Chú giải Tạng Luật

Chú Giải Tạng Luật – Phẩm Tập Yếu – Tranh Luận Nhỏ

Cūḷasaṅgāmo

Tiểu Tranh Luận

Anuvijjakassa paṭipattivaṇṇanā

Giải Thích về Cách Hành Xử của Vị Tra Xét

365. Cūḷasaṅgāme saṅgāmāvacarena bhikkhunāti saṅgāmo vuccati adhikaraṇavinicchayatthāya saṅghasannipāto. Tatra hi attapaccatthikā ceva sāsanapaccatthikā ca uddhammaṃ ubbinayaṃ satthu sāsanaṃ dīpentā samosaranti vesālikā vajjiputtakā viya. Yo bhikkhu tesaṃ paccatthikānaṃ laddhiṃ madditvā sakavādadīpanatthāya tattha avacarati, ajjhogāhetvā vinicchayaṃ pavatteti, so saṅgāmāvacaro nāma yasatthero viya. Tena saṅgāmāvacarena bhikkhunā saṅghaṃ upasaṅkamantena nīcacittena saṅgho upasaṅkamitabbo. Nīcacittenāti mānaddhajaṃ nipātetvā nihatamānacittena. Rajoharaṇasamenāti pādapuñchanasamena; yathā rajoharaṇassa saṃkiliṭṭhe vā asaṃkiliṭṭhe vā pāde puñchiyamāne neva rāgo na doso; evaṃ iṭṭhāniṭṭhesu arajjantena adussantenāti attho. Yathāpatirūpe āsaneti yathāpatirūpaṃ āsanaṃ ñatvā attano pāpuṇanaṭṭhāne therānaṃ bhikkhūnaṃ piṭṭhiṃ adassetvā nisīditabbaṃ. Anānākathikenāti nānāvidhaṃ taṃ taṃ anatthakathaṃ akathentena. Atiracchānakathikenāti diṭṭhasutamutampi rājakathādikaṃ tiracchānakathaṃ akathentena. Sāmaṃ vā dhammo bhāsitabboti saṅghasannipātaṭṭhāne kappiyākappiyanissitā vā rūpārūpaparicchedasamathācāravipassanācāraṭṭhānanisajjavattādinissitā vā kathā dhammo nāma. Evarūpo dhammo sayaṃ vā bhāsitabbo, paro vā ajjhesitabbo. Yo bhikkhu tathārūpiṃ kathaṃ kathetuṃ pahoti, so vattabbo – ‘‘āvuso saṅghamajjhamhi pañhe uppanne tvaṃ katheyyāsī’’ti. Ariyo vā tuṇhībhāvo nātimaññitabboti ariyā tuṇhī nisīdantā na bālaputhujjanā viya nisīdanti. Aññataraṃ kammaṭṭhānaṃ gahetvāva nisīdanti. Iti kammaṭṭhānamanasikāravasena tuṇhībhāvo ariyo tuṇhībhāvo nāma, so nātimaññitabbo, kiṃ kammaṭṭhānānuyogenāti nāvajānitabbo; attano patirūpaṃ kammaṭṭhānaṃ gahetvāva nisīditabbanti attho.
365. Trong tiểu tranh luận, (câu) ‘bởi vị tỳ khưu tham gia cuộc chiến’: ‘cuộc chiến’ được gọi là sự tụ họp của Tăng chúng nhằm mục đích xét xử vụ tranh tụng. Vì rằng ở đó, những kẻ chống đối bản thân và những kẻ chống đối giáo pháp, những người trình bày phi pháp, phi luật, (phi) giáo huấn của Bậc Đạo Sư, tụ tập lại, giống như các vị Vajjiputtaka ở Vesāli. Vị tỳ khưu nào, sau khi đè bẹp chủ trương của những kẻ chống đối ấy, hoạt động ở đó nhằm mục đích làm sáng tỏ chủ trương của mình, đi sâu vào và tiến hành sự xét xử, vị ấy được gọi là người tham gia cuộc chiến, giống như trưởng lão Yasa. Bởi vị tỳ khưu tham gia cuộc chiến ấy, khi đi đến Tăng chúng, Tăng chúng nên được đi đến với tâm khiêm hạ. ‘Với tâm khiêm hạ’ nghĩa là sau khi hạ lá cờ kiêu mạn xuống, với tâm đã dẹp bỏ lòng kiêu mạn. ‘Giống như đồ lau bụi’ nghĩa là giống như đồ chùi chân; giống như đối với đồ chùi chân, khi chân bị dơ hay không dơ được chùi vào, không có tham ái cũng không có sân hận; cũng vậy, nghĩa là không tham đắm, không sân hận đối với các đối tượng thích ý và không thích ý. ‘Trên chỗ ngồi thích hợp’ nghĩa là sau khi biết chỗ ngồi thích hợp, nên ngồi xuống ở vị trí mình đến được, không chỉ lưng về phía các vị tỳ khưu trưởng lão. ‘Không nói nhiều loại chuyện’ nghĩa là không nói những câu chuyện vô ích đủ loại này kia. ‘Không nói chuyện thế gian’ nghĩa là không nói chuyện thế gian như chuyện vua chúa v.v… dù là điều đã thấy, đã nghe, đã biết. ‘Hoặc tự mình nên nói Pháp’ nghĩa là: tại nơi tụ họp của Tăng chúng, câu chuyện liên quan đến điều hợp lệ và không hợp lệ, hoặc liên quan đến sự phân định sắc-vô sắc, sự thực hành chỉ tịnh, sự thực hành quán minh, nơi chốn, tư thế ngồi, bổn phận v.v… được gọi là Pháp. Loại Pháp như vậy, hoặc tự mình nên nói, hoặc nên thỉnh cầu người khác nói. Vị tỳ khưu nào có khả năng nói câu chuyện như vậy, vị ấy nên được nói rằng – “Thưa đạo hữu, khi câu hỏi phát sanh giữa Tăng chúng, đạo hữu hãy nói”. ‘Hoặc sự im lặng của bậc Thánh không nên bị xem thường’: Các bậc Thánh khi ngồi im lặng thì không ngồi như những kẻ phàm phu ngu dốt. Họ ngồi xuống sau khi đã nắm lấy một đề mục thiền nào đó. Như vậy, sự im lặng do tác ý đến đề mục thiền định được gọi là sự im lặng của bậc Thánh; điều đó không nên bị xem thường, không nên bị coi rẻ rằng: “Việc chuyên tâm vào đề mục thiền định có ích gì?”; nghĩa là nên ngồi xuống sau khi đã nắm lấy đề mục thiền định thích hợp với mình.

