16. Ekadhammapāḷi
Kinh Một Pháp.
(16) 1. Ekadhammapāḷi-paṭhamavaggavaṇṇanā
Phần Giải Thích Chương Thứ Nhất của Kinh Một Pháp.
296. Ekadhammapāḷivaṇṇanāyaṃ idha dhamma-saddo sabhāvattho ‘‘kusalā dhammā’’tiādīsu viyāti āha – ‘‘ekasabhāvo’’ti.
Trong phần giải thích Kinh Một Pháp này, từ “dhamma” ở đây mang ý nghĩa bản chất, như trong các câu “các pháp thiện” v.v… được nói rằng “có một bản chất duy nhất”.
Ekantenāti ekaṃsena, avassanti attho.
“Hoàn toàn” nghĩa là không sót lại chút nào, ý nghĩa ấy là rõ ràng.
Vaṭṭeti saṃsāravaṭṭe.
Nó làm vận hành bánh xe luân hồi.
Nibbindanatthāyāti anabhiramanatthāya.
Mục đích của sự nhàm chán nghĩa là mục đích của việc không còn tham luyến.
Virajjanatthāyāti arajjanatthāya.
Mục đích của sự không nhiễm ô nghĩa là mục đích của sự không còn ái dục.
Virajjanāyāti palujjanāya.
Sự không nhiễm ô có nghĩa là sự tan rã.
Tenevāha – ‘‘vigamāyā’’ti.
Do đó nói rằng “để đoạn trừ”.
Rāgādīnaṃ nirodhāyāti maggañāṇena rāgādīnaṃ nirodhanatthāya.
Đoạn diệt tham ái v.v… nghĩa là mục đích của sự đoạn diệt tham ái bằng trí tuệ của đạo lộ.
Maggañāṇena nirodhanaṃ nāma accantaṃ appavattikaraṇanti āha – ‘‘appavattikaraṇatthāyā’’ti.
Đoạn diệt bởi trí tuệ của đạo lộ có nghĩa là làm cho nó hoàn toàn không còn tái diễn, do đó nói rằng “mục đích làm cho không còn tái diễn”.
Yathā khādanīyassa mukhe katvā khādanaṃ nāma yāvadeva ajjhoharaṇatthaṃ, evaṃ rāgādīnaṃ nirodhanaṃ vaṭṭanirodhanatthamevāti vuttaṃ – ‘‘vaṭṭasseva vā nirujjhanatthāyā’’ti.
Như khi thức ăn được đưa vào miệng thì việc nhai có nghĩa là để nuốt, tương tự vậy, sự đoạn diệt tham ái v.v… chính là để đoạn diệt bánh xe luân hồi, do đó nói rằng “mục đích đoạn diệt bánh xe luân hồi”.
Yasmā kilesesu khīṇesu itaraṃ vaṭṭadvayampi khīṇameva hoti, tasmā mūlameva gaṇhanto ‘‘upasamāyāti kilesavūpasamanatthāyā’’ti āha.
Vì rằng khi các phiền não đã được đoạn tận thì hai vòng luân hồi còn lại cũng sẽ bị tiêu diệt, do đó nắm lấy gốc rễ mà nói rằng “mục đích của sự tịch tĩnh là để đoạn tận các phiền não”.
Saṅkhatadhammānaṃ abhijānanaṃ nāma tattha lakkhaṇattayāropanamukhenevāti āha – ‘‘aniccādi…pe… abhijānanatthāyā’’ti.
Việc nhận biết các pháp hữu vi có nghĩa là quan sát ba đặc tính vô thường v.v… ngay tại nơi ấy, do đó nói rằng “mục đích của việc nhận biết vô thường v.v…”.
Sambujjhitabbāni nāma cattāri ariyasaccāni tabbinimuttassa ñeyyassa abhāvato.
Cái cần được giác ngộ là bốn Thánh đế, vì người đã giải thoát khỏi điều ấy không còn gì phải biết nữa.
‘‘Catunnaṃ saccānaṃ bujjhanatthāyā’’ti vatvā tayidaṃ bujjhanaṃ yassa ñāṇassa vasena ijjhati, tassa ñāṇassa vasena dassetuṃ – ‘‘bodhi vuccatī’’tiādi vuttaṃ.
Sau khi nói rằng “mục đích của việc giác ngộ bốn Thánh đế”, sự giác ngộ ấy phát sinh nhờ trí tuệ nào, thì để chỉ cho trí tuệ ấy mà nói rằng “được gọi là Bồ-đề”.
Appaccayanibbānassāti amatadhātuyā.
Niết-bàn không có điều kiện là yếu tố bất tử.
Ussāhajananatthanti kammaṭṭhāne abhiruciuppādanāya.
Ý nghĩa của việc tạo ra sự tinh tấn là để phát sinh niềm ưa thích trong đề mục thiền.
Visakaṇṭakoti guḷassa vāṇijasamaññā.
“Visakaṇṭako” là tên gọi của người buôn đường phèn.
‘‘Kismiñci dese desabhāsā’’ti keci.
Một số người nói rằng “trong bất kỳ vùng đất nào thì ngôn ngữ địa phương được sử dụng”.
Ucchuraso samapākapakko cuṇṇādīhi missetvā piṇḍīkato guḷo, apiṇḍīkato phāṇitaṃ.
Đường thốt nốt khi đã chín hoàn toàn, nếu trộn với bột và tạo thành từng viên thì gọi là “guḷa”, còn nếu không tạo viên thì gọi là “phāṇita”.
Pākavisesena khaṇḍakhaṇḍasedito khaṇḍo, malābhāvaṃ āpanno sakkarā.
Vì cách nấu đặc biệt mà đường bị vỡ thành từng mảnh, trở nên dơ bẩn và gọi là “sakkarā”.
Saratīti sati.
“Sarati” nghĩa là nhớ.
Anu anu saratīti anussati, anu anurūpā satītipi anussati.
“Anu anu sarati” nghĩa là tùy niệm; “anu anurūpā sati” cũng gọi là tùy niệm.
Duvidhaṃ hotīti payojanavasena duvidhaṃ hoti.
“Nó có hai loại” nghĩa là nó trở thành hai loại tùy theo công dụng.
Cittasampahaṃsanatthanti pasādanīyavatthusmiṃ pasāduppādanena bhāvanācittassa paritosanatthaṃ.
Ý nghĩa của việc làm cho tâm hân hoan là để tạo ra niềm tin vào đối tượng đáng tin cậy, nhằm làm cho tâm thiền định được thỏa mãn.
Vipassanatthanti vipassanāsukhatthaṃ.
Ý nghĩa của tuệ quán là để đạt được hạnh phúc của tuệ quán.
Upacārasamādhinā hi citte samāhite vipassanāsukhena ijjhati.
Bởi vì khi tâm được định tĩnh nhờ định cận hành, thì nhờ hạnh phúc của tuệ quán mà tâm được nuôi dưỡng.
Cittuppādoti bhāvanāvasena pavatto cittuppādo.
“Cittuppāda” nghĩa là trạng thái tâm phát khởi thông qua thiền định.
Upahaññati patihaññati paṭikūlattā ārammaṇassa.
Do đối tượng thiền trở nên khó chịu, tâm cảm thấy bị quấy rầy và từ bỏ.
Tato eva ukkaṇṭhati, kammaṭṭhānaṃ riñcati, nirassādo hoti bhāvanassādassa alabbhanato.
Vì vậy, hành giả cảm thấy chán nản, bỏ rơi đề mục thiền, và mất đi niềm hứng thú do không đạt được kết quả của thiền định.
Pasīdati buddhaguṇānaṃ pasādanīyattā.
Hành giả đặt niềm tin vào các đức tính của Đức Phật vì chúng đáng kính.
Tathā ca kaṅkhādicetokhilābhāvena vinīvaraṇo hoti.
Như vậy, nhờ vào việc vượt qua những trở ngại như nghi ngờ v.v…, hành giả trở nên không còn bị che chắn bởi các chướng ngại.
Dametvāti nīvaraṇanirākaraṇena nibbisevanaṃ katvā.
“Dametvā” nghĩa là sau khi đã loại bỏ các triền cái bằng cách xua đuổi chúng đi.
Evaṃ kammaṭṭhānantarānuyuñjanena cittaparidamanassa upamaṃ dassento, ‘‘katha’’ntiādimāha.
Như vậy, khi giải thích ví dụ về việc chế ngự tâm ngay sau khi liên tục thực hành đề mục thiền, bậc thầy bắt đầu giảng bằng câu “katha” v.v…
Ko ayaṃ…pe… anussarīti ko ayaṃ mama abbhantare ṭhatvā anussari.
“Ai là người… đang nhớ lại điều này ở bên trong ta?”
Pariggaṇhantoti bāhirakaparikappitassa anussarakassa sabbaso abhāvadassanametaṃ.
“Pariggaṇhanti” nghĩa là sự nhận thức hoàn toàn không tồn tại của việc nhớ lại dựa trên suy xét bên ngoài.
