Chú giải Tạng Luật

Chú giải Tạng Luật – Phân Tích Giới Tỳ Khưu – Bộ Pārājika: Chương Aniyata (Dịch lần 2)

3. Aniyatakaṇḍaṃ
3. Chương Không Xác Định

1. Paṭhamaaniyatasikkhāpadavaṇṇanā
1. Giải thích giới thứ nhất về việc không xác định

443.Tenasamayena buddho bhagavāti paṭhamaaniyatasikkhāpadaṃ. Tattha kālayuttaṃ samullapantoti kālaṃ sallakkhetvā yadā na añño koci samīpena gacchati vā āgacchati vā tadā tadanurūpaṃ ‘‘kacci na ukkaṇṭhasi, na kilamasi, na chātāsī’’tiādikaṃ gehassitaṃ kathaṃ kathento. Kālayuttaṃ dhammaṃ bhaṇantoti kālaṃ sallakkhetvā yadā añño koci samīpena gacchati vā āgacchati vā tadā tadanurūpaṃ ‘‘uposathaṃ kareyyāsi, salākabhattaṃ dadeyyāsī’’tiādikaṃ dhammakathaṃ kathento.
443.Vào lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn – đây là giới không xác định đầu tiên. Ở đây, “đúng thời mà nói chuyện” nghĩa là sau khi quan sát thời điểm, khi không có ai đi qua hoặc đến gần, thì nói những lời phù hợp như: “Chắc cô không buồn chán, không mệt mỏi, không đói lắm chứ?” và những câu chuyện thế tục tương tự. “Đúng thời mà thuyết pháp” nghĩa là sau khi quan sát thời điểm, khi có người khác đi qua hoặc đến gần, thì thuyết những bài pháp phù hợp như: “Cô nên làm lễ Uposatha, nên dâng cúng vật thực bằng cách rút thăm”, v.v.

Bahū dhītaro ca puttā ca assāti bahuputtā. Tassā kira dasa puttā dasa dhītaro ahesuṃ, bahū nattāro assāti bahunattā. Yatheva hi tassā evamassā puttadhītānampi vīsati vīsati dārakā ahesuṃ, iti sā vīsuttaracatusataputtanattaparivārā ahosi. Abhimaṅgalasammatāti uttamamaṅgalasammatā. Yaññesūti dānappadānesu. Chaṇesūti āvāhavivāhamaṅgalādīsu antarussavesu. Ussavesūti āsāḷhīpavāraṇanakkhattādīsu mahussavesu. Paṭhamaṃ bhojentīti ‘‘imepi dārakā tayā samānāyukā nirogā hontū’’ti āyācantā paṭhamaṃyeva bhojenti, yepi saddhā honti pasannā, tepi bhikkhū bhojetvā tadanantaraṃ sabbapaṭhamaṃ taṃyeva bhojenti. Nādiyīti tassā vacanaṃ na ādiyi, na gaṇhi, na vā ādaramakāsīti attho.
Bà có nhiều con gái và con trai nên gọi là đông con. Nghe nói bà có mười con trai và mười con gái, lại có nhiều cháu nên gọi là nhiều cháu. Quả thật, con cháu của bà cũng có hai mươi đứa con trai và hai mươi đứa con gái, như vậy bà có tới hơn bốn trăm hai mươi người con cháu. Được xem là cực kỳ may mắn nghĩa là được coi là có phước lành tối thượng. Trong các lễ tế là trong các việc bố thí cúng dường. Trong các lễ cưới là trong các nghi lễ trung gian như lễ cưới hỏi, lễ lành. Trong các đại lễ là trong các đại hội như lễ Asāḷhī, lễ Pavāraṇā, lễ sao… Dâng cúng trước tiên nghĩa là với tâm nguyện “mong những đứa trẻ này được sống lâu, không bệnh tật như con”, họ cúng dường trước hết; những người có đức tin, thanh tịnh sau khi cúng dường chư Tăng thì ngay sau đó cũng cúng dường bà ấy trước tiên. Không chấp nhận nghĩa là không nhận lời, không chấp thuận, không tỏ ra tôn trọng.

