn phương. Tất cả những điều này mang lại phước báu lớn hơn, nhưng việc đi đến nơi nương tựa (saraṇagamana) mang lại phước báu lớn nhất.

Vuttañhetaṃ ‘‘yaṃ, gahapati, velāmo brāhmaṇo dānaṃ adāsi mahādānaṃ, yo ekaṃ diṭṭhisampannaṃ bhojeyya, idaṃ tato mahapphalatara’’tiādi (a. ni. 9.20).
Điều này đã được nói rằng: “Này gia chủ, dù Bà-la-môn Velāma đã cúng dường đại lễ, nhưng nếu ai cúng dường cho một người đã đạt Chánh Kiến, thì điều này mang lại phước báu lớn hơn” (A. Ni. 9.20).

Velāmasuttādīti ādi-saddena aggappasādasuttādīnaṃ (a. ni. 4.34; itivu. 90) saṅgaho daṭṭhabbo.
“Velāmasuttādi” qua từ “ādi,” bao gồm cả các kinh như Aggappasāda Sutta v.v… (A. Ni. 4.34; Itivu. 90).

Aññāṇaṃ vatthuttayassa guṇānaṃ ajānanaṃ tattha sammoho,
“Không biết ba đối tượng (Phật, Pháp, Tăng) dẫn đến sự vô minh,” nghĩa là không hiểu rõ các phẩm chất của chúng.

‘‘Buddho nu kho, na nu kho’’tiādinā vicikicchā saṃsayo.
“Sự hoài nghi như ‘Đức Phật có thật hay không?'” biểu hiện sự do dự và nghi ngờ.

Micchāñāṇaṃ tassa guṇānaṃ aguṇabhāvaparikappanena viparītaggāho.
“Sự hiểu biết sai lầm” là việc xem xét sai lệch các phẩm chất, cho rằng chúng không có giá trị.

Ādi-saddena anādarāgāravādīnaṃ saṅgaho.
Qua từ “ādi,” bao gồm cả những người thiếu tôn kính và lòng tin.

Na mahājutikanti na ujjalaṃ, aparisuddhaṃ apariyodātanti attho.
“Không phải ánh sáng lớn” nghĩa là không rực rỡ, không trong sạch, không thanh tịnh.

Na mahāvipphāranti anuḷāraṃ.
“Không phải sự tỏa rộng lớn” nghĩa là nhỏ bé, không đáng kể.

Sāvajjoti diṭṭhitaṇhādivasena sadoso.
“Sāvajja” nghĩa là có lỗi, vì chứa đựng tham ái và tà kiến.

Lokiyaṃ saraṇagamanaṃ sikkhāsamādānaṃ viya aggahitakālaparicchedaṃ jīvitapariyantameva hoti,
Việc đi đến nơi nương tựa thuộc về thế gian (lokiya) giống như việc nhận lãnh giới luật, chỉ có hiệu lực trong khoảng thời gian cuộc đời.

tasmā tassa khandhabhedena bhedoti āha ‘‘anavajjo kālakiriyāyā’’ti.
Do đó, khi thân thể tan rã, nó cũng bị phá vỡ. Do đó, nói rằng: “Không có lỗi trong việc thực hành đúng thời.”

Soti anavajjo saraṇagamanabhedo.
“S” nghĩa là không có lỗi trong việc phá vỡ nơi nương tựa.

Satipi anavajjatte iṭṭhaphalopi na hotīti āha ‘‘aphalo’’ti.
Dù không có lỗi, nhưng kết quả mong muốn cũng không xảy ra. Do đó, nói rằng: “Không có kết quả.”

Kasmā? Avipākattā.
Tại sao? Vì không có kết quả chín muồi.

Na hi taṃ akusalanti.
Vì điều đó không phải là bất thiện.

Ko upāsakoti sarūpapucchā,
“Cư sĩ là gì?” là câu hỏi về bản chất.

tasmā ‘‘kiṃlakkhaṇo upāsako’’ti vuttaṃ hoti.
Do đó, câu hỏi được đặt ra: “Cư sĩ có đặc điểm gì?”

Kasmāti hetupucchā.
“Tại sao?” là câu hỏi về nguyên nhân.

Tena kena pavattinimittena upāsakasaddo tasmiṃ puggale niruḷhoti dasseti.
Nguyên nhân nào khiến danh xưng “cư sĩ” được áp dụng cho người ấy? Điều này nhằm làm rõ.