Tenāha – ‘‘na añño kocī’’ti.
Do đó nói rằng “không có ai khác”.
Disvāti pariyesananayena vuttappakāraṃ cittameva anussarīti disvā sabbampetanti etaṃ hadayavatthuādippabhedaṃ sabbampi.
“Disvā” nghĩa là nhìn thấy; theo cách đã nói trong phương pháp tìm kiếm, chính tâm ấy nhớ lại; “nhìn thấy tất cả” nghĩa là thấy toàn bộ, kể cả sự phân biệt nơi trú xứ của tâm v.v…
Idañca rūpaṃ purimañca arūpanti idaṃ ruppanasabhāvattā rūpaṃ, purimaṃ ataṃsabhāvattā arūpanti saṅkhepato rūpārūpaṃ vavatthapetvā.
Cái này là sắc, cái trước là vô sắc; cái này mang bản chất của sự biểu hiện nên gọi là sắc, cái trước mang bản chất vi tế nên gọi là vô sắc. Tóm lược lại, sắc và vô sắc được xác định.
Pañcakkhandhe vavatthapetvāti yojanā.
Việc xác định năm uẩn là một sự sắp xếp hợp lý.
Sambhāvikāti samuṭṭhāpikā.
“Sambhāvikā” nghĩa là cái làm phát sinh.
Tassāti samudayasaccassa.
“Tassa” nghĩa là Khổ Đế.
Nirodhoti nirodhanimittaṃ.
“Nirodho” nghĩa là dấu hiệu của sự diệt tận.
Appanāvāroti yathāraddhāya desanāya nigamanavāro.
“Appanāvāro” nghĩa là sự ngăn chặn việc đạt đến tầng thiền sâu bằng cách giảng dạy phù hợp.
297. Eseva nayoti iminā yvāyaṃ ‘‘taṃ paneta’’ntiādinā atthanayo buddhānussatiyaṃ vibhāvitoti atidisati, svāyaṃ atideso payojanavasena navasupi anussatīsu sādhāraṇavasena vuttopi ānāpānassatiādīsu tīsu vipassanatthāneva hontīti iminā apavādena nivattitoti tāsaṃ ekappayojanatāva daṭṭhabbā.
Chính phương pháp này được giải thích qua cách thức “taṃ paneta” v.v… trong sự suy niệm về Đức Phật, vượt ra ngoài ý nghĩa thông thường, và tự thân nó mở rộng ý nghĩa tùy theo công dụng, dù chung cho chín loại suy niệm nhưng chỉ thuộc ba mục đích của tuệ quán như niệm hơi thở vào ra v.v… Do đó, qua sự bác bỏ này, cần thấy rằng chúng có một công dụng duy nhất.
Dhamme anussati dhammānussatīti samāsapadavibhāgadassanampi vacanatthadassanapakkhikamevāti āha – ‘‘ayaṃ panettha vacanattho’’ti.
Suy niệm về Pháp (Dhamma) gọi là niệm Pháp; việc phân tích từ ghép và thấy ý nghĩa của lời dạy chỉ nằm trong phạm vi hiểu ý nghĩa của văn bản mà thôi, nên nói rằng “đây là ý nghĩa của lời dạy trong trường hợp này”.
Dhammaṃ ārabbhāti hi dhammassa anussatiyā visayabhāvadassanametaṃ.
“Dhammaṃ ārabbha” nghĩa là dựa trên sự suy niệm về Pháp để thấy rõ bản chất đối tượng của nó.
Esa nayo sesesupi.
Phương pháp này cũng áp dụng cho các trường hợp còn lại.
Sīlaṃ ārabbhāti attano pārisuddhisīlaṃ ārabbha.
“Sīlaṃ ārabbha” nghĩa là dựa trên giới thanh tịnh của chính mình.
Cāgaṃ ārabbhāti attano cāgaguṇaṃ ārabbha.
“Cāgaṃ ārabbha” nghĩa là dựa trên đức tính bố thí của chính mình.
Devatā ārabbhāti ettha devatāguṇasadisatāya attano saddhāsīlasutacāgapaññāsu devatāsamaññā.
“Devatā ārabbha” nghĩa là ở đây, do có sự tương đồng với các đức tính của chư thiên, nên niềm tin, giới, nghe pháp, bố thí, và trí tuệ của mình được xem như danh xưng của chư thiên.
Bhavati hi taṃsadisepi tabbohāro yathā ‘‘tāni osadhāni, esa brahmadatto’’ti ca.
Thật vậy, những phẩm chất tương tự ấy trở thành món quà đáng cúng dường, như câu “những thảo dược ấy, người Brahmadatta này” v.v…
Tenāha – ‘‘devatā sakkhiṭṭhāne ṭhapetvā’’tiādi.
Do đó nói rằng “chư thiên được đặt ở vị trí chứng giám” v.v…
Tattha devatā sakkhiṭṭhāne ṭhapetvāti ‘‘yathārūpāya saddhāya samannāgatā tā devatā ito cutā tattha upapannā, mayhampi tathārūpā saddhā saṃvijjati. Yathārūpena sīlena, yathārūpena sutena, yathārūpena cāgena, yathārūpāya paññāya samannāgatā tā devatā ito cutā tattha upapannā, mayhampi tathārūpā paññā saṃvijjatī’’ti evaṃ devatā sakkhiṭṭhāne ṭhapetvā.
Ở đây, “chư thiên được đặt ở vị trí chứng giám” nghĩa là “Những chư thiên nào đã thành tựu với loại niềm tin như thế, sau khi mệnh chung từ đây đã tái sinh tại nơi kia; tôi cũng có loại niềm tin như thế hiện hữu. Với loại giới như thế, với loại nghe pháp như thế, với loại bố thí như thế, với loại trí tuệ như thế, những chư thiên ấy sau khi mệnh chung từ đây đã tái sinh tại nơi kia; tôi cũng có loại trí tuệ như thế hiện hữu.” Như vậy, chư thiên được đặt ở vị trí chứng giám.
Assāsapassāsanimittaṃ nāma tattha laddhabbappaṭibhāganimittaṃ.
Dấu hiệu của hơi thở vào ra có tên là dấu hiệu đạt được hoặc dấu hiệu phản chiếu trong trường hợp ấy.
Gatāti ārammaṇakaraṇavasena upagatā pavattā.
“Gata” nghĩa là đã đến, theo cách tạo ra đối tượng thiền, đã tiếp cận và đang vận hành.
Upasammati ettha dukkhanti upasamo, nibbānaṃ.
“Upasammati” trong trường hợp này nghĩa là sự tịch diệt, Niết-bàn.
Accantameva ettha upasammati vaṭṭattayanti accantūpasamo, nibbānameva.
Hoàn toàn tịch diệt ở đây ba vòng luân hồi nghĩa là sự tịch diệt hoàn toàn, chính là Niết-bàn.
Khiṇoti khepeti kileseti khayo, ariyamaggo.
“Khiṇoti” (tiêu diệt), “khepeti” (đẩy lui), và “kilesa” (phiền não) nghĩa là sự đoạn diệt, đó là con đường của bậc Thánh.
Te eva upasametīti upasamo, ariyamaggo eva.
Chúng tự thân tịch diệt nghĩa là sự tịch diệt, chính là con đường của bậc Thánh.
Khayo ca so upasamo cāti khayūpasamo.
Sự đoạn diệt và sự tịch diệt ấy gọi là “khayūpasamo” (đoạn diệt tịch tịnh).
Tatracāyaṃ upasamo dhammo evāti dhammānussatiyā upasamānussati ekasaṅgahoti?
Trong trường hợp này, pháp tịch diệt ấy chỉ đơn thuần là pháp, vậy niệm về tịch diệt có phải được bao gồm trong niệm về Pháp không?
Saccaṃ ekasaṅgaho dhammabhāvasāmaññe adhippete, saṅkhatadhammato pana asaṅkhatadhammo sātisayo uḷāratamapaṇītatamabhāvatoti dīpetuṃ visuṃ nīharitvā vuttaṃ.
Đúng vậy, mặc dù có một sự tổng hợp duy nhất về bản chất của các pháp, nhưng để làm rõ rằng pháp vô vi (asaṅkhatadhamma) vượt trội hơn hẳn pháp hữu vi (saṅkhatadhamma) vì tính tối thượng và thanh tịnh của nó, nên đã được trình bày riêng biệt.
Imameva hi visesaṃ sandhāya bhagavā – ‘‘dhammānussatī’’ti vatvāpi upasamānussatiṃ avoca anussarantassa savisesaṃ santapaṇītabhāvena upaṭṭhānato.
Chính nhờ đặc điểm này mà Đức Thế Tôn, khi nói về niệm về Pháp (“dhammānussati”), đã đề cập đến niệm về tịch diệt bởi vì sự hiện diện đặc biệt và thanh tịnh của nó đối với người thực hành niệm tưởng.
Evañca katvā idha khayūpasamaggahaṇampi samatthitanti daṭṭhabbaṃ.