444-5.Alaṃkammaniyeti kammakkhamaṃ kammayogganti kammaniyaṃ, alaṃ pariyattaṃ kammaniyabhāvāyāti alaṃkammaniyaṃ, tasmiṃ alaṃkammaniye, yattha ajjhācāraṃ karontā sakkonti, taṃ kammaṃ kātuṃ tādiseti attho. Tenevassa padabhājane vuttaṃ – ‘‘sakkā hoti methunaṃ dhammaṃ paṭisevitu’’nti, yattha methunaṃ dhammaṃ sakkā hoti paṭisevitunti vuttaṃ hoti. Nisajjaṃkappeyyāti nisajjaṃ kareyya, nisīdeyyāti attho. Yasmā pana nisīditvāva nipajjati, tenassa padabhājane ubhayampi vuttaṃ. Tattha upanisinnoti upagantvā nisinno. Evaṃ upanipannopi veditabbo. Bhikkhu nisinneti bhikkhumhi nisinneti attho. Ubho vā nisinnāti dvepi apacchā apurimaṃ nisinnā. Ettha ca kiñcāpi pāḷiyaṃ ‘‘sotassa raho’’ti āgataṃ, cakkhussa raheneva pana paricchedo veditabbo. Sacepi hi pihitakavāṭassa gabbhassa dvāre nisinno viññū puriso hoti, neva anāpattiṃ karoti. Apihitakavāṭassa pana dvāre nisinno anāpattiṃ karoti. Na kevalañca dvāre antodvādasahatthepi okāse nisinno, sace sacakkhuko vikkhittopi niddāyantopi anāpattiṃ karoti. Samīpe ṭhitopi andho na karoti, cakkhumāpi nipajjitvā niddāyanto na karoti. Itthīnaṃ pana satampi anāpattiṃ na karotiyeva.
444-5.Nơi có thể hành động nghĩa là nơi thích hợp để thực hiện việc, đủ điều kiện để làm việc, tức là nơi mà khi hành động bất chính, họ có thể thực hiện được. Ý nói: nơi đó có thể làm việc như vậy. Do đó, trong phần giải thích từ ngữ có nói: “có thể thực hiện pháp dâm dục”, nghĩa là nơi mà việc dâm dục có thể xảy ra. Nên ngồi nghĩa là nên ngồi xuống, ý nói nên ngồi. Vì sau khi ngồi xuống mới nằm, nên trong phần giải thích từ ngữ, cả hai đều được nói đến. Ở đây, ngồi gần nghĩa là đến gần rồi ngồi. Tương tự, nằm gần cũng nên được hiểu như vậy. Tỳ-khưu đang ngồi nghĩa là khi Tỳ-khưu đang ngồi. Cả hai đều ngồi nghĩa là cả hai người nữ đều ngồi, một người ở phía sau, một người ở phía trước. Ở đây, mặc dù trong văn Pāḷi có nói “kín đáo về tai”, nhưng cần hiểu giới hạn là về mắt. Bởi vì, nếu một người đàn ông có trí ngồi ở cửa phòng có rèm che, thì không phạm tội. Nhưng nếu ngồi ở cửa không có rèm che, thì phạm tội. Không chỉ ở cửa, mà ngồi trong phạm vi mười hai hắc tay (khoảng 5,4m) bên trong, nếu người đó có mắt nhưng đang phân tâm hoặc ngủ, cũng không phạm tội. Người mù đứng gần cũng không phạm, người có mắt nhưng đang nằm ngủ cũng không phạm. Tuy nhiên, nếu là phụ nữ, dù chỉ một người cũng không phạm tội.

Saddheyyavacasāti saddhātabbavacanā. Sā pana yasmā ariyasāvikāva hoti, tenassa padabhājane ‘‘āgataphalā’’tiādi vuttaṃ. Tattha āgataṃ phalaṃ assāti āgataphalā paṭiladdhasotāpattiphalāti attho. Abhisametāvinīti paṭividdhacatusaccā. Viññātaṃ sikkhattayasāsanaṃ etāyāti viññātasāsanā. Nisajjaṃ bhikkhu paṭijānamānoti kiñcāpi evarūpā upāsikā disvā vadati, atha kho bhikkhu nisajjaṃ paṭijānamānoyeva tiṇṇaṃ dhammānaṃ aññatarena kāretabbo, na appaṭijānamānoti attho.
Lời nói đáng tin nghĩa là lời nói có thể tin được. Vì bà ấy là một nữ Thánh đệ tử, nên trong phần giải thích từ ngữ có nói: “đã đắc quả”, v.v. Ở đây, đã đắc quả nghĩa là đã chứng đắc quả Dự lưu. Thông suốt nghĩa là thấu hiểu Tứ Thánh đế. Hiểu rõ giáo pháp nghĩa là người đã hiểu rõ ba pháp học. Tỳ-khưu thừa nhận việc ngồi nghĩa là dù nữ cư sĩ như vậy thấy và nói, nhưng Tỳ-khưu phải được xử lý theo một trong ba pháp khi thừa nhận việc ngồi, chứ không phải khi không thừa nhận.