Tenāha ‘‘kasmā upāsakoti vuccatī’’ti.
Do đó, câu hỏi được đặt ra: “Tại sao người ấy được gọi là cư sĩ?”

Saddassa abhidheyyo pavattinimittaṃ tadatthassa tabbhāvakāraṇaṃ.
Ý nghĩa của từ là dấu hiệu hoạt động, và nguyên nhân của ý nghĩa đó.

Kimassa sīlanti kīdisaṃ assa upāsakassa sīlaṃ,
“Giới của cư sĩ là gì?” nghĩa là giới của cư sĩ có đặc điểm gì?

kittakena sīlenāyaṃ sīlasampanno nāma hotīti attho.
“Nhờ giới nào mà người này được gọi là đầy đủ giới?” là ý nghĩa.

Ko ājīvoti ko assa sammāājīvo?
“Sinh kế của cư sĩ là gì?” nghĩa là sinh kế chân chính của họ là gì?

So pana micchājīvassa parivajjanena hotīti sopi vibhajīyatīti.
Sinh kế chân chính được xác định thông qua việc tránh xa sinh kế sai lầm.

Kā vipattīti kā sīlassa, ājīvassa vā vipatti.
“Thất bại là gì?” nghĩa là thất bại trong giới hoặc sinh kế.

Anantarassa hi vidhi vā paṭisedho vāti.
Vì tiếp theo sau đó là quy tắc hoặc sự ngăn cấm.

Kā sampatīti etthāpi eseva nayo.
“Thành công là gì?” Cũng áp dụng cách giải thích tương tự ở đây.

Yo kocīti khattiyādīsu yo koci.
Yo koci” nghĩa là bất kỳ ai trong các giai cấp như Sát-đế-lỵ (khattiya) v.v…

Tena saraṇagamanamevettha kāraṇaṃ, na jātiādivisesoti dasseti.
Do đó, việc đi đến nơi nương tựa là lý do chính ở đây, không phải sự khác biệt về giai cấp hay các yếu tố khác.

Upāsanatoti teneva saraṇagamanena tattha ca sakkaccakiriyāya ādaragāravabahumānādiyogena payirupāsanato.
“Upāsanā” nghĩa là thông qua việc đi đến nơi nương tựa, và ở đây là sự thực hành cẩn thận với lòng tôn kính, kính trọng, và sự chăm sóc chu đáo.

Veramaṇiyoti veraṃ vuccati pāṇātipātādidussīlyaṃ, tassa maṇanato hananato vināsanato veramaṇiyo,
“Veramaṇī” nghĩa là tránh xa. “Vera” là ác pháp như sát sinh, v.v… Việc suy nghĩ, tiêu diệt, và loại bỏ những điều này được gọi là “veramaṇī.”

pañca viratiyo viratippadhānattā tassa sīlassa.
Năm loại kiêng tránh (pañca viratiyo) là nền tảng của giới luật này.

Tenevāha ‘‘paṭivirato hotī’’ti.
Do đó, nói rằng: “Người ấy đã kiêng tránh.”

Micchāvaṇijjāti na sammāvaṇijjā ayuttavaṇijjā asāruppavaṇijjā.
“Micchāvaṇijjā” nghĩa là buôn bán sai lầm, không phù hợp, hoặc không đúng đắn.

Pahāyāti akaraṇeneva pajahitvā.
“Pahāya” nghĩa là từ bỏ hoàn toàn mà không thực hiện.

Dhammenāti dhammato anapetena.
“Dhammena” nghĩa là theo cách chân chánh, không gây tổn hại.

Tena aññampi adhammikaṃ jīvikaṃ paṭikkhipati.
Do đó, mọi sinh kế phi pháp đều bị từ chối.

Samenāti avisamena.
“Sama” nghĩa là công bằng, không thiên lệch.

Tena kāyavisamādiduccaritaṃ vajjetvā kāyasamādinā sucaritena ājīvaṃ dasseti.
Do đó, người ấy tránh xa các hành vi xấu về thân, khẩu, ý và thể hiện sinh kế chân chánh thông qua hành vi cân bằng.

Satthavaṇijjāti āyudhabhaṇḍaṃ katvā vā kāretvā vā yathākataṃ vā paṭilabhitvā tassa vikkayo.
“Satthavaṇijjā” nghĩa là buôn bán vũ khí, bao gồm việc chế tạo, đặt làm, hoặc mua lại rồi bán chúng.