Và khi đã làm như vậy, cần thấy rằng việc kết hợp giữa “khayūpasama” (đoạn diệt tịch tịnh) ở đây cũng rất thích hợp.
Yatheva hi samānepi lokuttaradhammabhāve ‘‘yāvatā, bhikkhave, dhammā saṅkhatā vā asaṅkhatā vā, virāgo tesaṃ aggamakkhāyatī’’tiādivacanato (itivu. 90) maggaphaladhammehi nibbānadhammo sātisayo,
Vì rằng ngay cả trong trạng thái bình đẳng giữa các pháp thế gian và siêu thế, như lời dạy: “Này các Tỳ-khưu, trong tất cả các pháp, dù hữu vi hay vô vi, ly tham được xem là tối thượng” (Itivuttaka 90), nên pháp Niết-bàn vượt trội hơn các pháp quả và đạo lộ.
evaṃ phaladhammato maggadhammo kilesappahānena acchariyadhammabhāvato, tasmā accantūpasamena saddhiṃ khayūpasamopi gahitoti daṭṭhabbaṃ.
Như vậy, từ pháp quả dẫn đến pháp đạo lộ, do sự loại bỏ phiền não, đạt được trạng thái kỳ diệu của pháp, nên cần hiểu rằng “khayūpasama” (đoạn diệt tịch tịnh) được kết hợp cùng với sự tịch diệt hoàn toàn.
Vipassanatthāneva hontīti kasmā vuttanti?
Tại sao lại nói rằng chúng chỉ thuộc về mục đích của tuệ quán?
‘‘Ekantanibbidāyātiādivacanato’’ti keci, taṃ akāraṇaṃ buddhānussatiādīsupi tathā desanāya āgatattā.
Một số người trả lời rằng “do lời dạy bắt đầu bằng ‘hoàn toàn nhàm chán'”, nhưng điều đó không đúng vì cách giảng giải tương tự cũng áp dụng cho niệm Phật v.v…
Yathā pana buddhānussatiādīni kammaṭṭhānāni vipassanatthāni honti, nimittasampahaṃsanatthānipi honti, na evametāni, etāni pana vipassanatthānevāti tathā vuttaṃ.
Tuy nhiên, giống như niệm Phật v.v… là những đề mục thiền thuộc về mục đích của tuệ quán và cũng nhằm mục đích làm khởi lên dấu hiệu (nimitta), nhưng không phải như vậy, mà những pháp này chỉ thuộc về mục đích của tuệ quán mà thôi, nên đã được nói như vậy.
Paṭhamavaggavaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần giải thích Chương Thứ Nhất đã kết thúc.
(16) 2. Ekadhammapāḷi-dutiyavaggavaṇṇanā
Phần Giải Thích Chương Thứ Hai của Kinh Một Pháp.
298. Micchā passati tāya, sayaṃ vā micchā passati, micchādassanameva vā tanti micchādiṭṭhi, yaṃ kiñci viparītadassanaṃ.
“Thấy sai lạc do đó,” hoặc “tự thân thấy sai lạc,” hoặc chỉ đơn thuần là “sự thấy sai lạc,” được gọi là tà kiến, tức bất kỳ quan điểm nào sai lệch.
Tenāha – ‘‘dvāsaṭṭhividhāyā’’tiādi.
Do đó nói rằng “hai mươi sáu loại.”
Micchādiṭṭhi etassāti micchādiṭṭhiko.
“Tà kiến” của người này nghĩa là kẻ có tà kiến.
Tassa micchādiṭṭhikassa.
Đối với kẻ có tà kiến ấy.
299. Sammā passati tāya, sayaṃ vā sammā passati, sammādassanamattameva vā tanti sammādiṭṭhi.
“Thấy đúng đắn do đó,” hoặc “tự thân thấy đúng đắn,” hoặc chỉ đơn thuần là “sự thấy đúng đắn,” được gọi là chánh kiến.
Pañcavidhāyāti kammassakatājhānavipassanāmaggaphalavasena pañcavidhāya.
“Năm loại” nghĩa là năm loại theo khía cạnh nghiệp, thiền, tuệ quán, đạo lộ, và quả.
Tattha jhānacittuppādapariyāpannaṃ ñāṇaṃ jhānasammādiṭṭhi, vipassanāñāṇaṃ vipassanāsammādiṭṭhi.
Trong đó, trí tuệ đạt được qua sự phát khởi tâm thiền và trải rộng trong thiền định được gọi là chánh kiến thuộc thiền; trí tuệ của tuệ quán được gọi là chánh kiến thuộc tuệ quán.
302. Pañcasu khandhesu ‘‘nicca’’ntiādinā pavatto anupāyamanasikāro.
Sự suy nghĩ không phù hợp khởi lên qua việc xem năm uẩn là “thường” v.v…
303. ‘‘Anicca’’ntiādinā pavatto upāyamanasikāro.
Sự suy nghĩ phù hợp khởi lên qua việc xem năm uẩn là “vô thường” v.v…
Yāva niyāmokkamanāti yāva micchattaniyāmokkamanā.
“Cho đến khi đạt được dòng chảy chắc chắn” nghĩa là cho đến khi đạt được dòng chảy chắc chắn của tà kiến.
Micchattaniyāmokkamananayo pana sāmaññaphalasuttavaṇṇanāyaṃ taṭṭīkāya ca vuttanayeneva veditabbo.
Tuy nhiên, phương pháp đạt được dòng chảy chắc chắn của tà kiến cần được hiểu theo cách đã giải thích trong phần chú giải và phụ chú giải của kinh Samaññaphala.
304. Ayaṃ tividhā saggāvaraṇā ceva hotīti kammapathappattiyā mahāsāvajjabhāvato vuttaṃ.
Loại này có ba loại và được gọi là “chướng ngại đối với cõi trời” vì nó dẫn đến con đường ác nghiệp do tính chất cực kỳ tai hại.
Saggāvaraṇāya hontiyā maggavibandhakabhāve vattabbameva natthīti vuttaṃ – ‘‘maggāvaraṇā cā’’ti.
Được nói rằng “không phải là chướng ngại đối với cõi trời mà là chướng ngại trên con đường đạo,” bởi vì nó ngăn cản con đường giải thoát.
‘‘Sassato loko’’tiādikā dasavatthukā antaggāhikā micchādiṭṭhi.
Những tà kiến như “thế gian là thường còn” v.v… thuộc mười đề mục, được chấp thủ một cách cố chấp.
Maggaāvaraṇāva hoti viparītadassanabhāvato, na saggāvaraṇā akammapathapattitoti adhippāyo.
Ý nghĩa chính là: chúng chỉ trở thành chướng ngại trên con đường đạo do bản chất của quan điểm sai lệch, chứ không phải là chướng ngại đối với cõi trời, vì không dẫn đến con đường ác nghiệp.
Idaṃ pana vidhānaṃ paṭikkhipitvāti viparītadassanañca na maggāvaraṇañcāti viruddhametaṃ uddhammabhāvato.
Tuy nhiên, việc bác bỏ cách phân loại này là mâu thuẫn, vì tà kiến và chướng ngại trên con đường đạo không thể tách rời nhau theo bản chất cao hơn của pháp.
Tathā hi sati appahīnāya eva sakkāyadiṭṭhiyā maggādhigamena bhavitabbanti adhippāyena yathāvuttavidhānaṃ paṭikkhipitvā.
Vì ý nghĩa chính là: nếu thân kiến chưa được đoạn trừ thì vẫn cần phải thực hành để đạt được con đường đạo, nên cách phân loại vừa nêu đã bị bác bỏ.
‘‘Na saggāvaraṇā’’ti saggūpapattiyā avibandhakattaṃ vadantehi diṭṭhiyā saggāvahatāpi nāma anuññātā hotīti taṃ vādaṃ paṭikkhipantena ‘‘diṭṭhi nāma saggaṃ upanetuṃ samatthā nāma natthī’’ti vuttaṃ.
Khi bác bỏ luận điểm rằng “tà kiến không phải là chướng ngại đối với cõi trời” vì tà kiến không ngăn cản sự tái sinh vào cõi trời, đã nói rằng “không có loại tà kiến nào có khả năng đưa đến cõi trời.”
Kasmā? Ekantagarutarasāvajjabhāvato.
Tại sao vậy? Vì bản chất của tà kiến hoàn toàn mang lại điều bất lợi nghiêm trọng.
Tenāha – ‘‘ekantaṃ nirayasmiṃyeva nimujjāpetī’’tiādi.
Do đó nói rằng “chắc chắn sẽ đẩy xuống địa ngục.”
305. Vaṭṭaṃviddhaṃsetīti maggasammādiṭṭhi kilesavaṭṭaṃ kammavaṭṭañca viddhaṃseti.
“Phá vỡ bánh xe luân hồi” nghĩa là chánh kiến thuộc con đường phá vỡ bánh xe phiền não và bánh xe nghiệp.
Vipākavaṭṭaṃ kā nu viddhaṃseti nāma.