Yena vā sā saddheyyavacasā upāsikā vadeyya tena so bhikkhu kāretabboti nisajjādīsu ākāresu yena vā ākārena saddhiṃ methunadhammādīni āropetvā sā upāsikā vadeyya, paṭijānamānova tena so bhikkhu kāretabbo. Evarūpāyapi upāsikāya vacanamattena na kāretabboti attho. Kasmā? Yasmā diṭṭhaṃ nāma tathāpi hoti, aññathāpi hoti.
Hoặc vị Tỳ-khưu ấy phải được xử lý theo lời cáo buộc của nữ cư sĩ đáng tin kia nghĩa là trong các trường hợp như ngồi chung, nếu nữ cư sĩ cáo buộc vị Tỳ-khưu về các hành vi dâm dục hoặc tương tự dựa trên bất kỳ hành vi nào, thì vị Tỳ-khưu phải được xử lý khi thừa nhận. Ý nói rằng không thể chỉ dựa vào lời nói đơn thuần của nữ cư sĩ dù là người như vậy để xử lý. Tại sao? Vì những gì được thấy có thể đúng như vậy, nhưng cũng có thể không phải như vậy.

Tadatthajotanatthañca idaṃ vatthuṃ udāharanti – mallārāmavihāre kira eko khīṇāsavatthero ekadivasaṃ upaṭṭhākakulaṃ gantvā antogehe nisīdi, upāsikāpi sayanapallaṅkaṃ nissāya ṭhitā hoti. Atheko piṇḍacāriko dvāre ṭhito disvā ‘‘thero upāsikāya saddhiṃ ekāsane nisinno’’ti saññaṃ paṭilabhitvā punappunaṃ olokesi. Theropi ‘‘ayaṃ mayi asuddhaladdhiko jāto’’ti sallakkhetvā katabhattakicco vihāraṃ gantvā attano vasanaṭṭhānaṃ pavisitvā antova nisīdi. Sopi bhikkhu ‘‘theraṃ codessāmī’’ti āgantvā ukkāsitvā dvāraṃ vivari. Thero tassa cittaṃ ñatvā ākāse uppatitvā kūṭāgārakaṇṇikaṃ nissāya pallaṅkena nisīdi. Sopi bhikkhu anto pavisitvā mañcañca heṭṭhāmañcañca oloketvā theraṃ apassanto uddhaṃ ullokesi, atha ākāse nisinnaṃ theraṃ disvā ‘‘bhante, evaṃ mahiddhikā nāma tumhe mātugāmena saddhiṃ ekāsane nisinnabhāvaṃ vadāpetha evā’’ti āha. Thero ‘‘antaragharasseveso āvuso doso, ahaṃ pana taṃ saddhāpetuṃ asakkonto evamakāsiṃ, rakkheyyāsi ma’’nti vatvā otarīti.
Để làm sáng tỏ ý nghĩa này, người ta kể lại câu chuyện sau – tại tinh xá Mallikā, có một vị trưởng lão A-la-hán trong một ngày nọ đến nhà thí chủ và ngồi trong nhà, trong khi nữ cư sĩ đứng dựa vào giường của mình. Lúc đó có một Tỳ-khưu đi khất thực đứng ở cửa, thấy vậy liền khởi tưởng “trưởng lão ngồi chung chỗ với nữ cư sĩ” và liên tục nhìn lại. Vị trưởng lão nhận thấy “người này đã khởi tâm nghi ngờ ta” nên sau khi làm xong việc thọ thực liền trở về tinh xá, vào phòng riêng và ngồi bên trong. Vị Tỳ-khưu kia nghĩ “ta sẽ khiển trách trưởng lão” nên đi đến, ho lên tiếng rồi mở cửa. Biết được ý nghĩ của vị ấy, trưởng lão bay lên không trung và ngồi kiết già trên đầu cột nhà. Vị Tỳ-khưu vào trong, xem xét giường và gầm giường nhưng không thấy trưởng lão, khi ngước lên thì thấy trưởng lão đang ngồi trên không, liền nói: “Bạch Ngài, các vị có đại thần lực như Ngài mà còn bị buộc tội ngồi chung với phụ nữ như vậy sao?” Trưởng lão đáp: “Này hiền giả, đó là lỗi của ngôi nhà kín đáo. Vì ta không thể thuyết phục ngươi nên đã làm như vậy, hãy tha thứ cho ta” rồi từ từ hạ xuống.

