4. Nissaggiyakaṇḍaṃ
4. Chương Ưng Xả Đối Trị
1. Cīvaravaggo
1. Phẩm Y Phục
1. Paṭhamakathinasikkhāpadavaṇṇanā
1. Giải Thích giới Kathina Đầu Tiên
Tiṃsa nissaggiyā dhammā, ye vuttā samitāvinā;
Ba mươi pháp ưng xả đối trị, đã được đức Phật giảng dạy;
Tesaṃ dāni karissāmi, apubbapadavaṇṇanaṃ.
Nay tôi sẽ thực hiện việc giải thích từng điều một theo thứ tự.
459. Tena samayena buddho bhagavā vesāliyaṃ viharati gotamake cetiye. Tena kho pana samayena bhagavatā bhikkhūnaṃ ticīvaraṃ anuññātaṃ hotīti ettha ticīvaranti antaravāsako uttarāsaṅgo saṅghāṭīti idaṃ cīvarattayaṃ paribhuñjituṃ anuññātaṃ hoti. Yattha panetaṃ anuññātaṃ, yadā ca anuññātaṃ, yena ca kāraṇena anuññātaṃ, taṃ sabbaṃ cīvarakkhandhake jīvakavatthusmiṃ (mahāva. 326 ādayo) āgatameva. Aññeneva ticīvarena gāmaṃ pavisantīti yena vihāre acchanti nhānañca otaranti, tato aññena, evaṃ divase divase nava cīvarāni dhārenti.
459. Vào lúc bấy giờ, đức Thế Tôn đang trú tại tịnh xá Gotamaka ở Vesāli. Khi ấy, đức Thế Tôn đã cho phép các tỳ khưu sử dụng ba y. Ở đây, ba y gồm: y nội (antaravāsaka), y vai trái (uttarāsaṅga), và y tăng-già-lê (saṅghāṭī) – ba loại y này được phép sử dụng. Về việc này được cho phép vào thời điểm nào, vì lý do gì, tất cả đều đã được trình bày trong phần “Y phục” (Cīvarakkhandhaka) thuộc chuyện Jīvaka (Đại Phẩm 326). Họ vào làng với bộ y khác – nghĩa là họ mặc y khác (không phải y thường dùng) khi ở trong tịnh xá, khi tắm, và như vậy mỗi ngày họ mang nhiều bộ y mới.
460.Uppannaṃ hotīti anupaññattiyā dvāraṃ dadamānaṃ paṭilābhavasena uppannaṃ hoti, no nipphattivasena.
460.Được phát sinh có nghĩa là mở ra cánh cửa cho sự chưa được quy định, xét về mặt thu nhận thì được phát sinh, không phải về mặt hoàn thành.
Āyasmato sāriputtassa dātukāmo hotīti āyasmā kira ānando bhagavantaṃ ṭhapetvā añño evarūpo guṇavisiṭṭho puggalo natthīti guṇabahumānena āyasmantaṃ sāriputtaṃ atimamāyati. So sadāpi manāpaṃ cīvaraṃ labhitvā rajitvā kappabinduṃ datvā therasseva deti, purebhatte paṇītaṃ yāgukhajjakaṃ vā piṇḍapātaṃ vā labhitvāpi therasseva deti, pacchābhatte madhuphāṇitādīni labhitvāpi therasseva deti, upaṭṭhākakulehi dārake nikkhāmetvā pabbājetvāpi therassa santike upajjhaṃ gāhāpetvā sayaṃ anusāvanakammaṃ karoti. Āyasmāpi sāriputto ‘‘pitu kattabbakiccaṃ nāma jeṭṭhaputtassa bhāro, taṃ mayā bhagavato kattabbaṃ kiccaṃ ānando karoti, ahaṃ ānandaṃ nissāya appossukko viharituṃ labhāmī’’ti āyasmantaṃ ānandaṃ ativiya mamāyati, sopi manāpaṃ cīvaraṃ labhitvā ānandattherasseva detīti sabbaṃ purimasadisameva . Evaṃ guṇabahumānena mamāyanto tadā uppannampi taṃ cīvaraṃ āyasmato sāriputtassa dātukāmo hotīti veditabbo.
Có ý định dâng cho Tôn giả Sāriputta: Nghe nói Tôn giả Ānanda, do quá tôn trọng đức hạnh, xem rằng ngoài Đức Thế Tôn ra không có ai có đức hạnh đặc biệt như vậy nên rất quý trọng Tôn giả Sāriputta. Vị ấy thường nhận được y vải tốt, sau khi nhuộm và chấm tịnh thì dâng lên vị Trưởng lão, nhận được cháo ngon, bánh khô hoặc đồ khất thực ngon trước bữa ăn cũng dâng lên vị Trưởng lão, nhận được mật ong, đường phèn sau bữa ăn cũng dâng lên vị Trưởng lão, đối với các gia đình hộ độ thì đưa các thiếu niên xuất gia, sau khi cho thọ giới lại nhờ vị Trưởng lão làm thầy tế độ rồi tự mình làm lễ tuyên ngôn. Tôn giả Sāriputta cũng rất quý trọng Tôn giả Ānanda, nghĩ rằng: “Bổn phận của người con trưởng là phải phụng dưỡng cha, việc ấy đáng lẽ ta phải phụng sự Đức Thế Tôn, nhưng Tôn giả Ānanda đã làm thay, nhờ đó ta mới được sống an nhàn”, nên khi nhận được y vải tốt cũng dâng lại cho Trưởng lão Ānanda. Như vậy, do quá tôn trọng đức hạnh nên y phục phát sinh lúc ấy cũng muốn dâng cho Tôn giả Sāriputta, cần được hiểu như vậy.
Navamaṃ vā bhagavā divasaṃ dasamaṃ vāti ettha pana sace bhaveyya ‘‘kathaṃ thero jānātī’’ti? Bahūhi kāraṇehi jānāti. Sāriputtatthero kira janapadacārikaṃ pakkamanto ānandattheraṃ āpucchitvāva pakkamati ‘‘ahaṃ ettakena nāma kālena āgacchissāmi, etthantare bhagavantaṃ mā pamajjī’’ti. Sace sammukhā na āpucchati, bhikkhū pesetvāpi āpucchitvāva gacchati. Sace aññattha vassaṃ vasati, ye paṭhamataraṃ bhikkhū āgacchanti, te evaṃ pahiṇati ‘‘mama vacanena bhagavato ca pāde sirasā vandatha, ānandassa ca ārogyaṃ vatvā maṃ ‘asukadivase nāma āgamissatī’ti vadathā’’ti sadā ca yathāparicchinnadivaseyeva eti. Apicāyasmā ānando anumānenapi jānāti ‘‘ettake divase bhagavatā viyogaṃ sahanto adhivāsento āyasmā sāriputto vasi, ito dāni paṭṭhāya asukaṃ nāma divasaṃ na atikkamissati addhā āgamissatī’’ti. Yesaṃ yesañhi paññā mahatī tesaṃ tesaṃ bhagavati pemañca gāravo ca mahā hotīti iminā nayenāpi jānāti. Evaṃ bahūhi kāraṇehi jānāti. Tenāha – ‘‘navamaṃ vā bhagavā divasaṃ dasamaṃ vā’’ti. Evaṃ vutte yasmā idaṃ sikkhāpadaṃ paṇṇattivajjaṃ, na lokavajjaṃ; tasmā āyasmatā ānandena vuttasadisameva paricchedaṃ karonto ‘‘atha kho bhagavā…pe… dhāretu’’nti. Sace pana therena addhamāso vā māso vā uddiṭṭho abhavissa, sopi bhagavatā anuññāto assa.
Ngày thứ chín hoặc ngày thứ mười của Đức Thế Tôn: Ở đây, nếu có người hỏi: “Làm sao vị Trưởng lão biết được?” Thì nên hiểu là biết được bằng nhiều cách. Nghe nói Trưởng lão Sāriputta khi đi du hành trong xứ, luôn xin phép Trưởng lão Ānanda rồi mới đi và nói: “Tôi sẽ trở về vào khoảng thời gian như vậy, trong thời gian đó xin đừng lơ là với Đức Thế Tôn”. Nếu không gặp mặt để xin phép thì cũng nhờ các tỳ khưu chuyển lời xin phép rồi mới đi. Nếu an cư ở nơi khác, khi có các tỳ khưu đến trước thì gửi lời nhắn: “Theo lời tôi, hãy đảnh lễ dưới chân Đức Thế Tôn, chúc sức khỏe Ānanda và nói với ngài ấy rằng tôi sẽ về vào ngày như vậy”, và luôn trở về đúng ngày đã hẹn. Hơn nữa, Tôn giả Ānanda cũng biết bằng cách suy đoán rằng: “Tôn giả Sāriputta đã chịu đựng sự xa cách Đức Thế Tôn trong bao nhiêu ngày, từ nay trở đi chắc chắn sẽ về trong ngày như vậy chứ không quá ngày đó”. Vì đối với những ai có trí tuệ lớn thì lòng yêu kính và tôn trọng Đức Thế Tôn cũng lớn, nên biết được bằng cách này. Như vậy là biết được bằng nhiều cách. Do đó nói: “Ngày thứ chín hoặc ngày thứ mười của Đức Thế Tôn”. Khi nói như vậy, vì giới điều này thuộc về quy định chứ không phải thế tục, nên Tôn giả Ānanda cũng xác định thời hạn tương tự như đã nói: rồi Đức Thế Tôn… cho đến… nên giữ lại. Nếu Trưởng lão ấn định thời hạn nửa tháng hoặc một tháng thì Đức Thế Tôn cũng đã chấp thuận.
462-3.Niṭṭhitacīvarasminti yena kenaci niṭṭhānena niṭṭhite cīvarasmiṃ. Yasmā pana taṃ cīvaraṃ karaṇenapi niṭṭhitaṃ hoti, nassanādīhipi tasmāssa padabhājane atthamattameva dassetuṃ bhikkhuno cīvaraṃ kataṃ vā hotītiādi vuttaṃ. Tattha katanti sūcikammapariyosānena kataṃ, sūcikammapariyosānaṃ nāma yaṃkiñci sūciyā kattabbaṃ pāsapaṭṭagaṇṭhikapaṭṭapariyosānaṃ katvā sūciyā paṭisāmanaṃ. Naṭṭhanti corādīhi haṭaṃ, etampi hi karaṇapalibodhassa niṭṭhitattā niṭṭhitanti vuccati. Vinaṭṭhanti upacikādīhi khāyitaṃ. Daḍḍhanti agginā daḍḍhaṃ. Cīvarāsā vā upacchinnāti ‘‘asukasmiṃ nāma kule cīvaraṃ labhissāmī’’ti yā cīvarāsā uppannā hoti, sā vā upacchinnā, etesampi hi karaṇapalibodhasseva niṭṭhitattā niṭṭhitabhāvo veditabbo.
462-3.Khi y đã hoàn thành nghĩa là khi y đã hoàn tất bằng bất cứ cách hoàn thành nào. Vì y đó được xem là hoàn thành khi làm xong, hoặc khi bị mất v.v…, nên trong phần giải thích từ ngữ, chỉ cần nói rõ ý nghĩa rằng “y của vị tỳ khưu đã được làm xong” v.v… Ở đây, đã làm xong nghĩa là hoàn tất công đoạn may vá; hoàn tất may vá là hoàn thành bất cứ công đoạn nào cần dùng kim, như khâu viền, làm nút, hoặc chỉ cần khâu sơ qua. Đã mất nghĩa là bị trộm cướp lấy đi, vì việc này cũng được xem là hoàn thành do không còn trở ngại về việc may nữa. Đã hư hỏng nghĩa là bị mối mọt ăn. Đã cháy nghĩa là bị lửa thiêu rụi. Hoặc đã dứt hy vọng về y nghĩa là hy vọng có được y từ một gia đình nào đó đã bị dứt bỏ, vì những trường hợp này cũng được xem là hoàn thành do không còn trở ngại về việc may nữa.
Ubbhatasmiṃ kathineti kathine ca ubbhatasmiṃ. Etena dutiyassa palibodhassa abhāvaṃ dasseti. Taṃ pana kathinaṃ yasmā aṭṭhasu vā mātikāsu ekāya antarubbhārena vā uddharīyati, tenassa niddese ‘‘aṭṭhannaṃ mātikāna’’ntiādi vuttaṃ. Tattha ‘‘aṭṭhimā, bhikkhave, mātikā kathinassa ubbhārāya – pakkamanantikā, niṭṭhānantikā, sanniṭṭhānantikā, nāsanantikā, savanantikā, āsāvacchedikā, sīmātikkantikā, sahubbhārā’’ti evaṃ aṭṭha mātikāyo kathinakkhandhake āgatā. Antarubbhāropi ‘‘suṇātu me, bhante, saṅgho; yadi saṅghassa pattakallaṃ, saṅgho kathinaṃ uddhareyya, esā ñatti. Suṇātu me, bhante, saṅgho; saṅgho kathinaṃ uddharati, yassāyasmato khamati, kathinassa ubbhāro, so tuṇhassa; yassa nakkhamati, so bhāseyya. Ubbhataṃ saṅghena kathinaṃ, khamati saṅghassa, tasmā tuṇhī, evametaṃ dhārayāmī’’ti (pāci. 926) evaṃ bhikkhunīvibhaṅge āgato. Tattha yaṃ vattabbaṃ taṃ āgataṭṭhāneyeva vaṇṇayissāma. Idha pana vuccamāne pāḷi āharitabbā hoti, atthopi vattabbo. Vuttopi ca na suviññeyyo hoti, aṭṭhāne vuttattāya.
Khi Kathina đã được tháo nghĩa là khi Kathina đã được cử hành xong. Điều này cho thấy không còn trở ngại thứ hai nữa. Kathina được tháo bỏ bằng một trong tám cách hoặc bằng cách cử hành giữa chừng, nên trong phần giải thích có nói “bằng một trong tám cách” v.v… Ở đây, “Này các tỳ khưu, có tám trường hợp tháo bỏ Kathina: khi đi khỏi ranh giới, khi hoàn tất, khi quyết định, khi bị mất, khi nghe tin, khi dứt hy vọng, khi vượt quá ranh giới, khi cùng tháo bỏ” – tám trường hợp này được đề cập trong chương Kathina. Cách tháo bỏ giữa chừng cũng được nói đến trong phần Tỳ khưu ni: “Bạch đại đức Tăng, xin Tăng lắng nghe con. Nếu đã hợp thời với Tăng, Tăng hãy tháo bỏ Kathina. Đây là lời đề nghị. Bạch đại đức Tăng, xin Tăng lắng nghe con. Tăng tháo bỏ Kathina. Vị nào đồng ý việc tháo bỏ Kathina, xin im lặng; vị nào không đồng ý, xin hãy nói. Kathina đã được Tăng tháo bỏ, Tăng đã đồng ý nên mới im lặng. Tôi ghi nhận việc này như vậy.” (Pāc. 926). Những gì cần giải thích sẽ được trình bày ở phần thích hợp. Ở đây khi trích dẫn cần đưa ra nguyên văn Pāli và giải thích ý nghĩa. Tuy nhiên, có những đoạn khó hiểu vì được đặt không đúng chỗ.
Dasāhaparamanti dasa ahāni paramo paricchedo assāti dasāhaparamo, taṃ dasāhaparamaṃ kālaṃ dhāretabbanti attho. Padabhājane pana atthamattameva dassetuṃ ‘‘dasāhaparamatā dhāretabba’’nti vuttaṃ. Idañhi vuttaṃ hoti ‘‘dasāhaparama’’nti ettha yā dasāhaparamatā dasāhaparamabhāvo, ayaṃ ettako kālo yāva nātikkamati tāva dhāretabbanti.
Tối đa mười ngày nghĩa là thời hạn tối đa là mười ngày, cần phải giữ lại trong thời hạn mười ngày đó. Trong phần giải thích từ ngữ, chỉ cần nêu rõ ý nghĩa rằng “phải giữ lại với thời hạn tối đa mười ngày”. Điều này có nghĩa là “tối đa mười ngày” ở đây chỉ về thời hạn mười ngày, phải giữ lại cho đến khi không vượt quá thời hạn đó.
Adhiṭṭhitavikappitesu apariyāpannattā atirekaṃ cīvaranti atirekacīvaraṃ. Tenevassa padabhājane vuttaṃ ‘‘anadhiṭṭhitaṃ avikappita’’nti.
Do không thuộc về những y đã được ấn định hoặc phân phối nên được gọi là y dư. Vì vậy trong phần giải thích từ ngữ có nói “không được ấn định, không được phân phối”.
Channaṃ cīvarānaṃ aññataranti khomaṃ, kappāsikaṃ, koseyyaṃ, kambalaṃ, sāṇaṃ, bhaṅganti imesaṃ channaṃ cīvarānaṃ aññataraṃ. Etena cīvarassa jātiṃ dassetvā idāni pamāṇaṃ dassetuṃ ‘‘vikappanupagaṃ pacchima’’nti āha. Tassa pamāṇaṃ dīghato dve vidatthiyo, tiriyaṃ vidatthi. Tatrāyaṃ pāḷi – ‘‘anujānāmi, bhikkhave, āyāmena aṭṭhaṅgulaṃ sugataṅgulena caturaṅgulavitthataṃ pacchimaṃ cīvaraṃ vikappetu’’nti (mahāva. 358).
Một trong sáu loại y gồm: y bằng vải gai, vải bông, lụa tơ tằm, len, vải thô, vải gai xé. Sau khi nêu rõ nguồn gốc của y, giờ sẽ nói về kích thước: “có thể phân phối phần cuối cùng đủ tiêu chuẩn”. Kích thước của nó là dài hai gang tay, rộng một gang tay. Nguyên văn Pāli như sau: “Này các tỳ khưu, ta cho phép các thầy phân phối phần cuối của tấm y với kích thước dài tám ngón tay của Đức Thiện Thệ và rộng bốn ngón tay” (Đại Phẩm 358).
Taṃatikkāmayato nissaggiyaṃ pācittiyanti taṃ yathāvuttajātippamāṇaṃ cīvaraṃ dasāhaparamaṃ kālaṃ atikkāmayato, etthantare yathā atirekacīvaraṃ na hoti tathā akubbato nissaggiyaṃ pācittiyaṃ, tañca cīvaraṃ nissaggiyaṃ hoti, pācittiyāpatti cassa hotīti attho. Atha vā nissajjanaṃ nissaggiyaṃ, pubbabhāge kattabbassa vinayakammassetaṃ nāmaṃ. Nissaggiyamassa atthīti nissaggiyamicceva. Kintaṃ? Pācittiyaṃ. Taṃ atikkāmayato sanissaggiyavinayakammaṃ pācittiyaṃ hotīti ayamettha attho. Padabhājane pana paṭhamaṃ tāva atthavikappaṃ dassetuṃ ‘‘taṃ atikkāmayato nissaggiyaṃ hotī’’ti mātikaṃ ṭhapetvā ‘‘ekādase aruṇuggamane nissaggiyaṃ hoti, nissajjitabba’’nti vuttaṃ. Puna yassa ca nissajjitabbaṃ, yathā ca nissajjitabbaṃ, taṃ dassetuṃ ‘‘saṅghassa vā’’tiādi vuttaṃ. Tattha ekādase aruṇuggamaneti ettha yaṃ divasaṃ cīvaraṃ uppannaṃ tassa yo aruṇo, so uppannadivasanissito, tasmā cīvaruppādadivasaena saddhiṃ ekādase aruṇuggamane nissaggiyaṃ hotīti veditabbaṃ. Sacepi bahūni ekajjhaṃ bandhitvā vā veṭhetvā vā ṭhapitāni ekāva āpatti. Abaddhāveṭhitesu vatthugaṇanāya āpattiyo.
Vượt quá thời hạn đó phạm tội Ưng Xả Đối Trị nghĩa là nếu vượt quá thời hạn tối đa mười ngày đối với tấm y có nguồn gốc và kích thước như đã nói, trong thời gian đó nếu không xử lý y dư đúng cách thì phạm tội Ưng Xả Đối Trị, và tấm y đó trở thành vật phải xả, đồng thời phạm tội Ưng Đối Trị. Hoặc “xả” gọi là Nissaggiya, đó là tên gọi của nghi thức tịnh hạnh cần thực hiện trước đó. Vật đó có điều phải xả nên gọi là Ưng Xả. Phạm gì? Phạm Ưng Đối Trị. Vượt quá thời hạn đó thì phạm tội Ưng Đối Trị kèm theo nghi thức xả tội. Trong phần giải thích từ ngữ, trước tiên cần nêu rõ ý nghĩa: “vượt quá thời hạn đó thì phải xả”, sau khi thiết lập mẫu cơ bản, có nói: “đến ngày thứ 11 khi bình minh xuất hiện thì phải xả”. Lại nữa, cần giải thích vật gì phải xả và cách thức xả như đã nói: “nên xả cho Tăng” v.v… Ở đây, đến ngày thứ 11 khi bình minh xuất hiện nghĩa là bình minh đó tính theo ngày nhận được y, do đó phải hiểu rằng đến bình minh ngày thứ 11 kể từ ngày nhận được y thì phải xả. Dù có nhiều y được buộc chung hay gói chung để chung một chỗ cũng chỉ phạm một tội. Nếu không buộc chung hay gói chung thì tính tội theo số lượng tấm y.
Nissajjitvāāpatti desetabbāti kathaṃ desetabbā? Yathā khandhake vuttaṃ, kathañca tattha vuttaṃ? Evaṃ vuttaṃ – ‘‘tena, bhikkhave, bhikkhunā saṅghaṃ upasaṅkamitvā ekaṃsaṃ uttarāsaṅgaṃ karitvā vuḍḍhānaṃ bhikkhūnaṃ pāde vanditvā ukkuṭikaṃ nisīditvā añjaliṃ paggahetvā evamassa vacanīyo – ‘ahaṃ, bhante, itthannāmaṃ āpattiṃ āpanno, taṃ paṭidesemī’’’ti (cūḷava. 239). Idha pana sace ekaṃ cīvaraṃ hoti ‘‘ekaṃ nissaggiyaṃ pācittiya’’nti vattabbaṃ. Sace dve, ‘‘dve’’ti vattabbaṃ. Sace bahūni ‘‘sambahulānī’’ti vattabbaṃ. Nissajjanepi sace ekaṃ yathāpāḷimeva ‘‘idaṃ me, bhante, cīvara’’nti vattabbaṃ. Sace dve vā bahūni vā, ‘‘imāni me, bhante, cīvarāni dasāhātikkantāni nissaggiyāni, imānāhaṃ saṅghassa nissajjāmī’’ti vattabbaṃ. Pāḷiṃ vattuṃ asakkontena aññathāpi vattabbaṃ.
Sau khi xả rồi phải sám hối tội nghĩa là phải sám hối như thế nào? Như đã nói trong chương, và nói như thế nào ở đó? Đã nói như sau: “Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu đó nên đi đến Tăng, vắt y sang một bên vai, đảnh lễ chân các vị trưởng lão, ngồi chồm hổm, chắp tay lại và thưa như sau: ‘Bạch các ngài, con tên… đã phạm tội… nay xin sám hối tội đó'” (Tiểu Phẩm 239). Ở đây, nếu chỉ có một tấm y thì nên nói: “một tội Ưng Xả Đối Trị”. Nếu có hai thì nói: “hai”. Nếu có nhiều thì nói: “nhiều”. Khi xả y, nếu chỉ một tấm thì nói đúng theo văn Pāli: “Bạch đại đức, đây là y của con”. Nếu có hai hoặc nhiều tấm thì nói: “Bạch đại đức, những y này của con đã quá thời hạn mười ngày, là vật phải xả, nay con xả những y này cho Tăng”. Nếu không thể nói đúng văn Pāli thì có thể nói cách khác.
Byattenabhikkhunā paṭibalena āpatti paṭiggahetabbāti khandhake vuttanayeneva paṭiggahetabbā. Evañhi tattha vuttaṃ – ‘‘byattena bhikkhunā paṭibalena saṅgho ñāpetabbo –
Vị tỳ khưu thông hiểu và có năng lực nên tiếp nhận sự sám hối tội nghĩa là phải tiếp nhận theo cách đã được nói trong chương. Vì ở đó đã nói như sau: “Một vị tỳ khưu thông hiểu và có năng lực nên bạch với Tăng:
‘Suṇātu me bhante saṅgho, ayaṃ itthannāmo bhikkhu āpattiṃ sarati vivarati uttāniṃ karoti deseti, yadi saṅghassa pattakallaṃ, ahaṃ itthannāmassa bhikkhuno āpattiṃ paṭiggaṇheyya’nti.
‘Bạch đại đức Tăng, xin Tăng lắng nghe con. Vị tỳ khưu tên… này nhớ tội, phơi bày tội, trình bày tội và sám hối tội. Nếu đã hợp thời với Tăng, con xin tiếp nhận tội của vị tỳ khưu tên… này.’
Tena vattabbo ‘passasī’ti? ‘Āma, passāmī’ti. Āyatiṃ saṃvareyyāsī’’ti (cūḷava. 239). Dvīsu pana sambahulāsu vā purimanayeneva vacanabhedo ñātabbo.
Sau đó nên hỏi vị ấy: ‘Thầy có thấy tội không?’ – ‘Dạ, tôi thấy tội.’ – ‘Thầy nên phòng hộ trong tương lai.'” (Tiểu Phẩm 239). Đối với hai tội hoặc nhiều tội, nên hiểu cách nói khác nhau theo cách đã nói trước đó.
Cīvaradānepi ‘‘saṅgho imaṃ cīvaraṃ imāni cīvarānī’’ti vatthuvasena vacanabhedo veditabbo. Gaṇassa ca puggalassa ca nissajjanepi eseva nayo.
Khi dâng y cũng vậy, nên hiểu cách nói khác nhau tùy theo vật: “Tăng nên nhận y này” hoặc “những y này”. Cách thức xả cho nhóm hoặc cho cá nhân cũng nên hiểu tương tự như vậy.
Āpattidesanāpaṭiggahaṇesu panettha ayaṃ pāḷi – ‘‘tena, bhikkhave, bhikkhunā sambahule bhikkhū upasaṅkamitvā ekaṃsaṃ uttarāsaṅgaṃ katvā vuḍḍhānaṃ bhikkhūnaṃ pāde vanditvā ukkuṭikaṃ nisīditvā añjaliṃ paggahetvā evamassu vacanīyā – ‘ahaṃ, bhante, itthannāmaṃ āpattiṃ āpanno taṃ paṭidesemī’ti. Byattena bhikkhunā paṭibalena te bhikkhū ñāpetabbā –
Trong việc sám hối và tiếp nhận tội, đây là văn bản Pāḷi: “Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy nên đi đến nhiều vị tỳ khưu, vắt y sang một bên vai, đảnh lễ chân các vị tỳ khưu trưởng lão, ngồi chồm hổm, chắp tay lại và thưa như sau: ‘Bạch chư đại đức, con tên… đã phạm tội… nay xin sám hối tội đó.’ Một vị tỳ khưu thông hiểu và có năng lực nên bạch với các vị tỳ khưu ấy:
‘Suṇantu me āyasmantā, ayaṃ itthannāmo bhikkhu āpattiṃ sarati vivarati uttāniṃ karoti deseti. Yadāyasmantānaṃ pattakallaṃ, ahaṃ itthannāmassa bhikkhuno āpattiṃ paṭiggaṇheyya’nti.
‘Kính thưa các Tôn giả, xin quý vị lắng nghe con. Vị tỳ khưu tên… này nhớ tội, phơi bày tội, trình bày tội và sám hối tội. Nếu đã hợp thời với quý vị, con xin tiếp nhận tội của vị tỳ khưu tên… này.’
Tena vattabbo ‘passasī’ti? ‘Āma, passāmī’ti. ‘Āyatiṃ saṃvareyyāsī’ti.
Sau đó nên hỏi vị ấy: ‘Thầy có thấy tội không?’ – ‘Dạ, tôi thấy tội.’ – ‘Thầy nên phòng hộ trong tương lai.'”
Tena bhikkhunā ekaṃ bhikkhuṃ upasaṅkamitvā ekaṃsaṃ uttarāsaṅgaṃ karitvā ukkuṭikaṃ nisīditvā añjaliṃ paggahetvā evamassa vacanīyo – ‘ahaṃ, āvuso, itthannāmaṃ āpattiṃ āpanno taṃ paṭidesemī’ti. Tena vattabbo ‘passasī’ti, āma passāmīti āyatiṃ saṃvareyyāsī’’ti (cūḷava. 239). Tattha purimanayeneva āpattiyā nāmaggahaṇaṃ vacanabhedo ca veditabbo.
Vị tỳ khưu ấy nên đi đến một vị tỳ khưu, vắt y sang một bên vai, ngồi chồm hổm, chắp tay lại và thưa như sau: “Này hiền giả, tôi tên… đã phạm tội… nay xin sám hối tội đó.” Vị kia nên hỏi: “Thầy có thấy tội không?” – “Dạ, tôi thấy tội.” – “Thầy nên phòng hộ trong tương lai.” (Tiểu Phẩm 239). Ở đây, nên hiểu cách ghi tên tội và cách nói khác nhau theo cách đã nói trước.
Yathā ca gaṇassa nissajjane evaṃ dvinnaṃ nissajjanepi pāḷi veditabbā. Yadi hi viseso bhaveyya, yatheva ‘‘anujānāmi, bhikkhave, tiṇṇannaṃ pārisuddhiuposathaṃ kātuṃ, evañca pana, bhikkhave, kātabbo. Byattena bhikkhunā paṭibalena te bhikkhū ñāpetabbā’’tiādinā nayena ‘‘tiṇṇannaṃ pārisuddhiuposathaṃ kātu’’nti vatvā puna ‘‘anujānāmi, bhikkhave, dvinnaṃ pārisuddhiuposathaṃ kātuṃ, evañca pana, bhikkhave, kātabbo. Therena bhikkhunā ekaṃsaṃ uttarāsaṅga’’ntiādinā (mahāva. 168) nayena visuṃyeva dvinnaṃ pārisuddhiuposatho vutto, evamidhāpi visuṃ pāḷiṃ vadeyya, yasmā pana natthi, tasmā avatvā gatoti, gaṇassa vuttā pāḷiyevettha pāḷi.
Cũng như cách xả cho nhóm, nên hiểu văn bản Pāli khi xả cho hai vị cũng tương tự. Nếu có sự khác biệt, giống như khi nói: “Này các tỳ khưu, ta cho phép thực hiện lễ tự tứ với ba vị, và nên làm như sau. Một vị tỳ khưu thông hiểu và có năng lực nên bạch với các vị tỳ khưu ấy…” rồi sau đó lại nói: “Này các tỳ khưu, ta cho phép thực hiện lễ tự tứ với hai vị, và nên làm như sau. Vị tỳ khưu trưởng lão vắt y sang một bên vai…” (Đại Phẩm 168) – nếu có sự khác biệt thì ở đây cũng phải nói riêng văn bản Pāli cho trường hợp hai vị. Nhưng vì không có, nên không nói đến, do đó ở đây dùng văn bản Pāli như đã nói cho nhóm.