Nhưng ai có thể phá vỡ bánh xe quả báo?
Evaṃ pana attano kāraṇena viddhastabhavaṃ phalasammādiṭṭhi paṭibāhatīti vuttaṃ avasaradānato.
Tuy nhiên, do nguyên nhân của chính mình, chánh kiến thuộc quả đã đẩy lùi trạng thái bị phá vỡ, điều này được nói để tránh sự nhầm lẫn.
Iccetaṃ kusalanti arahattaṃ pāpetuṃ sace sakkoti, evametaṃ vipassanāya paṭisandhianākaḍḍhanaṃ kusalaṃ anavajjaṃ.
Nếu có thể đạt đến quả vị A-la-hán, thì đây là thiện pháp không lỗi lầm, được kết nối với tuệ quán như một dây xích kéo về.
Satta bhave detīti sotāpattimaggassa paccayabhūtā vipassanāsammādiṭṭhi tassa puggalassa satta bhave deti.
Chánh kiến thuộc tuệ quán, làm duyên cho con đường Dự Lưu, đưa người ấy ra khỏi bảy kiếp tái sinh.
Evamayanti pañcavidhampi sammādiṭṭhiṃ sandhāya vuttaṃ.
Như vậy, năm loại chánh kiến đã được giải thích liên hệ đến vấn đề này.
Tenāha – ‘‘lokiyalokuttarā sammādiṭṭhi kathitā’’ti.
Do đó nói rằng “chánh kiến thuộc thế gian và siêu thế đã được giảng giải.”
Imasmiṃ panattheti ‘‘nāhaṃ, bhikkhave, aññaṃ ekadhammampi samanupassāmī’’tiādinā vutte gatimaggasaṅkhāte atthe.
Trong ý nghĩa này, câu “Này các Tỳ-khưu, Ta không thấy một pháp nào khác…” đã được nói nhằm chỉ con đường dẫn đến mục tiêu.
‘‘Sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapajjantī’’ti vuttattā ‘‘lokikā bhavanipphādikāva veditabbā’’ti vuttaṃ.
Vì câu “đầu thai vào cõi lành, cõi trời, thế giới” đã được nói, nên cần hiểu rằng “các pháp thuộc thế gian chỉ sản sinh ra sự tái sinh.”
306. Yathādiṭṭhīti atthabyāpanicchāyāṃ yathā-saddo, tena uttarapadatthappadhāno samāsoti āha – ‘‘yā yā diṭṭhī’’ti.
“Yathādiṭṭhi” (theo quan điểm) trong ngữ cảnh này, từ “yathā” mang ý nghĩa nhấn mạnh phần sau của câu ghép; do đó nói rằng “bất kỳ quan điểm nào.”
Tassā tassā anurūpanti taṃtaṃdiṭṭhianurūpanti attho.
“Phù hợp với từng quan điểm” nghĩa là phù hợp với từng loại quan điểm cụ thể.
Samattanti anavasesaṃ.
“Samatta” nghĩa là hoàn toàn, không sót lại gì.
Tenāha – ‘‘paripuṇṇa’’nti.
Do đó nói rằng “hoàn hảo.”
Samādinnanti ādimajjhapariyosānesu samaṃ ekasadisaṃ katvā ādinnaṃ gahitaṃ anissaṭṭhaṃ.
“Samādinnanta” nghĩa là đã nắm giữ một cách đồng đều, giống nhau từ đầu, giữa, đến cuối, không bị bỏ sót.
Tadetanti yadetaṃ ‘‘yañceva kāyakamma’’ntiādinā vuttaṃ, tadetaṃ kāyakammaṃ.
“Tadetanti” nghĩa là những gì đã được nói bắt đầu bằng “bất kỳ hành động thân nào,” đó chính là hành động thân.
Yathādiṭṭhiyaṃ ṭhitakāyakammanti yā pana diṭṭhi ‘‘natthi tatonidānaṃ pāpa’’ntiādinā pavattā, tassaṃ diṭṭhiyaṃ ṭhitakassa ṭhitamattassa anissaṭṭhassa taṃdiṭṭhikassa kāyakammaṃ.
“Hành động thân dựa trên quan điểm” nghĩa là hành động thân của người kiên định trong quan điểm “không có điều ác nào từ đó,” khi an trú trong quan điểm ấy mà không bị lay chuyển.
Diṭṭhisahajātaṃ kāyakammanti tassa yathādiṭṭhikassa paresaṃ hatthamuddādinā viññāpanakāle tāya diṭṭhiyā sahajātaṃ kāyakammaṃ.
“Hành động thân cùng sinh với quan điểm” nghĩa là hành động thân của người thực hiện quan điểm ấy, biểu lộ qua cử chỉ như giơ tay, ngón tay v.v… để truyền đạt.
Na cettha vacīkammāsaṅkā uppādetabbā pāṇaghātādīnaṃyeva adhippetattā.
Không nên suy diễn thêm về hành động khẩu ở đây, vì ý nghĩa chính là sát sinh v.v…
Diṭṭhānulomikaṃ kāyakammanti yathā paresaṃ pākaṭaṃ hoti, evaṃ diṭṭhiyā anulomikaṃ katvā pavattitaṃ kāyakammaṃ.
“Hành động thân thuận theo quan điểm” nghĩa là hành động thân được thực hiện phù hợp với quan điểm, trở nên rõ ràng đối với người khác.
Tenāha – ‘‘samādinnaṃ gahitaṃ parāmaṭṭha’’nti.
Do đó nói rằng “được nắm giữ chắc chắn và thực hành hoàn toàn.”
Tatthātiādi suviññeyyameva.
Trong trường hợp này, điều đó rất dễ nhận biết.
Eseva nayoti iminā yathāvuttāya diṭṭhiyā ṭhitavacīkammaṃ, diṭṭhisahajātaṃ vacīkammaṃ, diṭṭhānulomikaṃ vacīkammanti tividhaṃ hotīti evamādi atidisati.
Chính phương pháp này đã được giải thích: hành động khẩu dựa trên quan điểm, hành động khẩu cùng sinh với quan điểm, và hành động khẩu thuận theo quan điểm—ba loại này vượt ngoài phạm vi thông thường.
Micchādiṭṭhikassāti kammapathappattāya micchādiṭṭhiyā micchādiṭṭhikassa.
“Người có tà kiến” nghĩa là kẻ đạt đến con đường ác nghiệp do tà kiến.
‘‘Yāya kāyaci micchādiṭṭhiyā micchādiṭṭhikassa sato’’ti apare.
“Người có tà kiến tồn tại với bất kỳ hành động thân nào do tà kiến,” một số khác nói.
Diṭṭhisahajātāti yathāvuttāya diṭṭhiyā sahajātā cetanā.
“Diṭṭhisahajāta” nghĩa là ý chí (cetanā) cùng sinh với quan điểm (diṭṭhi) đã được nói đến.
Esa nayo sesapadesupi.
Phương pháp này cũng áp dụng cho các phần còn lại.
Patthanāti ‘‘idaṃ nāma kareyya’’nti taṇhāpatthanā.
“Patthanā” nghĩa là khát ái mong muốn “điều này sẽ được làm.”
Cetanāpatthanānaṃ vasenāti yathāvuttadiṭṭhigatanissitacetasikanikāmanānaṃ vasena.
“Do nguyên nhân của ý chí và khát ái” nghĩa là do năng lực của sự mong cầu thuộc tâm sở dựa vào tà kiến đã được nói đến.
Cittaṭṭhapanāti cittassa paṇidahanā.
“Cittaṭṭhapanā” nghĩa là sự định hướng của tâm.
Phassādayoti cetanādiṭṭhitaṇhādivinimuttā phassādidhammā.
“Phassādayo” nghĩa là các pháp như xúc chạm v.v… không bị ràng buộc bởi ý chí, tà kiến, và khát ái.
Yasmā diṭṭhi pāpikā, tasmā tassa puggalassa sabbe te dhammā aniṭṭhāya…pe… saṃvattantīti yojanā.
Vì tà kiến là xấu ác, nên tất cả những pháp ấy đối với người ấy đều dẫn đến điều bất lợi,… dẫn đến đau khổ, đó là cách lý giải.
Purimassevāti tittakapadasseva.
“Purimasseva” nghĩa là từ “tittaka” (chua chát).
Tittakaṃ kaṭukanti ca ubhayaṃ idha aniṭṭhapariyāyaṃ daṭṭhabbaṃ ‘‘pacchā te kaṭukaṃ bhavissatī’’tiādīsu viya.
“Tittaka” (chua) và “kaṭuka” (đắng) cả hai đều cần được hiểu theo nghĩa bất lợi ở đây, giống như trong câu “sau này nó sẽ trở nên đắng ngắt đối với ngươi” v.v…
Amboyanti ambo ayaṃ.
“Ambo” nghĩa là trái xoài.
Tameva pūjanti tameva pubbe laddhaparisiñcanadānādipūjaṃ.
Họ tôn thờ chính nó, trước đây đã nhận được sự tôn kính bằng cách tưới nước và cúng dường v.v…
Nivesareti pavisiṃsu.