Sattavaṇijjāti manussavikkayo.
“Sattavaṇijjā” nghĩa là buôn bán con người (nô lệ).

Maṃsavaṇijjāti sūnakārādayo viya migasūkarādike posetvā maṃsaṃ sampādetvā vikkayo.
“Maṃsavaṇijjā” nghĩa là nuôi động vật như chó, heo, v.v… để lấy thịt và bán.

Majjavaṇijjāti yaṃ kiñci majjaṃ yojetvā tassa vikkayo.
“Majjavaṇijjā” nghĩa là pha chế và bán các loại rượu.

Visavaṇijjāti visaṃ yojetvā visaṃ gahetvā vā tassa vikkayo.
“Visavaṇijjā” nghĩa là chế tạo, thu thập, hoặc bán độc dược.

Tattha satthavaṇijjā paroparodhanimittatāya akaraṇīyā vuttā.
Trong đó, việc buôn bán vũ khí bị cấm vì nó dẫn đến sự xâm phạm và tổn hại cho người khác.

Sattavaṇijjā abhujissabhāvakaraṇato,
Việc buôn bán con người bị cấm vì nó khiến con người trở thành đối tượng sử dụng.

maṃsavisavaṇijjā vadhahetuto,
Việc buôn bán thịt và độc dược bị cấm vì nó liên quan đến việc giết hại.

majjavaṇijjā pamādaṭṭhānato.
Việc buôn bán rượu bị cấm vì nó là nguyên nhân gây ra sự phóng túng.

Tassevāti pañcaveramaṇilakkhaṇassa sīlassa ceva pañcamicchāvaṇijjālakkhaṇassa ājīvassa ca.
“Đối với giới luật có năm đặc điểm kiêng tránh (pañcaveramaṇi) và sinh kế có năm đặc điểm buôn bán sai lầm (pañcamicchāvaṇijjā).”

Vipattīti bhedo pakopo ca.
“Vipatti” nghĩa là sự phân chia, phá vỡ hoặc xung đột.

Yāyāti yāya paṭipattiyā.
“Bằng cách nào” nghĩa là thông qua thực hành như thế nào.

Caṇḍāloti upāsakacaṇḍālo.
“Caṇḍāla” nghĩa là người cư sĩ bị coi là thấp kém như kẻ ngoài vòng pháp luật.

Malanti upāsakamalaṃ.
“Mala” nghĩa là ô nhiễm của cư sĩ.

Paṭikuṭṭhoti upāsakanihīno.
“Paṭikuṭṭha” nghĩa là cư sĩ bị khinh miệt.

Buddhādīsu kammakammaphalesu ca saddhāvipariyāyo assaddhiyaṃ micchādhimokkho,
Sự đảo ngược niềm tin vào Đức Phật v.v… và nghiệp quả dẫn đến vô tín và tà kiến.

yathāvuttena assaddhiyena samannāgato assaddho.
Người ấy đầy đủ vô tín như đã mô tả.

Yathāvuttasīlavipattiājīvavipattivasena dussīlo.
Do sự suy bại về giới luật và sinh kế như đã nói, người ấy trở thành kẻ ác hạnh.

‘‘Iminā diṭṭhādinā idaṃ nāma maṅgalaṃ hotī’’ti – evaṃ bālajanaparikappitakotūhalasaṅkhātena diṭṭhasutamutamaṅgalena samannāgato kotūhalamaṅgaliko.
“Nhờ quan điểm này mà điều này được gọi là điềm lành” – Người ấy đầy đủ những điềm lành do sự tò mò của kẻ ngu, dựa trên những gì họ thấy, nghe, hoặc nghĩ.

Maṅgalaṃ paccetīti diṭṭhamaṅgalādibhedaṃ maṅgalameva pattiyāyati.
“Đạt được điềm lành” nghĩa là đạt được loại điềm lành như đã đề cập, nhưng chỉ là điềm lành theo quan niệm sai lầm.

No kammanti kammassakataṃ no pattiyāyati.
“Không phải nghiệp” nghĩa là không đạt được kết quả từ nghiệp.

Ito bahiddhāti ito sabbaññubuddhasāsanato bahiddhā bāhirakasamaye.
“Bên ngoài phạm vi này” nghĩa là bên ngoài giáo pháp toàn giác của Đức Phật, trong thời kỳ bên ngoài giáo pháp.