Āpattipaṭiggahaṇe pana ayaṃ viseso, yathā gaṇassa nissajjitvā āpattiyā desiyamānāya āpattipaṭiggāhako bhikkhu ñattiṃ ṭhapeti, evaṃ aṭṭhapetvā dvīsu aññatarena yathā ekapuggalo paṭiggaṇhāti, evaṃ āpatti paṭiggahetabbā. Dvinnañhi ñattiṭṭhapanā nāma natthi, yadi siyā dvinnaṃ pārisuddhiuposathaṃ visuṃ na vadeyya.
Trong việc tiếp nhận sám hối tội có điểm khác biệt này: Khi xả cho nhóm rồi sám hối tội, vị tỳ khưu tiếp nhận tội phải tuyên bố ý kiến. Nhưng với hai vị thì không cần tuyên bố ý kiến, mà chỉ cần một trong hai vị tiếp nhận tội như cách một vị tiếp nhận. Vì không có việc tuyên bố ý kiến cho hai vị, nếu có thì không cần nói riêng về lễ tự tứ cho hai vị.
Nissaṭṭhacīvaradānepi yathā ‘‘imaṃ cīvaraṃ āyasmato dammī’’ti eko vadati, evaṃ ‘‘imaṃ mayaṃ cīvaraṃ āyasmato demā’’ti vattuṃ vaṭṭati. Ito garukatarāni hi ñattidutiyakammānipi ‘‘apaloketvā kātabbānī’’ti vuttāni atthi, tesaṃ etaṃ anulomaṃ nissaṭṭhacīvaraṃ pana dātabbameva adātuṃ na labbhati, vinayakammamattañhetaṃ. Na taṃ tena saṅghassa vā gaṇassa vā puggalassa vā dinnameva hotīti.
Về việc dâng y đã xả: Cũng như một vị nói “Tôi xin dâng y này đến Tôn giả”, thì cũng có thể nói “Chúng tôi xin dâng y này đến Tôn giả”. Bởi lẽ ngay cả những nghi thức quan trọng hơn như tác bạch nhị yết ma cũng được dạy là “nên làm sau khi thỉnh ý”, huống chi việc dâng y đã xả này vốn chỉ là một nghi thức giới luật đơn thuần. Dù y đó chưa thực sự được dâng cho Tăng, nhóm hay cá nhân nào.
468.Dasāhātikkante atikkantasaññīti dasāhaṃ atikkante cīvare ‘‘atikkantaṃ ida’’nti evaṃsaññī, dasāhe vā atikkante ‘‘atikkanto dasāho’’ti evaṃsaññī. Nissaggiyaṃ pācittiyanti na idha saññā rakkhati. Yopi evaṃsaññī, tassapi taṃ cīvaraṃ nissaggiyaṃ pācittiyāpatti ca. Sanissaggiyavinayakammaṃ vā pācittiyanti ubhopi atthavikappā yujjanti. Esa nayo sabbattha.
468. Quá mười ngày với tưởng là đã quá: Dù mười ngày đã qua và vị ấy nhận biết “đã quá hạn”, hoặc khi mười ngày đã qua mà nghĩ “mười ngày đã qua”, thì phạm tội Ưng xả đối trị. Ở đây tưởng không cứu được. Dù có tưởng như vậy, y đó vẫn phải xả và phạm tội Ưng đối trị. Hoặc phạm tội Ưng đối trị kèm nghi thức xả tội – cả hai cách giải thích đều hợp lý. Đây là nguyên tắc chung cho mọi trường hợp.
Avissajjitevissajjitasaññīti kassaci adinne apariccatte ‘‘pariccattaṃ mayā’’ti evaṃsaññī.
Tưởng là đã xả dù chưa xả: Khi vật chưa được cho ai, chưa được phân phối, mà lại nghĩ “ta đã phân phối rồi”.
Anaṭṭhe naṭṭhasaññīti attano cīvarena saddhiṃ bahūni aññesaṃ cīvarāni ekato ṭhapitāni corā haranti. Tatresa attano cīvare anaṭṭhe naṭṭhasaññī hoti. Esa nayo avinaṭṭhādīsupi.
Tưởng là mất khi không mất: Khi nhiều y của người khác để chung với y của mình bị trộm lấy, vị ấy tưởng y mình đã mất dù thực tế không mất. Cách hiểu tương tự áp dụng cho các trường hợp hư hỏng, v.v…
Avilutteti ettha pana gabbhaṃ bhinditvā pasayhāvahāravasena avilutteti veditabbaṃ.
Chưa bị giật lấy: Ở đây nên hiểu là chưa bị lấy đi bằng cách đập phá kho hoặc cướp đoạt bằng vũ lực.
Anissajjitvā paribhuñjati āpatti dukkaṭassāti sakiṃ nivatthaṃ vā sakiṃ pārutaṃ vā kāyato amocetvā divasampi vicarati, ekāva āpatti. Mocetvā mocetvā nivāseti vā pārupati vā payoge payoge dukkaṭaṃ. Dunnivatthaṃ vā duppārutaṃ vā saṇṭhapentassa anāpatti. Aññassa taṃ paribhuñjatopi anāpatti, ‘‘anāpatti aññena kataṃ paṭilabhitvā paribhuñjatī’’ti (pārā. 570) ādivacanañcettha sādhakaṃ. Anatikkante atikkantasaññino vematikassa ca dukkaṭaṃ paribhogaṃ sandhāya vuttaṃ.
Không xả mà sử dụng, phạm tội tác ác: Nếu mặc y một lần rồi đi suốt ngày không cởi ra, chỉ phạm một tội. Nếu cởi ra rồi mặc lại nhiều lần, mỗi lần chuẩn bị mặc phạm một tội tác ác. Khi chỉnh sửa y mặc không ngay ngắn không phạm. Người khác sử dụng y đó cũng không phạm, vì có lời dạy: “Không phạm khi nhận y do người khác làm rồi sử dụng” (Pārā. 570). Tội tác ác này áp dụng cho trường hợp chưa quá hạn nhưng tưởng đã quá, hoặc có sự nghi ngờ.
469.‘‘Anāpatti antodasāhaṃ adhiṭṭheti, vikappetī’’ti ettha pana adhiṭṭhānupagaṃ vikappanupagañca veditabbaṃ. Tatrāyaṃ pāḷi – atha kho bhikkhūnaṃ etadahosi – ‘‘yāni tāni bhagavatā anuññātāni ‘ticīvara’nti vā ‘vassikasāṭikā’ti vā ‘nisīdana’nti vā ‘paccattharaṇa’nti vā ‘kaṇḍuppaṭicchādī’ti vā mukhapuñchanacoḷakanti vā parikkhāracoḷanti vā sabbāni tāni adhiṭṭhātabbānīti nu kho udāhu vikappetabbānī’’ti, bhagavato etamatthaṃ ārocesuṃ –
469. “Không phạm khi ấn định hay phân phối trong vòng mười ngày“: Ở đây cần hiểu là có thể ấn định hoặc phân phối. Nguyên văn Pāli: Rồi các tỳ khưu suy nghĩ: “Những vật dụng mà Đức Thế Tôn cho phép như ‘ba y’, ‘y mưa’, ‘tọa cụ’, ‘trải ngồi’, ‘khăn che ghẻ’, ‘khăn lau miệng’ hay ‘khăn phụ tùng’ – tất cả những thứ ấy có nên ấn định hay phân phối không?” Các vị bạch lên Đức Thế Tôn việc ấy.
‘‘Anujānāmi, bhikkhave, ticīvaraṃ adhiṭṭhātuṃ na vikappetuṃ; vassikasāṭikaṃ vassānaṃ cātumāsaṃ adhiṭṭhātuṃ tato paraṃ vikappetuṃ; nisīdanaṃ adhiṭṭhātuṃ na vikappetuṃ; paccattharaṇaṃ adhiṭṭhātuṃ na vikappetuṃ; kaṇḍuppaṭicchādiṃ yāvaābādhā adhiṭṭhātuṃ tato paraṃ vikappetuṃ; mukhapuñchanacoḷaṃ adhiṭṭhātuṃ na vikappetuṃ; parikkhāracoḷaṃ adhiṭṭhātuṃ na vikappetu’’nti (mahāva. 358).
“Này các tỳ khưu, ta cho phép:
– Ba y có thể ấn định nhưng không được phân phối
– Y mưa có thể ấn định trong bốn tháng mùa mưa, sau đó có thể phân phối
– Tọa cụ có thể ấn định nhưng không được phân phối
– Trải ngồi có thể ấn định nhưng không được phân phối
– Khăn che ghẻ có thể ấn định cho đến khi hết bệnh, sau đó có thể phân phối
– Khăn lau miệng có thể ấn định nhưng không được phân phối
– Khăn phụ tùng có thể ấn định nhưng không được phân phối” (Đại Phẩm 358).
‘‘Tattha ticīvaraṃ’’ adhiṭṭhahantena rajitvā kappabinduṃ datvā pamāṇayuttameva adhiṭṭhātabbaṃ. Tassa pamāṇaṃ ukkaṭṭhaparicchedena sugatacīvarato ūnakaṃ vaṭṭati, lāmakaparicchedena saṅghāṭiyā uttarāsaṅgassa ca dīghato muṭṭhipañcakaṃ tiriyaṃ muṭṭhittikaṃ pamāṇaṃ vaṭṭati. Antaravāsako dīghato muṭṭhipañcako tiriyaṃ dvihatthopi vaṭṭati. Pārupaṇenapi hi sakkā nābhiṃ paṭicchādetunti. Vuttappamāṇato pana atirekaṃ ūnakañca parikkhāracoḷanti adhiṭṭhātabbaṃ.
“Về ba y: Khi ấn định phải nhuộm, chấm tịnh và ấn định đúng kích thước. Kích thước tiêu chuẩn:
– Theo tiêu chuẩn cao: nhỏ hơn y của Đức Thiện Thệ
– Theo tiêu chuẩn thấp:
* Tăng-già-lê và y vai trái: dài 5 nắm tay, rộng 3 nắm tay
* Y nội: dài 5 nắm tay, rộng 2 gang tay (vì phải đủ che rốn khi mặc)
Nếu vượt quá hoặc không đủ kích thước này thì chỉ được ấn định làm khăn phụ tùng.”
Tattha yasmā ‘‘dve cīvarassa adhiṭṭhānā – kāyena vā adhiṭṭheti, vācāya vā adhiṭṭhetī’’ti (pari. 322) vuttaṃ, tasmā purāṇasaṅghāṭiṃ ‘‘imaṃ saṅghāṭiṃ paccuddharāmī’’ti paccuddharitvā navaṃ saṅghāṭiṃ hatthena gahetvā ‘‘imaṃ saṅghāṭiṃ adhiṭṭhāmī’’ti cittena ābhogaṃ katvā kāyavikāraṃ karontena kāyena adhiṭṭhātabbā. Idaṃ kāyena adhiṭṭhānaṃ, taṃ yena kenaci sarīrāvayavena aphusantassa na vaṭṭati. Vācāya adhiṭṭhāne pana vacībhedaṃ katvā vācāya adhiṭṭhātabbā. Tatra duvidhaṃ adhiṭṭhānaṃ – sace hatthapāse hoti ‘‘imaṃ saṅghāṭiṃ adhiṭṭhāmī’’ti vācā bhinditabbā. Atha antogabbhe vā uparipāsāde vā sāmantavihāre vā hoti ṭhapitaṭṭhānaṃ sallakkhetvā ‘‘etaṃ saṅghāṭiṃ adhiṭṭhāmī’’ti vācā bhinditabbā. Esa nayo uttarāsaṅge antaravāsake ca. Nāmamattameva hi viseso. Tasmā sabbāni saṅghāṭiṃ uttarāsaṅgaṃ antaravāsakanti evaṃ attano nāmeneva adhiṭṭhātabbāni. Sace adhiṭṭhahitvā ṭhapitavatthehi saṅghāṭiādīni karoti, niṭṭhite rajane ca kappe ca imaṃ ‘‘paccuddharāmī’’ti paccuddharitvā puna adhiṭṭhātabbāni. Adhiṭṭhitena pana saddhiṃ mahantatarameva dutiyapaṭṭaṃ vā khaṇḍaṃ vā saṃsibbantena puna adhiṭṭhātabbameva. Same vā khuddake vā adhiṭṭhānakiccaṃ natthi.
Về việc ấn định y: Vì có lời dạy: “Có hai cách ấn định y – bằng thân hoặc bằng khẩu” (Parivāra 322), nên trước hết phải thu hồi y Tăng-già-lê cũ bằng cách nói “Tôi thu hồi y Tăng-già-lê này”, rồi cầm y mới bằng tay và ấn định bằng cách chú tâm “Tôi ấn định y Tăng-già-lê này” kèm theo cử chỉ thân thể. Đây là cách ấn định bằng thân – không cần phải chạm vào bằng bất kỳ bộ phận nào của cơ thể. Còn ấn định bằng khẩu thì phải phát ngôn rõ ràng. Có hai trường hợp:
1. Nếu y ở trong tầm tay thì nói “Tôi ấn định y Tăng-già-lê này”
2. Nếu y để ở kho, lầu trên hoặc tịnh xá gần đó thì phải xác định vị trí rồi nói “Tôi ấn định y Tăng-già-lê ở đó”
Cách làm tương tự với y vai trái và y nội. Chỉ khác nhau ở tên gọi, nên phải ấn định đúng tên từng loại y. Nếu sau khi ấn định mà may thêm vào y đã ấn định thì khi hoàn thành việc nhuộm và chấm tịnh, phải thu hồi rồi ấn định lại. Nếu dùng vải lớn hơn hay mảnh vải thứ hai để nối vào y đã ấn định thì cũng phải ấn định lại. Không cần ấn định với vải nhỏ hay vụn.
Ticīvaraṃ pana parikkhāracoḷaṃ adhiṭṭhātuṃ vaṭṭati na vaṭṭatīti? Mahāpadumatthero kirāha – ‘‘ticīvaraṃ ticīvarameva adhiṭṭhātabbaṃ. Sace parikkhāracoḷādhiṭṭhānaṃ labheyya udositasikkhāpade parihāro niratthako bhaveyyā’’ti. Evaṃ vutte kira avasesā bhikkhū āhaṃsu – ‘‘parikkhāracoḷampi bhagavatāva adhiṭṭhātabbanti vuttaṃ, tasmā vaṭṭatī’’ti. Mahāpaccariyampi vuttaṃ ‘‘parikkhāracoḷaṃ nāma pāṭekkaṃ nidhānamukhametanti ticīvaraṃ parikkhāracoḷanti adhiṭṭhahitvā paribhuñjituṃ vaṭṭati. Udositasikkhāpade pana ticīvaraṃ adhiṭṭhahitvā pariharantassa parihāro vutto’’ti. Ubhatovibhaṅgabhāṇako puṇṇavālikavāsī mahātissattheropi kira āha – ‘‘mayaṃ pubbe mahātherānaṃ assumha, araññavāsino bhikkhū rukkhasusirādīsu cīvaraṃ ṭhapetvā padhānaṃ padahanatthāya gacchanti. Sāmantavihāre dhammasavanatthāya gatānañca nesaṃ sūriye uṭṭhite sāmaṇerā vā daharabhikkhū vā pattacīvaraṃ gahetvā gacchanti, tasmā sukhaparibhogatthaṃ ticīvaraṃ parikkhāracoḷanti adhiṭṭhātuṃ vaṭṭatī’’ti. Mahāpaccariyampi vuttaṃ pubbe āraññikā bhikkhū abaddhasīmāyaṃ dupparihāranti ticīvaraṃ parikkhāracoḷameva adhiṭṭhahitvā paribhuñjiṃsū’’ti.
Vấn đề ấn định ba y như khăn phụ tùng:
– Ngài Mahāpaduma nói: “Ba y phải được ấn định đúng là ba y. Nếu ấn định như khăn phụ tùng thì sự phòng hộ trong giới Ưng Đối Trị sẽ vô hiệu”
– Các tỳ khưu khác lại nói: “Đức Phật cho phép ấn định cả khăn phụ tùng, nên được phép”
– Bộ Mahāpaccariya giải thích: “Khăn phụ tùng là vật để dành riêng, nên có thể ấn định ba y như khăn phụ tùng để sử dụng. Giới Ưng Đối Trị chỉ nói về việc phòng hộ khi ấn định đúng là ba y”
– Ngài Mahātissa ở Punṇavālika, bậc thông hiểu cả hai bộ Luận, kể lại: “Các tỳ khưu sống trong rừng thường để y trong hốc cây khi đi hành thiền. Khi họ đi nghe pháp ở tịnh xá gần đó, các sa di hay tỳ khưu trẻ mang y bát giúp sau khi mặt trời mọc. Vì sự tiện dụng này, nên được phép ấn định ba y như khăn phụ tùng”
– Bộ Mahāpaccariya còn ghi nhận: “Trước kia, các tỳ khưu sống trong rừng khó bảo quản y trong khu vực không có ranh giới, nên họ thường ấn định ba y như khăn phụ tùng rồi sử dụng”
‘‘Vassikasāṭikā’’ anatirittappamāṇā nāmaṃ gahetvā vuttanayeneva cattāro vassike māse adhiṭṭhātabbā, tato paraṃ paccuddharitvā vikappetabbā. Vaṇṇabhedamattarattāpi cesā vaṭṭati. Dve pana na vaṭṭanti. ‘‘Nisīdanaṃ’’ vuttanayena adhiṭṭhātabbameva, tañca kho pamāṇayuttaṃ ekameva, dve na vaṭṭanti. ‘‘Paccattharaṇa’’mpi adhiṭṭhātabbameva, taṃ pana mahantampi vaṭṭati, ekampi vaṭṭati, bahūnipi vaṭṭanti. Nīlampi pītakampi sadasampi pupphadasampīti sabbappakāraṃ vaṭṭati. Sakiṃ adhiṭṭhitaṃ adhiṭṭhitameva hoti. ‘‘Kaṇḍuppaṭicchādi’’ yāva ābādho atthi, tāva pamāṇikā adhiṭṭhātabbā. Ābādhe vūpasante paccuddharitvā vikappetabbā, ekāva vaṭṭati . ‘‘Mukhapuñchanacoḷaṃ’’ adhiṭṭhātabbameva, yāva ekaṃ dhoviyati, tāva aññaṃ paribhogatthāya icchitabbanti dve vaṭṭanti. Apare pana therā ‘‘nidhānamukhametaṃ bahūnipi vaṭṭantī’’ti vadanti. Parikkhāracoḷe gaṇanā natthi, yattakaṃ icchati tattakaṃ adhiṭṭhātabbameva. Thavikāpi parissāvanampi vikappanupagaṃ pacchimacīvarappamāṇaṃ ‘‘parikkhāracoḷaka’’nti adhiṭṭhātabbameva. Bahūni ekato katvā ‘‘imāni cīvarāni parikkhāracoḷāni adhiṭṭhāmī’’ti adhiṭṭhātumpi vaṭṭatiyeva. Bhesajjanavakammamātāpituādīnaṃ atthāya ṭhapentenapi adhiṭṭhātabbameva. Mahāpaccariyaṃ pana ‘‘anāpattī’’ti vuttaṃ. Mañcabhisi pīṭhakabhisi bimbohanaṃ pāvāro kojavoti etesu pana senāsanaparikkhāratthāya dinnapaccattharaṇe ca adhiṭṭhānakiccaṃ natthiyeva.
“Y mưa” phải được gọi đúng tên với kích thước không vượt quá quy định, theo cách đã nói, cần ấn định trong bốn tháng mùa mưa, sau đó thu hồi và phân phối. Dù chỉ khác màu cũng được phép. Nhưng hai cái thì không được. “Tọa cụ” phải ấn định theo cách đã nói, đúng kích thước và chỉ một cái, hai cái thì không được. “Trải ngồi” cũng phải ấn định, nhưng có thể lớn hoặc nhỏ, một hoặc nhiều cái đều được. Màu xanh, vàng, đỏ hoặc hoa văn – tất cả loại đều được. Chỉ cần ấn định một lần là đủ. “Khăn che ghẻ” phải ấn định đúng kích thước khi còn bệnh. Khi bệnh đã dứt thì thu hồi và phân phối, chỉ được một cái. “Khăn lau miệng” phải ấn định, khi một cái đang giặt thì có thể dùng tạm cái khác nên được phép hai cái. Các vị trưởng lão khác nói “đây là vật dự trữ nên nhiều cái cũng được”. “Khăn phụ tùng” không tính số lượng, muốn bao nhiêu cũng có thể ấn định. “Túi đựng và khăn lọc nước” có thể phân phối với kích thước bằng phần cuối tấm y, nên ấn định là “khăn phụ tùng”. Có thể gom nhiều thứ chung rồi ấn định “những y phục này là khăn phụ tùng”. Khi để dành thuốc hoặc vì cha mẹ thì cũng được ấn định. “Bộ Mahāpaccariya” thì nói “không phạm”. Về giường, ghế, gối, màn, mùng và các vật dụng trải ngồi đã được cho để dùng làm đồ đạc chỗ ở thì không cần làm nghi thức ấn định.
Adhiṭṭhitacīvaraṃ pana paribhuñjato kathaṃ adhiṭṭhānaṃ vijahatīti? Aññassa dānena, acchinditvā gahaṇena, vissāsaggāhena, hīnāyāvattanena, sikkhāpaccakkhānena , kālaṃkiriyāya, liṅgaparivattanena, paccuddharaṇena, chiddabhāvenāti imehi navahi kāraṇehi vijahati. Tattha purimehi aṭṭhahi sabbacīvarāni adhiṭṭhānaṃ vijahanti, chiddabhāvena pana ticīvarasseva sabbaaṭṭhakathāsu adhiṭṭhānavijahanaṃ vuttaṃ, tañca nakhapiṭṭhippamāṇena chiddena. Tattha nakhapiṭṭhippamāṇaṃ kaniṭṭhaṅgulinakhavasena veditabbaṃ, chiddañca vinibbiddhachiddameva. Chiddassa hi abbhantare ekatantu cepi acchinno hoti, rakkhati. Tattha saṅghāṭiyā ca uttarāsaṅgassa ca dīghantato vidatthippamāṇassa tiriyantato aṭṭhaṅgulappamāṇassa padesassa orato chiddaṃ adhiṭṭhānaṃ bhindati, parato na bhindati. Antaravāsakassa pana dīghantato vidatthippamāṇasseva tiriyantato caturaṅgulappamāṇassa padesassa orato chiddaṃ adhiṭṭhānaṃ bhindati, parato na bhindati. Tasmā jāte chidde taṃ cīvaraṃ atirekacīvaraṭṭhāne tiṭṭhati, sūcikammaṃ katvā puna adhiṭṭhātabbaṃ. Mahāsumatthero panāha – ‘‘pamāṇacīvarassa yattha katthaci chiddaṃ adhiṭṭhānaṃ bhindati, mahantassa pana pamāṇato bahi chiddaṃ adhiṭṭhānaṃ na bhindati, antojātaṃ bhindatī’’ti. Karavīkatissatthero āha – ‘‘khuddakaṃ mahantaṃ na pamāṇaṃ, dve cīvarāni pārupantassa vāmahatthe saṅgharitvā ṭhapitaṭṭhāne chiddaṃ adhiṭṭhānaṃ na bhindati, orabhāge bhindati. Antaravāsakassapi ovaṭṭikaṃ karontena saṅgharitaṭṭhāne chiddaṃ na bhindati, tato oraṃ bhindatī’’ti. Andhakaṭṭhakathāyaṃ pana ticīvare mahāsumattheravādaṃ pamāṇaṃ katvā uttarimpi idaṃ vuttaṃ ‘‘pacchimappamāṇaṃ adhiṭṭhānaṃ rakkhatī’’ti. Parikkhāracoḷe dīghaso aṭṭhaṅgule sugataṅgulena tiriyaṃ caturaṅgule yattha katthaci chiddaṃ adhiṭṭhānaṃ vijahati. Mahante coḷe tato parena chiddaṃ adhiṭṭhānaṃ na vijahati. Esa nayo sabbesu adhiṭṭhātabbakesu cīvaresū’’ti.
Y đã ấn định khi sử dụng thì mất sự ấn định như thế nào? Mất sự ấn định do 9 nguyên nhân: (1) cho người khác, (2) bị cướp đoạt, (3) bị lấy do lòng tin, (4) trở lại đời sống thế tục, (5) từ bỏ giới luật, (6) qua đời, (7) đổi giới tính, (8) thu hồi, (9) bị rách. Trong đó, 8 nguyên nhân đầu làm mất sự ấn định của tất cả y phục, riêng nguyên nhân rách chỉ làm mất sự ấn định của ba y theo tất cả các bản chú giải, và phải là lỗ rách lớn bằng mu ngón tay. Ở đây, kích thước mu ngón tay được tính theo ngón tay út, và lỗ rách phải là rách thủng hoàn toàn. Nếu bên trong lỗ rách còn dính một sợi chỉ thì vẫn giữ được sự ấn định. Đối với y Tăng-già-lê và y vai trái: lỗ rách làm mất sự ấn định khi nằm ở phần dài 1 gang tay tính từ biên và rộng 8 ngón tay tính từ mép vào, nhưng không mất nếu ở phần ngoài. Đối với y nội: lỗ rách làm mất sự ấn định khi nằm ở phần dài 1 gang tay tính từ biên và rộng 4 ngón tay tính từ mép vào. Khi có lỗ rách như vậy, y đó trở thành y dư, phải may vá lại rồi ấn định lại. Ngài Mahāsumana nói: “Đối với y đúng kích thước, lỗ rách ở bất cứ chỗ nào cũng làm mất sự ấn định, nhưng đối với y lớn hơn kích thước thì lỗ rách ở phần vượt quá không làm mất sự ấn định, chỉ mất khi rách ở phần trong kích thước”. Ngài Karavīkatissa nói: “Không phân biệt y nhỏ hay lớn ngoài kích thước, khi mặc hai y và gấp lại để ở tay trái, lỗ rách ở chỗ gấp không làm mất sự ấn định, chỉ mất khi ở phần trong nếp gấp. Đối với y nội khi cuốn lại, lỗ rách ở chỗ gấp không làm mất sự ấn định”. Trong bản chú giải Andhaka theo quan điểm của ngài Mahāsumana về ba y, còn nói thêm: “Phần cuối cùng vẫn giữ được sự ấn định”. Đối với khăn phụ tùng: lỗ rách dài 8 ngón tay Đức Phật và rộng 4 ngón tay ở bất cứ chỗ nào cũng làm mất sự ấn định. Đối với khăn lớn hơn thì lỗ rách ở phần vượt quá không làm mất sự ấn định. Cách hiểu này áp dụng cho tất cả các loại y có thể ấn định.
Tattha yasmā sabbesampi adhiṭṭhātabbakacīvarānaṃ vikappanupagapacchimappamāṇato aññaṃ pacchimappamāṇaṃ nāma natthi, yañhi nisīdana-kaṇḍuppaṭicchādi-vassikasāṭikānaṃ pamāṇaṃ vuttaṃ, taṃ ukkaṭṭhaṃ, tato uttari paṭisiddhattā na pacchimaṃ tato heṭṭhā appaṭisiddhattā. Ticīvarassāpi sugatacīvarappamāṇato ūnakattaṃ ukkaṭṭhappamāṇameva. Pacchimaṃ pana visuṃ sutte vuttaṃ natthi. Mukhapuñchanapaccattharaṇaparikkhāracoḷānaṃ ukkaṭṭhaparicchedo natthiyeva. Vikappanupagapacchimena pana pacchimaparicchedo vutto. Tasmā yaṃ tāva andhakaṭṭhakathāyaṃ ‘‘pacchimappamāṇaṃ adhiṭṭhānaṃ rakkhatī’’ti vatvā tattha parikkhāracoḷasseva sugataṅgulena aṭṭhaṅgulacaturaṅgulapacchimappamāṇaṃ dassetvā itaresaṃ ticīvarādīnaṃ muṭṭhipañcakādipabhedaṃ pacchimappamāṇaṃ sandhāya ‘‘esa nayo sabbesu adhiṭṭhātabbakesucīvaresū’’ti vuttaṃ, taṃ na sameti.
Về vấn đề này: Vì tất cả các loại y có thể ấn định đều không có kích thước phần cuối nào khác ngoài kích thước có thể phân phối được quy định. Những kích thước đã nói cho tọa cụ, khăn che ghẻ và y mưa là kích thước tối đa, vượt quá đó bị cấm nên không phải là kích thước phần cuối, nhỏ hơn thì không bị cấm. Đối với ba y, kích thước nhỏ hơn y của Đức Thiện Thệ cũng được xem là kích thước tối đa. Không có kinh nào đề cập riêng về kích thước phần cuối. Khăn lau miệng, trải ngồi và khăn phụ tùng thì không có giới hạn tối đa, chỉ có giới hạn phần cuối khi phân phối. Do đó, khi bản chú giải Andhaka nói “phần cuối cùng vẫn giữ được sự ấn định” rồi chỉ nêu kích thước phần cuối của khăn phụ tùng là dài 8 ngón tay Đức Phật và rộng 4 ngón tay, còn đối với ba y thì đề cập các kích thước như 5 nắm tay v.v… rồi kết luận “cách hiểu này áp dụng cho tất cả các loại y có thể ấn định” là không phù hợp.
Karavīkatissattheravādepi dīghantatoyeva chiddaṃ dassitaṃ, tiriyantato na dassitaṃ, tasmā so aparicchinno. Mahāsumattheravāde ‘‘pamāṇacīvarassa yattha katthaci chiddaṃ adhiṭṭhānaṃ bhindati, mahantassa pana pamāṇato bahi chiddaṃ adhiṭṭhānaṃ na bhindatī’’ti vuttaṃ. Idaṃ pana na vuttaṃ – ‘‘idaṃ nāma pamāṇacīvaraṃ ito uttari mahantaṃ cīvara’’nti. Apicettha ticīvarādīnaṃ muṭṭhipañcakādibhedaṃ pacchimappamāṇanti adhippetaṃ. Tattha yadi pacchimappamāṇato bahi chiddaṃ adhiṭṭhānaṃ na bhindeyya, ukkaṭṭhapattassāpi majjhimapattassa vā omakappamāṇato bahi chiddaṃ adhiṭṭhānaṃ na bhindeyya, na ca na bhindati. Tasmā ayampi vādo aparicchinno.