“Nivesareti” nghĩa là họ đã đi vào.
Asātasannivāsenāti amadhuranimbamūlasaṃsaggena.
“Do sống gần gũi điều khó chịu” nghĩa là do tiếp xúc với rễ xoài không ngọt.
Taṃ pana paṭikkhipitvā…pe… vuttanti sabbāpi micchādiṭṭhi ekantasāvajjattā aniṭṭhāya dukkhāya saṃvattatīti adhippāyena vuttaṃ.
Tuy nhiên, sau khi bác bỏ điều đó,… đã nói rằng tất cả tà kiến đều hoàn toàn có lỗi, dẫn đến điều bất lợi và đau khổ, đó là ý nghĩa chính.
Anantarasutteti dasamasutte.
“Anantarasutta” nghĩa là bài kinh thứ mười.
Yojetvā veditabbānīti navamasutte viya yojetvā veditabbāni.
“Sau khi liên kết, cần được hiểu” nghĩa là giống như trong bài kinh thứ chín, sau khi liên kết, cần được hiểu.
Cittaṭṭhapanāva patthanāti ettha paṇidhi cāti vattabbaṃ.
“Định hướng của tâm chính là khát vọng” nghĩa là trong trường hợp này, cần nói rằng “ý nguyện.”
Dutiyavaggavaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần giải thích Chương Thứ Hai đã kết thúc.
(16) 3. Ekadhammapāḷi-tatiyavaggavaṇṇanā
Phần Giải Thích Chương Thứ Ba của Kinh Một Pháp.
308. Tatiyassa paṭhame ayāthāvadiṭṭhikoti aniccādibhāvesu dhammesu niccātiādinā uppannadiṭṭhiko.
Trong phần thứ ba này, “người có tà kiến sai lạc” là người có quan điểm sai lầm như xem các pháp vô thường v.v… là thường còn v.v…
Tenāha – ‘‘tāyeva micchādiṭṭhiyā viparītadassano’’ti saddhammāti ettha santo pasattho sundaro dhammo, yo manussadhammotipi vuccati.
Do đó nói rằng “người có tà kiến ấy là kẻ thấy ngược lại,” và “saddhamma” ở đây nghĩa là pháp chân chánh, tốt đẹp, cao quý, được gọi là pháp của loài người.
Tato hi micchādiṭṭhiko paraṃ vuṭṭhāpeyya, na ariyadhammato.
Vì vậy, người có tà kiến cần vượt qua trạng thái thấp kém, không phải vượt qua pháp của bậc Thánh.
Tenāha – ‘‘dasakusalakammapathadhammato’’ti.
Do đó nói rằng “từ mười con đường thiện nghiệp.”
Evarūpāti iminā pāthikaputtādike saṅgaṇhāti.
“Evarūpa” nghĩa là bao gồm những người như Pāthikaputta v.v…
309. Sabbaññubodhisattoti sabbaññubhāgī bodhisatto.
“Sabbaññubodhisatta” nghĩa là vị Bồ-tát sẽ thành tựu trí tuệ toàn diện.
Ādi-saddena pūritapāramikā paccekabodhisattā ekaccasāvakabodhisattā ca saṅgayhanti.
Từ chữ “ādi” (đầu tiên), những vị Bồ-tát đã hoàn thành các pháp Ba-la-mật, bao gồm cả Bồ-tát Độc Giác và một số Bồ-tát Thanh Văn, được gộp chung.
310. Paramāti mahāsāvajjabhāvena paramā, ukkaṃsagatāti attho.
“Parama” nghĩa là cực kỳ tai hại, đạt đến mức tối thượng.
Tesanti ānantariyakammānaṃ.
“Tesanti” nghĩa là các nghiệp quả ngay lập tức.
Paricchedoti vipākavasena pariyosānaṃ.
“Pariccheda” nghĩa là sự kết thúc dựa trên quả báo.
Vaṭṭassa mūlaṃ, tato taṃsamaṅgīpuggalo vaṭṭassa khāṇūti vuccati.
Gốc rễ của bánh xe luân hồi, và từ đó, chúng sinh thuộc loại tái sinh liên tục được gọi là “khâu nối của bánh xe luân hồi.”
Tenāha – ‘‘tāyā’’tiādi.
Do đó nói rằng “bởi tà kiến ấy” v.v…
Tañce gāhaṃ na vissajjeti, tassa punapi tabbhāvāvahattā vuttaṃ – ‘‘bhavato vuṭṭhānaṃ natthī’’ti, na pana sabbaso vuṭṭhānassa abhāvato.
Nếu người ấy không buông bỏ tà kiến, thì do bản chất tái sinh của mình, đã nói rằng “không có sự thoát khỏi kiếp sống này,” nhưng không phải là hoàn toàn không có sự giải thoát.
Yādise hi paccaye paṭicca ayaṃ taṃ dassanaṃ okkanto puna kadāci tappaṭipakkhe paccaye paṭicca tato sīsukkhipanamassa na hotīti na vattabbaṃ.
Vì rằng, khi nhờ vào điều kiện nào mà tà kiến ấy khởi lên, rồi sau đó, nhờ vào điều kiện trái ngược, việc cúi đầu quy phục không thể xảy ra, điều đó không nên được nói.
Akusalañhi nāmetaṃ abalaṃ dubbalaṃ, na kusalaṃ viya mahābalaṃ.
Vì ác pháp không yếu ớt hay bất lực, cũng không giống như thiện pháp mạnh mẽ.
Aññathā sammattaniyāmo viya micchattaniyāmopi accantiko siyā, na ca micchattaniyāmo accantiko.
Khác với dòng chảy chắc chắn của chánh kiến, dòng chảy chắc chắn của tà kiến cũng có thể tồn tại, nhưng dòng chảy của tà kiến không phải là tuyệt đối.
Teneva papañcasūdaniyaṃ (ma. ni. aṭṭha. 2.100) –
Do đó, trong sách Papañcasūdani (Chú giải Trung Bộ Kinh, 2.100), đã nói:
‘‘Kiṃ panesa ekasmiṃyeva attabhāve niyato hoti, udāhu aññasmimpīti? Ekasmiṃyeva niyato, āsevanavasena bhavantarepi taṃ diṭṭhiṃ roceti evā’’ti –
“Người ấy có bị ràng buộc trong một thân phận duy nhất hay không, hay cũng có thể trong thân phận khác? Chỉ bị ràng buộc trong một thân phận, vì dù tái sinh trong các đời khác, vẫn yêu thích tà kiến ấy.”
Vuttaṃ. Tatoyeva ca sumaṅgalavilāsiniyampi (dī. ni. aṭṭha. 1.170-172) vuttaṃ –
Đã được nói. Và trong sách Sumaṅgalavilāsinī (Chú giải Trường Bộ Kinh, 1.170-172), cũng đã nói:
‘‘Ye vā pana tesaṃ laddhiṃ gahetvā rattiṭṭhāne divāṭṭhāne nisinnā sajjhāyanti vīmaṃsanti, tesaṃ ‘karoto na karīyati pāpaṃ, natthi hetu, natthi paccayo, mato ucchijjatī’ti tasmiṃ ārammaṇe micchāsati santiṭṭhati, cittaṃ ekaggaṃ hoti, javanāni javanti.
“Những ai nắm giữ tà kiến ấy, ngồi vào ban đêm hoặc ban ngày để tụng đọc và suy xét, đối với họ, tà niệm như ‘người làm ác không tạo ác, không có nguyên nhân, không có điều kiện, người chết là hết’ kiên cố trụ vững, tâm trở nên nhất điểm, và các sát-na tâm hành động (javana) khởi lên.”
Paṭhamajavane satekicchā honti, tathā dutiyādīsu.
Trong sát-na tâm hành động đầu tiên, có sự khó khăn, và tương tự trong các sát-na tiếp theo.
Sattame buddhānampi atekicchā anivattino ariṭṭhakaṇṭakasadisā, tattha koci ekaṃ dassanaṃ okkamati, koci dve, koci tīṇipi, ekasmiṃ okkantepi dvīsu tīsu okkantesupi niyatamicchādiṭṭhikova hoti.
Ở lần thứ bảy, ngay cả đối với các Đức Phật, không còn khó khăn, không thể quay lui, giống như cây gai nhọn; trong đó, có người chỉ bước vào một lần, có người hai lần, có người ba lần; dù chỉ bước vào một lần hay nhiều lần, người ấy vẫn là người có tà kiến cố định.
Patto saggamaggāvaraṇañceva mokkhamaggāvaraṇañca, abhabbo tassattabhāvassa anantaraṃ saggampi gantuṃ, pageva mokkhaṃ, vaṭṭakhāṇu nāmesa satto pathavigopako, yebhuyyena evarūpassa bhavato vuṭṭhānaṃ natthī’’ti.