446. Ito paraṃ sā ce evaṃ vadeyyātiādi sabbaṃ paṭiññāya kāraṇākāradassanatthaṃ vuttaṃ, tattha mātugāmassa methunaṃ dhammaṃ paṭisevantoti mātugāmassa magge methunaṃ dhammaṃ paṭisevantoti attho. Nisajjāya kāretabboti nisajjaṃ paṭijānitvā methunadhammapaṭisevanaṃ appaṭijānanto methunadhammapārājikāpattiyā akāretvā nisajjāmattena yaṃ āpattiṃ āpajjati tāya kāretabbo, pācittiyāpattiyā kāretabboti attho. Etena nayena sabbacatukkesu vinicchayo veditabbo.
446. Từ đây trở đi nếu cô ấy nói như vậy v.v… tất cả được nói ra để chỉ rõ các hình thức xử lý khi thú nhận. Ở đây thực hành pháp dâm dục với nữ nhân nghĩa là thực hành pháp dâm dục với nữ nhân theo con đường (bất chính). Phải xử lý về tội ngồi nghĩa là dù thừa nhận việc ngồi nhưng không thừa nhận việc thực hành pháp dâm dục thì không bị xử về tội pārājika (bại hoại) mà chỉ bị xử về tội ngồi không đúng phép, tức là phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Cần hiểu cách xét xử trong cả bốn trường hợp theo phương pháp này.

451. Sikkhāpadapariyosāne pana āpattānāpattiparicchedadassanatthaṃ vuttesu gamanaṃ paṭijānātītiādīsu gamanaṃ paṭijānātīti ‘‘rahonisajjassādatthaṃ gatomhī’’ti evaṃ gamanaṃ paṭijānāti, nisajjanti nisajjassādeneva nisajjaṃ paṭijānāti. Āpattinti tīsu aññataraṃ āpattiṃ. Āpattiyā kāretabboti tīsu yaṃ paṭijānāti, tāya kāretabbo. Sesamettha catukke uttānādhippāyameva. Dutiyacatukke pana gamanaṃ na paṭijānātīti raho nisajjassādavasena na paṭijānāti , ‘‘salākabhattādinā attano kammena gatomhi, sā pana mayhaṃ nisinnaṭṭhānaṃ āgatā’’ti vadati. Sesametthāpi uttānādhippāyameva.
451. Khi kết thúc phần giới bổn, để phân định rõ phạm tội hay không phạm tội, trong phần thừa nhận việc đi v.v… thì thừa nhận việc đi nghĩa là thừa nhận “tôi đã đi đến đó với mục đích ngồi chỗ kín đáo”, ngồi nghĩa là thừa nhận việc ngồi với mục đích thỏa mãn. Phạm tội nghĩa là phạm một trong ba tội. Phải xử theo tội đó nghĩa là tùy theo tội nào đã thừa nhận thì xử theo tội ấy. Phần còn lại trong bốn trường hợp này ý nghĩa rất rõ ràng. Trong bốn trường hợp thứ hai, không thừa nhận việc đi nghĩa là không thừa nhận việc đi với mục đích ngồi chỗ kín đáo, mà nói rằng “tôi đi vì công việc riêng như nhận phần cơm chia theo thẻ v.v…, còn cô ta tự đến chỗ tôi ngồi”. Phần còn lại ở đây ý nghĩa cũng rất rõ ràng.