Quan điểm của ngài Karavīkatissa cũng chỉ nói về lỗ rách theo chiều dài mà không nói chiều rộng, nên không rõ ràng. Quan điểm của ngài Mahāsumana nói: “Đối với y đúng kích thước, lỗ rách ở bất cứ chỗ nào cũng làm mất sự ấn định, nhưng đối với y lớn hơn kích thước thì lỗ rách ở phần vượt quá không làm mất sự ấn định”. Tuy nhiên không nói rõ “đây là y đúng kích thước, còn lớn hơn này là y vượt kích thước”. Ở đây muốn nói kích thước phần cuối của ba y v.v… là 5 nắm tay v.v… Nếu lỗ rách ở ngoài kích thước phần cuối không làm mất sự ấn định, thì đối với y đạt kích thước tối đa hoặc trung bình, lỗ rách ở ngoài kích thước tối thiểu cũng không làm mất sự ấn định, nhưng thực tế vẫn mất. Do đó quan điểm này cũng không rõ ràng.
Yo panāyaṃ sabbapaṭhamo aṭṭhakathāvādo, ayamevettha pamāṇaṃ. Kasmā? Paricchedasabbhāvato. Ticīvarassa hi pacchimappamāṇañca chiddappamāṇañca chidduppattidesappamāṇañca sabbaaṭṭhakathāsuyeva paricchinditvā vuttaṃ, tasmā sveva vādo pamāṇaṃ. Addhā hi so bhagavato adhippāyaṃ anugantvā vutto. Itaresu pana neva paricchedo atthi, na pubbāparaṃ sametīti.
Quan điểm đầu tiên trong các bản chú giải mới là chuẩn mực ở đây. Tại sao? Vì nó có sự phân định rõ ràng. Về ba y, kích thước phần cuối, kích thước lỗ rách và vị trí phát sinh lỗ rách đều được tất cả các bản chú giải xác định rõ ràng, nên chỉ quan điểm này là chuẩn mực. Rõ ràng quan điểm này đã theo đúng ý Phật. Các quan điểm khác không có sự phân định rõ ràng, cũng không thống nhất trước sau.
Yo pana dubbalaṭṭhāne paṭhamaṃ aggaḷaṃ datvā pacchā dubbalaṭṭhānaṃ chinditvā apaneti, adhiṭṭhānaṃ na bhijjati. Maṇḍalaparivattanepi eseva nayo. Dupaṭṭassa ekasmiṃ paṭale chidde vā jāte gaḷite vā adhiṭṭhānaṃ na bhijjati, khuddakaṃ cīvaraṃ mahantaṃ karoti, mahantaṃ vā khuddakaṃ karoti, adhiṭṭhānaṃ na bhijjati. Ubho koṭiyo majjhe karonto sace paṭhamaṃ chinditvā pacchā ghaṭeti, adhiṭṭhānaṃ bhijjati. Atha ghaṭetvā chindati, na bhijjati, rajakehi dhovāpetvā setaṃ kārāpentassāpi adhiṭṭhānaṃ adhiṭṭhānamevāti . Ayaṃ tāva ‘‘antodasāhaṃ adhiṭṭheti vikappetī’’ti ettha adhiṭṭhāne vinicchayo.
Khi ai đó gia cố chỗ yếu trước rồi sau đó cắt bỏ phần yếu đi thì không mất sự ấn định. Khi xoay vòng tròn cũng tương tự. Nếu một lớp vải mỏng bị rách hoặc sờn ở một chỗ thì không mất sự ấn định. Làm y nhỏ thành lớn hay y lớn thành nhỏ cũng không mất sự ấn định. Nếu cắt đôi rồi nối lại thì mất sự ấn định, nhưng nếu nối lại rồi mới cắt thì không mất. Khi gửi thợ giặt nhuộm trắng cũng vẫn giữ nguyên sự ấn định. Đây là sự phân tích về “ấn định hoặc phân phối trong vòng mười ngày” liên quan đến việc ấn định.
Vikappane pana dve vikappanā – sammukhāvikappanā ca parammukhāvikappanā ca. Kathaṃ sammukhāvikappanā hotīti? Cīvarānaṃ ekabahubhāvaṃ sannihitāsannihitabhāvañca ñatvā ‘‘‘imaṃ cīvara’nti vā ‘imāni cīvarānī’ti vā ‘etaṃ cīvara’nti vā ‘etāni cīvarānī’’’ti vā ‘‘tuyhaṃ vikappemī’’ti vattabbaṃ, ayamekā sammukhāvikappanā. Ettāvatā nidhetuṃ vaṭṭati, paribhuñjituṃ pana vissajjetuṃ vā adhiṭṭhātuṃ vā na vaṭṭati. ‘‘Mayhaṃ santakaṃ, mayhaṃ santakāni paribhuñja vā vissajjehi vā yathāpaccayaṃ vā karohī’’ti evaṃ pana vutte paccuddhāro nāma hoti. Tatopabhuti paribhogādayopi vaṭṭanti.
Về phân phối có hai cách: phân phối trực tiếp và phân phối gián tiếp. Phân phối trực tiếp như thế nào? Sau khi biết số lượng y (một hay nhiều) và vị trí của chúng, nói: “Tôi phân phối y này” hoặc “những y này” hoặc “y đó” hoặc “những y đó” cho bạn. Đây là một cách phân phối trực tiếp. Chỉ được phép cất giữ như vậy, chưa được sử dụng, cho lại hay ấn định. Nếu nói: “Đây là y của tôi, bạn có thể sử dụng, cho lại hoặc xử lý tùy ý” thì gọi là thu hồi. Từ đó về sau có thể sử dụng hay làm gì khác.
Aparopi nayo – tatheva cīvarānaṃ ekabahubhāvaṃ sannihitāsannihitabhāvañca ñatvā tasseva bhikkhuno santike ‘‘‘imaṃ cīvara’nti vā ‘imāni cīvarānī’ti vā ‘etaṃ cīvara’nti vā ‘etāni cīvarānī’’’ti vā vatvā pañcasu sahadhammikesu aññatarassa attanā abhirucitassa yassa kassaci nāmaṃ gahetvā ‘‘‘tissassa bhikkhuno vikappemī’ti vā ‘tissāya bhikkhuniyā, sikkhamānāya, tissassa sāmaṇerassa, tissāya sāmaṇeriyā vikappemī’’’ti vā vattabbaṃ, ayaṃ aparāpi sammukhāvikappanā. Ettāvatā nidhetuṃ vaṭṭati, paribhogādīsu pana ekampi na vaṭṭati. Tena pana bhikkhunā ‘‘tissassa bhikkhuno santakaṃ…pe… tissāya sāmaṇeriyā santakaṃ paribhuñja vā vissajjehi vā yathāpaccayaṃ vā karohī’’ti vutte paccuddhāro nāma hoti. Tatopabhuti paribhogādayopi vaṭṭanti.
Còn một cách khác: Sau khi biết số lượng y (một hay nhiều) và vị trí của chúng, vị Tỳ-khưu nên nói trước mặt vị Tỳ-khưu đó: “Tôi phân phối y này” hoặc “những y này” hoặc “y đó” hoặc “những y đó”, rồi chọn một trong năm hạng đồng phạm hạnh mà mình ưa thích, gọi tên cụ thể: “Tôi phân phối cho Tỳ-khưu Tissa” hoặc “cho Tỳ-khưu ni Tissa, học nữ Tissa, sa di Tissa, sa di ni Tissa”. Đây là cách phân phối trực tiếp thứ hai. Chỉ được phép cất giữ như vậy, chưa được sử dụng hay làm gì khác. Nếu vị Tỳ-khưu nói: “Đây là y của Tỳ-khưu Tissa… (cho đến)… của sa di ni Tissa, bạn có thể sử dụng, cho lại hoặc xử lý tùy ý” thì gọi là thu hồi. Từ đó về sau có thể sử dụng hay làm gì khác.
Kathaṃ parammukhāvikappanā hotīti? Cīvarānaṃ tatheva ekabahubhāvaṃ sannihitāsannihitabhāvañca ñatvā ‘‘‘imaṃ cīvara’nti vā ‘imāni cīvarānī’ti vā ‘etaṃ cīvara’nti vā ‘etāni cīvarānī’’’ti vā vatvā ‘‘tuyhaṃ vikappanatthāya dammī’’ti vattabbaṃ. Tena vattabbo – ‘‘ko te mitto vā sandiṭṭho vā’’ti? Tato itarena purimanayeneva ‘‘tisso bhikkhūti vā…pe… tissā sāmaṇerī’’ti vā vattabbaṃ. Puna tena bhikkhunā ‘‘ahaṃ tissassa bhikkhuno dammīti vā…pe… tissāya sāmaṇeriyā dammī’’ti vā vattabbaṃ, ayaṃ parammukhāvikappanā. Ettāvatā nidhetuṃ vaṭṭati, paribhogādīsu pana ekampi na vaṭṭati. Tena pana bhikkhunā dutiyasammukhāvikappanāyaṃ vuttanayeneva ‘‘itthannāmassa santakaṃ paribhuñja vā vissajjehi vā yathāpaccayaṃ vā karohī’’ti vutte paccuddhāro nāma hoti. Tatopabhuti paribhogādayopi vaṭṭanti.
Phân phối gián tiếp như thế nào? Sau khi biết số lượng y (một hay nhiều) và vị trí của chúng, nói: “Tôi cho bạn y này” hoặc “những y này” hoặc “y đó” hoặc “những y đó để phân phối”. Người kia hỏi: “Bạn thân hay người quen của bạn là ai?” Rồi theo cách đã nói trước, trả lời: “Tỳ-khưu Tissa… (cho đến)… sa di ni Tissa”. Vị Tỳ-khưu lại nói: “Tôi cho Tỳ-khưu Tissa… (cho đến)… cho sa di ni Tissa”. Đây là cách phân phối gián tiếp. Chỉ được phép cất giữ như vậy, chưa được sử dụng hay làm gì khác. Nếu vị Tỳ-khưu nói theo cách phân phối trực tiếp thứ hai đã nói: “Đây là y của [tên người nhận], bạn có thể sử dụng, cho lại hoặc xử lý tùy ý” thì gọi là thu hồi. Từ đó về sau có thể sử dụng hay làm gì khác.
Dvinnaṃ vikappanānaṃ kiṃ nānākaraṇaṃ? Sammukhāvikappanāyaṃ sayaṃ vikappetvā parena paccuddharāpeti . Parammukhāvikappanāya pareneva vikappāpetvā pareneva paccuddharāpeti, idamettha nānākaraṇaṃ. Sace pana yassa vikappeti, so paññattikovido na hoti, na jānāti paccuddharituṃ, taṃ cīvaraṃ gahetvā aññassa byattassa santikaṃ gantvā puna vikappetvā paccuddharāpetabbaṃ. Vikappitavikappanā nāmesā vaṭṭati. Ayaṃ ‘‘vikappetī’’ti imasmiṃ pade vinicchayo.
Sự khác biệt giữa hai cách phân phối là gì?> Trong phân phối trực tiếp, tự mình phân phối rồi nhờ người khác thu hồi. Trong phân phối gián tiếp, nhờ người khác phân phối và cũng nhờ họ thu hồi – đó là điểm khác biệt. Nếu người được phân phối không thông thạo giới luật, không biết cách thu hồi, thì phải lấy y đó đến gặp vị thông thạo khác để phân phối lại và thu hồi. Đây gọi là phân phối lại. Đây là giải thích về từ “phân phối”.
‘‘Anujānāmi, bhikkhave, ticīvaraṃ adhiṭṭhātuṃ na vikappetu’’ntiādivacanato ca idaṃ ‘‘vikappetī’’ti avisesena vuttavacanaṃ viruddhaṃ viya dissati, na ca viruddhaṃ tathāgatā bhāsanti. Tasmā evamassa attho veditabbo, ticīvaraṃ ticīvarasaṅkhepeneva pariharato adhiṭṭhātumeva anujānāmi, na vikappetuṃ. Vassikasāṭikaṃ pana cātumāsato paraṃ vikappetumeva na adhiṭṭhātuṃ. Evañca sati yo ticīvare ekena cīvarena vippavasitukāmo hoti, tassa ticīvarādhiṭṭhānaṃ paccuddharitvā vippavāsasukhatthaṃ vikappanāya okāso dinno hoti. Dasāhātikkame ca anāpattīti etenupāyena sabbattha vikappanāya appaṭisiddhabhāvo veditabbo.
Từ lời dạy “Này các Tỳ-khưu, Ta cho phép ấn định ba y nhưng không được phân phối” trở đi, dường như mâu thuẫn với câu “có thể phân phối” nói chung này, nhưng lời Đức Như Lai không mâu thuẫn. Nên hiểu ý nghĩa như sau: Ta cho phép ấn định ba y khi mang theo đầy đủ cả ba, không cho phép phân phối. Nhưng y mưa sau bốn tháng thì chỉ được phân phối, không được ấn định. Như vậy, nếu Tỳ-khưu nào muốn đi xa chỉ mang một y, có thể thu hồi sự ấn định ba y rồi phân phối để tiện đi lại. Và không phạm khi quá mười ngày. Qua phương tiện này nên hiểu rằng việc phân phối không bị cấm trong mọi trường hợp.
Vissajjetīti aññassa deti. Kathaṃ pana dinnaṃ hoti, kathaṃ gahitaṃ? ‘‘Imaṃ tuyhaṃ demi dadāmi dajjāmi oṇojemi pariccajāmi nissajjāmi vissajjāmīti vā ‘‘itthannāmassa demi…pe… nissajjāmī’’ti vā vadati, sammukhāpi parammukhāpi dinnaṃyeva hoti. ‘‘Tuyhaṃ gaṇhāhī’’ti vutte ‘‘mayhaṃ gaṇhāmī’’ti vadati, sudinnaṃ suggahitañca. ‘‘Tava santakaṃ karohi, tava santakaṃ hotu, tava santakaṃ karissasī’’ti vutte ‘‘mama santakaṃ karomi, mama santakaṃ hotu, mama santakaṃ karissāmī’’ti vadati, duddinnaṃ duggahitañca. Neva dātā dātuṃ jānāti, na itaro gahetuṃ. Sace pana ‘‘tava santakaṃ karohī’’ti vutte ‘‘sādhu, bhante, mayhaṃ gaṇhāmī’’ti gaṇhāti, suggahitaṃ. Sace pana ‘‘eko gaṇhāhī’’ti vadati, itaro ‘‘na gaṇhāmī’’ti puna so ‘‘dinnaṃ mayā tuyhaṃ, gaṇhāhī’’ti vadati, itaropi ‘‘na mayhaṃ iminā attho’’ti vadati. Tato purimopi ‘‘mayā dinna’’nti dasāhaṃ atikkāmeti, pacchimopi ‘‘mayā paṭikkhitta’’nti. Kassa āpattīti? Na kassaci āpatti. Yassa pana ruccati, tena adhiṭṭhahitvā paribhuñjitabbaṃ.
Cho lại nghĩa là đưa cho người khác. Thế nào gọi là đã cho, thế nào gọi là đã nhận? Khi nói: “Tôi đưa y này cho bạn, tặng bạn, trao bạn, hiến bạn, từ bỏ, xả bỏ, cho lại bạn” hoặc “Tôi đưa cho Tỳ-khưu tên… (cho đến)… xả bỏ” – dù nói trực tiếp hay gián tiếp đều gọi là đã cho. Khi nói “Bạn hãy nhận lấy” và người kia đáp “Tôi nhận” thì gọi là đã cho tốt và nhận tốt. Nếu nói “Hãy làm của bạn, hãy thuộc về bạn, bạn hãy làm chủ” mà người kia đáp “Tôi làm của tôi, thuộc về tôi, tôi làm chủ” thì gọi là đã cho xấu và nhận xấu, vì người cho không biết cách cho, người nhận không biết cách nhận. Nhưng nếu nói “Hãy làm của bạn” mà người kia đáp “Lành thay, thưa Ngài, tôi nhận lấy” thì gọi là nhận tốt. Nếu một người nói “Một người hãy nhận lấy” mà người kia từ chối, rồi người đầu nói “Tôi đã cho bạn, hãy nhận đi” nhưng người kia vẫn nói “Tôi không cần”, thì cả hai đều không phạm tội. Ai thích thì có thể ấn định rồi sử dụng.
Yo pana adhiṭṭhāne vematiko, tena kiṃ kātabbaṃ? Vematikabhāvaṃ ārocetvā sace anadhiṭṭhitaṃ bhavissati, evaṃ me kappiyaṃ hotīti vatvā vuttanayeneva nissajjitabbaṃ. Na hi evaṃ jānāpetvā vinayakammaṃ karontassa musāvādo hoti. Keci pana ‘‘ekena bhikkhunā vissāsaṃ gahetvā puna dinnaṃ vaṭṭatī’’ti vadanti, taṃ na yujjati. Na hi tassetaṃ vinayakammaṃ, nāpi taṃ ettakena aññaṃ vatthuṃ hoti.
Nếu nghi ngờ về việc ấn định thì phải làm sao? Nên bày tỏ sự nghi ngờ và nói: “Nếu chưa được ấn định thì xin cho tôi được phép”, rồi xả bỏ theo cách đã nói. Làm nghi thức giới luật sau khi thông báo như vậy không phải là nói dối. Một số người nói: “Có thể nhờ một Tỳ-khưu đáng tin rồi cho lại”, nhưng cách này không đúng, vì không phải là nghi thức giới luật, cũng không có tiền lệ.
Nassatītiādi uttānatthameva. Yo na dadeyya āpatti dukkaṭassāti ettha ‘‘mayhaṃ dinnaṃ iminā’’ti imāya saññāya na dentassa dukkaṭaṃ. Tassa santakabhāvaṃ pana ñatvā lesena acchindanto bhaṇḍaṃ agghāpetvā kāretabboti.
Bị mất v.v… nghĩa rõ ràng. Ai không cho thì phạm tội tác ác: Ở đây, người không cho với ý nghĩ “Tôi đã cho người này rồi” thì phạm tác ác. Nếu biết đó là vật của mình mà cố tình chiếm đoạt thì phải bồi thường giá trị tương đương.
Samuṭṭhānādīsu idaṃ sikkhāpadaṃ kathinasamuṭṭhānaṃ nāma kāyavācāto ca kāyavācācittato ca samuṭṭhāti, anadhiṭṭhānena ca avikappanena ca āpajjanato akiriyaṃ, saññāya abhāvepi na muccati, ajānantopi āpajjatīti nosaññāvimokkhaṃ, acittakaṃ, paṇṇattivajjaṃ, kāyakammaṃ, vacīkammaṃ, ticittaṃ, tivedananti.
Về các yếu tố phát sinh: Giới điều này phát sinh từ thân và khẩu, hoặc từ thân, khẩu và ý. Phạm tội do không ấn định và không phân phối, là hành động không nên làm. Dù không có tưởng (nhận thức sai) cũng không thoát tội, dù không biết vẫn phạm – nên không có sự giải thoát nhờ tưởng, không thuộc về vô tâm (hành động không có ý thức), thuộc về quy định chứ không phải thế tục, là thân nghiệp, khẩu nghiệp, có ba loại tâm (thiện, bất thiện, vô ký), và ba loại cảm thọ (lạc, khổ, không khổ không lạc).
Paṭhamakathinasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Kết thúc phần giải thích giới Kathina đầu tiên.
2. Udositasikkhāpadavaṇṇanā
2. Giới giải thích về y bị bỏ quên
471.Tenasamayena buddho bhagavāti udositasikkhāpadaṃ. Tattha santaruttarenāti antaranti antaravāsako vuccati, uttaranti uttarāsaṅgo, saha antarena uttaraṃ santaruttaraṃ, tena santaruttarena, saha antaravāsakena uttarāsaṅgenāti attho. Kaṇṇakitānīti sedena phuṭṭhokāsesu sañjātakāḷasetamaṇḍalāni. Addasa kho āyasmā ānando senāsanacārikaṃ āhiṇḍantoti thero kira bhagavati divā paṭisallānatthāya gandhakuṭiṃ paviṭṭhe taṃ okāsaṃ labhitvā dunnikkhittāni dārubhaṇḍamattikābhaṇḍāni paṭisāmento asammaṭṭhaṭṭhānaṃ sammajjanto gilānehi bhikkhūhi saddhiṃ paṭisanthāraṃ karonto tesaṃ bhikkhūnaṃ senāsanaṭṭhānaṃ sampatto addasa. Tena vuttaṃ – ‘‘addasa kho āyasmā ānando senāsanacārikaṃ āhiṇḍanto’’ti.
471. Lúc bấy giờ Đức Phật Thế Tôn – đây là giới điều về y bị bỏ quên. Ở đây, “với y nội và y vai trái” – y nội gọi là “antara”, y vai trái gọi là “uttara”, cùng với y nội và y vai trái là “santaruttara”, nghĩa là cùng với y nội và y vai trái. “Bị ố vàng” – những vết đen tròn xuất hiện ở chỗ bị ướt do mồ hôi. Tôn giả Ānanda trong khi đi kiểm tra chỗ ở đã nhìn thấy – nghe nói vị Trưởng lão khi Đức Thế Tôn vào tịnh thất Gandhakuṭi để nghỉ trưa, nhân cơ hội đó đã sắp xếp lại các đồ đạc bằng gỗ và đất sét bị bỏ bừa bãi, quét dọn những chỗ chưa được quét, tiếp đón các tỳ khưu bệnh, khi đến chỗ ở của các tỳ khưu ấy đã nhìn thấy. Do đó nói: “Tôn giả Ānanda trong khi đi kiểm tra chỗ ở đã nhìn thấy”.
473.Avippavāsasammutiṃ dātunti avippavāse sammuti avippavāsasammuti, avippavāsāya vā sammuti avippavāsasammuti. Ko panettha ānisaṃso? Yena cīvarena vippavasati, taṃ nissaggiyaṃ na hoti, āpattiñca nāpajjati. Kittakaṃ kālaṃ? Mahāsumatthero tāva āha – ‘‘yāva rogo na vūpasamati, vūpasante pana roge sīghaṃ cīvaraṭṭhānaṃ āgantabba’’nti . Mahāpadumatthero āha – ‘‘sīghaṃ āgacchato rogo paṭikuppeyya, tasmā saṇikaṃ āgantabbaṃ. Yato paṭṭhāya hi satthaṃ vā pariyesati, ‘gacchāmī’ti ābhogaṃ vā karoti, tato paṭṭhāya vaṭṭati. ‘Na dāni gamissāmī’ti evaṃ pana dhuranikkhepaṃ karontena paccuddharitabbaṃ, atirekacīvaraṭṭhāne ṭhassatī’’ti. Sace panassa rogo paṭikuppati, kiṃ kātabbanti? Phussadevatthero tāva āha – ‘‘sace soyeva rogo paṭikuppati, sā eva sammuti, puna sammutidānakiccaṃ natthi. Athañño kuppati, puna dātabbā sammutī’’ti. Upatissatthero āha – ‘‘so vā rogo hotu, añño vā puna sammutidānakiccaṃ natthī’’ti.
473. Cho phép không xa lìa – sự thỏa thuận không xa lìa gọi là avippavāsasammuti, hoặc sự thỏa thuận vì mục đích không xa lìa. Lợi ích ở đây là gì? Y mà vị ấy xa lìa không trở thành vật phải xả, và cũng không phạm tội. Trong bao lâu? Ngài Mahāsumana nói: “Cho đến khi bệnh chưa dứt, khi bệnh đã dứt thì phải nhanh chóng trở về chỗ y”. Ngài Mahāpaduma nói: “Nếu trở về nhanh thì bệnh có thể tái phát, nên phải trở về từ từ. Kể từ khi tìm dao hoặc khởi ý ‘tôi sẽ đi’ thì tính từ đó. Nếu từ bỏ ý định ‘tôi sẽ không đi nữa’ thì phải thu hồi sự thỏa thuận, y sẽ trở thành y dư”. Nếu bệnh tái phát thì phải làm sao? Ngài Phussadeva nói: “Nếu cùng một bệnh tái phát thì sự thỏa thuận trước vẫn có hiệu lực, không cần thỏa thuận lại. Nếu bệnh khác tái phát thì phải thỏa thuận lại”. Ngài Upatissa nói: “Dù cùng bệnh hay bệnh khác đều không cần thỏa thuận lại”.
475-6.Niṭṭhitacīvarasmiṃ bhikkhunāti idha pana purimasikkhāpade viya atthaṃ aggahetvā niṭṭhite cīvarasmiṃ bhikkhunoti evaṃ sāmivasena karaṇavacanassa attho veditabbo. Karaṇavasena hi bhikkhunā idaṃ nāma kātabbanti natthi. Sāmivasena pana bhikkhuno cīvarasmiṃ niṭṭhite kathine ca ubbhate evaṃ chinnapalibodho ekarattampi ce bhikkhu ticīvarena vippavaseyyāti evaṃ attho yujjati. Tattha ticīvarenāti adhiṭṭhitesu tīsu cīvaresu yena kenaci. Ekena vippavutthopi hi ticīvarena vippavuttho hoti, paṭisiddhapariyāpannena vippavutthattā. Tenevassa padabhājane ‘‘saṅghāṭiyā vā’’tiādi vuttaṃ. Vippavaseyyāti vippayutto vaseyya.
475-6. Khi y đã hoàn thành, vị Tỳ-khưu – ở đây nên hiểu theo nghĩa tương tự giới trước, “vị Tỳ-khưu khi y đã hoàn thành” có nghĩa là xét về mặt hành động của vị Tỳ-khưu. Về mặt hành động thì không có gì phải làm, nhưng xét về mặt sở hữu thì khi y đã hoàn thành và Kathina đã tháo, nếu vị Tỳ-khưu xa lìa ba y dù chỉ một đêm thì phạm tội. Ở đây ba y nghĩa là bất cứ y nào trong ba y đã ấn định. Dù chỉ xa lìa một y cũng tính là xa lìa ba y, vì thuộc về vật bị cấm xa lìa. Do đó trong phần giải thích từ ngữ có nói “hoặc Tăng-già-lê” v.v… Xa lìa nghĩa là sống tách rời.
477-8.Gāmo ekūpacārotiādi avippavāsalakkhaṇavavatthāpanatthaṃ vuttaṃ. Tato paraṃ yathākkamena tāneva pannarasa mātikāpadāni vitthārento ‘‘gāmo ekūpacāro nāmā’’tiādimāha. Tattha ekakulassa gāmoti ekassa rañño vā bhojakassa vā gāmo. Parikkhittoti yena kenaci pākārena vā vatiyā vā parikkhāya vā parikkhitto. Ettāvatā ekakulagāmassa ekūpacāratā dassitā. Antogāme vatthabbanti evarūpe gāme cīvaraṃ nikkhipitvā gāmabbhantare yathārucite ṭhāne aruṇaṃ uṭṭhāpetuṃ vaṭṭati. Aparikkhittoti iminā tasseva gāmassa nānūpacāratā dassitā. Evarūpe gāme yasmiṃ ghare cīvaraṃ nikkhittaṃ, tattha vatthabbaṃ. Hatthapāsā vā na vijahitabbanti atha vā taṃ gharaṃ samantato hatthapāsā na vijahitabbaṃ, aḍḍhateyyaratanappamāṇappadesā uddhaṃ na vijahitabbanti vuttaṃ hoti. Aḍḍhateyyaratanabbhantare pana vatthuṃ vaṭṭati. Taṃ pamāṇaṃ atikkamitvā sacepi iddhimā bhikkhū ākāse aruṇaṃ uṭṭhāpeti, nissaggiyameva hoti. Ettha ca yasmiṃ ghareti gharaparicchedo ‘‘ekakulassa nivesanaṃ hotī’’tiādinā (pārā. 480) lakkhaṇena veditabbo.
477-478. Làng với một khu vực lân cận – được nói để xác định đặc điểm của việc không xa lìa. Tiếp theo lần lượt giải thích chi tiết 15 trường hợp mẫu, bắt đầu bằng gọi là làng với một khu vực lân cận. Ở đây, làng của một gia tộc là làng thuộc về một vị vua hoặc một lãnh chúa. Có ranh giới nghĩa là được bao quanh bởi tường thành, hào hay bất cứ ranh giới nào. Như vậy cho thấy làng một gia tộc có một khu vực lân cận. Phải ở trong làng – trong loại làng như vậy, có thể đặt y rồi đợi bình minh ở bất cứ chỗ thích hợp nào trong làng. Không có ranh giới chỉ ra rằng loại làng này không có khu vực lân cận. Trong làng như vậy, phải ở trong nhà nơi đặt y. Không được rời xa tầm tay nghĩa là không được rời xa ngôi nhà quá tầm tay, trong phạm vi ném đá xa nửa do tuần (khoảng 1km). Có thể ở trong phạm vi đó. Nếu vượt quá khoảng cách này dù Tỳ-khưu có thần thông bay trên không đợi bình minh, y vẫn trở thành vật phải xả. Ở đây, ngôi nhà nào được xác định bằng đặc điểm như chỗ ở của một gia tộc (Pārā. 480).
479.Nānākulassagāmoti nānārājūnaṃ vā bhojakānaṃ vā gāmo, vesālikusinārādisadiso. Parikkhittoti iminā nānākulagāmassa ekūpacāratā dassitā. Sabhāye vā dvāramūle vāti ettha sabhāyanti liṅgabyattayena sabhā vuttā. Dvāramūleti nagaradvārassa samīpe. Idaṃ vuttaṃ hoti – evarūpe gāme yasmiṃ ghare cīvaraṃ nikkhittaṃ, tattha vā vatthabbaṃ. Tattha saddasaṅghaṭṭanena vā janasambādhena vā vasituṃ asakkontena sabhāye vā vatthabbaṃ nagaradvāramūle vā. Tatrapi vasituṃ asakkontena yattha katthaci phāsukaṭṭhāne vasitvā antoaruṇe āgamma tesaṃyeva sabhāyadvāramūlānaṃ hatthapāsā vā na vijahitabbaṃ. Gharassa pana cīvarassa vā hatthapāse vattabbameva natthi.
479. Làng nhiều gia tộc là làng thuộc về nhiều vua hoặc lãnh chúa, như Vesāli hay Kusinārā. Có ranh giới chỉ ra rằng làng nhiều gia tộc có một khu vực lân cận. Tại hội trường hoặc cổng làng – ở đây hội trường được hiểu là nơi hội họp công cộng. Cổng làng là gần cổng thành. Ý nói rằng trong loại làng này, phải ở trong nhà nơi đặt y. Nếu không thể ở đó do ồn ào hay đông người, thì có thể ở hội trường hoặc cổng làng. Nếu vẫn không thể ở được thì có thể ở bất cứ chỗ thuận tiện nào, nhưng phải quay về gần hội trường hoặc cổng làng khi bình minh, và không được rời xa quá tầm tay. Với ngôi nhà chứa y thì không cần phải ở trong tầm tay.
Sabhāyaṃ gacchantena hatthapāse cīvaraṃ nikkhipitvāti sace ghare aṭṭhapetvā sabhāye ṭhapessāmīti sabhāyaṃ gacchati, tena sabhāyaṃ gacchantena hatthapāseti hatthaṃ pasāretvā ‘‘handimaṃ cīvaraṃ ṭhapemī’’ti evaṃ nikkhepasukhe hatthapāsagate kismiñci āpaṇe cīvaraṃ nikkhipitvā purimanayeneva sabhāye vā vatthabbaṃ dvāramūle vā, hatthapāsā vā na vijahitabbaṃ.