Người ấy đạt đến sự ngăn che con đường dẫn đến cõi trời và sự ngăn che con đường giải thoát, không có khả năng ngay lập tức đi đến cõi trời, huống chi là giải thoát; chúng sinh ấy, được gọi là “khâu nối của bánh xe luân hồi,” thường là kẻ hầu hạ đất, và hầu như không có sự thoát khỏi kiếp sống này.”
Piṭṭhicakkavāḷeti jhāyamānacakkavāḷassa parato ekasmiṃ okāse.
“Piṭṭhicakkavāḷa” nghĩa là một vùng nằm ngoài vòng cung đang cháy.
Yaṃ jhāyamānānaṃ ajjhāyamānānañca cakkavāḷānamantaraṃ, yattha lokantarikanirayasamaññā, tādise ekasmiṃ okāse.
Đó là khoảng giữa các vòng cung đang cháy và cháy dữ dội, nơi được gọi là địa ngục Lokantarika, thuộc loại như vậy tại một nơi.
Paccatiyevāti cakkavāḷe jhāyamāne ajjhāyamānepi attano kammabalena paccatiyeva.
“Hoàn toàn rơi vào” nghĩa là dù vòng cung đang cháy hay cháy dữ dội, do nghiệp lực của chính mình mà người ấy hoàn toàn rơi vào.
311. Catutthe ‘‘mā khalī’’ti vacanaṃ upādāya evaṃladdhanāmoti taṃ kira sakaddamāya bhūmiyā telaghaṭaṃ gahetvā gacchantaṃ, ‘‘tāta, mā khalī’’ti sāmiko āha.
Trong phần thứ tư, dựa vào lời nói “đừng trượt,” tên của vị ấy được đặt là Evam-laddha-nāma (Người Được Như Vậy). Câu chuyện kể rằng: khi một người hầu đang mang bình dầu từ đất Sakka đi, chủ nhân nói với anh ta: “Này con, đừng trượt.”
So pamādena khalitvā patitvā sāmikassa bhayena palāyituṃ āraddho.
Do bất cẩn, anh ta trượt, té ngã, và vì sợ hãi chủ nhân, anh ta định chạy trốn.
Sāmiko upadhāvitvā sāṭakakaṇṇe aggahesi.
Chủ nhân đuổi theo và nắm lấy tà áo của anh ta.
So sāṭakaṃ chaḍḍetvā acelako hutvā palāto paṇṇena vā tiṇena vā paṭicchādetumpi ajānanto jātarūpeneva ekaṃ gāmaṃ pāvisi.
Anh ta bỏ lại tà áo, trở thành kẻ không mặc y phục, rồi chạy thoát, không biết dùng lá hay cỏ để che thân, nhưng cuối cùng đã bước vào một ngôi làng với thân thể trần truồng.
Manussā taṃ disvā ‘‘ayaṃ samaṇo arahā appiccho, natthi iminā sadiso’’ti pūvabhattādīni gahetvā upasaṅkamitvā ‘‘mayhaṃ sāṭakaṃ anivatthabhāvena idaṃ uppanna’’nti tato paṭṭhāya sāṭakaṃ labhitvāpi na nivāsesi, tadeva ca pabbajjaṃ aggahesi.
Người dân thấy anh ta và nghĩ: “Đây là một vị Sa-môn A-la-hán, ít ham muốn, không ai sánh bằng.” Họ mang cơm và các đồ cúng dường đến gần anh ta, và nói: “Đây là tấm y của tôi, xin hãy nhận.” Từ đó trở đi, dù có nhận được y phục, anh ta cũng không mặc, mà chỉ chấp nhận sự xuất gia.
Tassa santike aññepi aññepīti pañcasatā manussā pabbajiṃsu.
Trước sự hiện diện của anh ta, năm trăm người khác cũng đã xuất gia.
Taṃ sandhāyetaṃ vuttaṃ – ‘‘mā khalīti vacanaṃ upādāya evaṃladdhanāmo titthakaro’’ti.
Liên hệ đến câu chuyện này, đã nói rằng: “Dựa vào lời nói ‘đừng trượt,’ tên của vị ấy được đặt là Titthakara.”
Samāgataṭṭhāneti dvinnaṃ nadīnaṃ udakappavāhassa sannipātaṭṭhāne.
“Samāgataṭṭhāna” nghĩa là nơi hai dòng sông gặp nhau.
Dvinnaṃ udakānanti dvinnaṃ udakappavāhānaṃ.
“Hai nguồn nước” nghĩa là hai dòng chảy của nước.
Yathāvuttaṭṭhāne macchaggahaṇatthaṃ khipitabbato khippaṃ, kuminaṃ, tadeva idha khippanti vuttaṃ.
Tại nơi đã nói, để bắt cá cần phải thả lưới nhanh chóng; “khippa” ở đây nghĩa là nhanh chóng.
Tenāha – ‘‘kumina’’nti.
Do đó nói rằng “kumina.”
Ucchūhīti udakaucchūhi.
“Ucchūhi” nghĩa là bọt nước.
Tucchapuriso ariyadhammābhāvato.
Người thấp kém là người không có pháp của bậc Thánh.
Jhānamattampi hi tassa nattheva, kuto ariyamaggo.
Vì ngay cả thiền định sơ đẳng cũng không có, huống chi là con đường của bậc Thánh.
Manussakhippaṃ maññeti manussā patitvā byasanappattiatthaṃ oṭṭitaṃ kuminaṃ viya.
Người đời nghĩ rằng “con cá của loài người” giống như một con cá bị mắc cạn sau khi rơi xuống, gặp tai họa và bị mắc kẹt.
Tenāha – ‘‘mahājanassā’’tiādi.
Do đó nói rằng “đối với quần chúng” v.v…
312. Pañcamādīsu bāhirakasāsananti avisesena vuttaṃ – tassa sabbassapi aniyyānikattā satthupaṭiññassapi asabbaññubhāvato.
Trong các phần từ thứ năm trở đi, “giáo lý bên ngoài” được nói riêng biệt – vì tất cả những giáo lý này đều không dẫn đến giải thoát và vị thầy của họ cũng không phải là bậc toàn trí.
Tenāha – ‘‘tattha hī’’tiādi.
Do đó nói rằng “ở đó thật thấp kém” v.v…
Gaṇoti sāvakagaṇo.
“Gaṇa” nghĩa là hội chúng đệ tử.
Tathābhāvāyāti ācariyena vuttākāratāya samaṅgibhāvatthaṃ.
“Tathābhāva” nghĩa là trạng thái hoàn hảo theo cách mà vị thầy đã dạy.
Jaṅghasatanti bahū aneke satte.
“Jaṅghasata” nghĩa là rất nhiều, vô số chúng sinh.
Samakameva akusalaṃ pāpuṇātīti tesaṃ sabbesaṃ ekajjhaṃ samādapanepi tesaṃ akusalena samakameva akusalaṃ pāpuṇāti ekajjhaṃ bahūnaṃ samādapanepi tathā ussahanassa balavabhāvato.
“Hoàn toàn cùng nhau đạt được ác pháp,” nghĩa là dù tất cả họ cùng bị đọa vào một nơi hay bị trừng phạt chung do ác nghiệp của mình, thì sự nỗ lực của họ vẫn mạnh mẽ như vậy.
Visuṃ visuṃ samādapane vattabbameva natthi.
Không nên nói rằng họ bị thúc giục riêng lẻ.
Yathā hi dhammacariyāyaṃ samakamevāti vattabbā kalyāṇamittatā, evaṃ adhammacariyāyaṃ akalyāṇamittatāti.
Vì rằng trong việc thực hành theo Chánh pháp cần nói rằng “hoàn toàn nhờ thiện tri thức,” tương tự, trong việc thực hành phi pháp, cần nói rằng “do ác tri thức.”
313. Suṭṭhu akkhāteti ekantato niyyānikabhāvena akkhāte.
“Được thuyết giảng rõ ràng” nghĩa là được giảng giải hoàn toàn với ý nghĩa dẫn đến giải thoát.
Satthā ca sabbaññū hotīti asabbaññuno niyyānikabhāvena kathetuṃ asakkuṇeyyattā.
“Đức Thế Tôn là bậc toàn trí,” nên không thể giảng giải bằng cách so sánh với người không toàn trí nhưng có khả năng dẫn dắt.
Dhammo ca svākkhāto sammāsambuddhappaveditattā.
“Pháp được thuyết giảng tốt đẹp” vì do Đức Phật Chánh Đẳng Giác thuyết giảng.
Gaṇo ca suppaṭipanno satthārā suvinītattā.
“Hội chúng thực hành tốt đẹp” vì được vị thầy khéo léo hướng dẫn.
Samādapako hītiādi suppaṭipattiyā nidassanaṃ daṭṭhabbaṃ.
“Cách thúc giục thấp kém” v.v… cần được hiểu qua sự trình bày về thực hành tốt đẹp.
314. Pamāṇaṃ jānitabbanti ‘‘ayaṃ ettakena yāpeti, imassa ettakaṃ dātuṃ yutta’’nti evaṃ pamāṇaṃ jānitabbaṃ.
“Phải biết giới hạn” nghĩa là “người này cần được giúp đỡ bằng cách này, và điều này phù hợp để cho,” như vậy giới hạn cần được hiểu.