Na upajjhāyo pucchitabboti ‘‘ko nāmo tuyhaṃ upajjhāyo’’ti na pucchitabbo. Esa nayo sabbattha. Na jātīti ‘‘khattiyajātiyo tvaṃ brāhmaṇajātiyo’’ti evaṃ jāti na pucchitabbā. Na āgamoti ‘‘dīghabhāṇakosi tvaṃ majjhimabhāṇako’’ti evaṃ āgamo na pucchitabbo. Kulapadesoti khattiyakulādivaseneva veditabbo. Atrassa pemaṃ vā doso vāti atra puggale etesaṃ kāraṇānaṃ aññataravasena pemaṃ vā bhaveyya doso vā.
‘Không nên hỏi về thầy tế độ’ nghĩa là không nên hỏi rằng: “Thầy tế độ của đạo hữu tên là gì?”. Phương pháp này (áp dụng) ở mọi nơi. ‘Không (hỏi) về dòng dõi’ nghĩa là không nên hỏi về dòng dõi như vầy: “Đạo hữu thuộc dòng dõi Sát-đế-lỵ hay Bà-la-môn?”. ‘Không (hỏi) về truyền thống tụng đọc’ nghĩa là không nên hỏi về truyền thống tụng đọc như vầy: “Đạo hữu là người tụng đọc Trường Bộ hay Trung Bộ?”. ‘Phân loại dòng dõi’ nên được hiểu theo cách như dòng dõi Sát-đế-lỵ v.v… ‘Ở đây có thể có sự thương mến hoặc ghét bỏ đối với vị ấy’ nghĩa là đối với cá nhân ở đây, do một trong những lý do này, có thể có sự thương mến hoặc có thể có sự ghét bỏ.

No parisakappikenāti parisakappakena parisānuvidhāyakena na bhavitabbaṃ; yaṃ parisāya ruccati, tadeva cetetvā kappetvā na kathetabbanti attho. Na hatthamuddā dassetabbāti kathetabbe ca akathetabbe ca saññājananatthaṃ hatthavikāro na kātabbo.
‘Không nên là người chiều theo hội chúng’ nghĩa là không nên là người sắp đặt theo hội chúng, người thuận theo hội chúng; nghĩa là điều gì hội chúng ưa thích thì không nên suy xét, sắp đặt rồi nói ra điều đó. ‘Không nên ra dấu bằng tay’ nghĩa là không nên làm cử chỉ tay nhằm mục đích ra dấu hiệu về điều nên nói và không nên nói.