Dakkhiṇeyyaṃ pariyesatīti duppaṭipannaṃ dakkhiṇārahasaññī gavesati.
“Tìm kiếm điều đáng kính” nghĩa là kẻ không thực hành đúng đắn nhưng vẫn tìm kiếm danh hiệu đáng kính.

Pubbakāraṃ karotīti dānamānanādikaṃ kusalakiriyaṃ paṭhamataraṃ karoti.
“Làm việc trước tiên” nghĩa là thực hiện các hành động thiện như bố thí, tôn kính, v.v… làm trước tiên.

Ettha ca dakkhiṇeyyapariyesanapubbakāre ekaṃ katvā pañca dhammā veditabbā.
Ở đây, sau khi kết hợp việc tìm kiếm điều đáng kính và làm việc trước tiên, năm pháp cần được hiểu rõ.

Vipattiyaṃ vuttavipariyāyena sampatti veditabbā.
Qua sự đối nghịch của thất bại, thành công cần được hiểu.

Ayaṃ pana viseso – catunnampi parisānaṃ ratijananaṭṭhena upāsakova ratanaṃ upāsakaratanaṃ.
Tuy nhiên, điểm đặc biệt ở đây là cư sĩ chính là kho báu quý giá đối với cả bốn chúng hội (tăng, ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ).

Guṇasobhākittisaddasugandhatāhi upāsakova padumaṃ upāsakapadumaṃ.
Nhờ vẻ đẹp của phẩm chất, tiếng tăm, và hương thơm đức hạnh, cư sĩ được ví như hoa sen (paduma).

Tathā upāsakapuṇḍarīko.
Cũng vậy, cư sĩ được ví như hoa sen trắng (puṇḍarīka).

Ādimhīti ādiatthe.
“Ādimhi” nghĩa là ý nghĩa ban đầu.

Koṭiyanti pariyantakoṭiyaṃ.
“Koṭi” nghĩa là giới hạn hoặc ranh giới.

Vihāraggenāti ovarakakoṭṭhāsena,
“Vihāragga” nghĩa là tầng trên của tịnh xá.

‘‘Imasmiṃ gabbhe vasantānaṃ idaṃ nāma phalaṃ pāpuṇātī’’tiādīnā taṃ taṃ vasanaṭṭhānakoṭṭhāsenāti attho.
“Những ai sống trong khu vực này sẽ đạt được kết quả này” – Ý nghĩa là từng khu vực sinh sống cụ thể được xác định.

Ajjatanti ajja icceva attho.
“Ajjatanti” nghĩa là “ngày hôm nay.”

Pāṇehiupetanti iminā tassa saraṇagamanassa āpāṇakoṭikataṃ dassento
“Pāṇehi upeta” nghĩa là thông qua sự hiện diện của mạng sống, điều này nhằm làm rõ rằng việc đi đến nơi nương tựa (saraṇagamana) kéo dài suốt cuộc đời.

‘‘Yāva me jīvitaṃ pavattatī’’tiādīni vatvā puna jīvitenapi taṃ vatthuttayaṃ paṭipūjento saraṇagamanaṃ rakkhāmīti uppannaṃ tassa brāhmaṇassa adhippāyaṃ vibhāvento ‘‘ahañhī’’tiādimāha.
Sau khi nói rằng “cho đến khi cuộc đời tôi còn tiếp diễn,” và sau đó bằng cả cuộc sống của mình, người ấy tôn kính ba ngôi báu và bảo vệ việc đi đến nơi nương tựa. Ý nghĩa sâu xa của vị Bà-la-môn này được thể hiện qua lời nói “Tôi sẽ bảo vệ.”

Pāṇehi upetanti hi yāva me pāṇā dharanti, tāva saraṇaṃ upetaṃ.
“Được duy trì bởi sinh mạng” có nghĩa là chừng nào sinh mạng còn tồn tại, thì việc đi đến nơi nương tựa vẫn tiếp tục.

Upento ca na vācāmattena na ekavāraṃ cittuppādamattena,
Việc đi đến nơi nương tựa không chỉ đơn thuần bằng lời nói hay một lần phát khởi tâm ý,

atha kho pāṇānaṃ pariccajanavasenapi yāvajīvaṃ upetanti evamettha attho veditabbo.
mà nhờ vào sự từ bỏ mạng sống, việc nương tựa kéo dài suốt cuộc đời. Ý nghĩa ở đây cần được hiểu như vậy.