Atireke…pe… nibbānasampatti vā natthi durakkhātattā dhammassa.
Vì đặc tính khó nắm bắt của pháp, không có sự thành tựu nào vượt quá hoặc đạt đến Niết-bàn.
Tassāti paṭiggāhakassa.
“Tassa” nghĩa là người nhận.
Appicchapaṭipadā nāma natthi durakkhāte dhammavinayeti adhippāyo.
Ý nghĩa chính là: “con đường ít ham muốn” không tồn tại trong pháp và luật khó nắm bắt.
315. Dāyakassavaso nāma uḷāruḷāratābhedo ajjhāsayo.
“Ý muốn của người bố thí” được phân loại theo mức độ cao quý hoặc thấp kém của động cơ.
Deyyadhammassa pana thokabahutāva deyyadhammassa vaso nāma.
Tuy nhiên, “giới hạn của vật thí” được xác định bởi số lượng ít hay nhiều của vật thí.
Attano thāmoti yāpanappamāṇaṃ.
“Độ dài của chính mình” nghĩa là giới hạn để duy trì sự sống.
Yadi hītiādi ‘‘katha’’ntiādinā saṅkhepato vuttassa atthassa vivaraṇaṃ.
Nếu có câu hỏi như “tại sao,” thì đây là phần giải thích chi tiết ý nghĩa đã được nói tóm tắt bằng các từ như “katha” v.v…
Anuppannassāti anuppanno assa puggalassa.
“Chưa phát sinh” nghĩa là đối với người chưa xuất hiện.
Cakkhubhūto hotīti mahājanassa cakkhu viya hoti.
“Trở thành con mắt” nghĩa là giống như con mắt của quần chúng.
Sāsanaṃ ciraṭṭhititaṃ karotīti anuppannalābhuppādanena mahājanassa pasāduppādanena ca ciraṭṭhitikaṃ karoti.
“Làm cho giáo pháp tồn tại lâu dài” nghĩa là thông qua việc tạo ra lợi ích chưa phát sinh và làm phát sinh niềm tin nơi quần chúng mà giáo pháp được duy trì lâu dài.
Kuṭumbariyavihāreti kuṭumbariyagāmasannissitavihāre.
“Kuṭumbariya Vihāra” nghĩa là tu viện gắn liền với làng Kuṭumbariya.
Bhuñjanatthāyāti tasmiṃyeva gehe nisīditvā bhuñjanatthāya.
“Để dùng bữa” nghĩa là ngồi ngay trong ngôi nhà ấy để ăn.
Gahetvā gamanatthāyāti gehato bahi gahetvā gamanatthāya.
“Mang theo để đi” nghĩa là mang ra khỏi nhà để sử dụng khi đi đường.
Dhurabhattānīti niccabhattāni.
“Dhurabhatta” nghĩa là những bữa ăn thường xuyên.
Cūḷupaṭṭhākanti veyyāvaccakaraṃ.
“Cūḷupaṭṭhāka” nghĩa là người giúp việc.
Vīmaṃsitvāti yathā uddissa kataṃ na hoti, evaṃ vīmaṃsitvā.
“Sau khi suy xét” nghĩa là sau khi xem xét kỹ lưỡng rằng điều này không được làm vì mục đích đó.
Mahājano appiccho bhavituṃ maññatīti mahājano sayaṃ appiccho bhavituṃ maññati diṭṭhānugatiṃ āpajjanena.
“Quần chúng nghĩ rằng họ nên trở thành ít ham muốn” nghĩa là quần chúng tự nghĩ rằng họ nên trở thành ít ham muốn do đi theo quan điểm đã thấy.
Mahājanassāti bahujanassa.
“Mahājano” nghĩa là đa số người.
Avattharitvāti vitthārikaṃ katvā.
“Giải rộng ra” nghĩa là làm cho chi tiết hơn.
316. Pañcātapatappanaṃ catūsu passesu aggisantāpassa upari sūriyasantāpassa ca tappanaṃ, tañca kho gimhakāle.
“Năm lần phơi nắng” nghĩa là bốn phía bị ánh mặt trời thiêu đốt, thêm vào đó là ngọn lửa trên cao, và điều này xảy ra vào mùa nóng.
Chinnappapātapabbatasikharato patanaṃ maruppapātapatanaṃ.
“Sự rơi xuống từ đỉnh núi bị cắt đứt” nghĩa là sự rơi xuống từ đỉnh núi Maru.
Pubbaṇhādīsu ādiccābhimukhāvaṭṭanaṃ ādiccānuparivattanaṃ.
Vào buổi sáng sớm v.v…, chuyển động hướng về phía mặt trời mọc và xoay quanh mặt trời.
317. Ayampīti svākkhāte dhammavinaye kusītopi.
“Ayanpi” nghĩa là ngay cả người biếng nhác trong giáo pháp và giới luật được thuyết giảng tốt đẹp.
Sāmaññanti tapacaraṇaṃ.
“Sāmañña” nghĩa là thực hành khổ hạnh và rèn luyện.
Dupparāmaṭṭhanti micchācaritaṃ saṃkiliṭṭhaṃ.
“Khó đạt được trạng thái an trú” nghĩa là hành vi sai lầm và ô nhiễm.
Nirayāyupakaḍḍhatīti nirayadukkhāya naṃ kaḍḍhati.
“Đưa đến địa ngục” nghĩa là kéo người ấy vào nỗi khổ của địa ngục.
318. Vuttappakāreti pañcātapatappanādike vuttappakāre.
“Vuttappakāra” nghĩa là các phương thức đã được mô tả như năm lần phơi nắng v.v…
319. Evanti vuttappakārāya cittappasādavhayasuppaṭipattiyā.
“Evaṃ” nghĩa là nhờ các phương thức đã nói mà tâm đạt được sự thanh tịnh và thực hành tốt đẹp.
Tena samaṇadhammakaraṇasukhañca saṅgaṇhāti.
Do đó, niềm hạnh phúc trong việc thực hành pháp của Sa-môn cũng được bao gồm.
320. Navakanipāteti imasmiṃyeva aṅguttaranikāye vakkhamānaṃ navakanipātaṃ sandhāyāha.
“Navakanipāta” nghĩa là chương chín pháp trong chính bộ A-hàm này (Aṅguttara Nikāya), được đề cập ở đây.
Nava puggalāti sattakkhattuparamakolaṃkolādayo nava puggalā.
“Chín hạng người” nghĩa là chín hạng người như Sattakkhattuparama, Kolaṃkola v.v…
Sabbatthāti imasmiṃ sutte vuttāvasiṭṭhesu sabbesu suttesu.
“Sabbattha” nghĩa là trong tất cả các bài kinh đã được nói đến trong bài kinh này và những bài kinh còn lại.
Tatiyavaggavaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần giải thích Chương Thứ Ba đã kết thúc.
(16) 4. Ekadhammapāḷi-catutthavaggavaṇṇanā
Phần Giải Thích Chương Thứ Tư của Kinh Một Pháp.
322. Catutthassa paṭhame saññāṇabhūtāti upalakkhaṇabhūtā.
Trong phần đầu của chương thứ tư, “saññāṇabhūta” nghĩa là thuộc về đặc tính phụ trợ.
Pañcadasayojanāvaṭṭakkhandhāti pañcadasayojanakkhandhaparikkhepā.
“Pañcadasayojanāvaṭṭakkhandha” nghĩa là bao gồm mười lăm đoạn yojana (đơn vị đo khoảng cách) trong phạm vi các khối (kkhandha).
Yathā cāti ca-saddena kadambarukkhādīnaṃ kappaṭṭhāyibhāvaṃ viya yojanasatubbedhādibhāvaṃ samuccinoti, na pana jambuyā jambudīpassa viya tehi aparagoyānādīnaṃ saññāṇabhāvaṃ.
“Yathā ca” với từ “ca” tóm lược ý nghĩa như trạng thái trụ vững của cây kadamba v.v…, giống như trạng thái của cây cầu dài một yojana hoặc chiều rộng của nó, chứ không phải ý nghĩa nhận thức liên quan đến Jambu và Jambudīpa đối với các vùng đất khác như Aparagoyāna v.v…
Rāmaṇeyyakanti ramaṇīyabhāvaṃ.
“Rāmaṇeyyaka” nghĩa là trạng thái đáng yêu thích.
Sesapadesūti vanarāmaṇeyyakādipadesu.
“Sesapadesu” nghĩa là những nơi như rừng đáng yêu thích v.v…
Uggataṃ kūlaṃ ussitabhāvo etassāti ukkūlaṃ, vigataṃ apagataṃ kūlaṃ etassāti vikūlanti āha – ‘‘unnataṭṭhānaṃ ninnaṭṭhāna’’nti ca.