Khi đi đến hội trường phải đặt y trong tầm tay – nếu đã để y trong nhà rồi muốn đặt ở hội trường mà đi đến hội trường, thì khi đi như vậy phải đặt y trong tầm tay, nghĩa là duỗi tay ra nói “nào, ta hãy đặt y này” rồi đặt y ở bất cứ cửa hàng nào thuộc tầm tay, sau đó theo cách đã nói trước, phải ở tại hội trường hoặc cổng làng, hoặc không được rời xa tầm tay.
Tatrāyaṃ vinicchayo – phussadevatthero tāva āha – ‘‘cīvarahatthapāse vasitabbaṃ natthi, yattha katthaci vīthihatthapāsepi sabhāyahatthapāsepi dvārahatthapāsepi vasituṃ vaṭṭatī’’ti. Upatissatthero panāha – ‘‘nagarassa bahūnipi dvārāni honti bahūnipi sabhāyāni, tasmā sabbattha na vaṭṭati. Yassā pana vīthiyā cīvaraṃ ṭhapitaṃ yaṃ tassā sammukhaṭṭhāne sabhāyañca dvārañca tassa sabhāyassa ca dvārassa ca hatthapāsā na vijahitabbaṃ. Evañhi sati sakkā cīvarassa pavatti jānitu’’nti. Sabhāyaṃ pana gacchantena yassa āpaṇikassa hatthe nikkhittaṃ, sace so taṃ cīvaraṃ atiharitvā ghare nikkhipati, vīthihatthapāso na rakkhati, gharassa hatthapāse vatthabbaṃ. Sace mahantaṃ gharaṃ hoti, dve vīthiyo pharitvā ṭhitaṃ purato vā pacchato vā hatthapāseyeva aruṇaṃ uṭṭhāpetabbaṃ. Sabhāye nikkhipitvā pana sabhāye vā tassa sammukhe nagaradvāramūle vā tesaṃyeva hatthapāse vā aruṇaṃ uṭṭhāpetabbaṃ.
Về vấn đề này có sự phân tích: Trưởng lão Phussadeva nói: “Không cần phải ở trong tầm tay của y, có thể ở bất cứ nơi nào trong tầm tay của con đường, hội trường hay cổng thành”. Trưởng lão Upatissa lại nói: “Một thành phố có nhiều cổng và nhiều hội trường, nên không thể áp dụng khắp nơi. Chỉ không được rời xa tầm tay của hội trường và cổng thành nào đối diện với con đường nơi đặt y. Như vậy mới có thể biết được sự an toàn của y”. Khi đi đến hội trường, nếu đặt y vào tay người chủ cửa hàng mà người ấy mang y về nhà, thì không cần giữ trong tầm tay của con đường nữa, mà phải ở trong tầm tay của ngôi nhà. Nếu là ngôi nhà lớn trải dài hai con đường, thì phải đợi bình minh trong tầm tay phía trước hoặc phía sau. Khi đã đặt y ở hội trường thì phải đợi bình minh tại chính hội trường đó, hoặc tại cổng thành đối diện, hoặc trong tầm tay của những nơi đó.
Aparikkhittotiiminā tasseva gāmassa nānūpacāratā dassitā. Etenevupāyena sabbattha ekūpacāratā ca nānūpacāratā ca veditabbā. Pāḷiyaṃ pana ‘‘gāmo ekūpacāro nāmā’’ti evaṃ ādimhi ‘‘ajjhokāso ekūpacāro nāmā’’ti evaṃ ante ca ekameva mātikāpadaṃ uddharitvā padabhājanaṃ vitthāritaṃ. Tasmā tasseva padassānusārena sabbattha parikkhepādivasena ekūpacāratā ca nānūpacāratā ca veditabbā.
Không có ranh giới – điều này cho thấy làng đó không có khu vực lân cận. Bằng phương pháp này, cần hiểu về sự có hay không có khu vực lân cận trong mọi trường hợp. Trong văn bản Pāli, câu “gọi là làng với một khu vực lân cận” ở phần đầu và “gọi là khoảng trống với một khu vực lân cận” ở phần cuối đều là một mẫu câu được trích dẫn và giải thích chi tiết. Do đó, theo cách diễn giải đó, cần hiểu về sự có hay không có khu vực lân cận trong mọi trường hợp dựa trên ranh giới v.v…
480-1.Nivesanādīsuovarakāti gabbhānaṃyevetaṃ pariyāyavacanaṃ. Hatthapāsā vāti gabbhassa hatthapāsā. Dvāramūle vāti sabbesaṃ sādhāraṇe gharadvāramūle. Hatthapāsā vāti gabbhassa vā gharadvāramūlassa vā hatthapāsā.
480-481. Trong nhà ở v.v… phần phía trong – đây là cách gọi khác của các phòng. Trong tầm tay – tầm tay của phòng. Tại cửa ra vào – cửa ra vào chung của tất cả. Trong tầm tay – tầm tay của phòng hoặc cửa ra vào.
482-7.Udositoti yānādīnaṃ bhaṇḍānaṃ sālā. Ito paṭṭhāya ca nivesane vuttanayeneva vinicchayo veditabbo. Aṭṭoti paṭirājādipaṭibāhanatthaṃ iṭṭhakāhi kato bahalabhittiko catupañcabhūmiko patissayaviseso. Māḷoti ekakūṭasaṅgahito caturassapāsādo. Pāsādoti dīghapāsādo. Hammiyanti muṇḍacchadanapāsādo.
482-487. Nhà xe – nhà kho chứa xe cộ và đồ đạc. Từ đây trở đi, cách phân tích cần được hiểu theo phương pháp đã nói về nhà ở. Pháo đài – loại kiến trúc đặc biệt có tường dày bằng gạch để phòng thủ chống vua địch, thường có 4-5 tầng. Lầu – tòa nhà vuông có một mái nhọn. Dinh thự – tòa nhà dài. Lầu cao – dinh thự có mái bằng.
489.Sattabbhantarātiettha ekaṃ abbhantaraṃ aṭṭhavīsatihatthaṃ hoti. Sace sattho gacchanto gāmaṃ vā nadiṃ vā pariyādiyitvā tiṭṭhati antopaviṭṭhena saddhiṃ ekābaddho hutvā orañca pārañca pharitvā ṭhito hoti, satthaparihārova labbhati. Atha gāme vā nadiyā vā pariyāpanno hoti antopaviṭṭho , gāmaparihāro ceva nadīparihāro ca labbhati. Sace vihārasīmaṃ atikkamitvā tiṭṭhati, antosīmāya ca cīvaraṃ hoti, vihāraṃ gantvā vasitabbaṃ. Sace bahisīmāya cīvaraṃ hoti satthasamīpeyeva vasitabbaṃ. Sace gacchanto sakaṭe vā bhagge goṇe vā naṭṭhe antarā chijjati, yasmiṃ koṭṭhāse cīvaraṃ tattha vasitabbaṃ.
489. Trong phạm vi bảy khoảng cách – ở đây một khoảng cách là 28 cubit (khoảng 14m). Nếu đoàn lữ hành đang đi chiếm cứ một ngôi làng hoặc con sông và dừng lại, cùng với người đã vào trong tạo thành một khối thống nhất, trải dài cả bên này và bên kia, thì chỉ cần ở cùng đoàn là đủ. Nếu làng hoặc sông bị chiếm cứ hoàn toàn bởi người đã vào trong, thì cần phải ở trong làng hoặc bên sông. Nếu vượt qua ranh giới tu viện mà dừng lại, trong khi y vẫn ở trong ranh giới, thì phải trở về tu viện để ở. Nếu y ở ngoài ranh giới thì phải ở ngay gần đoàn. Nếu đang đi mà xe, kiệu hoặc bò bị mất tích giữa đường, thì phải ở ngay chỗ có y.
490. Ekakulassa khette hatthapāso nāma cīvarahatthapāsoyeva, nānākulassa khette hatthapāso nāma khettadvārassa hatthapāso. Aparikkhitte cīvarasseva hatthapāso.
490. Trên ruộng của một gia đình, “tầm tay” có nghĩa là tầm tay với y; trên ruộng của nhiều gia đình, “tầm tay” có nghĩa là tầm tay với cổng ruộng. Đối với y không có ranh giới thì “tầm tay” vẫn là tầm tay với y.
491-4.Dhaññakaraṇanti khalaṃ vuccati. Ārāmoti pupphārāmo vā phalārāmo vā. Dvīsupi khette vuttasadisova vinicchayo. Vihāro nivesanasadiso. Rukkhamūle antochāyāyanti chāyāya phuṭṭhokāsassa anto eva. Viraḷasākhassa pana rukkhassa ātapena phuṭṭhokāse ṭhapitaṃ nissaggiyameva hoti, tasmā tādisassa sākhācchāyāya vā khandhacchāyāya vā ṭhapetabbaṃ. Sace sākhāya vā viṭape vā ṭhapeti, upari aññasākhācchāyāya phuṭṭhokāseyeva ṭhapetabbaṃ. Khujjarukkhassa chāyā dūraṃ gacchati, chāyāya gataṭṭhāne ṭhapetuṃ vaṭṭatiyeva. Idhāpi hatthapāso cīvarahatthapāsoyeva.
491-494. Sân phơi lúa – gọi là khala. Vườn – có thể là vườn hoa hoặc vườn cây ăn trái. Cách xác định giống như đã nói về ruộng. Tu viện tương tự như nhà ở. Dưới gốc cây, trong bóng râm nghĩa là phần được bóng che phủ. Nếu đặt y ở chỗ có ánh nắng chiếu qua cành cây thưa thớt thì y phải xả, nên phải đặt trong bóng của cành hoặc thân cây. Nếu đặt trên cành hoặc tán cây, phải đặt ở chỗ được che bởi cành khác. Cây cau có bóng đi xa, có thể đặt y ở nơi bóng râm chiếu tới. Ở đây “tầm tay” cũng là tầm tay với y.
Agāmake araññeti agāmakaṃ nāma araññaṃ viñjhāṭavīādīsu vā samuddamajjhe vā macchabandhānaṃ agamanapathe dīpakesu labbhati. Samantā sattabbhantarāti majjhe ṭhitassa samattā sabbadisāsu sattabbhantarā, vinibbedhena cuddasa honti. Majjhe nisinno puratthimāya vā pacchimāya vā disāya pariyante ṭhapitacīvaraṃ rakkhati. Sace pana aruṇuggamanasamaye kesaggamattampi puratthimaṃ disaṃ gacchati, pacchimāya disāya cīvaraṃ nissaggiyaṃ hoti. Esa nayo itarasmiṃ. Uposathakāle pana parisapariyante nisinnabhikkhuto paṭṭhāya sattabbhantarasīmā sodhetabbā. Yattakaṃ bhikkhusaṅgho vaḍḍhati, sīmāpi tattakaṃ vaḍḍhati.
Trong rừng không có làng – rừng không có làng được tìm thấy ở những nơi như rừng rậm hoang vu, giữa biển, trên đường đi của ngư dân, hoặc trên các đảo nhỏ. Xung quanh bảy khoảng cách – đối với người đứng giữa, bảy khoảng cách tính đều khắp các hướng, chi tiết là mười bốn khoảng. Người ngồi giữa có thể bảo vệ y đặt ở biên giới phía đông hoặc tây. Tuy nhiên, nếu khi bình minh ló dạng mà đi dù chỉ một sợi tóc về hướng đông, thì y ở hướng tây trở thành phải xả. Cách hiểu tương tự cho các hướng khác. Vào ngày Bố-tát, cần xác định lại ranh giới bảy khoảng cách tính từ vị trí của Tỳ-khưu ngồi ngoài cùng. Khi tăng chúng tăng lên, ranh giới cũng mở rộng theo.
495.Anissajjitvā paribhuñjati āpatti dukkaṭassāti ettha sace padhāniko bhikkhu sabbarattiṃ padhānamanuyuñjitvā paccusasamaye ‘‘nhāyissāmī’’ti tīṇipi cīvarāni tīre ṭhapetvā nadiṃ otarati, nhāyantasseva cassa aruṇaṃ uṭṭhahati, kiṃ kātabbaṃ. So hi yadi uttaritvā cīvaraṃ nivāseti, nissaggiyacīvaraṃ anissajjitvā paribhuñjanapaccayā dukkaṭaṃ āpajjati. Atha naggo gacchati, evampi dukkaṭaṃ āpajjatīti? Na āpajjati. So hi yāva aññaṃ bhikkhuṃ disvā vinayakammaṃ na karoti, tāva tesaṃ cīvarānaṃ aparibhogārahattā naṭṭhacīvaraṭṭhāne ṭhito hoti. Naṭṭhacīvarassa ca akappiyaṃ nāma natthi. Tasmā ekaṃ nivāsetvā dve hatthena gahetvā vihāraṃ gantvā vinayakammaṃ kātabbaṃ. Sace dūre vihāro hoti, antarāmagge manussā sañcaranti. Ekaṃ nivāsetvā ekaṃ pārupitvā ekaṃ aṃsakūṭe ṭhapetvā gantabbaṃ. Sace vihāre sabhāgabhikkhū na passati, bhikkhācāraṃ gatā honti, saṅghāṭiṃ bahigāme ṭhapetvā santaruttarena āsanasālaṃ gantvā vinayakammaṃ kātabbaṃ. Sace bahigāme corabhayaṃ hoti, pārupitvā gantabbaṃ. Sace āsanasālā sambādhā hoti janākiṇṇā, na sakkā ekamante cīvaraṃ apanetvā vinayakammaṃ kātuṃ, ekaṃ bhikkhuṃ ādāya bahigāmaṃ gantvā vinayakammaṃ katvā cīvarāni paribhuñjitabbāni.
495. Không xả mà sử dụng, phạm tội tác ác – ở đây, nếu vị Tỳ-khưu chuyên tu thiền định suốt đêm, đến gần sáng nghĩ “ta sẽ tắm” rồi để cả ba y trên bờ rồi xuống sông tắm, trong khi tắm thì trời sáng, phải làm sao? Nếu sau khi lên bờ mặc y vào thì phạm tội tác ác do sử dụng y phải xả mà chưa xả. Nếu đi trần thì sao? Không phạm tội. Bởi vì cho đến khi gặp được vị Tỳ-khưu khác để làm tịnh hạnh, vị ấy ở vào vị trí của người bị mất y, và y đã mất thì không còn là vật bất tịnh. Do đó, nên mặc một y, cầm hai y kia bằng tay rồi về tịnh xá làm tịnh hạnh. Nếu tịnh xá quá xa, dọc đường có người qua lại, thì mặc một y, khoác một y, và vắt một y lên vai mà đi. Nếu ở tịnh xá không gặp Tỳ-khưu nào vì các vị đã đi khất thực, thì để tăng-già-lê bên ngoài làng, vào nhà khách với y nội và y vai trái để làm tịnh hạnh. Nếu bên ngoài làng có nguy cơ trộm cướp, thì phải mặc y mà đi. Nếu nhà khách đông đúc, không thể tách ra một góc để làm tịnh hạnh, thì nên dẫn theo một vị Tỳ-khưu ra ngoài làng, làm tịnh hạnh xong rồi mới sử dụng các y.
Sace bhikkhū daharānaṃ hatthe pattacīvaraṃ datvā maggaṃ gacchantā pacchime yāme sayitukāmā honti, attano attano cīvaraṃ hatthapāse katvāva sayitabbaṃ. Sace gacchantānaṃyeva asampattesu daharesu aruṇaṃ uggacchati, cīvaraṃ nissaggiyaṃ hoti, nissayo pana na paṭippassambhati, daharānampi purato gacchantānaṃ theresu asampattesu eseva nayo. Maggaṃ virajjhitvā araññe aññamaññaṃ apassantesupi eseva nayo. Sace pana daharā ‘‘mayaṃ, bhante, muhuttaṃ sayitvā asukasmiṃ nāma okāse tumhe sampāpuṇissāmā’’ti vatvā yāva aruṇuggamanā sayanti, cīvarañca nissaggiyaṃ hoti, nissayo ca paṭippassambhati, dahare uyyojetvā theresu sayantesupi eseva nayo. Dvedhāpathaṃ disvā therā ‘‘ayaṃ maggo’’ daharā ‘‘ayaṃ maggo’’ti vatvā aññamaññassa vacanaṃ aggahetvā gatā, saha aruṇuggamanā cīvarāni ca nissaggiyāni honti , nissayo ca paṭippassambhati. Sace daharā maggato okkamma ‘‘antoaruṇeyeva nivattissāmā’’ti bhesajjatthāya gāmaṃ pavisitvā āgacchanti. Asampattānaṃyeva ca tesaṃ aruṇo uggacchati, cīvarāni nissaggiyāni honti, nissayo pana na paṭippassambhati. Sace pana dhenubhayena vā sunakhabhayena vā ‘‘muhuttaṃ ṭhatvā gamissāmā’’ti ṭhatvā vā nisīditvā vā gacchanti, antarā aruṇe uggate cīvarāni nissaggiyāni honti, nissayo ca paṭippassambhati. Sace ‘‘antoaruṇeyeva āgamissāmā’’ti antosīmāyaṃ gāmaṃ paviṭṭhānaṃ antarā aruṇo uggacchati, neva cīvarāni nissaggiyāni honti, na nissayo paṭippassambhati. Sace pana ‘‘vibhāyatu tāvā’’ti nisīdanti, aruṇe uggatepi na cīvarāni nissaggiyāni honti, nissayo pana paṭippassambhati. Yepi ‘‘antoaruṇeyeva āgamissāmā’’ti sāmantavihāraṃ dhammasavanatthāya saussāhā gacchanti, antarāmaggeyeva ca nesaṃ aruṇo uggacchati, cīvarāni nissaggiyāni honti, nissayo pana na paṭippassambhati. Sace dhammagāravena ‘‘yāva pariyosānaṃ sutvāva gamissāmā’’ti nisīdanti, saha aruṇassuggamanā cīvarānipi nissaggiyāni honti, nissayopi paṭippassambhati. Therena daharaṃ cīvaradhovanatthāya gāmakaṃ pesentena attano cīvaraṃ paccuddharitvāva dātabbaṃ. Daharassāpi cīvaraṃ paccuddharāpetvā ṭhapetabbaṃ. Sace assatiyā gacchati, attano cīvaraṃ paccuddharitvā daharassa cīvaraṃ vissāsena gahetvā ṭhapetabbaṃ. Sace thero nassarati, daharo eva sarati, daharena attano cīvaraṃ paccuddharitvā therassa cīvaraṃ vissāsena gahetvā gantvā vattabbo ‘‘bhante, tumhākaṃ cīvaraṃ adhiṭṭhahitvā paribhuñjathā’’ti attanopi cīvaraṃ adhiṭṭhātabbaṃ. Evaṃ ekassa satiyāpi āpattimokkho hotīti. Sesaṃ uttānatthameva .
Trường hợp các Tỳ-khưu trẻ: Nếu các Tỳ-khưu giao y bát cho các sa di rồi lên đường, đến canh cuối muốn nghỉ ngơi, phải đặt y trong tầm tay rồi mới ngủ. Nếu trời sáng khi các sa di chưa kịp trở về, y trở thành vật phải xả nhưng sự phòng hộ không mất. Tương tự nếu các trưởng lão chưa kịp đến khi các sa di đi trước. Dù lạc đường trong rừng không thấy nhau, cách xử lý cũng vậy. Nếu các sa di nói: “Chúng con sẽ nghỉ một lát rồi gặp các ngài ở chỗ kia” rồi ngủ đến sáng, y phải xả và sự phòng hộ chấm dứt. Tương tự khi các trưởng lão cho phép các sa di nghỉ rồi tự ngủ. Nếu thấy ngã ba đường, trưởng lão nói “đường này”, sa di nói “đường kia”, mỗi người đi theo ý mình, khi trời sáng y phải xả và sự phòng hộ chấm dứt. Nếu các sa di tạm rời đường chính với ý định “sẽ quay về trước bình minh” để vào làng tìm thuốc rồi trở lại, nhưng chưa kịp về trời đã sáng, y phải xả nhưng sự phòng hộ không mất. Nếu vì sợ bò hay chó mà dừng lại “một lát rồi đi”, giữa đường trời sáng thì y phải xả và sự phòng hộ chấm dứt. Nếu vào làng trong ranh giới với ý định “sẽ về trước bình minh” nhưng trời sáng khi chưa về, y không phải xả và sự phòng hộ không mất. Nếu dừng lại nói “đợi trời sáng đã” thì dù trời sáng y cũng không phải xả, nhưng sự phòng hộ chấm dứt. Các Tỳ-khưu đi nghe pháp ở tịnh xá lân cận với ý định “sẽ về trước bình minh”, nếu trời sáng giữa đường thì y phải xả nhưng sự phòng hộ không mất. Nếu vì tôn trọng pháp mà ngồi nghe đến hết rồi mới đi, khi trời sáng y phải xả và sự phòng hộ chấm dứt. Về việc giặt y: Khi trưởng lão sai sa di vào làng giặt y, phải thu hồi y của mình trước khi giao. Sa di cũng phải thu hồi y của mình trước khi giặt. Nếu quên, trưởng lão nên thu hồi y mình rồi tin tưởng giao y cho sa di. Nếu trưởng lão quên nhưng sa di nhớ, sa di phải thu hồi y mình rồi nhận y trưởng lão bằng sự tin cậy, sau đó thưa: “Bạch Ngài, xin ấn định và sử dụng y của Ngài”, rồi tự ấn định y mình. Như vậy dù một người nhớ cũng đủ giữ giới. Các trường hợp còn lại nghĩa đã rõ.
Samuṭṭhānādīsu paṭhamakathinasikkhāpade anadhiṭṭhānaṃ avikappanañca akiriyaṃ, idha apaccuddharaṇaṃ ayameva viseso. Sesaṃ sabbattha vuttanayamevāti.
Về các yếu tố phát sinh: Trong giới Kathina đầu tiên, không ấn định và không phân phối là hành động không nên làm; ở đây, không thu hồi là điểm khác biệt duy nhất. Những phần còn lại đều theo cách đã giải thích ở trên.
Udositasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Kết thúc phần giải thích giới y bị bỏ quên.
3. Tatiyakathinasikkhāpadavaṇṇanā
3. Giải thích giới Kathina thứ ba
497.Tena samayenāti tatiyakathinasikkhāpadaṃ. Tattha ussāpetvā punappunaṃ vimajjatīti ‘‘valīsu naṭṭhāsu idaṃ mahantaṃ bhavissatī’’ti maññamāno udakena siñcitvā pādehi akkamitvā hatthehi ussāpetvā ukkhipitvā piṭṭhiyaṃ ghaṃsati, taṃ ātape sukkhaṃ paṭhamappamāṇameva hoti. So punapi tathā karoti, tena vuttaṃ – ‘‘ussāpetvā punappunaṃ vimajjatī’’ti. Taṃ evaṃ kilamantaṃ bhagavā gandhakuṭiyaṃ nisinnova disvā nikkhamitvā senāsanacārikaṃ āhiṇḍanto viya tattha agamāsi. Tena vuttaṃ – ‘‘addasa kho bhagavā’’tiādi.
497. Vào lúc bấy giờ – đây là giới Kathina thứ ba. Ở đây, nhấc lên rồi liên tục vuốt thẳng nghĩa là vị ấy nghĩ “khi các nếp nhăn biến mất, y sẽ rộng ra”, nên tưới nước rồi dùng chân giẫm lên, dùng tay nhấc lên và vuốt thẳng trên lưng, khi phơi nắng y khô lại đúng kích thước ban đầu. Vị ấy lại làm như vậy, nên gọi là “nhấc lên rồi liên tục vuốt thẳng”. Đang mệt nhọc như vậy, Đức Phật từ trong tịnh thất Gandhakuṭi nhìn thấy, đi ra ngoài như thể đang đi kiểm tra chỗ ở. Do đó nói: “Rồi Đức Thế Tôn đã nhìn thấy” v.v…
499-500.Ekādasamāseti ekaṃ pacchimakattikamāsaṃ ṭhapetvā sese ekādasamāse. Sattamāseti kattikamāsaṃ hemantike ca cattāroti pañcamāse ṭhapetvā sese sattamāse. Kālepi ādissa dinnanti saṅghassa vā ‘‘idaṃ akālacīvara’’nti uddisitvā dinnaṃ, ekapuggalassa vā ‘‘idaṃ tuyhaṃ dammī’’ti dinnaṃ.
499-500. Mười một tháng – tính mười một tháng trừ tháng Kattika cuối cùng. Bảy tháng – tính bảy tháng trừ tháng Kattika và bốn tháng mùa đông. Đã cho sau khi chỉ định thời gian – nghĩa là đã dâng cho Tăng với lời chỉ định “đây là y ngoài thời hạn”, hoặc cho cá nhân với lời “ta cho ngươi y này”.
Saṅghato vāti attano pattabhāgavasena saṅghato vā uppajjeyya. Gaṇato vāti idaṃ suttantikagaṇassa dema, idaṃ ābhidhammikagaṇassāti evaṃ gaṇassa denti. Tato attano pattabhāgavasena gaṇato vā uppajjeyya.
Từ Tăng chúng hoặc – có thể nhận được từ Tăng theo phần được chia. Từ nhóm hoặc – nghĩa là cho nhóm học kinh điển hoặc nhóm học luận, rồi nhận được phần của mình từ nhóm đó.
No cassa pāripūrīti no ce pāripūrī bhaveyya, yattakena kayiramānaṃ adhiṭṭhānacīvaraṃ pahoti, tañce cīvaraṃ tattakaṃ na bhaveyya, ūnakaṃ bhaveyyāti attho.
Nếu không đầy đủ – nếu không đủ, dù đang làm y ấn định mà không đủ số vải, nghĩa là thiếu.
Paccāsā hoti saṅghato vātiādīsu asukadivasaṃ nāma saṅgho cīvarāni labhissati, gaṇo labhissati, tato me cīvaraṃ uppajjissatīti evaṃ saṅghato vā gaṇato vā paccāsā hoti. Ñātakehi me cīvaratthāya pesitaṃ, mittehi pesitaṃ, te āgatā cīvare dassantīti evaṃ ñātito vā mittato vā paccāsā hoti. Paṃsukūlaṃ vāti ettha pana paṃsukūlaṃ vā lacchāmīti evaṃ paccāsā hotīti yojetabbaṃ. Attano vā dhanenāti attano kappāsasuttādinā dhanena, asukadivasaṃ nāma lacchāmīti evaṃ vā paccāsā hotīti attho.
Có hy vọng từ Tăng hoặc – nghĩa là hy vọng ngày nào đó sẽ nhận được y từ Tăng hoặc nhóm. Hoặc hy vọng từ thân nhân hay bạn bè đã gửi vải sẽ mang y đến. Vải bỏ hoặc – ở đây nên hiểu là hy vọng sẽ tìm được vải bỏ. Bằng tài sản của mình – nghĩa là hy vọng sẽ có được bằng tiền bạc, bông vải… của mình vào ngày nào đó.
Tato ce uttari nikkhipeyya satiyāpi paccāsāyāti māsaparamato ce uttari nikkhipeyya, nissaggiyaṃ pācittiyanti attho. Evaṃ pana avatvā yasmā antarā uppajjamāne paccāsācīvare mūlacīvarassa uppannadivasato yāva vīsatimo divaso tāva uppannaṃ paccāsācīvaraṃ mūlacīvaraṃ attano gatikaṃ karoti, tato uddhaṃ mūlacīvaraṃ paccāsācīvaraṃ attano gatikaṃ karoti. Tasmā taṃ visesaṃ dassetuṃ ‘‘tadahuppanne mūlacīvare’’tiādinā nayena padabhājanaṃ vuttaṃ, taṃ uttānatthameva.
Nếu để quá thời hạn dù có hy vọng – nếu để quá một tháng dù có hy vọng, thì phạm tội ưng xả đối trị. Ở đây, khi y hy vọng xuất hiện trong lúc chờ đợi, thì từ ngày nhận y gốc đến ngày thứ 20, y hy vọng được tính như y gốc. Sau đó, y gốc được tính như y hy vọng. Do đó, phần giải thích từ ngữ “khi y gốc xuất hiện” v.v… để chỉ rõ sự khác biệt này, nghĩa đã rõ.
Visabhāge uppanne mūlacīvareti yadi mūlacīvaraṃ saṇhaṃ, paccāsācīvaraṃ thūlaṃ, na sakkā yojetuṃ. Rattiyo ca sesā honti, na tāva māso pūrati , na akāmā niggahena cīvaraṃ kāretabbaṃ. Aññaṃ paccāsācīvaraṃ labhitvāyeva kālabbhantare kāretabbaṃ. Paccāsācīvarampi parikkhāracoḷaṃ adhiṭṭhātabbaṃ. Atha mūlacīvaraṃ thūlaṃ hoti, paccāsācīvaraṃ saṇhaṃ, mūlacīvaraṃ parikkhāracoḷaṃ adhiṭṭhahitvā paccāsācīvarameva mūlacīvaraṃ katvā ṭhapetabbaṃ. Taṃ puna māsaparihāraṃ labhati, etenupāyena yāva icchati tāva aññamaññaṃ mūlacīvaraṃ katvā ṭhapetuṃ vaṭṭatīti. Sesaṃ uttānameva.
Khi y gốc khác loại xuất hiện – nếu y gốc mềm mà y hy vọng thô, không thể kết hợp. Nếu còn ngày trong tháng, chưa đủ một tháng, thì không nên ép làm y. Nên đợi nhận y hy vọng khác rồi làm trong thời hạn. Y hy vọng có thể ấn định làm khăn phụ tùng. Nếu y gốc thô mà y hy vọng mềm, thì nên ấn định y gốc làm khăn phụ tùng rồi dùng y hy vọng làm y gốc. Cách này có thể áp dụng nhiều lần tùy ý. Phần còn lại nghĩa đã rõ.
Samuṭṭhānādīni paṭhamakathinasadisānevāti.
Các yếu tố phát sinh giống như giới Kathina đầu tiên.
Tatiyakathinasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Kết thúc phần giải thích giới Kathina thứ ba.
4. Purāṇacīvarasikkhāpadavaṇṇanā
4. Giới giải thích về y cũ
503-5.Tena samayenāti purāṇacīvarasikkhāpadaṃ. Tattha yāva sattamā pitāmahayugāti pitupitā pitāmaho, pitāmahassa yugaṃ pitāmahayugaṃ. Yuganti āyuppamāṇaṃ vuccati. Abhilāpa mattameva cetaṃ. Atthato pana pitāmahoyeva pitāmahayugaṃ. Tato uddhaṃ sabbepi pubbapurisā pitāmahaggahaṇeneva gahitā. Evaṃ yāva sattamo puriso tāva yā asambaddhā sā yāva sattamā pitāmahayugā asambaddhāti vuccati. Desanāmukhameva cetaṃ. ‘‘Mātito vā pitito vā’’tivacanato pana pitāmahayugampi pitāmahiyugampi mātāmahayugampi mātāmahiyugampi tesaṃ bhātubhaginībhāgineyyaputtapaputtādayopi sabbe idha saṅgahitā evāti veditabbā.