17-19. Sattame jāṇussoṇīti netaṃ tassa mātāpitūhi kataṃ nāmaṃ,
Trong mục thứ bảy, “jāṇussoṇī” không phải là tên được cha mẹ đặt cho người ấy.

apica kho ṭhānantarappaṭilābhaladdhanti dassento āha ‘‘jāṇussoṇīti ṭhānantaraṃ kirā’’tiādi.
Nhưng nó được giải thích là tên có được từ việc đứng ở một vị trí đặc biệt. Do đó, nói rằng: “Jāṇussoṇī có nghĩa là vị trí đứng.”

Ekaṃ ṭhānantaranti ekaṃ purohitaṭṭhānaṃ.
“Một vị trí đứng” nghĩa là một vị trí trước mặt (purohitaṭṭhāna).

Uṇhīsaādikakudhabhaṇḍehi saddhiṃ laddhaṃ tathā cassa raññā dinnanti vadanti.
Tên này cũng được nói là đã được ban tặng bởi nhà vua cùng với các vật phẩm như mão đội đầu (uṇhīsa) và các đồ trang sức khác.

Tenāha ‘‘rañño santike ca laddhajāṇussoṇisakkārattā’’ti.
Do đó, nói rằng: “Vì sự tôn kính đối với Jāṇussoṇī mà nhà vua đã ban tặng.”

Sesamettha uttānameva.
Phần còn lại ở đây chỉ đơn giản là giải thích thêm.

Aṭṭhamanavamesu natthi vattabbaṃ.
Trong phần thứ tám và thứ chín, không có gì cần phải nói thêm.

20-21. Dasame dunnikkhittanti duṭṭhu nikkhittaṃ padapaccābhaṭṭhaṃ katvā manasi ṭhapitaṃ.
Trong phần thứ mười, “dunnikkhitta” nghĩa là từ được sắp xếp sai lệch, được đặt trong tâm trí.

Pajjati ñāyati attho etenāti padaṃ, atthaṃ byañjayati pakāsetīti byañjanaṃ, padameva.
“Nghĩa của từ này được biểu đạt qua cách sử dụng,” nghĩa là từ ngữ làm rõ ý nghĩa. Điều này được gọi là “byañjana” (phụ tố), tức là chính từ đó.

Tenevāha ‘‘uppaṭipāṭiyā…pe… byañjananti vuccatī’’ti.
Do đó, nói rằng: “Từ ngữ được gọi là ‘byañjana’ theo cách thức tương ứng.”

Padasamudāyabyatirekena visuṃ pāḷi nāma natthīti āha ‘‘ubhayametaṃ pāḷiyāva nāma’’nti.
Không có tên riêng nào ngoài tập hợp các từ ngữ, do đó nói rằng: “Cả hai đều được gọi là ‘pāḷi’ (giáo điển).”

Pakaṭṭhānañhi vacanappabandhānaṃ āḷiyeva pāḷīti vuccati.
“Āḷi” (chuỗi) được gọi là “pāḷi” vì nó liên kết các lời dạy lại với nhau.

Sesamettha ekādasamañca uttānatthameva.
Phần còn lại ở đây và phần thứ mười một chỉ đơn giản là giải thích thêm.

Adhikaraṇavaggavaṇṇanā niṭṭhitā.
Lời giải thích về nhóm vấn đề (Adhikaraṇavagga) đã kết thúc.

Hộp bình luận Facebook

Soṇa Thiện Kim

Panha.org là trang web chuyên sâu về Pháp học của Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Tông), nơi cung cấp kiến thức và tài liệu quý báu về kinh điển, giáo lý, và triết học Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Tông). Tại đây, bạn có thể tìm hiểu về các giáo pháp truyền thống, kinh nghiệm tu tập, và những bài giảng từ các vị tôn sư hàng đầu trong cộng đồng Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Tông). Với mục tiêu giúp người học hiểu sâu hơn về con đường giác ngộ và sự giải thoát, Panha.org mang đến nguồn tài nguyên phong phú, chính xác và cập nhật để hỗ trợ hành giả trên hành trình tu tập Pháp học.

Bài viết liên quan

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.

0 Góp ý
Được bỏ phiếu nhiều nhất
Mới nhất Cũ nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Back to top button