“Bờ cao” nghĩa là trạng thái nổi lên, được gọi là “ukkūla”; “bờ thấp” nghĩa là bờ đã biến mất, được gọi là “vikūla,” cũng như “nơi cao” và “nơi thấp.”
Nandiyāvaṭṭamacchapiṭṭhenevāti kujjakakulisakamacchasaṅghātapiṭṭheneva.
“Nandiya’s fish pond” nghĩa là bề mặt đầy các loài cá tụ tập như cá kujjaka và kulisa.
323. Dutiyādīsu cattāro apāyā aññatra manussehīti adhippetā, na devā aññatra manussehīti hīnāya jātiyā adhippetattā.
Trong các phần từ thứ hai trở đi, “bốn đường ác” được nói đến ngoại trừ loài người; nhưng không phải chư thiên, vì ý nghĩa chính là loại bỏ sự hạ liệt của kiếp sinh.
Upādāyupādāyāpi majjhimadeso labbhati, yattha gati bhikkhūnaṃ bhikkhunīnaṃ upāsakānaṃ upāsikānaṃ aññesampi kammavādikiriyavādiviññujātikānaṃ, yo patirūpadesoti vuccati.
Ngay cả khi dựa vào “upādāya” (sự chấp thủ), khu vực trung tâm (majjhimadesa) vẫn được tìm thấy, nơi mà các vị Tỳ-khưu, Tỳ-khưu-ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ, và những người thuộc các nghiệp khác nhau như hành động, nghi lễ, v.v… đều có thể đi đến, được gọi là “nơi thích hợp.”
Tenāha – ‘‘sakalopi hī’’tiādi.
Do đó nói rằng “toàn bộ cũng vậy” v.v…
324. Eḷāti doso.
“Eḷa” nghĩa là lỗi lầm.
Tenāha – ‘‘niddosamukhāti attho’’ti.
Do đó nói rằng “ý nghĩa là nguồn gốc của sự không lỗi lầm.”
326. Tathāgatassa guṇe jānitvā cakkhunāpi dassanaṃ dassanameva, ajānitvā pana dassanaṃ tiracchānagatānampi hotiyevāti āha – ‘‘ye tathāgatassa guṇe jānitvā’’tiādi.
Sau khi nhận biết các đức tính của Đức Phật, việc thấy bằng mắt cũng chính là thấy; tuy nhiên, nếu không nhận biết, thì việc thấy ấy chỉ giống như việc thấy của loài bốn chân mà thôi. Do đó nói rằng: “Những ai đã nhận biết các đức tính của Đức Phật…”
327. Pakāsetvā kathitanti saccāni pakāsetvā kathitaṃ.
“Đã trình bày và giảng giải” nghĩa là các sự thật đã được làm rõ và giảng dạy.
328. Sutānaṃ dhammānaṃ asammoso dhāraṇanti āha – ‘‘dhārentīti na pammussantī’’ti.
“Không quên lãng các pháp đã nghe” nghĩa là ghi nhớ; do đó nói rằng: “ghi nhớ nghĩa là không quên lãng.”
329. Atthānatthaṃ upaparikkhantīti ‘‘ayaṃ imissā pāḷiyā attho, ayaṃ na attho’’ti atthānatthaṃ upaparikkhanti.
“Khảo sát ý nghĩa và phi ý nghĩa” nghĩa là xem xét kỹ lưỡng: “Đây là ý nghĩa của đoạn kinh này, đây không phải là ý nghĩa.”
Anatthaparihārena hi atthaggahaṇaṃ yathā adhammaparivajjanena dhammappaṭipatti.
Vì rằng việc nắm bắt ý nghĩa đúng đắn được thực hiện bằng cách loại bỏ những điều vô ích, giống như việc thực hành pháp bằng cách tránh xa phi pháp.
330. Anulomapaṭipadanti nibbānassa anulomikaṃ paṭipadaṃ.
“Con đường thuận theo” nghĩa là con đường dẫn đến Niết-bàn một cách hài hòa.
331. Saṃvegajanakesukāraṇesūti saṃvegajanakesu jātiādīsu kāraṇesu.
“Nguyên nhân gây ra sự xúc động” nghĩa là các nguyên nhân như sinh v.v… làm phát sinh sự xúc động.
Saṃvejanīyesu ṭhānesu sahottappañāṇaṃ saṃvego.
Tại những nơi đáng để xúc động, sự xúc động cùng với lòng sợ hãi về hậu quả xấu ác được sinh khởi.
332. Upāyenāti yena upāyena vaṭṭūpacchedo, tena upāyena.
“Upāya” nghĩa là phương tiện; phương tiện nào cắt đứt bánh xe luân hồi, thì chính phương tiện ấy.
Padhānavīriyaṃ karontīti sammappadhānasaṅkhātaṃ vīriyaṃ karonti uppādenti.
“Làm ra nỗ lực tinh tấn” nghĩa là tạo ra và khơi dậy tinh tấn được gọi là “sammappadhāna” (bốn nỗ lực đúng đắn).
333. Vavassajīyanti vissajjīyanti ettha saṅkhārāti vavassaggo, asaṅkhatā dhātūti āha – ‘‘vavassaggo vuccati nibbāna’’nti.
“Được buông bỏ” nghĩa là được từ bỏ; trong trường hợp này, sự buông bỏ các hành (saṅkhāra) được gọi là “vavassagga,” tức yếu tố vô vi. Do đó nói rằng: “Vavassagga được gọi là Niết-bàn.”
334. Uttamannānanti uttamānaṃ pañcannaṃ bhojanānaṃ.
“Uttamannā” nghĩa là năm loại thực phẩm cao quý nhất.
Uttamarasānanti uttamānaṃ rasānaṃ.
“Uttamarasā” nghĩa là các hương vị cao quý nhất.
Uñchācārenāti uñchācariyāya kassaci apariggahabhūtassa kiñci ayācitvā gahaṇaṃ uñchācāro.
“Uñchācāra” nghĩa là lối sống không tích lũy, không cầu xin mà chỉ lấy những gì không bị sở hữu bởi ai khác.
Ettha cātiādinā annādīnaṃ aggabhāvo nāma manāpaparamo icchitakkhaṇalābho, na tesaṃ lābhitāmattanti dasseti.
Trong trường hợp này, từ “cāti” v.v… chỉ rằng trạng thái tối thượng của các loại thực phẩm như cơm v.v… là đạt được vào thời điểm mong muốn và thích hợp, chứ không phải chỉ đơn thuần là đã nhận được chúng.
Paṭilabhantīti denti paṇītabhāvena.
“Paṭilabhantī” nghĩa là họ cho đi với tâm trong sáng.
Bhattassa ekapātīti ekapātipūraṃ bhattaṃ.
“Bhattassa ekapāti” nghĩa là bữa ăn đầy đủ một lần.
Idaṃ kiṃ nāmāti ‘‘idaṃ annaggarasaggaṃ nāma hoti, na hotī’’ti pucchati.
“Điều này có tên là gì?” – câu hỏi đặt ra: “Cái này có tên là thức ăn thượng hạng hay không?”
Uñchena kapālābhatenāti missakabhattena.
“Uñchena kapālābhata” nghĩa là hỗn hợp thức ăn.
Yāpenteti yāpanasīsena yāpanahetuṃ bhattaṃ vadati.
“Yāpenteti” nghĩa là nói về bữa ăn nhằm mục đích nuôi dưỡng sự sống.
Upādāya aggarasaṃ nāmāti taṃ taṃ upādāyupādāya annaggarasaggaṃ daṭṭhabbanti dasseti.
“Dựa vào hương vị cao quý” nghĩa là cần thấy rằng thức ăn và hương vị cao quý ấy được nhận biết khi dựa vào từng yếu tố cụ thể.
Cakkavattiāhārato hi cātumahārājikānaṃ āhāro aggoti evaṃ yāva paranimmitavasavattidevā netabbaṃ.
Vì rằng thức ăn của Chuyển Luân Thánh Vương được coi là tối thượng so với thức ăn của Tứ Đại Thiên Vương, tương tự như vậy nên hiểu cho đến chư thiên Paranimmitavasavatti.
335. Attharaso nāma cattāri sāmaññaphalāni ‘‘ariyamaggānaṃ phalabhūto raso’’ti katvā.
“Attharasa” nghĩa là bốn quả Sa-môn, được xem như hương vị của kết quả từ con đường cao quý.
Dhammaraso nāma cattāro maggā ‘‘sāmaññaphalassa hetubhūto raso’’ti katvā.
“Dhammarasa” nghĩa là bốn con đường, được xem như hương vị nguyên nhân dẫn đến quả Sa-môn.
Vimuttiraso nāma amataṃ nibbānaṃ ‘‘sabbasaṅkhārasamatho’’ti katvā.
“Vimuttirasa” nghĩa là Niết-bàn bất tử, được xem như sự an tịnh của tất cả các hành.
Catutthavaggavaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần giải thích Chương Thứ Tư đã kết thúc.
Jambudīpapeyyālo niṭṭhito.
Phẩm Đất Liền (Diêm-phù-đề) đã hoàn thành.