Ayaṃ pana sabbattha vinicchayo – raho nisajjassādoti methunadhammasannissitakileso vuccati. Yo bhikkhu tenassādena mātugāmassa santikaṃ gantukāmo akkhiṃ añjeti, dukkaṭaṃ. Nivāsanaṃ nivāseti, kāyabandhanaṃ bandhati, cīvaraṃ pārupati, sabbattha payoge payoge dukkaṭaṃ. Gacchati, padavāre padavāre dukkaṭaṃ. Gantvā nisīdati, dukkaṭameva. Mātugāme āgantvā nisinnamatte pācittiyaṃ. Sace sā itthī kenaci karaṇīyena uṭṭhāyuṭṭhāya punappunaṃ nisīdati, nisajjāya nisajjāya pācittiyaṃ. Yaṃ sandhāya gato, sā na diṭṭhā, aññā āgantvā nisīdati, assāde uppanne pācittiyaṃ. Mahāpaccariyaṃ pana ‘‘gamanakālato paṭṭhāya asuddhacittattā āpattiyevā’’ti vuttaṃ. Sace sambahulā āgacchanti, mātugāmagaṇanāya pācittiyāni. Sace uṭṭhāyuṭṭhāya punappunaṃ nisīdanti, nisajjāgaṇanāya pācittiyāni. Aniyametvā diṭṭhadiṭṭhāya saddhiṃ rahassādaṃ kappessāmīti gantvā nisinnassāpi āgatāgatānaṃ vasena punappunaṃ nisajjāvasena ca vuttanayeneva āpattiyo veditabbā. Sace suddhacittena gantvā nisinnassa santikaṃ āgantvā nisinnāya itthiyā rahassādo uppajjati anāpatti.
Đây là cách xét xử trong mọi trường hợp: “Thỏa mãn với việc ngồi chỗ kín đáo” được hiểu là phiền não liên quan đến hành vi dâm dục. Vị Tỳ-khưu nào vì tham muốn ấy mà đến gần nữ nhân thì: nhướng mắt – phạm dukkaṭa (tác ác); mặc nội y, thắt dây lưng, khoác y – mỗi hành vi đều phạm dukkaṭa; mỗi bước đi – mỗi bước phạm dukkaṭa; khi đến nơi ngồi xuống – phạm dukkaṭa; khi nữ nhân đến ngồi cùng – phạm pācittiya (ưng đối trị). Nếu nữ nhân đứng lên ngồi xuống nhiều lần – mỗi lần ngồi phạm một pācittiya. Nếu người phụ nữ định gặp không đến mà người khác đến ngồi – khi khởi tâm thỏa mãn thì phạm pācittiya. Theo Mahāpaccariya thì “từ lúc khởi hành với tâm bất tịnh đã phạm tội”. Nếu nhiều nữ nhân đến – tính theo số người mà phạm nhiều pācittiya. Nếu họ đứng lên ngồi xuống nhiều lần – tính theo số lần ngồi mà phạm nhiều pācittiya. Nếu đi với ý định không rõ ràng “sẽ thỏa mãn bí mật với bất kỳ ai gặp” thì các tội phát sinh theo cách đã nói, tùy theo từng người đến và số lần ngồi. Nếu đi với tâm thanh tịnh, nhưng khi ngồi có nữ nhân đến và khởi tâm thỏa mãn – không phạm tội.

Samuṭṭhānādīni paṭhamapārājikasadisānevāti.
Các yếu tố phát sinh tội v.v… giống như trong giới pārājika thứ nhất.

Paṭhamaaniyatasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần giải thích giới không xác định thứ nhất kết thúc.

2. Dutiyaaniyatasikkhāpadavaṇṇanā
2. Giải thích giới không xác định thứ hai

452.Tena samayena buddho bhagavāti dutiyaaniyatasikkhāpadaṃ. Tattha bhagavatā paṭikkhittantiādimhi ‘‘yaṃ eko ekāya raho paṭicchanne āsane alaṃkammaniye nisajjaṃ kappeyya, taṃ nisajjaṃ kappetuṃ paṭikkhitta’’nti evaṃ sambandho veditabbo. Itarathā hi ‘‘ekassa ekāyā’’ti vattabbaṃ siyā, kasmā? ‘‘Paṭikkhitta’’nti vuttattā. Sāmiatthe vā etaṃ paccattavacanaṃ veditabbaṃ.
452.Vào lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn – đây là giới không xác định thứ hai. Ở đây, “bị đức Thế Tôn ngăn cấm” cần được hiểu là có sự liên hệ như sau: “Việc một vị (Tỳ-khưu) ngồi chỗ kín đáo, thích hợp cho hành vi bất chính với một nữ nhân đã bị ngăn cấm”. Bởi lẽ nếu không như vậy thì phải nói là “một vị với một nữ nhân”, tại sao? Vì đã nói là “bị ngăn cấm”. Hoặc cần hiểu đây là cách nói mang tính cá nhân trong ý nghĩa sở hữu.