503-5. Vào lúc bấy giờ – đây là giới về y cũ. Ở đây, cho đến bảy đời ông cố – cha của cha là ông nội, đời của ông nội gọi là ông cố. “Đời” ở đây chỉ thời gian sống. Thực chất chỉ là cách nói, vì ông cố chính là ông cố. Từ đó trở lên, tất cả tổ tiên đều được gọi chung là ông cố. Như vậy, cho đến đời thứ bảy được gọi là không có quan hệ cho đến bảy đời ông cố. Đây chỉ là cách nói khi thuyết giảng. Từ câu “từ phía mẹ hoặc phía cha”, cần hiểu rằng bao gồm cả ông cố nội, bà cố nội, ông cố ngoại, bà cố ngoại, cùng với anh chị em, con cháu của họ.
Tatrāyaṃ vitthāranayo – pitā pitupitā tassa pitā tassāpi pitāti evaṃ yāva sattamā yugā, pitā pitumātā tassā pitā ca mātā ca bhātā ca bhaginī ca puttā ca dhītaro cāti evampi uddhañca adho ca yāva sattamā yugā, pitā pitubhātā pitubhaginī pituputtā pitudhītaro tesampi puttadhītuparamparāti evampi yāva sattamā yugā, mātā mātumātā tassā mātā tassāpi mātāti evampi yāva sattamā yugā, mātā mātupitā tassa mātā ca pitā ca bhātā ca bhaginī ca puttā ca dhītaro cāti, evampi uddhañca adho ca yāva sattamā yugā, mātā mātubhātā mātubhaginī mātuputtā mātudhītaro tesampi puttadhītuparamparāti evampi yāva sattamā yugā, neva mātusambandhena na pitusambandhena sambaddhā, ayaṃ aññātikā nāma.
Cụ thể cách giải thích như sau: Cha, ông nội, cụ ông, kỵ ông… cho đến bảy đời; cha, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh, chị, em, con trai, con gái… cho đến bảy đời; cha, anh trai của cha, chị gái của cha, con trai của cha, con gái của cha và dòng dõi con cháu của họ… cho đến bảy đời; mẹ, bà ngoại, cụ bà, kỵ bà… cho đến bảy đời; mẹ, ông ngoại, bà ngoại, anh, chị, em, con trai, con gái… cho đến bảy đời; mẹ, anh trai của mẹ, chị gái của mẹ, con trai của mẹ, con gái của mẹ và dòng dõi con cháu của họ… cho đến bảy đời; không liên quan về phía mẹ cũng không liên quan về phía cha, đó gọi là người không quen biết.
Ubhato saṅgheti bhikkhunisaṅghe ñatticatutthena bhikkhusaṅghe ñatticatutthenāti aṭṭhavācikavinayakammena upasampannā.
Xuất gia trong cả hai Tăng đoàn – nghĩa là thọ giới Tỳ-khưu ni trong Tăng đoàn Tỳ-khưu ni với bốn lần tuyên ngôn, và thọ giới Tỳ-khưu trong Tăng đoàn Tỳ-khưu cũng với bốn lần tuyên ngôn, tức là thọ giới đầy đủ với tám lần tuyên ngôn theo luật.
Sakiṃ nivatthampi sakiṃ pārutampīti rajitvā kappaṃ katvā ekavārampi nivatthaṃ vā pārutaṃ vā. Antamaso paribhogasīsena aṃse vā matthake vā katvā maggaṃ gato hoti, ussīsakaṃ vā katvā nipanno hoti, etampi purāṇacīvarameva. Sace pana paccattharaṇassa heṭṭhā katvā nipajjati, hatthehi vā ukkhipitvā ākāse vitānaṃ katvā sīsena aphusanto gacchati, ayaṃ paribhogo nāma na hotīti kurundiyaṃ vuttaṃ.
Dù chỉ mặc một lần hay khoác một lần – nghĩa là sau khi nhuộm và chấm tịnh, dù chỉ mặc một lần hay khoác một lần, thậm chí chỉ dùng làm khăn quàng cổ hoặc trải lên vai/đầu khi đi đường, hay dùng làm gối khi nằm, đều được tính là y cũ. Tuy nhiên, nếu trải dưới làm tấm lót nằm, hoặc giơ tay lên làm tán che đầu mà không chạm vào đầu khi đi, thì không tính là đã sử dụng, như đã nói trong Bộ Kurundi.
Dhotaṃ nissaggiyanti ettha evaṃ āṇattā bhikkhunī dhovanatthāya uddhanaṃ sajjeti, dārūni saṃharati, aggiṃ karoti, udakaṃ āharati yāva naṃ dhovitvā ukkhipati, tāva bhikkhuniyā payoge payoge bhikkhussa dukkaṭaṃ. Dhovitvā ukkhittamatte nissaggiyaṃ hoti. Sace duddhotanti maññamānā puna siñcati vā dhovati vā yāva niṭṭhānaṃ na gacchati tāva payoge payoge dukkaṭaṃ. Esa nayo rajanākoṭanesu. Rajanadoṇiyañhi rajanaṃ ākiritvā yāva sakiṃ cīvaraṃ rajati, tato pubbe yaṃkiñci rajanatthāya karoti, pacchā vā paṭirajati, sabbattha payoge payoge bhikkhussa dukkaṭaṃ. Evaṃ ākoṭanepi payogo veditabbo.
Giặt xong phải xả – ở đây, nếu Tỳ-khưu ni được yêu cầu giặt mà chuẩn bị tro, gom củi, nhóm lửa, múc nước cho đến khi giặt xong và phơi, thì mỗi hành động chuẩn bị của Tỳ-khưu ni đều khiến Tỳ-khưu phạm tội tác ác. Khi giặt xong phơi lên là phải xả ngay. Nếu nghĩ chưa sạch nên tưới nước hay giặt lại thêm, thì mỗi lần như vậy đều phạm tội tác ác cho đến khi hoàn tất. Cách tính tương tự với việc nhuộm và đập vải. Khi nhuộm trong chậu, mỗi thao tác từ chuẩn bị thuốc nhuộm, nhúng vải lần đầu cho đến giũ sạch sau nhuộm, mỗi hành động đều phạm tội tác ác. Cách tính tội cũng áp dụng tương tự khi đập vải.
506.Aññātikāya aññātikasaññī purāṇacīvaraṃ dhovāpetīti no cepi ‘‘imaṃ dhovā’’ti vadati, atha kho dhovanatthāya kāyavikāraṃ katvā hatthena vā hatthe deti, pādamūle vā ṭhapeti, upari vā khipati, sikkhamānāsāmaṇerīsāmaṇeraupāsakatitthiyādīnaṃ vā hatthe peseti, nadītitthe dhovantiyā upacāre vā khipati, antodvādasahatthe okāse ṭhatvā, dhovāpitaṃyeva hoti. Sace pana upacāraṃ muñcitvā orato ṭhapeti sā ce dhovitvā āneti, anāpatti. Sikkhamānāya vā sāmaṇeriyā vā upāsikāya vā hatthe dhovanatthāya deti, sā ce upasampajjitvā dhovati, āpattiyeva. Upāsakassa hatthe deti, so ce liṅge parivatte bhikkhunīsu pabbajitvā upasampajjitvā dhovati , āpattiyeva. Sāmaṇerassa vā bhikkhussa vā hatthe dinnepi liṅgaparivattane eseva nayo.
506. Nhờ người không quen biết (mà tưởng là không quen) giặt y cũ – dù không nói trực tiếp “giặt cái này”, nhưng nếu có cử chỉ như đưa tay đưa y, đặt dưới chân, ném lên trên, hoặc nhờ học nữ, sa di, sa di ni, cư sĩ, ngoại đạo giặt hộ, hay ném gần chỗ người đang giặt bên bờ sông, trong phạm vi 12 cubit (khoảng 6m), đều tính là đã nhờ giặt. Nếu để xa hơn phạm vi đó rồi người kia tự động giặt và mang lại thì không phạm. Nếu đưa y cho học nữ, sa di ni hoặc nữ cư sĩ giặt, mà sau đó họ thọ giới Tỳ-khưu ni rồi giặt, thì vẫn phạm tội. Nếu đưa cho nam cư sĩ giặt, sau đó người này chuyển giới tính, thọ giới Tỳ-khưu ni rồi giặt, cũng phạm tội. Cách tính tương tự nếu đưa cho sa di hoặc Tỳ-khưu giặt mà sau đó họ chuyển giới tính.
Dhovāpeti rajāpetītiādīsu ekena vatthunā nissaggiyaṃ, dutiyena dukkaṭaṃ. Tīṇipi kārāpentassa ekena nissaggiyaṃ, sesehi dve dukkaṭāni. Yasmā panetāni dhovanādīni paṭipāṭiyā vā uppaṭipāṭiyā vā kārentassa mokkho natthi, tasmā ettha tīṇi catukkāni vuttāni. Sacepi hi ‘‘imaṃ cīvaraṃ rajitvā dhovitvā ānehī’’ti vutte sā bhikkhunī paṭhamaṃ dhovitvā pacchā rajati, nissaggiyena dukkaṭameva. Evaṃ sabbesu viparītavacanesu nayo netabbo. Sace pana ‘‘dhovitvā ānehī’’ti vuttā dhovati ceva rajati ca, dhovāpanapaccayā eva āpatti, rajane anāpatti. Evaṃ sabbattha vuttādhikakaraṇe ‘‘avuttā dhovatī’’ti iminā lakkhaṇena anāpatti veditabbā. ‘‘Imasmiṃ cīvare yaṃ kātabbaṃ, sabbaṃ taṃ tuyhaṃ bhāro’’ti vadanto pana ekavācāya sambahulā āpattiyo āpajjatīti.
Nhờ giặt hoặc nhuộm – với một sự việc thì phạm tội ưng xả, với sự việc thứ hai thì phạm tội tác ác. Nếu nhờ làm cả ba việc (giặt, nhuộm, đập) thì một tội ưng xả và hai tội tác ác. Vì những việc giặt này dù làm theo thứ tự hay ngược thứ tự đều không tránh khỏi tội, nên ở đây nói đến ba hoặc bốn trường hợp. Ví dụ nếu nói “hãy nhuộm rồi giặt y này” mà Tỳ-khưu ni giặt trước rồi nhuộm sau, thì chỉ phạm tội tác ác chứ không phải ưng xả. Cần hiểu cách áp dụng tương tự cho các trường hợp trái ngược khác. Nếu nói “giặt rồi mang lại” mà người kia vừa giặt vừa nhuộm, thì chỉ phạm tội về việc giặt, không phạm về nhuộm. Trong mọi trường hợp vượt quá lời dạy, nếu giặt mà không được yêu cầu thì không phạm. Tuy nhiên, nếu nói “mọi việc liên quan đến y này là trách nhiệm của ngươi” thì chỉ một lời nói có thể phạm nhiều tội.
Aññātikāya vematiko aññātikāya ñātikasaññīti imānipi padāni vuttānaṃyeva tiṇṇaṃ catukkānaṃ vasena vitthārato veditabbāni.
Người không quen mà nghi ngờ hoặc tưởng là quen – những trường hợp này cần hiểu chi tiết theo ba hoặc bốn cách đã nói ở trên.
Ekato upasampannāyāti bhikkhunīnaṃ santike upasampannāya dhovāpentassa dukkaṭaṃ. Bhikkhūnaṃ santike upasampannāya pana yathāvatthukameva, bhikkhūnaṃ santike upasampannā nāma pañcasatā sākiyāniyo.
Người thọ giới cùng một nơi – nhờ Tỳ-khưu ni thọ giới cùng chỗ giặt thì phạm tội tác ác. Đối với 500 nữ Sakya thọ giới trước Tỳ-khưu Tăng thì áp dụng theo trường hợp cụ thể.
507.Avuttā dhovatīti uddesāya vā ovādāya vā āgatā kilinnaṃ cīvaraṃ disvā ṭhapitaṭṭhānato gahetvā vā ‘‘detha, ayya, dhovissāmī’’ti āharāpetvā vā dhovati ceva rajati ca ākoṭeti ca, ayaṃ avuttā dhovati nāma. Yāpi ‘‘imaṃ cīvaraṃ dhovā’’ti daharaṃ vā sāmaṇeraṃ vā āṇāpentassa bhikkhuno sutvā ‘‘āharathayya ahaṃ dhovissāmī’’ti dhovati, tāvakālikaṃ vā gahetvā dhovitvā rajitvā deti, ayampi avuttā dhovati nāma.
507. Giặt khi không được yêu cầu – khi thấy y ướt của vị Tỳ-khưu đến nghe pháp hoặc nhận chỉ dạy, tự lấy từ chỗ để hoặc nói “thưa Ngài, cho con giặt” rồi mang đi giặt, nhuộm và đập, đó gọi là giặt không được yêu cầu. Hoặc khi nghe vị Tỳ-khưu bảo sa di hay sa di trẻ “giặt y này”, rồi tự nói “mang lại đây, con sẽ giặt” và giặt xong trả lại ngay, cũng gọi là giặt không được yêu cầu.
Aññaṃ parikkhāranti upāhanatthavikapattatthavikaaṃsabaddhakakāyabandhanamañcapīṭhabhisitaṭṭikādiṃ yaṃkiñci dhovāpeti, anāpatti. Sesamettha uttānatthameva.
Vật dụng khác – như dép, túi đựng đồ, dây đeo vai, dây lưng, giường, ghế, chiếu cỏ v.v… nếu nhờ giặt thì không phạm. Phần còn lại nghĩa đã rõ.
Samuṭṭhānādīsu pana idaṃ sikkhāpadaṃ chasamuṭṭhānaṃ, kiriyaṃ, nosaññāvimokkhaṃ, acittakaṃ, paṇṇattivajjaṃ, kāyakammaṃ, vacīkammaṃ, ticittaṃ, tivedananti.
Về các yếu tố phát sinh – giới này có sáu nguồn gốc phát sinh, là hành động, không thuộc trường hợp được tha do tưởng nhầm, không phải vô tâm, thuộc quy định, là thân nghiệp hoặc khẩu nghiệp, có ba loại tâm và ba loại cảm thọ.
Purāṇacīvarasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Kết thúc phần giải thích giới về y cũ.
5. Cīvarapaṭiggahaṇasikkhāpadavaṇṇanā
5. Giới giải thích về việc nhận y
508.Tena samayenāti cīvarapaṭiggahaṇasikkhāpadaṃ. Tattha piṇḍapātapaṭikkantāti piṇḍapātato paṭikkantā. Yena andhavanaṃ tenupasaṅkamīti apaññatte sikkhāpade yena andhavanaṃ tenupasaṅkami. Katakammāti katacorikakammā, sandhicchedanādīhi parabhaṇḍaṃ haritāti vuttaṃ hoti. Coragāmaṇikoti corajeṭṭhako. So kira pubbe theriṃ jānāti, tasmā corānaṃ purato gacchanto disvā ‘‘ito mā gacchatha, sabbe ito ethā’’ti te gahetvā aññena maggena agamāsi. Samādhimhā vuṭṭhahitvāti therī kira paricchinnavelāyaṃyeva samādhimhā vuṭṭhahi. Sopi tasmiṃyeva khaṇe evaṃ avaca, tasmā sā assosi, sutvā ca ‘‘natthi dāni añño ettha samaṇo vā brāhmaṇo vā aññatra mayā’’ti taṃ maṃsaṃ aggahesi. Tena vuttaṃ – ‘‘atha kho uppalavaṇṇā bhikkhunī’’tiādi.
508. Vào lúc bấy giờ – đây là giới về nhận y. Ở đây, đi khất thực trở về nghĩa là trở lại sau khi đi khất thực. Đi đến khu rừng Andha – đi đến khu rừng Andha khi giới điều chưa được quy định. Đã làm việc xấu – đã làm hành vi trộm cắp, nghĩa là đã lấy đồ của người khác bằng cách cắt dây v.v… Tướng cướp – chỉ huy bọn cướp. Nghe nói trước đây ông ta biết vị Trưởng lão ni, nên khi đi trước bọn cướp mà thấy bà, liền bảo “đừng đi lối này, tất cả đi lối kia” rồi dẫn chúng đi đường khác. Xuất khỏi định – vị Trưởng lão ni xuất định đúng vào lúc đó. Ông ta cũng ngay lúc ấy nói như vậy, nên bà nghe được, và sau khi nghe nghĩ “bây giờ ở đây không có sa môn hay bà la môn nào khác ngoài ta” nên nhận miếng thịt. Do đó nói: “Rồi Tỳ-khưu ni Uppalavaṇṇā” v.v…
Ohiyyakoti avahīyako avaseso, vihāravāraṃ patvā ekova vihāre ṭhitoti attho. Sace me tvaṃ antaravāsakaṃ dadeyyāsīti kasmā āha? Saṇhaṃ ghanamaṭṭhaṃ antaravāsakaṃ disvā lobhena, apica appako tassā antaravāsake lobho, theriyā pana sikhāppattā koṭṭhāsasampatti tenassā sarīrapāripūriṃ passissāmīti visamalobhaṃ uppādetvā evamāha. Antimanti pañcannaṃ cīvarānaṃ sabbapariyantaṃ hutvā antimaṃ, antimanti pacchimaṃ. Aññaṃ lesenāpi vikappetvā vā paccuddharitvā vā ṭhapitaṃ cīvaraṃ natthīti evaṃ yathāanuññātānaṃ pañcannaṃ cīvarānaṃ dhāraṇavaseneva āha, na lobhena, na hi khīṇāsavānaṃ lobho atthi. Nippīḷiyamānāti upamaṃ dassetvā gāḷhaṃ pīḷayamānā.
Ở lại một mình – nghĩa là người còn lại duy nhất, sau khi đến lượt vào tịnh thất thì chỉ còn một mình trong tịnh thất. Nếu ông cho tôi y nội – tại sao ông ta nói vậy? Vì thấy y nội mềm mại và dày nên tham lam, hơn nữa lòng tham của bà đối với y nội không nhiều, nhưng vị Trưởng lão ni đã đạt đến đỉnh cao nên muốn thấy sự hoàn hảo của thân thể bà nên đã khơi dậy lòng tham bất chính mà nói vậy. Sau cùng – nghĩa là cuối cùng trong năm loại y, sau cùng. Bà nói theo nghĩa chỉ được phép sử dụng năm loại y đã được quy định, chứ không phải do tham lam, vì các vị đã đoạn tận lậu hoặc không còn tham lam. Bị ép buộc – dùng ví dụ để chỉ sự ép buộc mạnh mẽ.
Antaravāsakaṃdatvā upassayaṃ agamāsīti saṅkaccikaṃ nivāsetvā yathā tassa manoratho na pūrati, evaṃ hatthataleyeva dassetvā agamāsi.
Cho y nội rồi đi vào trú xứ – mặc y phấn tảo một cách khó khăn, không thỏa mãn ý muốn của ông ta, chỉ cho thấy lòng bàn tay rồi đi vào.
510. Kasmā pārivattakacīvaraṃ appaṭigaṇhante ujjhāyiṃsu? ‘‘Sace ettakopi amhesu ayyānaṃ vissāso natthi, kathaṃ mayaṃ yāpessāmā’’ti vihatthatāya samabhitunnattā.
510. Tại sao họ phàn nàn khi không được nhận y đổi? Vì nghĩ “nếu ngay cả việc nhỏ như thế này mà các Ngài không tin tưởng chúng tôi, thì làm sao chúng tôi có thể sống được”, do quá lo lắng về sự thiệt thòi.
Anujānāmi bhikkhave imesaṃ pañcannanti imesaṃ pañcannaṃ sahadhammikānaṃ samasaddhānaṃ samasīlānaṃ samadiṭṭhīnaṃ pārivattakaṃ gahetuṃ anujānāmīti attho.
Ta cho phép các Tỳ-khưu nhận năm loại này – nghĩa là ta cho phép nhận y đổi từ năm hạng người đồng phạm hạnh, đồng đức tin, đồng giới hạnh và đồng quan điểm này.
512.Payoge dukkaṭanti gahaṇatthāya hatthappasāraṇādīsu dukkaṭaṃ. Paṭilābhenāti paṭiggahaṇena. Tattha ca hatthena vā hatthe detu, pādamūle vā ṭhapetu, upari vā khipatu, so ce sādiyati , gahitameva hoti. Sace pana sikkhamānāsāmaṇerasāmaṇerīupāsakaupāsikādīnaṃ hatthe pesitaṃ paṭiggaṇhāti, anāpatti. Dhammakathaṃ kathentassa catassopi parisā cīvarāni ca nānāvirāgavatthāni ca ānetvā pādamūle ṭhapenti, upacāre vā ṭhatvā upacāraṃ vā muñcitvā khipanti, yaṃ tattha bhikkhunīnaṃ santakaṃ, taṃ aññatra pārivattakā gaṇhantassa āpattiyeva. Atha pana rattibhāge khittāni honti, ‘‘idaṃ bhikkhuniyā, idaṃ aññesa’’nti ñātuṃ na sakkā, pārivattakakiccaṃ natthīti mahāpaccariyaṃ kurundiyañca vuttaṃ, taṃ acittakabhāvena na sameti. Sace bhikkhunī vassāvāsikaṃ deti, pārivattakameva kātabbaṃ. Sace pana saṅkārakūṭādīsu ṭhapeti, ‘‘paṃsukūlaṃ gaṇhissantī’’ti paṃsukūlaṃ adhiṭṭhahitvā gahetuṃ vaṭṭati.
512. Phạm tội tác ác khi cố gắng nhận – chỉ việc đưa tay ra nhận v.v… đã phạm tội tác ác. Khi nhận được – nghĩa là khi thực sự nhận. Ở đây, dù đưa bằng tay, đặt dưới chân hay ném lên trên, nếu người kia chấp nhận thì đã thành nhận. Nếu gửi qua tay học nữ, sa di, sa di ni, nam nữ cư sĩ mà họ nhận thì không phạm. Khi thuyết pháp, bốn chúng đệ tử mang y và các loại vải nhiều màu đến đặt dưới chân hoặc đứng gần ném đến, nếu Tỳ-khưu nhận những thứ thuộc về Tỳ-khưu ni mà không phải y đổi thì vẫn phạm. Nếu để qua đêm không phân biệt được “cái này của Tỳ-khưu ni, cái kia của người khác” thì theo Bộ Mahāpaccariya và Kurundi không phải làm nghi thức đổi y, nhưng cách này không hợp lý vì thiếu chủ ý. Nếu Tỳ-khưu ni cho y an cư thì phải làm nghi thức đổi y. Nếu để ở đống rác thì có thể ấn định là vải bỏ rồi lấy.
513.Aññātikāya aññātikasaññīti tikapācittiyaṃ. Ekato upasampannāyāti bhikkhunīnaṃ santike upasampannāya hatthato gaṇhantassa dukkaṭaṃ, bhikkhūnaṃ santike upasampannāya pana pācittiyameva.
513. Người không quen mà tưởng là không quen – phạm ba tội ưng đối trị. Người thọ giới cùng một nơi – nhận trực tiếp từ Tỳ-khưu ni thọ giới cùng chỗ thì phạm tội tác ác, nhưng nếu từ 500 nữ Sakya thọ giới trước Tăng thì phạm tội ưng đối trị.
514.Parittena vā vipulanti appagghacīvarena vā upāhanatthavikapattatthavikaaṃsabaddhakakāyabandhanādinā vā mahagghaṃ cetāpetvā sacepi cīvaraṃ paṭiggaṇhāti, anāpatti. Mahāpaccariyaṃ pana ‘‘antamaso harītakīkhaṇḍenāpī’’ti vuttaṃ. Vipulena vā parittanti idaṃ vuttavipallāsena veditabbaṃ. Aññaṃ parikkhāranti pattatthavikādiṃ yaṃ kiñci vikappanupagapacchimacīvarappamāṇaṃ pana paṭaparissāvanampi na vaṭṭati. Yaṃ neva adhiṭṭhānupagaṃ na vikappanupagaṃ taṃ sabbaṃ vaṭṭati. Sacepi mañcappamāṇā bhisicchavi hoti, vaṭṭatiyeva; ko pana vādo pattatthavikādīsu. Sesaṃ uttānatthameva.
514. Vật ít giá trị đổi vật nhiều giá trị – dùng y rẻ tiền hoặc các vật dụng như dép, túi, dây đai vai… để đổi lấy vật quý giá thì không phạm. Bộ Mahāpaccariya nói “dù chỉ bằng miếng gỗ harītakī”. Vật nhiều giá trị đổi vật ít giá trị – cần hiểu ngược lại với trường hợp trên. Vật dụng khác – như túi đựng bát v.v… có kích thước bằng phần cuối tấm y thì không được nhận khăn lọc nước. Những gì không thuộc loại ấn định hay phân phối thì đều được nhận. Dù là tấm da lớn bằng giường cũng được, huống chi túi đựng bát v.v… Phần còn lại nghĩa đã rõ.
Samuṭṭhānādīsu idaṃ chasamuṭṭhānaṃ, kiriyākiriyaṃ, nosaññāvimokkhaṃ, acittakaṃ , paṇṇattivajjaṃ, kāyakammaṃvacīkammaṃ, ticittaṃ, tivedananti.
Về các yếu tố phát sinh – giới này có sáu nguồn gốc, là hành động hay không hành động, không thuộc trường hợp được tha do tưởng nhầm, không phải vô tâm, thuộc quy định, là thân nghiệp hoặc khẩu nghiệp, có ba loại tâm và ba loại cảm thọ.
Cīvarapaṭiggahaṇasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Kết thúc phần giải thích giới về nhận y.
6. Aññātakaviññattisikkhāpadavaṇṇanā
6. Giới về việc yêu cầu vật dụng từ người không quen biết
515.Tena samayenāti aññātakaviññattisikkhāpadaṃ. Tattha upanando sakyaputtoti asītisahassamattānaṃ sakyakulā pabbajitānaṃ bhikkhūnaṃ patikiṭṭho lolajātiko. Paṭṭoti cheko samattho paṭibalo sarasampanno kaṇṭhamādhuriyena samannāgato. Kismiṃ viyāti kiṃsu viya kileso viya, hirottappavasena kampanaṃ viya saṅkampanaṃ viya hotīti attho.
515. Vào lúc ấy là giới về việc yêu cầu vật dụng từ người không quen biết. Ở đây, Upananda thuộc dòng họ Sakya là vị Tỳ-khưu đáng chê trách nhất trong số tám mươi ngàn vị xuất gia từ dòng họ Sakya, có tính tham lam. Thành thạo là người giỏi giang, có khả năng, đầy đủ trí nhớ, có giọng nói ngọt ngào. Như cái gì nghĩa là như phiền não gì, như sự run rẩy do hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi.
Addhānamagganti addhānasaṅkhātaṃ dīghamaggaṃ, na nagaravīthimagganti attho. Te bhikkhū acchindiṃsūti musiṃsu, pattacīvarāni nesaṃ hariṃsūti attho. Anuyuñjāhīti bhikkhubhāvajānanatthāya puccha. Anuyuñjiyamānāti pabbajjāupasampadāpattacīvarādhiṭṭhānādīni pucchiyamānā. Etamatthaṃ ārocesunti bhikkhubhāvaṃ jānāpetvā yo ‘‘sāketā sāvatthiṃ addhānamaggappaṭipannā’’tiādinā nayena vutto, etamatthaṃ ārocesuṃ.
Con đường dài là con đường được gọi là xa, không phải đường phố trong thành. Các Tỳ-khưu ấy cướp đoạt nghĩa là họ lấy đi, đoạt lấy y bát của những vị kia. Hãy tra hỏi là hỏi để biết rõ tư cách Tỳ-khưu. Đang bị tra hỏi là bị hỏi về việc xuất gia, thọ giới, y bát, sự ủy thác, v.v. Họ trình bày sự việc sau khi cho biết tư cách Tỳ-khưu, họ trình bày sự việc theo cách đã nói: “đang đi đường dài từ Sāketa đến Sāvatthī”, v.v.
517.Aññātakaṃ gahapatiṃ vātiādīsu yaṃ parato ‘‘tiṇena vā paṇṇena vā paṭicchādetvā’’ti vuttaṃ, taṃ ādiṃ katvā evaṃ anupubbakathā veditabbā. Sace core passitvā daharā pattacīvarāni gahetvā palātā, corā therānaṃ nivāsanapārupanamattaṃyeva haritvā gacchanti, therehi neva tāva cīvaraṃ viññāpetabbaṃ, na sākhāpalāsaṃ bhañjitabbaṃ. Atha daharā sabbaṃ bhaṇḍakaṃ chaḍḍetvā palātā, corā therānaṃ nivāsanapārupanaṃ tañca bhaṇḍakaṃ gahetvā gacchanti, daharehi āgantvā attano nivāsanapārupanāni na tāva therānaṃ dātabbāni, na hi anacchinnacīvarā attano atthāya sākhāpalāsaṃ bhañjituṃ labhanti, acchinnacīvarānaṃ pana atthāya labhanti, acchinnacīvarāva attanopi paresampi atthāya labhanti. Tasmā therehi vā sākhāpalāsaṃ bhañjitvā vākādīhi ganthetvā daharānaṃ dātabbaṃ, daharehi vā therānaṃ atthāya bhañjitvā ganthetvā tesaṃ hatthe datvā vā adatvā vā attanā nivāsetvā attano nivāsanapārupanāni therānaṃ dātabbāni, neva bhūtagāmapātabyatāya pācittiyaṃ hoti, na tesaṃ dhāraṇe dukkaṭaṃ.
517. Đối với người gia chủ không quen biết, v.v. trong phần này, trước hết cần hiểu lời dạy “che đậy bằng cỏ hoặc lá”, rồi theo thứ tự câu chuyện như sau: Nếu khi thấy trộm, các vị trẻ bỏ lại y bát và chạy trốn, bọn trộm chỉ lấy y nội và y ngoại của các vị trưởng lão rồi đi. Khi ấy, các vị trưởng lão không được yêu cầu y, cũng không được bẻ cành lá. Nếu các vị trẻ bỏ lại tất cả đồ đạc và chạy trốn, bọn trộm lấy y phục của các trưởng lão cùng với đồ đạc ấy, thì các vị trẻ khi trở lại không được đưa y phục của mình cho các trưởng lão ngay. Những ai chưa bị mất y không được phép bẻ cành lá vì lợi ích của mình, nhưng được phép vì lợi ích của những người đã mất y. Những người đã mất y cũng được phép bẻ vì lợi ích của mình và người khác. Do đó, các trưởng lão có thể bẻ cành lá, buộc lại bằng vỏ cây, rồi đưa cho các vị trẻ. Hoặc các vị trẻ có thể bẻ cành lá vì lợi ích các trưởng lão, buộc lại rồi đặt vào tay họ hoặc không đặt, tự mặc vào rồi trao y phục của mình cho các trưởng lão. Như vậy không phạm tội pācittiya về việc phá hoại cây cối, cũng không phạm tội dukkaṭa về việc sử dụng (y ấy).
Sace antarāmagge rajakattharaṇaṃ vā hoti, aññe vā tādise manusse passanti, cīvaraṃ viññāpetabbaṃ. Yāni ca nesaṃ te vā viññattamanussā aññe vā sākhāpalāsanivāsane bhikkhū disvā ussāhajātā vatthāni denti, tāni sadasāni vā hontu adasāni vā nīlādinānāvaṇṇāni vā kappiyānipi akappiyānipi sabbāni acchinnacīvaraṭṭhāne ṭhitattā tesaṃ nivāsetuñca pārupituñca vaṭṭanti. Vuttampihetaṃ parivāre –
Nếu giữa đường có tấm thảm của thợ nhuộm, hoặc gặp những người tương tự, thì nên xin y. Những tấm vải mà những người ấy hoặc những người khác, sau khi thấy các tỳ khưu với y phục làm từ cành cây lá, phát tâm cúng dường, dù là vải mới hay cũ, đã nhuộm hay chưa nhuộm, hợp pháp hay không hợp pháp, tất cả đều có thể dùng để mặc hoặc đắp, vì chúng thuộc trường hợp y chưa cắt. Điều này cũng được nói trong Phụ Tập Luật:
‘‘Akappakataṃ nāpi rajanāya rattaṃ;
Tena nivattho yena kāmaṃ vajeyya;
Na cassa hoti āpatti;
So ca dhammo sugatena desito;
Pañhā mesā kusalehi cintitā’’ti. (pari. 481);
“Vải chưa được xử lý, cũng không nhuộm màu đỏ;
Người mặc nó có thể đi bất cứ đâu;
Và không có tội;
Pháp ấy đã được Đức Thiện Thệ giảng dạy;
Câu hỏi này đã được các bậc thiện trí thức suy nghĩ.” (Phụ Tập Luật 481)
Ayañhi pañho acchinnacīvarakaṃ bhikkhuṃ sandhāya vutto. Atha pana titthiyehi sahagacchanti, te ca nesaṃ kusacīravākacīraphalakacīrāni denti, tānipi laddhiṃ aggahetvā nivāsetuṃ vaṭṭanti, nivāsetvāpi laddhi na gahetabbā.
Câu hỏi này ám chỉ vị tỳ khưu có y chưa cắt. Tuy nhiên, nếu họ đi cùng với các ngoại đạo, và những người này cúng dường y vụn, y rách, y từ vỏ cây, thì những thứ ấy cũng có thể nhận để mặc, nhưng sau khi mặc không được giữ lại.
Idāni ‘‘yaṃ āvāsaṃ paṭhamaṃ upagacchati, sace tattha hoti saṅghassa vihāracīvaraṃ vā’’tiādīsu vihāracīvaraṃ nāma manussā āvāsaṃ kāretvā ‘‘cattāropi paccayā amhākaṃyeva santakā paribhogaṃ gacchantū’’ti ticīvaraṃ sajjetvā attanā kārāpite āvāse ṭhapenti, etaṃ vihāracīvaraṃ nāma. Uttarattharaṇanti mañcakassa upari attharaṇakaṃ vuccati. Bhumattharaṇanti parikammakatāya bhūmiyā rakkhaṇatthaṃ cimilikāhi kataattharaṇaṃ tassa upari taṭṭikaṃ pattharitvā caṅkamanti. Bhisicchavīti mañcabhisiyā vā pīṭhabhisiyā vā chavi, sace pūritā hoti vidhunitvāpi gahetuṃ vaṭṭati. Evametesu vihāracīvarādīsu yaṃ tattha āvāse hoti, taṃ anāpucchāpi gahetvā nivāsetuṃ vā pārupituṃ vā acchinnacīvarakānaṃ bhikkhūnaṃ labbhatīti veditabbaṃ. Tañca kho labhitvā odahissāmi puna ṭhapessāmīti adhippāyena na mūlacchejjāya. Labhitvā ca pana ñātito vā upaṭṭhākato vā aññato vā kutoci pākatikameva kātabbaṃ. Videsagatena ekasmiṃ saṅghike āvāse saṅghikaparibhogena paribhuñjanatthāya ṭhapetabbaṃ. Sacassa paribhogeneva taṃ jīrati vā nassati vā gīvā na hoti. Sace pana etesaṃ vuttappakārānaṃ gihivatthādīnaṃ bhisicchavipariyantānaṃ kiñci na labbhati, tena tiṇena vā paṇṇena vā paṭicchādetvā āgantabbanti.
Trong các trường hợp như “khi đến trú xứ đầu tiên, nếu ở đó có y trú xứ của tăng” v.v…, y trú xứ là loại y mà người thí chủ sau khi xây dựng trú xứ, chuẩn bị ba y và để lại trong trú xứ với ý nguyện: “Bốn vật dụng này thuộc về chúng tôi, hãy để chúng được sử dụng.” Tấm trải giường là tấm trải trên giường. Tấm trải đất là tấm trải làm bằng vải thô để bảo vệ nền đất đã được quét dọn, trên đó trải chiếu để đi kinh hành. Da nệm là da trải giường hoặc ghế, nếu đã cũ thì có thể lấy dùng sau khi giũ sạch. Như vậy, đối với các loại y trú xứ v.v…, các tỳ khưu có y chưa cắt có thể lấy dùng để mặc hoặc đắp mà không cần xin phép. Tuy nhiên, không được lấy với ý định “Ta sẽ lấy tạm rồi trả lại sau” để tránh phạm tội căn bản. Sau khi nhận, phải xử lý đúng phép, dù là từ thân nhân, người hộ độ hay bất kỳ ai. Nếu vị tỳ khưu đi đến một trú xứ khác, có thể để lại y trong trú xứ của tăng để chúng tăng sử dụng. Nếu y ấy bị hư hỏng hoặc mất mát do sử dụng, thì không có lỗi. Nếu không có được bất kỳ thứ gì trong số những vật dụng đã kể trên, từ y của gia chủ cho đến da nệm, thì có thể dùng cỏ hoặc lá che thân rồi đi tiếp.
519.Yehikehici vā acchinnanti ettha yampi acchinnacīvarā ācariyupajjhāyā aññe ‘‘āharatha, āvuso, cīvara’’nti yācitvā vā vissāsena vā gaṇhanti, tampi saṅgahaṃ gacchatīti vattuṃ yujjati.
519. Bất cứ y nào chưa cắt – Ở đây, ngay cả khi các vị tỳ khưu có y chưa cắt xin y từ thầy hoặc sư trưởng bằng cách nói “Này hiền giả, hãy mang y đến” hoặc tự tin lấy y, thì việc đó cũng được xem là hợp lệ.
Paribhogajiṇṇaṃ vāti ettha ca acchinnacīvarānaṃ ācariyupajjhāyādīnaṃ attanā tiṇapaṇṇehi paṭicchādetvā dinnacīvarampi saṅgahaṃ gacchatīti vattuṃ yujjati. Evañhi te acchinnacīvaraṭṭhāne naṭṭhacīvaraṭṭhāne ca ṭhitā bhavissanti, tena nesaṃ viññattiyaṃ akappiyacīvaraparibhoge ca anāpatti anurūpā bhavissati.
Y đã dùng đến hư mòn – Ở đây, ngay cả y đã được dùng để che thân bằng cỏ lá do các vị tỳ khưu có y chưa cắt nhận từ thầy hoặc sư trưởng cũng được xem là hợp lệ. Như vậy, các vị ấy vẫn đúng với trường hợp y chưa cắt hoặc y đã mất, và việc sử dụng y không hợp lệ cũng không phạm tội.
521.Ñātakānaṃ pavāritānanti ettha ‘‘etesaṃ santakaṃ dethā’’ti viññāpentassa yācantassa anāpattīti evamattho daṭṭhabbo. Na hi ñātakapavāritānaṃ āpatti vā anāpatti vā hoti. Attano dhanenāti etthāpi attano kappiyabhaṇḍena kappiyavohāreneva cīvaraṃ viññāpentassa cetāpentassa parivattāpentassa anāpattīti evamattho daṭṭhabbo. Pavāritānanti ettha ca saṅghavasena pavāritesu pamāṇameva vaṭṭati. Puggalikapavāraṇāya yaṃ yaṃ pavāreti, taṃ taṃyeva viññāpetabbaṃ. Yo catūhi paccayehi pavāretvā sayameva sallakkhetvā kālānukālaṃ cīvarāni divase divase yāgubhattādīnīti evaṃ yena yenattho taṃ taṃ deti, tassa viññāpanakiccaṃ natthi. Yo pana pavāretvā bālatāya vā satisammosena vā na deti, so viññāpetabbo. Yo ‘‘mayhaṃ gehaṃ pavāremī’’ti vadati, tassa gehaṃ gantvā yathāsukhaṃ nisīditabbaṃ nipajjitabbaṃ, na kiñci gahetabbaṃ. Yo pana ‘‘yaṃ mayhaṃ gehe atthi, taṃ pavāremī’’ti vadati. Yaṃ tattha kappiyaṃ, taṃ viññāpetabbaṃ, gehe pana nisīdituṃ vā nipajjituṃ vā na labbhatīti kurundiyaṃ vuttaṃ.
521. Được thân quyến mời thỉnh – Ở đây, nếu nói “Hãy cho những gì thuộc về họ” để xin thì không phạm tội. Không có tội hay không tội đối với việc được thân quyến mời thỉnh. Bằng tài sản của mình – Ở đây cũng vậy, khi xin y bằng đồ dùng hợp pháp của mình, hoặc trao đổi hợp pháp, thì không phạm tội. Những người được mời thỉnh – Ở đây, đối với tăng chúng được mời thỉnh chung thì chỉ được xin theo mức độ. Đối với cá nhân được mời thỉnh riêng thì chỉ được xin đúng những gì họ đã mời. Ai được mời thỉnh bốn vật dụng rồi tự mình quan sát, tùy thời mà cúng dường y phục ngày này qua ngày khác, hoặc cháo cơm v.v… thì không cần phải xin. Còn ai được mời thỉnh rồi do ngu si hoặc quên mà không cúng, thì phải nhắc nhở. Ai nói “Tôi mời thỉnh cả nhà tôi”, thì đến nhà đó có thể tùy ý ngồi nằm nhưng không được lấy gì. Ai nói “Tôi mời thỉnh những gì trong nhà tôi”, thì những gì hợp pháp trong nhà có thể xin, nhưng không được phép ngồi hoặc nằm trong nhà, như đã nói trong Kurundiya.
Aññassatthāyāti ettha attano ñātakapavārite na kevalaṃ attano atthāya, atha kho aññassatthāya viññāpentassa anāpattīti ayameko attho. Ayaṃ pana dutiyo aññassāti ye aññassa ñātakapavāritā, te tasseva ‘‘aññassā’’ti laddhavohārassa buddharakkhitassa vā dhammarakkhitassa vā atthāya viññāpentassa anāpattīti. Sesaṃ uttānatthameva.
Vì lợi ích người khác – Ở đây không chỉ vì lợi ích của mình khi thân quyến mời thỉnh, mà còn vì lợi ích người khác khi xin cũng không phạm tội. Đây là ý thứ nhất. Ý thứ hai là đối với người khác – tức là những người được thân quyến của người khác mời thỉnh, thì vị ấy vì lợi ích của người được gọi là “người khác” đó, dù là Phật bảo hộ hay Pháp bảo hộ, mà xin cũng không phạm tội. Phần còn lại rõ ràng.
Samuṭṭhānādīsu idampi chasamuṭṭhānaṃ, kiriyaṃ, nosaññāvimokkhaṃ, acittakaṃ, paṇṇattivajjaṃ, kāyakammavacīkammaṃ, ticittaṃ, tivedananti.
Về các nguồn sanh tội v.v…, điều này cũng có 6 nguồn sanh tội: do thân, do khẩu, không do ý, không có tâm, thuộc về giới tướng, là thân nghiệp hoặc khẩu nghiệp, có 3 tâm, có 3 thọ.
Aññātakaviññattisikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giới giải về xin y từ người không quen biết đã kết thúc.
7. Tatuttarisikkhāpadavaṇṇanā
7. Phần giảng giải về học giới tiếp theo
522-4.Tenasamayenāti tatuttarisikkhāpadaṃ. Tattha abhihaṭṭhunti abhīti upasaggo, haritunti attho, gaṇhitunti vuttaṃ hoti. Pavāreyyāti icchāpeyya, icchaṃ ruciṃ uppādeyya, vadeyya nimanteyyāti attho. Abhihaṭṭhuṃ pavārentena pana yathā vattabbaṃ, taṃ ākāraṃ dassetuṃ ‘‘yāvatakaṃ icchasi tāvatakaṃ gaṇhāhī’’ti evamassa padabhājanaṃ vuttaṃ. Atha vā yathā ‘‘nekkhammaṃ daṭṭhu khemato’’ti (su. ni. 426, 1104; cūḷani. jatukaṇṇimāṇavapucchāniddesa 67) ettha disvāti attho, evamidhāpi ‘‘abhiaṭṭhuṃ pavāreyyā’’ti abhiharitvā pavāreyyāti attho. Tattha kāyābhihāro vācābhihāroti duvidho abhihāro, kāyena vā hi vatthāni abhiharitvā pādamūle ṭhapetvā ‘‘yattakaṃ icchasi tattakaṃ gaṇhāhī’’ti vadanto pavāreyya, vācāya vā ‘‘amhākaṃ dussakoṭṭhāgāraṃ paripuṇṇaṃ, yattakaṃ icchasi tattakaṃ gaṇhāhī’’ti vadanto pavāreyya, tadubhayampi ekajjhaṃ katvā ‘‘abhihaṭṭhuṃ pavāreyyā’’ti vuttaṃ.
522-4. Vào thời điểm ấy – đây là học giới tiếp theo. Trong đó, mang đến có nghĩa là đem tới, trao tận tay. Mời thỉnh nghĩa là bày tỏ ý muốn, phát khởi sự ưa thích, nói lời mời nhận. Khi mời thỉnh bằng cách đem đến, cần nói rõ: “Hãy nhận lấy bao nhiêu tùy ý”. Hoặc như câu “thấy xuất ly là an ổn” (Kinh Tập 426, 1104; Tiểu Chú giải) ở đây nghĩa là sau khi nhận thấy, thì ở đây “mang đến rồi mời thỉnh” cũng có nghĩa tương tự. Ở đây có hai cách đem đến: bằng hành động hoặc bằng lời nói. Bằng hành động là tự mang vải đến đặt dưới chân rồi nói: “Hãy lấy bao nhiêu tùy ý”. Bằng lời là nói: “Kho vải của chúng tôi đầy đủ, hãy lấy bao nhiêu tùy ý”. Cả hai cách này đều được gọi chung là “mang đến rồi mời thỉnh”.
Santaruttaraparamanti saantaraṃ uttaraṃ paramaṃ assa cīvarassāti santaruttaraparamaṃ, nivāsanena saddhiṃ pārupanaṃ ukkaṭṭhaparicchedo assāti vuttaṃ hoti. Tato cīvaraṃ sāditabbanti tato abhihaṭacīvarato ettakaṃ cīvaraṃ gahetabbaṃ, na ito paranti attho. Yasmā pana acchinnasabbacīvarena ticīvarikeneva bhikkhunā evaṃ paṭipajjitabbaṃ, aññena aññathāpi, tasmā taṃ vibhāgaṃ dassetuṃ ‘‘sace tīṇi naṭṭhāni hontī’’tiādinā nayenassa padabhājanaṃ vuttaṃ.
Giới hạn tối đa một bộ y nghĩa là chỉ bao gồm y nội và y ngoại, tức là mức tối đa gồm y mặc trong và y khoác ngoài. Chỉ được nhận y từ số đó nghĩa là chỉ được lấy lượng y từ số đã được mang đến mời thỉnh, không được vượt quá. Vì vị tỳ khưu đủ cả ba y phải tuân theo cách này, còn các trường hợp khác thì có sự khác biệt, nên để phân biệt rõ, có giải thích tiếp: “Nếu cả ba y đều bị mất”…
Tatrāyaṃ vinicchayo – yassa tīṇi naṭṭhāni, tena dve sāditabbāni, ekaṃ nivāsetvā ekaṃ pārupitvā aññaṃ sabhāgaṭṭhānato pariyesissati. Yassa dve naṭṭhāni, tena ekaṃ sāditabbaṃ. Sace pakatiyāva santaruttarena carati, dve sāditabbāni. Evaṃ ekaṃ sādiyanteneva samo bhavissati. Yassa tīsu ekaṃ naṭṭhaṃ, na sāditabbaṃ. Yassa pana dvīsu ekaṃ naṭṭhaṃ, ekaṃ sāditabbaṃ. Yassa ekaṃyeva hoti, tañca naṭṭhaṃ, dve sāditabbāni. Bhikkhuniyā pana pañcasupi naṭṭhesu dve sāditabbāni. Catūsu naṭṭhesu ekaṃ sāditabbaṃ, tīsu naṭṭhesu kiñci na sāditabbaṃ, ko pana vādo dvīsu vā ekasmiṃ vā. Yena kenaci hi santaruttaraparamatāya ṭhātabbaṃ, tato uttari na labbhatīti idamettha lakkhaṇaṃ.
Ở đây, cách xác định như sau: Nếu mất cả ba y, được nhận hai y, mặc một y và khoác một y, rồi tìm y thứ ba ở nơi thích hợp. Nếu mất hai y, được nhận một y. Nếu thường chỉ dùng y nội, được nhận hai y. Như vậy chỉ nhận một y cũng đủ. Nếu trong ba y mất một y, không được nhận. Nếu trong hai y mất một y, được nhận một y. Nếu chỉ có một y và bị mất, được nhận hai y. Đối với tỳ khưu ni, nếu mất cả năm y, được nhận hai y; mất bốn y, nhận một y; mất ba y thì không được nhận, huống chi mất hai hay một y. Vì nguyên tắc là không được vượt quá giới hạn một bộ y nội và y ngoài, đó là điểm cần ghi nhớ ở đây.
526.Sesakaṃ āharissāmīti dve cīvarāni katvā sesaṃ puna āharissāmīti attho. Na acchinnakāraṇāti bāhusaccādiguṇavasena denti. Ñātakānantiādīsu ñātakānaṃ dentānaṃ sādiyantassa pavāritānaṃ dentānaṃ sādiyantassa attano dhanena sādiyantassa anāpattīti attho. Aṭṭhakathāsu pana ‘‘ñātakapavāritaṭṭhāne pakatiyā bahumpi vaṭṭati, acchinnakāraṇā pamāṇameva vaṭṭatī’’ti vuttaṃ. Taṃ pāḷiyā na sameti. Yasmā panidaṃ sikkhāpadaṃ aññassatthāya viññāpanavatthusmiṃyeva paññattaṃ, tasmā idha ‘‘aññassatthāyā’’ti na vuttaṃ. Sesaṃ uttānatthameva.
526. Phần còn lại tôi sẽ mang đến nghĩa là sau khi làm thành hai y, phần còn lại sẽ mang đến sau. Không phải do chưa cắt nghĩa là họ cho do các đức tính như tài giỏi. Đối với thân quyến trở đi, nghĩa là không phạm tội khi nhận từ thân quyến đang cho, từ người đã mời thỉnh đang cho, hoặc nhận bằng tài sản của mình. Trong các chú giải có nói: “Đối với trường hợp thân quyến mời thỉnh thì thường được nhiều, nhưng do chưa cắt thì chỉ được theo mức độ”, điều này không phù hợp với văn bản gốc. Vì giới điều này được thiết lập chỉ cho trường hợp xin vì lợi ích người khác, nên ở đây không nói “vì lợi ích người khác”. Phần còn lại đã rõ ràng.
Samuṭṭhānādīsu idampi chasamuṭṭhānaṃ, kiriyaṃ, nosaññāvimokkhaṃ, acittakaṃ, paṇṇattivajjaṃ, kāyakammavacīkammaṃ, ticittaṃ, tivedananti.
Về các nguồn sanh tội, điều này cũng có 6 nguồn sanh tội: do thân, không do ý muốn giải thoát, không có tâm, thuộc về giới tướng, là thân nghiệp hoặc khẩu nghiệp, có 3 tâm, có 3 thọ.
Tatuttarisikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần giảng giải về học giới tiếp theo đã kết thúc.
8. Paṭhamaupakkhaṭasikkhāpadavaṇṇanā
8. Giới giải về học giới liên quan đến vật đã chuẩn bị (lần đầu)
527.Tenasamayenāti upakkhaṭasikkhāpadaṃ. Tattha atthāvuso maṃ so upaṭṭhākoti āvuso, yaṃ tvaṃ bhaṇasi, atthi evarūpo so mama upaṭṭhākoti ayamettha attho. Api meyya evaṃ hotīti api me ayya evaṃ hoti, api mayyā evantipi pāṭho.
527. Vào lúc bấy giờ – đây là học giới về vật đã chuẩn bị. Trong đó, Này hiền giả, vị ấy là người hộ độ của tôi nghĩa là Này hiền giả, điều bạn nói là đúng, có một người hộ độ như vậy cho tôi. Bạch Ngài, đúng là như vậy với tôi cũng có thể đọc là Bạch Ngài, với tôi là như vậy hoặc với tôi cũng thế.
528-9.Bhikkhuṃ paneva uddissāti ettha uddissāti apadissa ārabbha. Yasmā pana yaṃ uddissa upakkhaṭaṃ hoti, taṃ tassatthāya upakkhaṭaṃ nāma hoti. Tasmāssa padabhājane ‘‘bhikkhussatthāyā’’ti vuttaṃ.
528-9. Liên quan đến vị tỳ khưu – ở đây liên quan có nghĩa là nhắm đến. Vì những gì được chuẩn bị nhắm đến vị tỳ khưu thì gọi là vật đã chuẩn bị cho vị ấy. Do đó trong phần giải thích có nói: vì lợi ích của vị tỳ khưu.
Bhikkhuṃ ārammaṇaṃ karitvāti bhikkhuṃ paccayaṃ katvā, yañhi bhikkhuṃ uddissa upakkhaṭaṃ, taṃ niyameneva bhikkhuṃ paccayaṃ katvā upakkhaṭaṃ hoti, tena vuttaṃ – ‘‘bhikkhuṃ ārammaṇaṃ karitvā’’ti. Paccayopi hi ‘‘labhati māro ārammaṇa’’ntiādīsu (saṃ. ni. 4.243) ārammaṇanti āgato. Idāni ‘‘uddissā’’ti ettha yo kattā, tassa ākāradassanatthaṃ ‘‘bhikkhuṃ acchādetukāmo’’ti vuttaṃ. Bhikkhuṃ acchādetukāmena hi tena taṃ uddissa upakkhaṭaṃ, na aññena kāraṇena. Iti so acchādetukāmo hoti. Tena vuttaṃ – ‘‘bhikkhuṃ acchādetukāmo’’ti.
Lấy vị tỳ khưu làm đối tượng nghĩa là lấy vị tỳ khưu làm điều kiện. Bởi vì những gì được chuẩn bị nhắm đến vị tỳ khưu thì chắc chắn là lấy vị ấy làm điều kiện, nên mới nói: lấy vị tỳ khưu làm đối tượng. Trong các trường hợp như Ma vương có được đối tượng (Tương Ưng 4.243), đối tượng cũng được hiểu theo nghĩa này. Nay về từ liên quan, để chỉ rõ hành động của người làm, có nói: muốn may y cho vị tỳ khưu. Vì người đó chuẩn bị vật liệu nhắm đến vị tỳ khưu là do muốn may y cho vị ấy, chứ không vì lý do khác. Do đó nói: muốn may y cho vị tỳ khưu.
Aññātakassagahapatissa vāti aññātakena gahapatinā vāti attho. Karaṇatthe hi idaṃ sāmivacanaṃ. Padabhājane pana byañjanaṃ avicāretvā atthamattameva dassetuṃ ‘‘aññātako nāma…pe… gahapati nāmā’’tiādi vuttaṃ.
Của gia chủ không quen biết nghĩa là của một gia chủ không quen. Đây là cách nói thể hiện sự sở hữu. Trong phần giải thích, để trình bày ý nghĩa mà không phân tích từ ngữ, có nói: không quen là… gia chủ là… v.v…
Cīvaracetāpannanti cīvaramūlaṃ, taṃ pana yasmā hiraññādīsu aññataraṃ hoti, tasmā padabhājane ‘‘hiraññaṃ vā’’tiādi vuttaṃ. Upakkhaṭaṃ hotīti sajjitaṃ hoti, saṃharitvā ṭhapitaṃ, yasmā pana ‘‘hiraññaṃ vā’’tiādinā vacanenassa upakkhaṭabhāvo dassito hoti, tasmā ‘‘upakkhaṭaṃ nāmā’’ti padaṃ uddharitvā visuṃ padabhājanaṃ na vuttaṃ. Imināti upakkhaṭaṃ sandhāyāha, tenevassa padabhājane ‘‘paccupaṭṭhitenā’’ti vuttaṃ. Yañhi upakkhaṭaṃ saṃharitvā ṭhapitaṃ, taṃ paccupaṭṭhitaṃ hotīti. Acchādessāmīti vohāravacanametaṃ ‘‘itthannāmassa bhikkhuno dassāmī’’ti ayaṃ panettha attho. Tenevassa padabhājanepi ‘‘dassāmī’’ti vuttaṃ.
Vật liệu may y là nguyên liệu làm y, có thể là vàng hay vật gì khác. Do đó trong phần giải thích có nói: vàng hoặc… v.v… Đã được chuẩn bị nghĩa là đã được sắm sửa, tích trữ. Vì tính chất đã chuẩn bị đã được chỉ rõ qua cách nói vàng hoặc… nên không cần giải thích riêng từ gọi là đã chuẩn bị. Với vật này là nói về vật đã chuẩn bị, do đó trong phần giải thích nói: với vật đã được dâng. Vì những gì đã được tích trữ thì gọi là đã được dâng. Tôi sẽ may y là cách nói thông thường, ý nghĩa thực là tôi sẽ cho vị tỳ khưu tên đó. Do đó trong phần giải thích cũng nói: tôi sẽ cho.
Tatra ce so bhikkhūti yatra so gahapati vā gahapatānī vā tatra so bhikkhu pubbe appavārito upasaṅkamitvā cīvare vikappaṃ āpajjeyya ceti ayamettha padasambandho. Tattha upasaṅkamitvāti imassa gantvāti imināva atthe siddhe pacuravohāravasena ‘‘ghara’’nti vuttaṃ. Yatra pana so dāyako tatra gantvāti ayamevettha attho, tasmā punapi vuttaṃ ‘‘yattha katthaci upasaṅkamitvā’’ti. Vikappaṃ āpajjeyyāti visiṭṭhakappaṃ adhikavidhānaṃ āpajjeyya, padabhājane pana yenākārena vikappaṃ āpanno hoti tameva dassetuṃ ‘‘āyataṃ vā’’tiādi vuttaṃ. Sādhūti āyācane nipāto. Vatāti parivitakke. Manti attānaṃ niddisati. Āyasmāti paraṃ ālapati āmanteti. Yasmā panidaṃ sabbaṃ byañjanamattameva, uttānatthameva, tasmāssa padabhājane attho na vutto. Kalyāṇakamyataṃ upādāyāti sundarakāmataṃ visiṭṭhakāmataṃ cittena gahetvā, tassa ‘‘āpajjeyya ce’’ti iminā sambandho. Yasmā pana yo kalyāṇakamyataṃ upādāya āpajjati, so sādhatthiko mahagghatthiko hoti, tasmāssa padabhājane byañjanaṃ pahāya adhippetatthameva dassetuṃ tadeva vacanaṃ vuttaṃ. Yasmā pana na imassa āpajjanamatteneva āpatti sīsaṃ eti, tasmā ‘‘tassa vacanenā’’tiādi vuttaṃ.
Nếu vị tỳ khưu ấy – chỉ trường hợp vị tỳ khưu chưa được mời trước, tự đến gặp gia chủ hoặc nữ gia chủ rồi đưa ra yêu cầu về y. Ở đây, “đến gặp” có nghĩa là đi tới nơi, thường hiểu là đến nhà. Ý chính là đi tới chỗ thí chủ đang ở, nên còn gọi là “đi đến bất cứ nơi nào”. Đưa ra yêu cầu – tức đặt điều kiện đặc biệt, thêm quy định. Khi giải thích chi tiết, nêu rõ các dạng yêu cầu như “cho dài” v.v… Tốt lắm – từ dùng để thỉnh cầu. Trong suy nghĩ – ý riêng. Tôi – chỉ bản thân. Tôn giả – cách xưng hô. Vì các từ này đã rõ nghĩa nên không giải thích thêm. Với tâm mong tốt – có ý muốn điều tốt đẹp, liên hệ với cụm “nếu đưa ra”. Ai làm vì tâm mong tốt thì có mục đích cao đẹp, nên khi giải thích chỉ nêu ý chính. Không phải cứ đưa yêu cầu là phạm tội ngay, nên có nói “theo lời họ” v.v…
531.Anāpatti ñātakānantiādīsu ñātakānaṃ cīvare vikappaṃ āpajjantassa anāpattīti evamattho daṭṭhabbo. Mahagghaṃ cetāpetukāmassa appagghaṃ cetāpetīti gahapatissa vīsatiagghanakaṃ cīvaraṃ cetāpetukāmassa ‘‘alaṃ mayhaṃ etena, dasagghanakaṃ vā aṭṭhagghanakaṃ vā dehī’’ti vadati anāpatti. Appagghanti idañca atirekanivāraṇatthameva vuttaṃ, samakepi pana anāpatti , tañca kho agghavaseneva na pamāṇavasena, agghavaḍḍhanakañhi idaṃ sikkhāpadaṃ. Tasmā yo vīsatiagghanakaṃ antaravāsakaṃ cetāpetukāmo , ‘‘taṃ ettakameva me agghanakaṃ cīvaraṃ dehī’’ti vattumpi vaṭṭati. Sesaṃ uttānatthameva.
531.Không phạm với thân quyến – hiểu là không tội khi đặt yêu cầu về y với thân nhân. Muốn đổi y giá cao mà xin y giá thấp – như muốn y giá 20 mà nói “Đủ rồi, cho tôi y giá 10 hoặc 8” thì vô tội. Giá thấp – nhằm ngăn vượt mức, nhưng ngang giá cũng vô tội, tính theo giá trị chứ không theo số lượng, vì giới này nhằm hạn chế tăng giá. Muốn y nội giá 20 mà nói “Cho tôi y đúng giá này” cũng được. Các trường hợp khác đã rõ.