453.Na heva kho pana paṭicchannanti ettha pana yampi bahi parikkhittaṃ anto vivaṭaṃ pariveṇaṅgaṇādi, tampi antogadhanti veditabbaṃ. Evarūpañhi ṭhānaṃ appaṭicchanneyeva gahitanti mahāpaccariyaṃ vuttaṃ. Sesaṃ paṭhamasikkhāpadanayeneva veditabbaṃ. Kevalañhi idha itthīpi purisopi yo koci viññū anandho abadhiro antodvādasahatthe okāse ṭhito vā nisinno vā vikkhittopi niddāyantopi anāpattiṃ karoti. Badhiro pana cakkhumāpi andho vā abadhiropi na karoti. Pārājikāpattiñca parihāpetvā duṭṭhullavācāpatti vuttāti ayaṃ viseso. Sesaṃ purimasadisameva. Ubhayatthāpi ummattakaādikammikānaṃ anāpatti.
453.Tuy nhiên, không phải là chỗ kín đáo – ở đây cần hiểu rằng ngay cả những nơi bên ngoài có rào chắn nhưng bên trong mở như sân quanh tịnh xá v.v… cũng được tính là bên trong. Theo Mahāpaccariya, những nơi như vậy được xem là không kín đáo. Phần còn lại cần hiểu theo cách của giới điều thứ nhất. Vì ở đây, bất kỳ người nam hay nữ nào có trí, không mù, không điếc, đứng hoặc ngồi trong phạm vi mười hai hắc tay, dù đang phân tâm hay ngủ cũng không phạm tội. Người điếc dù có mắt hay người mù dù không điếc cũng không ngăn tội. Ngoại trừ tội pārājika, có nói đến tội ác khẩu – đây là điểm khác biệt. Phần còn lại giống như giới trước. Trong cả hai trường hợp, những người điên, người bị hình phạt v.v… đều không phạm tội.

Samuṭṭhānādīsu idaṃsikkhāpadaṃ tisamuṭṭhānaṃ – kāyacittato, vācācittato, kāyavācācittato ca samuṭṭhāti. Kiriyaṃ, saññāvimokkhaṃ, sacittakaṃ, lokavajjaṃ, kāyakammaṃ, vacīkammaṃ, akusalacittaṃ, sukhamajjhattavedanāhi dvivedanaṃ. Sesaṃ uttānatthamevāti.
Về các nguồn gốc phát sinh tội: Giới điều này phát sinh từ ba nguồn:
1. Từ thân và tâm
2. Từ khẩu và tâm
3. Từ cả thân, khẩu và tâm.

Liên quan đến:
– Hành vi (kiriya)
– Nhận thức giải thoát (saññāvimokkha)
– Có tác ý (sacittaka)
– Điều thế gian chê trách (lokavajja)
– Thân nghiệp (kāyakamma)
– Khẩu nghiệp (vacīkamma)
– Tâm bất thiện (akusalacitta)
– Cảm thọ trung tính hoặc lạc (sukhamajjhattavedanā) – hai loại cảm thọ.

Phần còn lại có ý nghĩa rõ ràng.

Dutiyaaniyatasikkhāpadavaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần giải thích giới không xác định thứ hai kết thúc.

Samantapāsādikāya vinayasaṃvaṇṇanāya
Trong bộ Samantapāsādikā – Luận giải về Tạng Luật

Aniyatavaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần chú giải về các giới không xác định đã hoàn tất.

Hộp bình luận Facebook

Soṇa Thiện Kim

Panha.org là trang web chuyên sâu về Pháp học của Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Tông), nơi cung cấp kiến thức và tài liệu quý báu về kinh điển, giáo lý, và triết học Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Tông). Tại đây, bạn có thể tìm hiểu về các giáo pháp truyền thống, kinh nghiệm tu tập, và những bài giảng từ các vị tôn sư hàng đầu trong cộng đồng Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Tông). Với mục tiêu giúp người học hiểu sâu hơn về con đường giác ngộ và sự giải thoát, Panha.org mang đến nguồn tài nguyên phong phú, chính xác và cập nhật để hỗ trợ hành giả trên hành trình tu tập Pháp học.

Bài viết liên quan

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.

0 Góp ý
Được bỏ phiếu nhiều nhất
Mới nhất Cũ nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Back to top button