Samuṭṭhānādīnipi tatuttarisikkhāpadasadisānevāti.
Các nguồn phạm tội v.v… giống như giới trước.
Paṭhamaupakkhaṭasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giới giải về vật đã chuẩn bị (lần đầu) kết thúc.
9. Dutiyaupakkhaṭasikkhāpadavaṇṇanā
9. Giới giải về vật đã chuẩn bị (lần thứ hai)
532. Dutiyaupakkhaṭepi imināva nayena attho veditabbo. Tañhi imassa anupaññattisadisaṃ. Kevalaṃ paṭhamasikkhāpade ekassa pīḷā katā, dutiye dvinnaṃ, ayamevettha viseso. Sesaṃ sabbaṃ paṭhamasadisameva. Yathā ca dvinnaṃ, evaṃ bahūnaṃ pīḷaṃ katvā gaṇhatopi āpatti veditabbāti.
532. Giới về vật đã chuẩn bị lần thứ hai cũng cần hiểu theo cách tương tự. Giới này giống với giới bổ sung trước đó. Chỉ khác là giới đầu quy định về trường hợp gây phiền một người, giới này quy định về trường hợp gây phiền hai người. Tất cả các phần khác đều giống giới đầu. Cũng cần hiểu rằng nếu gây phiền nhiều người thì cũng phạm tội.
Dutiyaupakkhaṭasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giới giải về vật đã chuẩn bị (lần thứ hai) kết thúc.
10. Rājasikkhāpadavaṇṇanā
10. Giới giải về học giới liên quan đến nhà vua
537.Tena samayenāti rājasikkhāpadaṃ. Tattha upāsakaṃ saññāpetvāti jānāpetvā, ‘‘iminā mūlena cīvaraṃ kiṇitvā therassa dehī’’ti evaṃ vatvāti adhippāyo. Paññāsabandhoti paññāsakahāpaṇadaṇḍoti vuttaṃ hoti. Paññāsaṃ baddhotipi pāṭho, paññāsaṃ jito paññāsaṃ dāpetabboti adhippāyo. Ajjaṇho, bhante, āgamehīti bhante, ajja ekadivasaṃ amhākaṃ tiṭṭha, adhivāsehīti attho. Parāmasīti gaṇhi. Jīnosīti jitosi.
537. Vào lúc bấy giờ – đây là học giới về nhà vua. Trong đó, khiến nam cư sĩ hiểu nghĩa là cho biết, với ý nói: “Hãy mua y bằng số tiền này rồi đưa cho vị trưởng lão”. Năm mươi đồng tiền phạt nghĩa là hình phạt năm mươi đồng. Cũng có thể đọc là “bị phạt năm mươi”, nghĩa là bị thua năm mươi đồng phải trả. Thưa Ngài, xin hãy đến ngày mai nghĩa là thưa Ngài, xin hãy ở lại với chúng tôi một ngày, xin hãy chấp nhận. Chạm vào nghĩa là lấy. Ngươi đã thua nghĩa là ngươi đã bị thua.
538-9.Rājabhoggoti rājato bhoggaṃ bhuñjitabbaṃ assatthīti rājabhoggo, rājabhogotipi pāṭho, rājato bhogo assa atthīti attho.
538-9. Tài sản của vua nghĩa là tài sản từ vua, được hưởng như của vua. Cũng có thể đọc là “tài sản thuộc về vua”, nghĩa là có tài sản từ vua.
Pahiṇeyyāti peseyya, uttānatthattā panassa padabhājanaṃ na vuttaṃ. Yathā ca etassa, evaṃ ‘‘cīvaraṃ itthannāmaṃ bhikkhu’’ntiādīnampi padānaṃ uttānatthattāyeva padabhājanaṃ na vuttanti veditabbaṃ . Ābhatanti ānītaṃ. Kālenakappiyanti yuttapattakālena, yadā no attho hoti, tadā kappiyaṃ cīvaraṃ gaṇhāmāti attho.
Gửi đi nghĩa là phái đi. Vì ý nghĩa rõ ràng nên không giải thích thêm. Tương tự, các từ như “y cho vị tỳ khưu tên…” cũng không giải thích do ý nghĩa đã rõ. Đem đến nghĩa là mang tới. Đúng thời, hợp pháp nghĩa là vào thời điểm thích hợp, khi nào cần thì lấy y hợp pháp.
Veyyāvaccakaroti kiccakaro, kappiyakārakoti attho. Saññatto so mayāti āṇatto so mayā, yathā tumhākaṃ cīvarena atthe sati cīvaraṃ dassati, evaṃ vuttoti attho. Attho me āvuso cīvarenāti codanālakkhaṇanidassanametaṃ, idañhi vacanaṃ vattabbaṃ, assa vā attho yāya kāyaci bhāsāya; idaṃ codanālakkhaṇaṃ. ‘‘Dehi me cīvara’’ntiādīni pana navattabbākāradassanatthaṃ vuttāni, etāni hi vacanāni etesaṃ vā attho yāya kāyaci bhāsāya na vattabbo.
Người làm công nghĩa là người phục vụ, người làm việc hợp pháp. Người ấy đã được tôi thuyết phục nghĩa là người ấy đã được tôi chỉ bảo, với ý nói khi các ngươi cần y thì sẽ cho y. Này hiền giả, tôi cần y – đây là cách nói mang tính nhắc nhở, vì câu này có thể nói bằng bất cứ cách nào miễn là đạt mục đích nhắc nhở. Các câu như “Hãy cho tôi y” được nêu ra để chỉ rõ các dạng nói khác nhau, vì những lời này có thể diễn đạt bằng nhiều cách khác nhau mà không cần nói đúng nguyên văn.
Dutiyampi vattabbo tatiyampi vattabboti ‘‘attho me āvuso cīvarenā’’ti idameva yāvatatiyaṃ vattabboti. Evaṃ ‘‘dvattikkhattuṃ codetabbo sāretabbo’’ti ettha uddiṭṭhacodanāparicchedaṃ dassetvā idāni ‘‘dvattikkhattuṃ codayamāno sārayamāno taṃ cīvaraṃ abhinipphādeyya, iccetaṃ kusala’’nti imesaṃ padānaṃ saṅkhepato atthaṃ dassento ‘‘sace abhinipphādeti, iccetaṃ kusala’’nti āha. Evaṃ yāvatatiyaṃ codento taṃ cīvaraṃ yadi nipphādeti, sakkoti attano paṭilābhavasena nipphādetuṃ, iccetaṃ kusalaṃ sādhu suṭṭhu sundaraṃ.
Phải nói lần thứ hai, phải nói lần thứ ba – ý chỉ câu “Này hiền giả, tôi cần y” phải được nhắc tối đa ba lần. Như vậy, sau khi trình bày về cách nhắc nhở hai ba lần, tiếp theo giải thích ngắn gọn ý nghĩa của các từ: “Nếu sau khi nhắc nhở hai ba lần mà có được y, thì đó là điều tốt”. Nếu khi nhắc đến lần thứ ba mà có được y, thì có thể xem như đã đạt được mục đích, đó là điều tốt đẹp.
Catukkhattuṃ pañcakkhattuṃ chakkhattuparamaṃ tuṇhībhūtena uddissa ṭhātabbanti ṭhānalakkhaṇanidassanametaṃ. Chakkhattuparamanti ca bhāvanapuṃsakavacanametaṃ, chakkhattuparamañhi etena cīvaraṃ uddissa tuṇhībhūtena ṭhātabbaṃ, na aññaṃ kiñci kātabbaṃ, idaṃ ṭhānalakkhaṇaṃ. Tattha yo sabbaṭṭhānānaṃ sādhāraṇo tuṇhībhāvo, taṃ tāva dassetuṃ padabhājane ‘‘tattha gantvā tuṇhībhūtenā’’tiādi vuttaṃ. Tattha na āsane nisīditabbanti ‘‘idha, bhante, nisīdathā’’ti vuttenāpi na nisīditabbaṃ. Na āmisaṃ paṭiggahetabbanti yāgukhajjakādibhedaṃ kiñci āmisaṃ ‘‘gaṇhatha, bhante’’ti yāciyamānenāpi na gaṇhitabbaṃ. Na dhammo bhāsitabboti maṅgalaṃ vā anumodanaṃ vā bhāsathāti yāciyamānenāpi kiñci na bhāsitabbaṃ, kevalaṃ ‘‘kiṃ kāraṇā āgatosī’’ti pucchiyamānena ‘‘jānāsi, āvuso’’ti vattabbo. Pucchiyamānoti idañhi karaṇatthe paccattavacanaṃ. Atha vā pucchaṃ kurumāno pucchiyamānoti evampettha attho daṭṭhabbo. Yo hi pucchaṃ karoti, so ettakaṃ vattabboti ṭhānaṃ bhañjatīti āgatakāraṇaṃ bhañjati.
Phải đứng im lặng chờ đợi tối đa bốn, năm, sáu lần – đây là đặc điểm về cách chờ đợi. “Tối đa sáu lần” là cách nói nhấn mạnh, vì chỉ nên đứng chờ im lặng tối đa sáu lần cho việc xin y, không làm gì khác. Trong phần giải thích từ ngữ, để chỉ rõ trạng thái im lặng chung cho mọi trường hợp, có nói: “sau khi đến đó thì phải im lặng”. Ở đây:
Không được ngồi xuống chỗ ngồi – dù có được mời “Xin mời ngồi đây” cũng không ngồi.
Không được nhận vật thực – dù được mời nhận cháo, bánh hay bất cứ vật thực nào cũng không lấy.
Không được thuyết pháp – dù được yêu cầu nói lời chúc lành hay tùy hỷ cũng không nói, chỉ khi được hỏi “Vì sao đến đây?” thì trả lời “Ông/biết rồi”.
Khi bị hỏi – đây là cách nói về hành động bị hỏi. Hoặc có thể hiểu là người đang hỏi, người bị hỏi. Ai hỏi thì chỉ nên nói như vậy, phá vỡ quy tắc nghĩa là làm mất lý do đến.
Idāni yā tisso codanā, cha ca ṭhānāni vuttāni. Tattha vuḍḍhiñca hāniñca dassento ‘‘catukkhattuṃ codetvā’’tiādimāha. Yasmā ca ettha ekacodanāvuḍḍhiyā dvinnaṃ ṭhānānaṃ hāni vuttā, tasmā ‘‘ekā codanā diguṇaṃ ṭhāna’’nti lakkhaṇaṃ dassitaṃ hoti. Iti iminā lakkhaṇena tikkhattuṃ codetvā chakkhattuṃ ṭhātabbaṃ, dvikkhattuṃ codetvā aṭṭhakkhattuṃ ṭhātabbaṃ, sakiṃ codetvā dasakkhattuṃ ṭhātabbanti. Yathā ca ‘‘chakkhattuṃ codetvā na ṭhātabba’’nti vuttaṃ, evaṃ ‘‘dvādasakkhattuṃ ṭhatvā na codetabba’’ntipi vuttameva hoti. Tasmā sace codetiyeva na tiṭṭhati, cha codanā labbhanti. Sace tiṭṭhatiyeva na codeti, dvādasa ṭhānāni labbhanti. Sace codetipi tiṭṭhatipi, ekāya codanāya dve ṭhānāni hāpetabbāni. Tattha yo ekadivasameva punappunaṃ gantvā chakkhattuṃ codeti, sakiṃyeva vā gantvā ‘‘attho me, āvuso, cīvarenā’’ti chakkhattuṃ vadati. Tathā ekadivasameva punappunaṃ gantvā dvādasakkhattuṃ tiṭṭhati, sakiṃyeva vā gantvā tatra tatra ṭhāne tiṭṭhati, sopi sabbacodanāyo sabbaṭṭhānāni ca bhañjati. Ko pana vādo nānādivasesu evaṃ karontassāti evamettha vinicchayo veditabbo.
Ba cách nhắc nhở và sáu cách chờ đợi đã được nêu. Ở đây, để chỉ rõ sự tăng giảm, có nói “sau khi nhắc bốn lần”… Vì khi tăng một lần nhắc thì giảm hai cách chờ, nên có nguyên tắc “một lần nhắc bằng hai lần chờ”. Theo đó: nhắc ba lần thì chờ sáu lần, nhắc hai lần thì chờ tám lần, nhắc một lần thì chờ mười lần. Như đã nói “nhắc sáu lần thì không chờ”, thì cũng có thể hiểu “chờ mười hai lần thì không nhắc”. Vậy nếu chỉ nhắc không chờ thì được sáu lần nhắc. Nếu chỉ chờ không nhắc thì được mười hai lần chờ. Nếu vừa nhắc vừa chờ thì mỗi lần nhắc phải bớt hai lần chờ. Ai trong một ngày đi nhiều lần để nhắc sáu lần, hoặc đi một lần mà nói “Tôi cần y” sáu lần; hay trong một ngày đi nhiều lần để chờ mười hai lần, hoặc đi một lần mà đứng chờ nhiều chỗ, người ấy đã vi phạm tất cả cách nhắc và chờ. Huống chi là làm như vậy trong nhiều ngày, cần hiểu quyết định như vậy.
Yatassa cīvaracetāpannaṃ ābhatanti yato rājato vā rājabhoggato vā assa bhikkhuno cīvaracetāpannaṃ ānītaṃ. Yatvassātipi pāṭho. Ayamevattho. ‘‘Yatthassā’’tipi paṭhanti, yasmiṃ ṭhāne assa cīvaracetāpannaṃ pesitanti ca atthaṃ kathenti, byañjanaṃ pana na sameti. Tatthāti tassa rañño vā rājabhoggassa vā santike; samīpatthe hi idaṃ bhummavacanaṃ. Na taṃ tassa bhikkhuno kiñci atthaṃ anubhotīti taṃ cīvaracetāpannaṃ tassa bhikkhuno kiñci appamattakampi kammaṃ na nipphādeti. Yuñjantāyasmanto sakanti āyasmanto attano santakaṃ dhanaṃ pāpuṇantu. Mā vo sakaṃ vinassāti tumhākaṃ santakaṃ mā vinassatu. Yo pana neva sāmaṃ gacchati, na dūtaṃ pāheti, vattabhede dukkaṭaṃ āpajjati.
Nơi mà vật liệu may y được mang đến – chỉ nơi vua hoặc người hưởng tài sản vua mang vật liệu may y đến cho tỷ-kheo. Cũng có thể đọc là “nơi mà”, ý nghĩa tương tự. Có bản đọc “yatthassā”, giải thích là nơi gửi vật liệu may y đến, nhưng không phù hợp văn phạm. Tại đó – gần vua hoặc người hưởng tài sản vua; vì đây là cách nói chỉ nơi chốn. Vật ấy không mang lợi ích gì cho vị tỷ-kheo – vật liệu may y ấy không giúp ích gì dù nhỏ cho vị ấy. Quý vị hãy dùng của mình – quý vị hãy dùng tài sản của mình. Đừng để của các vị mất – đừng để tài sản của các vị hư hao. Ai không tự đi cũng không sai người đi, thì trong trường hợp đáng khiển trách, phạm tội dukkaṭa (tác ác).
Kiṃ pana sabbakappiyakārakesu evaṃ paṭipajjitabbanti? Na paṭipajjitabbaṃ. Ayañhi kappiyakārako nāma saṅkhepato duvidho niddiṭṭho ca aniddiṭṭho ca. Tattha niddiṭṭho duvidho – bhikkhunā niddiṭṭho, dūtena niddiṭṭhoti. Aniddiṭṭhopi duvidho – mukhavevaṭika kappiyakārako, parammukhakappiyakārakoti. Tesu bhikkhunā niddiṭṭho sammukhāsammukhavasena catubbidho hoti. Tathā dūtena niddiṭṭhopi.
Nhưng có phải nên hành xử như vậy với tất cả người làm hợp pháp không? Không nên hành xử như vậy. Ở đây, người làm hợp pháp được phân làm hai loại: loại được chỉ định và loại không được chỉ định. Trong đó, loại được chỉ định lại có hai: do tỳ khưu chỉ định và do sứ giả chỉ định. Loại không được chỉ định cũng có hai: người làm hợp pháp mặt đối mặt và người làm hợp pháp gián tiếp.
Kathaṃ? Idhekacco bhikkhussa cīvaratthāya dūtena akappiyavatthuṃ pahiṇati, dūto taṃ bhikkhuṃ upasaṅkamitvā ‘‘idaṃ, bhante, itthannāmena tumhākaṃ cīvaratthāya pahitaṃ, gaṇhatha na’’nti vadati, bhikkhu ‘‘nayidaṃ kappatī’’ti paṭikkhipati, dūto ‘‘atthi pana te, bhante, veyyāvaccakaro’’ti pucchati, puññatthikehi ca upāsakehi ‘‘bhikkhūnaṃ veyyāvaccaṃ karothā’’ti āṇattā vā, bhikkhūnaṃ vā sandiṭṭhā sambhattā keci veyyāvaccakarā honti, tesaṃ aññataro tasmiṃ khaṇe bhikkhussa santike nisinno hoti, bhikkhu taṃ niddisati ‘‘ayaṃ bhikkhūnaṃ veyyāvaccakaro’’ti. Dūto tassa hatthe akappiyavatthuṃ datvā ‘‘therassa cīvaraṃ kiṇitvā dehī’’ti gacchati, ayaṃ bhikkhunā sammukhāniddiṭṭho.
Cụ thể như thế nào? Ví dụ trường hợp này: Một sứ giả mang vật không hợp pháp đến cho vị tỳ khưu để may y. Sứ giả đến gặp vị tỳ khưu và nói: “Thưa Ngài, vật này do người tên… gửi đến để may y cho Ngài, xin hãy nhận”. Vị tỳ khưu từ chối: “Vật này không hợp pháp”. Sứ giả hỏi tiếp: “Thưa Ngài, Ngài có người phục vụ không?”
Lúc này, có những người cư sĩ vì muốn tạo phước đã được chỉ bảo “Hãy phục vụ chư Tăng” hoặc tự nguyện phục vụ chư Tăng. Trong số những người phục vụ đó, có một người đang ngồi gần vị tỳ khưu. Vị tỳ khưu chỉ vào người ấy và nói: “Đây là người phục vụ của chư Tăng”.
Sứ giả liền đặt vật không hợp pháp vào tay người phục vụ đó và dặn: “Hãy mua y cho vị trưởng lão rồi trao cho ngài”. Trường hợp này được gọi là người phục vụ được chỉ định trực tiếp bởi tỳ khưu.
No ce bhikkhussa santike nisinno hoti, apica kho bhikkhu niddisati – ‘‘asukasmiṃ nāma gāme itthannāmo bhikkhūnaṃ veyyāvaccakaro’’ti, so gantvā tassa hatthe akappiyavatthuṃ datvā ‘‘therassa cīvaraṃ kiṇitvā dadeyyāsī’’ti āgantvā bhikkhussa ārocetvā gacchati, ayameko bhikkhunā asammukhāniddiṭṭho.
Nếu không có người phục vụ ngồi gần vị tỳ khưu, vị tỳ khưu chỉ định: “Ở làng tên… có người tên… là người phục vụ của chư Tăng”. Người ấy đi đến, đặt vật không hợp pháp vào tay người đó và nói: “Hãy mua y cho vị trưởng lão rồi trao cho ngài”, rồi trở lại báo cho vị tỳ khưu biết. Đây là trường hợp thứ nhất về người phục vụ được tỳ khưu chỉ định gián tiếp.
Na heva kho so dūto attanā āgantvā āroceti, apica kho aññaṃ pahiṇati ‘‘dinnaṃ mayā, bhante, tassa hatthe cīvaracetāpannaṃ, cīvaraṃ gaṇheyyāthā’’ti, ayaṃ dutiyo bhikkhunā asammukhāniddiṭṭho.
Không phải chỉ có sứ giả tự mình trở lại báo cáo, mà còn có thể nhờ người khác đến thông báo: “Thưa Ngài, tôi đã giao vật liệu may y cho người đó, xin Ngài nhận y”. Đây là trường hợp thứ hai về người phục vụ được tỳ khưu chỉ định gián tiếp.
Na heva kho aññaṃ pahiṇati, apica kho gacchantova bhikkhuṃ vadati ‘‘ahaṃ tassa hatthe cīvaracetāpannaṃ dassāmi, tumhe cīvaraṃ gaṇheyyāthā’’ti, ayaṃ tatiyo bhikkhunā asammukhāniddiṭṭhoti evaṃ eko sammukhāniddiṭṭho tayo asammukhāniddiṭṭhāti ime cattāro bhikkhunā niddiṭṭhaveyyāvaccakarā nāma. Etesu imasmiṃ rājasikkhāpade vuttanayeneva paṭipajjitabbaṃ.
Cũng không phải chỉ nhờ người khác báo cáo, mà còn có thể khi đang đi đường nói với vị tỳ khưu: “Tôi sẽ giao vật liệu may y cho người đó, các Ngài hãy nhận y”. Đây là trường hợp thứ ba về người phục vụ được tỳ khưu chỉ định gián tiếp. Như vậy có một trường hợp chỉ định trực tiếp và ba trường hợp chỉ định gián tiếp, gọi chung là bốn loại người phục vụ được tỳ khưu chỉ định. Đối với những trường hợp này, cần áp dụng cách thức đã được quy định trong giới liên quan đến nhà vua.
Aparo bhikkhu purimanayeneva dūtena pucchito natthitāya vā, avicāretukāmatāya vā ‘‘natthamhākaṃ kappiyakārako’’ti vadati, tasmiñca khaṇe koci manusso āgacchati, dūto tassa hatthe akappiyavatthuṃ datvā ‘‘imassa hatthato cīvaraṃ gaṇheyyāthā’’ti vatvā gacchati, ayaṃ dūtena sammukhāniddiṭṭho.
Một vị tỳ khưu khác, khi được sứ giả hỏi theo cách thức như trước, hoặc vì không có người phục vụ, hoặc vì không muốn chỉ định, đã nói: “Chúng tôi không có người xử lý hợp pháp”. Ngay lúc đó có một người đến, sứ giả đặt vật không hợp pháp vào tay người đó và nói: “Hãy nhận y từ tay người này”, rồi đi. Đây là trường hợp người phục vụ được sứ giả chỉ định trực tiếp.
Aparo dūto gāmaṃ pavisitvā attanā abhirucitassa kassaci hatthe akappiyavatthuṃ datvā purimanayeneva āgantvā āroceti, aññaṃ vā pahiṇati, ‘‘ahaṃ asukassa nāma hatthe cīvaracetāpannaṃ dassāmi, tumhe cīvaraṃ gaṇheyyāthā’’ti vatvā vā gacchati, ayaṃ tatiyo dūtena asammukhāniddiṭṭhoti evaṃ eko sammukhāniddiṭṭho, tayo asammukhāniddiṭṭhāti ime cattāro dūtena niddiṭṭhaveyyāvaccakarā nāma. Etesu meṇḍakasikkhāpade vuttanayena paṭipajjitabbaṃ. Vuttañhetaṃ – ‘‘santi, bhikkhave, manussā saddhā pasannā, te kappiyakārakānaṃ hatthe hiraññaṃ upanikkhipanti – ‘iminā ayyassa yaṃ kappiyaṃ taṃ dethā’ti. Anujānāmi, bhikkhave, yaṃ tato kappiyaṃ taṃ sādituṃ, na tvevāhaṃ, bhikkhave, kenaci pariyāyena jātarūparajataṃ sāditabbaṃ pariyesitabbanti vadāmī’’ti (mahāva. 299). Ettha ca codanāya pamāṇaṃ natthi, mūlaṃ asādiyantena sahassakkhattumpi codanāya vā ṭhānena vā kappiyabhaṇḍaṃ sādituṃ vaṭṭati. No ce deti, aññaṃ kappiyakārakaṃ ṭhapetvāpi āharāpetabbaṃ. Sace icchati mūlasāmikānampi kathetabbaṃ; no ce icchati na kathetabbaṃ.
Một vị tỳ khưu khác, khi được sứ giả hỏi theo cách thức như trước, hoặc vì không có người phục vụ, hoặc vì không muốn chỉ định, đã nói: “Chúng tôi không có người xử lý hợp pháp”. Ngay lúc đó có một người đến, sứ giả đặt vật không hợp pháp vào tay người đó và nói: “Hãy nhận y từ tay người này”, rồi đi. Đây là trường hợp người phục vụ được sứ giả chỉ định trực tiếp.
Aparo bhikkhu purimanayeneva dūtena pucchito ‘‘natthamhākaṃ kappiyakārako’’ti vadati, tadañño samīpe ṭhito sutvā ‘‘āhara bho ahaṃ ayyassa cīvaraṃ cetāpetvā dassāmī’’ti vadati. Dūto ‘‘handa bho dadeyyāsī’’ti tassa hatthe datvā bhikkhussa anārocetvāva gacchati, ayaṃ mukhavevaṭikakappiyakārako. Aparo bhikkhuno upaṭṭhākassa vā aññassa vā hatthe akappiyavatthuṃ datvā ‘‘therassa cīvaraṃ dadeyyāsī’’ti ettova pakkamati, ayaṃ parammukhakappiyakārakoti ime dve aniddiṭṭhakappiyakārakā nāma. Etesu aññātakaappavāritesu viya paṭipajjitabbaṃ. Sace sayameva cīvaraṃ ānetvā dadanti, gahetabbaṃ. No ce, kiñci na vattabbā. Desanāmattameva cetaṃ ‘‘dūtena cīvaracetāpannaṃ pahiṇeyyā’’ti sayaṃ āharitvāpi piṇḍapātādīnaṃ atthāya dadantesupi eseva nayo. Na kevalañca attanoyeva atthāya sampaṭicchituṃ na vaṭṭati, sacepi koci jātarūparajataṃ ānetvā ‘‘idaṃ saṅghassa dammi, ārāmaṃ vā karotha cetiyaṃ vā bhojanasālādīnaṃ vā aññatara’’nti vadati, idampi sampaṭicchituṃ na vaṭṭati. Yassa kassaci hi aññassatthāya sampaṭicchantassa dukkaṭaṃ hotīti mahāpaccariyaṃ vuttaṃ.
Một vị tỳ khưu khác, khi được sứ giả hỏi theo cách thức như trước, đã nói: “Chúng tôi không có người xử lý hợp pháp”. Lúc đó có người khác đứng gần đó nghe được liền nói: “Này ông, tôi sẽ mua y và dâng cho vị đại đức”. Sứ giả nói: “Nào ông, hãy làm đi” rồi đưa vào tay người đó mà không báo lại với vị tỳ khưu. Đây là trường hợp người xử lý hợp pháp tự nguyện.
Một trường hợp khác, sứ giả đặt vật không hợp pháp vào tay người hộ độ của vị tỳ khưu hoặc người khác và nói: “Hãy dâng y cho vị trưởng lão” rồi đi ngay. Đây là trường hợp người xử lý hợp pháp gián tiếp. Hai trường hợp này gọi là người xử lý hợp pháp không được chỉ định. Đối với những trường hợp này, cần xử lý như trường hợp người không quen biết không được mời.
Nếu họ tự mang y đến dâng thì có thể nhận. Nếu không thì không nên nói gì. Đây chỉ là lời dạy: “Nên gửi vật liệu may y qua sứ giả”. Ngay cả khi họ tự mang đến để dâng thức ăn khất thực hay vật dụng khác cũng áp dụng cách tương tự.
Không chỉ vậy, ngay cả khi có người mang vàng bạc đến nói: “Tôi dâng số này cho Tăng đoàn để xây tịnh xá, bảo tháp hay nhà ăn…” cũng không được nhận. Vì theo Đại Phân Tích, bất cứ ai nhận vì lợi ích người khác đều phạm tội tác ác.
Sace pana ‘‘nayidaṃ bhikkhūnaṃ sampaṭicchituṃ vaṭṭatī’’ti paṭikkhitte ‘‘vaḍḍhakīnaṃ vā kammakarānaṃ vā hatthe bhavissati, kevalaṃ tumhe sukatadukkaṭaṃ jānāthā’’ti vatvā tesaṃ hatthe datvā pakkamati, vaṭṭati. Athāpi ‘‘mama manussānaṃ hatthe bhavissati mayhameva vā hatthe bhavissati, kevalaṃ tumhe yaṃ yassa dātabbaṃ, tadatthāya peseyyāthā’’ti vadati, evampi vaṭṭati.
Nếu khi bị từ chối: “Vật này không được phép nhận cho Tăng”, họ nói: “Sẽ để vào tay thợ mộc hoặc người làm công, các ngài chỉ cần biết tốt xấu” rồi đưa vào tay những người đó thì được. Hoặc nếu họ nói: “Sẽ để vào tay người của tôi hoặc vào tay tôi, các ngài chỉ cần gửi người đến lấy khi cần” thì cũng được.
Sace pana saṅghaṃ vā gaṇaṃ vā puggalaṃ vā anāmasitvā ‘‘idaṃ hiraññasuvaṇṇaṃ cetiyassa dema, vihārassa dema, navakammassa demā’’ti vadanti, paṭikkhipituṃ na vaṭṭati. ‘‘Ime idaṃ bhaṇantī’’ti kappiyakārakānaṃ ācikkhitabbaṃ. ‘‘Cetiyādīnaṃ atthāya tumhe gahetvā ṭhapethā’’ti vuttena pana ‘‘amhākaṃ gahetuṃ na vaṭṭatī’’ti paṭikkhipitabbaṃ.
Nếu có người dâng vàng bạc cho bảo tháp, tịnh xá hay việc tu sửa mà không nhắm vào Tăng chúng, nhóm Tăng hay cá nhân tỳ khưu, thì không được từ chối. Nên bảo người xử lý hợp pháp: “Những người này đang nói thế này”. Nhưng nếu họ nói: “Các ngài hãy nhận giùm cho bảo tháp” thì phải từ chối: “Chúng tôi không được phép nhận”.
Sace pana koci bahuṃ hiraññasuvaṇṇaṃ ānetvā ‘‘idaṃ saṅghassa dammi, cattāro paccaye paribhuñjathā’’ti vadati, taṃ ce saṅgho sampaṭicchati, paṭiggahaṇepi paribhogepi āpatti. Tatra ce eko bhikkhu ‘‘nayidaṃ kappatī’’ti paṭikkhipati, upāsako ca ‘‘yadi na kappati, mayhameva bhavissatī’’ti gacchati. So bhikkhu ‘‘tayā saṅghassa lābhantarāyo kato’’ti na kenaci kiñci vattabbo. Yo hi taṃ codeti, sveva sāpattiko hoti, tena pana ekena bahū anāpattikā katā. Sace pana bhikkhūhi ‘‘na vaṭṭatī’’ti paṭikkhitte ‘‘kappiyakārakānaṃ vā hatthe bhavissati, mama purisānaṃ vā mayhaṃ vā hatthe bhavissati, kevalaṃ tumhe paccaye paribhuñjathā’’ti vadati, vaṭṭati.
Nếu có người mang nhiều vàng bạc đến nói: “Tôi dâng cho Tăng đoàn để dùng bốn vật dụng”, mà Tăng nhận thì cả người nhận lẫn người dùng đều phạm tội. Nếu một tỳ khưu từ chối: “Điều này không hợp pháp”, và cư sĩ nói: “Nếu không hợp pháp thì để tôi giữ”, thì vị tỳ khưu đó không bị khiển trách. Ai khiển trách vị ấy thì chính người đó phạm tội, còn vị tỳ khưu kia giúp nhiều người khỏi tội. Nếu bị các tỳ khưu từ chối: “Không được phép”, họ nói: “Sẽ để vào tay người xử lý hợp pháp hoặc người của tôi hay tay tôi, các ngài cứ dùng vật dụng” thì được.
Catupaccayatthāya ca dinnaṃ yena yena paccayena attho hoti, tadatthaṃ upanetabbaṃ, cīvaratthāya dinnaṃ cīvareyeva upanetabbaṃ. Sace cīvarena tādiso attho natthi, piṇḍapātādīhi saṅgho kilamati, saṅghasuṭṭhutāya apaloketvā tadatthāyapi upanetabbaṃ. Esa nayo piṇḍapātagilānapaccayatthāya dinnepi, senāsanatthāya dinnaṃ pana senāsanassa garubhaṇḍattā senāsaneyeva upanetabbaṃ. Sace pana bhikkhūsu senāsanaṃ chaḍḍetvā gatesu senāsanaṃ vinassati, īdise kāle senāsanaṃ vissajjetvāpi bhikkhūnaṃ paribhogo anuññāto, tasmā senāsanajagganatthaṃ mūlacchejjaṃ akatvā yāpanamattaṃ paribhuñjitabbaṃ.
Vật được dâng cho bốn nhu yếu phải dùng đúng mục đích đó. Vật dâng để may y chỉ dùng cho y. Nếu không cần y mà Tăng đang thiếu thốn thức ăn, thì sau khi hỏi ý Tăng có thể dùng cho mục đích khác. Cách này cũng áp dụng khi được dâng thức ăn hay thuốc men. Nhưng vật dâng cho chỗ ở vì thuộc loại quan trọng nên chỉ dùng cho chỗ ở. Chỉ khi các tỳ khưu đã rời đi nơi khác mà chỗ ở hư hỏng, thì sau khi bán đi có thể dùng tạm cho nhu yếu khác, nhưng không được dùng hết mà chỉ dùng vừa đủ.
Na kevalañca hiraññasuvaṇṇameva, aññampi khettavatthādi akappiyaṃ na sampaṭicchitabbaṃ. Sace hi koci ‘‘mayhaṃ tisassasampādanakaṃ mahātaḷākaṃ atthi, taṃ saṅghassa dammī’’ti vadati, taṃ ce saṅgho sampaṭicchati, paṭiggahaṇepi paribhogepi āpattiyeva. Yo pana taṃ paṭikkhipati, so purimanayeneva na kenaci kiñci vattabbo. Yo hi taṃ codeti, sveva sāpattiko hoti, tena pana ekena bahū anāpattikā katā.
Không chỉ vàng bạc, mà cả ruộng đất cũng không được nhận. Nếu có người nói: “Tôi có cái hồ lớn đủ dùng ba năm, xin dâng cho Tăng”, mà Tăng nhận thì cả nhận lẫn dùng đều phạm tội. Ai từ chối thì không bị khiển trách, còn ai khiển trách thì tự phạm tội.
Yo pana ‘‘tādisaṃyeva taḷākaṃ dammī’’ti vatvā bhikkhūhi ‘‘na vaṭṭatī’’ti paṭikkhitto vadati ‘‘asukañca asukañca saṅghassa taḷākaṃ atthi, taṃ kathaṃ vaṭṭatī’’ti. So vattabbo – ‘‘kappiyaṃ katvā dinnaṃ bhavissatī’’ti. Kathaṃ dinnaṃ kappiyaṃ hotīti? ‘‘Cattāro paccaye paribhuñjathā’’ti vatvā dinnanti. So sace ‘‘sādhu, bhante, cattāro paccaye saṅgho paribhuñjatū’’ti deti, vaṭṭati. Athāpi ‘‘taḷākaṃ gaṇhathā’’ti vatvā ‘‘na vaṭṭatī’’ti paṭikkhitto ‘‘kappiyakārako atthī’’ti pucchitvā ‘‘natthī’’ti vutte ‘‘idaṃ asuko nāma vicāressati, asukassa vā hatthe, mayhaṃ vā hatthe bhavissati, saṅgho kappiyabhaṇḍaṃ paribhuñjatū’’ti vadati, vaṭṭati. Sacepi ‘‘na vaṭṭatī’’ti paṭikkhitto ‘‘udakaṃ paribhuñjissati, bhaṇḍakaṃ dhovissati, migapakkhino pivissantī’’ti vadati, evampi vaṭṭati. Athāpi ‘‘na vaṭṭatī’’ti paṭikkhitto vadati ‘‘kappiyasīsena gaṇhathā’’ti. ‘‘Sādhu, upāsaka, saṅgho pānīyaṃ pivissati, bhaṇḍakaṃ dhovissati, migapakkhino pivissantī’’ti vatvā paribhuñjituṃ vaṭṭati.
Nếu người ấy bị từ chối rồi hỏi: “Tăng có hồ nào khác không, sao lại được?”, thì nên trả lời: “Nếu biến thành hợp pháp thì được”. Cách biến thành hợp pháp là nói: “Xin dâng bốn vật dụng”. Nếu họ đồng ý thì được. Hoặc nếu bị từ chối nhận hồ, có thể nói: “Sẽ để người xử lý hợp pháp hoặc để vào tay người nào đó, Tăng cứ dùng vật hợp pháp” thì được. Hoặc nói: “Tăng sẽ dùng nước, rửa đồ, cho chim thú uống” cũng được. Nếu vẫn bị từ chối thì nói: “Hãy nhận phần hợp pháp”. Khi họ đồng ý: “Tốt lắm, Tăng sẽ dùng nước uống, rửa đồ, cho chim thú uống” thì được phép dùng.
Athāpi ‘‘mama taḷākaṃ vā pokkharaṇiṃ vā saṅghassa dammī’’ti ‘‘vutte, sādhu, upāsaka, saṅgho pānīyaṃ pivissatī’’tiādīni vatvā paribhuñjituṃ vaṭṭatiyeva. Yadi pana bhikkhūhi hatthakammaṃ yācitvā sahatthena ca kappiyapathaviṃ khanitvā udakaparibhogatthāya taḷākaṃ kāritaṃ hoti, taṃ ce nissāya sassaṃ nipphādetvā manussā vihāre kappiyabhaṇḍaṃ denti, vaṭṭati. Atha manussā eva saṅghassa upakāratthāya saṅghikabhūmiṃ khanitvā taṃ nissāya nipphannasassato kappiyabhaṇḍaṃ denti, evampi vaṭṭati. ‘‘Amhākaṃ ekaṃ kappiyakārakaṃ ṭhapethā’’ti vutte ca ṭhapetumpi labbhati. Atha pana te manussā rājabalinā upaddutā pakkamanti, aññe paṭipajjanti, na ca bhikkhūnaṃ kiñci denti, udakaṃ vāretuṃ labbhati. Tañca kho kasikammakāleyeva, na sassakāle. Sace te vadanti ‘‘nanu, bhante, pubbepi manussā imaṃ nissāya sassaṃ akaṃsū’’ti . Tato vattabbā – ‘‘te saṅghassa imañca imañca upakāraṃ akaṃsu, idañcidañca kappiyabhaṇḍaṃ adaṃsū’’ti. Sace vadanti – ‘‘mayampi dassāmā’’ti, evampi vaṭṭati.
Nếu có người nói: “Tôi xin dâng hồ nước hoặc ao sen này cho Tăng”, thì sau khi nói: “Lành thay, cư sĩ, Tăng sẽ dùng nước uống” v.v…, được phép sử dụng. Hoặc nếu tỳ khưu nhờ người đào đất hợp pháp rồi tự tay đào hồ để dùng nước, và người dân nhờ đó trồng trọt rồi cúng dường vật dụng hợp pháp cho tịnh xá, thì được. Hoặc nếu người dân vì muốn giúp Tăng nên đào đất của Tăng, rồi từ hoa lợi trồng được mà cúng dường vật dụng hợp pháp, cũng được. Nếu họ nói: “Hãy chỉ định một người xử lý hợp pháp cho chúng tôi”, thì có thể chỉ định. Nhưng nếu những người đó bị thuế vua bức bách phải bỏ đi, người khác đến thay mà không cúng dường gì cho tỳ khưu, thì chỉ được ngăn nước vào mùa cày cấy, không phải mùa thu hoạch. Nếu họ nói: “Này các đại đức, trước kia người ta cũng trồng trọt nhờ hồ này”, thì nên nói lại: “Họ đã giúp Tăng việc này việc kia và cúng dường vật dụng hợp pháp”. Nếu họ nói: “Chúng tôi cũng sẽ cúng dường”, thì cũng được.
Sace pana koci abyatto akappiyavohārena taḷākaṃ paṭiggaṇhāti vā kāreti vā, taṃ bhikkhūhi na paribhuñjitabbaṃ, taṃ nissāya laddhaṃ kappiyabhaṇḍampi akappiyameva. Sace bhikkhūhi pariccattabhāvaṃ ñatvā sāmiko vā tassa puttadhītaro vā añño vā koci vaṃse uppanno puna kappiyavohārena deti, vaṭṭati. Pacchinne kulavaṃse yo tassa janapadassa sāmiko, so acchinditvā puna deti, cittalapabbate bhikkhunā nīhaṭaudakavāhakaṃ aḷanāgarājamahesī viya, evampi vaṭṭati.
Nhưng nếu có người không hiểu biết nhận hồ hoặc cho đào hồ không đúng phép, thì tỳ khưu không được dùng, dù vật dụng kiếm được nhờ hồ đó cũng không hợp pháp. Nếu chủ cũ hoặc con cháu họ hay người trong dòng tộc biết tỳ khưu đã từ bỏ hồ đó rồi lại dâng đúng phép, thì được. Hoặc như trường hợp ở Cittalapabbata, khi vua Aḷanāga và hoàng hậu chiếm đoạt rồi lại dâng nước dẫn vào, cũng được.
Kappiyavohārepi udakavasena paṭiggahitataḷāke suddhacittānaṃ mattikuddharaṇapāḷibandhanādīni ca kātuṃ vaṭṭati. Taṃ nissāya pana sassaṃ karonte disvā kappiyakārakaṃ ṭhapetuṃ na vaṭṭati. Yadi te sayameva kappiyabhaṇḍaṃ denti, gahetabbaṃ. No ce denti, na codetabbaṃ, na sāretabbaṃ. Paccayavasena paṭiggahitataḷāke kappiyakārakaṃ ṭhapetuṃ vaṭṭati. Mattikuddharaṇapāḷibandhanādīni pana kātuṃ na vaṭṭati. Sace kappiyakārakā sayameva karonti, vaṭṭati. Abyattena pana lajjibhikkhunā kārāpitesu kiñcāpi paṭiggahaṇe kappiyaṃ, bhikkhussa payogapaccayā uppannena missakattā visagatapiṇḍapāto viya akappiyamaṃsarasamissakabhojanaṃ viya ca dubbinibbhogaṃ hoti, sabbesaṃ akappiyameva.
Với hồ nhận đúng phép để dùng nước, được phép làm các việc như lấy đất, đắp bờ v.v… Nhưng nếu thấy người trồng trọt nhờ hồ đó thì không được chỉ định người xử lý hợp pháp. Nếu họ tự ý cúng dường vật hợp pháp thì nhận, không thì không được đòi hỏi. Với hồ nhận vì nhu cầu, được chỉ định người xử lý hợp pháp, nhưng không được lấy đất hay đắp bờ. Nếu người xử lý tự làm thì được. Còn nếu do tỳ khưu không hiểu biết mà xui khiến, thì dù vật nhận có hợp pháp, nhưng vì pha trộn nên khó phân biệt, như thức ăn khất thực lẫn lộn hay thức ăn pha thịt không hợp pháp, đều thành không hợp pháp cả.
Sace pana ‘‘udakassa okāso atthi, taḷākassa pāḷi thirā, yathā bahuṃ udakaṃ gaṇhāti, evaṃ karohi, tīrasamīpe udakaṃ karohī’’ti evaṃ udakameva vicāreti, vaṭṭati. Uddhane aggiṃ na pātenti, ‘‘udakakammaṃ labbhatu upāsakā’’ti vattuṃ vaṭṭati. ‘‘Sassaṃ katvā āharathā’’ti vattuṃ pana na vaṭṭati. Sace pana taḷāke atibahuṃ udakaṃ disvā passato vā piṭṭhito vā mātikaṃ nīharāpeti, vanaṃ chindāpetvā kedāre kārāpeti, porāṇakedāresu vā pakatibhāgaṃ aggahetvā atirekaṃ gaṇhāti, navasasse vā akālasasse vā aparicchinnabhāge ‘‘ettake kahāpaṇe dethā’’ti kahāpaṇe uṭṭhāpeti, sabbesaṃ akappiyaṃ.
Nếu chỉ nói: “Chỗ nước còn rộng, bờ hồ vững chắc, hãy lấy nhiều nước, làm gần bờ” – chỉ tính đến việc dùng nước thì được. Không được đốt lửa nơi khô ráo, nhưng có thể nói: “Hãy để cư sĩ lo việc nước”. Không được nói: “Hãy trồng trọt rồi mang đến”. Nếu thấy hồ có quá nhiều nước, bảo kéo đất sét từ trước hay sau hồ, chặt rừng làm ruộng, hoặc từ ruộng cũ lấy phần vượt quá mức thông thường, hay với lúa mới hoặc trái mùa nói: “Hãy cho bao nhiêu tiền” để lấy tiền – tất cả đều không hợp pháp.
Yo pana ‘‘kassatha vapathā’’ti avatvā ‘‘ettakāya bhūmiyā, ettako nāma bhāgo’’ti evaṃ bhūmiṃ vā patiṭṭhapeti, ‘‘ettake bhūmibhāge amhehi sassaṃ kataṃ, ettakaṃ nāma bhāgaṃ gaṇhathā’’ti vadantesu kassakesu bhūmippamāṇaggahaṇatthaṃ rajjuyā vā daṇḍena vā mināti, khale vā ṭhatvā rakkhati, khalato vā nīharāpeti, koṭṭhāgāre vā paṭisāmeti, tasseva taṃ akappiyaṃ.
Nếu không nói “Hãy cày cấy” mà nói: “Với diện tích đất này, phần này tên là…” rồi phân chia đất, khi nông dân nói: “Chúng tôi trồng trên phần đất này, xin lấy phần này”, mà tỳ khưu đo đạc bằng dây hay gậy, đứng nơi sân giữ lúa, bảo đem lúa từ sân hay cất vào kho – việc đó cũng không hợp pháp.
Sace kassakā kahāpaṇe āharitvā ‘‘ime saṅghassa āhaṭā’’ti vadanti, aññataro ca bhikkhu ‘‘na saṅgho kahāpaṇe khādatī’’ti saññāya ‘‘ettakehi kahāpaṇehi sāṭake āhara, ettakehi yāguādīni sampādehī’’ti vadati. Yaṃ te āharanti, sabbesaṃ akappiyaṃ. Kasmā? Kahāpaṇānaṃ vicāritattā.
Nếu nông dân mang tiền đến nói: “Đây là số tiền dâng cho Tăng”, mà một tỳ khưu hiểu lầm rằng “Tăng không dùng tiền”, lại bảo: “Với số tiền này hãy mua vải, với số này lo nấu cháo…” – những gì họ mang đến đều không hợp pháp. Tại sao? Vì đã tính đến việc dùng tiền.
Sace dhaññaṃ āharitvā idaṃ saṅghassa āhaṭanti vadanti, aññataro ca bhikkhu purimanayeneva ‘‘ettakehi vīhīhi idañcidañca āharathā’’ti vadati. Yaṃ te āharanti, tasseva akappiyaṃ. Kasmā? Dhaññassa vicāritattā.
Nếu họ mang lúa đến và nói: “Đây là lúa dâng cho Tăng”, mà một tỳ khưu nói như trước: “Với số lúa này hãy mang cái này cái kia đến”, thì những gì họ mang đến đều không hợp pháp. Tại sao? Vì đã tính đến việc dùng lúa.
Sace taṇḍulaṃ vā aparaṇṇaṃ vā āharitvā ‘‘idaṃ saṅghassa āhaṭa’’nti vadanti, aññataro ca bhikkhu purimanayeneva ‘‘ettakehi taṇḍulehi idañcidañca āharathā’’ti vadati. Yaṃ te āharanti, sabbesaṃ kappiyaṃ. Kasmā? Kappiyānaṃ taṇḍulādīnaṃ vicāritattā. Kayavikkayepi anāpatti, kappiyakārakassa ācikkhitattā.
Nếu họ mang gạo hay các loại ngũ cốc khác đến và nói: “Đây là dâng cho Tăng”, mà một tỳ khưu nói như trước: “Với số gạo này hãy mang cái này cái kia đến”, thì những gì họ mang đến đều hợp pháp. Tại sao? Vì đã tính đến việc dùng gạo hợp pháp. Ngay cả việc mua bán cũng không phạm tội, vì đã chỉ rõ cho người xử lý hợp pháp.
Pubbe pana cittalapabbate eko bhikkhu catusāladvāre ‘‘aho vata sve saṅghassa ettakappamāṇe pūve paceyyu’’nti ārāmikānaṃ saññājananatthaṃ bhūmiyaṃ maṇḍalaṃ akāsi, taṃ disvā cheko ārāmiko tatheva katvā dutiyadivase bheriyā ākoṭitāya sannipatite saṅghe pūvaṃ gahetvā saṅghattheraṃ āha – ‘‘bhante, amhehi ito pubbe neva pitūnaṃ na pitāmahānaṃ evarūpaṃ sutapubbaṃ, ekena ayyena catussāladvāre pūvatthāya saññā katā, ito dāni pabhuti ayyā attano attano cittānurūpaṃ vadantu, amhākampi phāsuvihāro bhavissatī’’ti. Mahāthero tatova nivatti, ekabhikkhunāpi pūvo na gahito. Evaṃ pubbe tatruppādampi na paribhuñjiṃsu. Tasmā –
Thuở xưa tại Cittalapabbata, một tỳ khưu vẽ vòng tròn trên đất trước cửa tịnh xá và nói: “Ước gì ngày mai họ làm bánh cho Tăng với số lượng như thế này” để gợi ý cho người giữ vườn. Thấy vậy, người giữ vườn Cheka làm theo và hôm sau đánh trống tập họp Tăng, mang bánh đến dâng cho trưởng lão Tăng và nói: “Bạch Ngài, trước đây chúng tôi chưa từng nghe cha ông nói về việc này. Một vị đã gợi ý làm bánh trước cửa tịnh xá. Từ nay xin các Ngài cứ nói theo ý mình, chúng tôi sẽ sống thoải mái”. Vị trưởng lão liền ngưng việc ấy, không một tỳ khưu nào nhận bánh. Như vậy, từ xưa họ đã không dùng những thứ được gợi ý như vậy. Do đó:
Sallekhaṃ accajantena, appamattena bhikkhunā;
Kappiyepi na kātabbā, āmisatthāya lolatāti.
“Vị tỳ khưu sống khắc khổ,
Không phóng dật,
Không nên làm ngay cả những việc hợp pháp,
Vì tham lợi vật chất”.
Yo cāyaṃ taḷāke vutto, pokkharaṇī-udakavāhakamātikādīsupi eseva nayo.
Những điều đã nói về hồ nước, ao sen, dẫn nước, đất sét… cũng áp dụng tương tự như vậy.
Pubbaṇṇāparaṇṇaucchuphalāphalādīnaṃ viruhanaṭṭhānaṃ yaṃ kiñci khettaṃ vā vatthuṃ vā dammīti vuttepi ‘‘na vaṭṭatī’’ti paṭikkhipitvā taḷāke vuttanayeneva yadā kappiyavohārena ‘‘catupaccayaparibhogatthāya dammī’’ti vadati, tadā sampaṭicchitabbaṃ, ‘‘vanaṃ dammi, araññaṃ dammī’’ti vutte pana vaṭṭati. Sace manussā bhikkhūhi anāṇattāyeva tattha rukkhe chinditvā aparaṇṇādīni sampādetvā bhikkhūnaṃ bhāgaṃ denti, vaṭṭati; adentā na codetabbā. Sace kenacideva antarāyena tesu pakkantesu aññe karonti, na ca bhikkhūnaṃ kiñci denti, te vāretabbā. Sace vadanti – ‘‘nanu, bhante, pubbepi manussā idha sassāni akaṃsū’’ti, tato te vattabbā – ‘‘te saṅghassa idañcidañca kappiyabhaṇḍaṃ adaṃsū’’ti. Sace vadanti – ‘‘mayampi dassāmā’’ti evaṃ vaṭṭati.
Khi có người nói sẽ dâng ruộng đất để trồng các loại rau cỏ, mía, trái cây…, dù bị từ chối “Không được phép”, nhưng nếu họ nói đúng phép: “Tôi dâng để dùng bốn vật dụng” như cách đã nói về hồ nước, thì có thể nhận. Nếu họ nói: “Tôi dâng rừng, dâng rừng hoang” thì được. Nếu người không được tỳ khưu yêu cầu mà tự chặt cây trong đó làm ra các loại ngũ cốc rồi dâng phần cho tỳ khưu thì được; nếu không dâng cũng không được đòi hỏi. Nếu vì lý do nào đó họ bỏ đi, người khác đến làm mà không dâng gì cho tỳ khưu thì phải ngăn lại. Nếu họ nói: “Này các đại đức, trước kia người ta cũng trồng trọt ở đây”, thì nên nói lại: “Họ đã cúng dường vật dụng hợp pháp cho Tăng”. Nếu họ nói: “Chúng tôi cũng sẽ cúng dường” thì được.
Kañci sassuṭṭhānakaṃ bhūmippadesaṃ sandhāya ‘‘sīmaṃ demā’’ti vadanti, vaṭṭati. Sīmā paricchedanatthaṃ pana thambhā vā pāsāṇā vā sayaṃ na ṭhapetabbā. Kasmā? Bhūmi nāma anagghā appakenāpi pārājiko bhaveyya, ārāmikānaṃ pana vattabbaṃ – ‘‘iminā ṭhānena amhākaṃ sīmā gatā’’ti. Sacepi hi te adhikaṃ gaṇhanti, pariyāyena kathitattā anāpatti. Yadi pana rājarājamahāmattādayo sayameva thambhe ṭhapāpetvā ‘‘cattāro paccaye paribhuñjathā’’ti denti, vaṭṭatiyeva.
Khi có người nói sẽ dâng một khu đất để làm nơi trồng trọt và nói: “Tôi xin dâng ranh giới (sīmā)” thì được. Nhưng không được tự mình dựng cột hay đá để phân ranh giới. Tại sao? Vì đất là thứ vô giá, dù lấy chút ít cũng có thể phạm tội pārājika. Chỉ nên bảo người giữ vườn: “Chỗ này thuộc về ranh giới của chúng tôi”. Nếu họ lấy quá phần, do đã nói rõ cách thức nên không phạm tội. Nếu các quan chức hay nhà vua tự dựng cột rồi nói: “Hãy dùng cho bốn vật dụng” thì được.
Sace koci antosīmāya taḷākaṃ khanati, vihāramajjhena vā mātikaṃ neti, cetiyaṅgaṇabodhiyaṅgaṇādīni dussanti, vāretabbo. Sace saṅgho kiñci labhitvā āmisagarukatāya na vāreti, eko bhikkhu vāreti, sova bhikkhu issaro. Sace eko bhikkhu na vāreti, ‘‘netha tumhe’’ti tesaṃyeva pakkho hoti, saṅgho vāreti, saṅghova issaro. Saṅghikesu hi kammesu yo dhammakammaṃ karoti, sova issaro. Sace vāriyamānopi karoti, heṭṭhā gahitaṃ paṃsuṃ heṭṭhā pakkhipitvā, upari gahitaṃ paṃsuṃ upari pakkhipitvā pūretabbā.
Nếu có người đào hồ trong ranh giới, chở đất sét qua giữa tịnh xá, hay làm hư hại sân bảo tháp, cội bồ đề…, phải ngăn lại. Nếu Tăng nhận được gì đó mà vì quý trọng vật chất không ngăn, thì một tỳ khưu phải ngăn, vị ấy có quyền. Nếu một tỳ khưu không ngăn mà nói: “Các người cứ mang đi” thì thuộc về phe họ, Tăng phải ngăn thì Tăng có quyền. Trong các việc của Tăng, ai làm đúng phép thì người ấy có quyền. Nếu bị ngăn mà vẫn làm, thì phải lấy đất phía dưới đổ xuống dưới, lấy đất phía trên đổ lên trên để lấp đầy.
Sace koci yathājātameva ucchuṃ vā aparaṇṇaṃ vā alābukumbhaṇḍādikaṃ vā valliphalaṃ dātukāmo ‘‘etaṃ sabbaṃ ucchukhettaṃ aparaṇṇavatthuṃ valliphalāvāṭaṃ dammī’’ti vadati, saha vatthunā parāmaṭṭhattā ‘‘na vaṭṭatī’’ti mahāsumatthero āha. Mahāpadumatthero pana ‘‘abhilāpamattametaṃ sāmikānaṃyeva hi so bhūmibhāgo tasmā vaṭṭatī’’ti āha.
Nếu có người muốn dâng mía, ngũ cốc, bầu bí hoặc dây leo trái nguyên trạng và nói: “Tôi xin dâng toàn bộ ruộng mía, đất trồng ngũ cốc, vườn dây leo này”, thì Ngài Mahāsumma Trưởng lão nói không được phép vì liên quan đến đất đai. Nhưng Ngài Mahāpaduma Trưởng lão lại nói: “Đây chỉ là lời nói, vì phần đất đó vẫn thuộc về chủ cũ nên được phép”.
‘‘Dāsaṃ dammī’’ti vadati, na vaṭṭati. ‘‘Ārāmikaṃ dammi, veyyāvaccakaraṃ dammi, kappiyakārakaṃ dammī’’ti vutte vaṭṭati. Sace so ārāmiko purebhattampi pacchābhattampi saṅghasseva kammaṃ karoti, sāmaṇerassa viya sabbaṃ bhesajjapaṭijagganampi tassa kātabbaṃ. Sace purebhattameva saṅghassa kammaṃ karoti, pacchābhattaṃ attano kammaṃ karoti, sāyaṃ nivāpo na dātabbo. Yepi pañcadivasavārena vā pakkhavārena vā saṅghassa kammaṃ katvā sesakāle attano kammaṃ karonti, tesampi karaṇakāleyeva bhattañca nivāpo ca dātabbo. Sace saṅghassa kammaṃ natthi, attanoyeva kammaṃ katvā jīvanti, te ce hatthakammamūlaṃ ānetvā denti, gahetabbaṃ. No ce denti, na kiñci vattabbā. Yaṃ kiñci rajakadāsampi pesakāradāsampi ārāmikanāmena sampaṭicchituṃ vaṭṭati.
Nếu họ nói: “Tôi xin dâng nô lệ” thì không được phép. Nhưng nếu nói: “Tôi xin dâng người giữ vườn, người phục vụ, người xử lý hợp pháp” thì được. Nếu người giữ vườn đó làm việc cho Tăng cả trước và sau bữa ăn, thì phải chăm sóc thuốc men cho họ như đối với sa di. Nếu chỉ làm việc trước bữa ăn mà buổi chiều làm việc riêng, thì không được cho phần ăn chiều. Những người làm việc cho Tăng theo ngày hoặc nửa tháng, vào thời gian làm việc phải được cung cấp cả cơm và phần ăn chiều. Nếu không có việc cho Tăng, họ tự làm để sinh sống mà mang tiền công đến dâng thì được nhận; nếu không mang đến thì không được đòi hỏi. Có thể nhận cả thợ nhuộm hay thợ dệt với danh nghĩa là người giữ vườn.
Sace ‘‘gāvo demā’’ti vadanti, ‘‘na vaṭṭatī’’ti paṭikkhipitabbā. Imā gāvo kutoti paṇḍitehi pañca gorasaparibhogatthāya dinnāti, ‘‘mayampi pañcagorasaparibhogatthāya demā’’ti vutte vaṭṭati. Ajikādīsupi eseva nayo. ‘‘Hatthiṃ dema, assaṃ mahisaṃ kukkuṭaṃ sūkaraṃ demā’’ti vadanti, sampaṭicchituṃ na vaṭṭati. Sace keci manussā ‘‘appossukkā, bhante, tumhe hotha, mayaṃ ime gahetvā tumhākaṃ kappiyabhaṇḍaṃ dassāmā’’ti gaṇhanti, vaṭṭati. ‘‘Kukkuṭasūkarā sukhaṃ jīvantū’’ti araññe vissajjetuṃ vaṭṭati. ‘‘Imaṃ taḷākaṃ, imaṃ khettaṃ, imaṃ vatthuṃ, vihārassa demā’’ti vutte paṭikkhipituṃ na labbhatīti. Sesamettha uttānatthameva.
Nếu họ nói: “Chúng tôi xin dâng bò”, phải từ chối: “Không được phép”. Nhưng nếu người hiểu biết nói: “Xin dâng để dùng năm sản phẩm từ bò (sữa, sữa chua, bơ, bơ lỏng, phân bò)”, thì được. Cũng tương tự với dê cừu. Nếu họ nói: “Xin dâng voi, ngựa, trâu, gà, heo” thì không được nhận. Nếu có người nói: “Xin các Ngài đừng lo, chúng tôi sẽ nhận nuôi và cung cấp vật dụng hợp pháp cho các Ngài” thì được. Có thể thả gà, heo vào rừng và nói: “Chúng hãy sống tự do”. Nếu họ nói: “Chúng tôi xin dâng hồ nước, ruộng, đất này cho tịnh xá” thì không được từ chối. Phần còn lại đã rõ ràng.
Samuṭṭhānādīsu idampi chasamuṭṭhānaṃ kiriyaṃ, nosaññāvimokkhaṃ, acittakaṃ, paṇṇattivajjaṃ, kāyakammavacīkammaṃ , ticittaṃ, tivedananti.
Về các nguồn sanh tội, điều này cũng có 6 nguồn sanh tội: do thân, không do ý muốn giải thoát, không có tâm, thuộc về giới tướng, là thân nghiệp hoặc khẩu nghiệp, có 3 tâm, có 3 thọ.
Rājasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giới giải về nhà vua đã kết thúc.
Niṭṭhito cīvaravaggo paṭhamo.
Chương đầu về y phục đã hoàn tất.