Atthaṃ anuvidhiyantenāti vinicchayapaṭivedhameva sallakkhentena ‘‘idaṃ suttaṃ upalabbhati, imasmiṃ vinicchaye idaṃ vakkhāmī’’ti evaṃ paritulayantena nisīditabbanti attho. Na ca āsanā vuṭṭhātabbanti na āsanā vuṭṭhāya sannipātamaṇḍale vicaritabbaṃ, vinayadhare uṭṭhite sabbā parisā uṭṭhahati. Na vītihātabbanti na vinicchayo hāpetabbo. Na kummaggo sevitabboti na āpatti dīpetabbā. Asāhasikena bhavitabbanti na sahasākārinā bhavitabbaṃ; sahasā duruttavacanaṃ na kathetabbanti attho. Vacanakkhamenāti duruttavācaṃ khamanasīlena. Hitaparisakkināti hitesinā hitagavesinā karuṇā ca karuṇāpubbabhāgo ca upaṭṭhāpetabboti ayaṃ padadvayepi adhippāyo. Anasuruttenāti na asuruttena. Asuruttaṃ vuccati viggāhikakathāsaṅkhātaṃ asundaravacanaṃ; taṃ na kathetabbanti attho. Attā pariggahetabboti ‘‘vinicchinituṃ vūpasametuṃ sakkhissāmi nu kho no’’ti evaṃ attā pariggahetabbo; attano pamāṇaṃ jānitabbanti attho. Paro pariggahetabboti ‘‘lajjiyā nu kho ayaṃ parisā, sakkā saññāpetuṃ udāhu no’’ti evaṃ paro pariggahetabbo.
‘Người đang theo đuổi ý nghĩa’ nghĩa là người đang chú tâm đến việc thấu triệt sự xét xử, người đang cân nhắc như vầy: “kinh này được tìm thấy, trong vụ xét xử này tôi sẽ nói điều này”; nghĩa là nên ngồi xuống (với tâm trạng như vậy). ‘Và không nên đứng dậy khỏi chỗ ngồi’ nghĩa là không nên đứng dậy khỏi chỗ ngồi rồi đi lại trong vòng hội chúng, (vì) khi vị thông luật đứng dậy, toàn thể hội chúng đều đứng dậy. ‘Không nên mang đi chỗ khác’ nghĩa là không nên làm hỏng việc xét xử. ‘Không nên thực hành theo đường lối sai lầm’ nghĩa là không nên chỉ ra (sai) tội phạm. ‘Nên là người không táo bạo’ nghĩa là không nên là người hành động hấp tấp; nghĩa là không nên vội vàng nói lời ác độc. ‘Người kham nhẫn lời nói’ nghĩa là người có tính kham nhẫn đối với lời nói ác độc. ‘Người tìm kiếm lợi ích (cho hội chúng)’ nghĩa là người mong cầu lợi ích, người tìm kiếm lợi ích; lòng bi và tiền phần của lòng bi nên được thiết lập – đây là ý định trong cả hai từ này. ‘Không nói lời bất nhã’ nghĩa là không nên là người nói lời bất nhã. Lời bất nhã được gọi là lời nói không hay đẹp, tức là câu chuyện gây tranh cãi; nghĩa là không nên nói điều đó. ‘Nên tự đánh giá bản thân’ nghĩa là nên tự đánh giá bản thân như vầy: “liệu ta có thể xét xử, có thể dàn xếp được hay không?”; nghĩa là nên biết mức độ của mình. ‘Nên đánh giá người khác (hội chúng)’ nghĩa là nên đánh giá người khác (hội chúng) như vầy: “liệu hội chúng này có biết hổ thẹn không, có thể làm cho họ hiểu được hay không?”.

Codako pariggahetabboti ‘‘dhammacodako nu kho no’’ti evaṃ pariggahetabbo. Cuditako pariggahetabboti ‘‘dhammacuditako nu kho no’’ti evaṃ pariggahetabbo. Adhammacodako pariggahetabboti tassa pamāṇaṃ jānitabbaṃ. Sesesupi eseva nayo. Vuttaṃahāpentenāti codakacuditakehi vuttavacanaṃ ahāpentena. Avuttaṃ apakāsentenāti anosaṭaṃ vatthuṃ appakāsentena. Mando hāsetabboti mando momūho paggaṇhitabbo, ‘‘nanu tvaṃ kulaputto’’ti uttejetvā anuyogavattaṃ kathāpetvā tassa anuyogo gaṇhitabbo. Bhīrū assāsetabboti yassa saṅghamajjhaṃ vā gaṇamajjhaṃ vā anosaṭapubbattā sārajjaṃ uppajjati, tādiso ‘‘mā bhāyi, vissaṭṭho kathehi, mayaṃ te upatthambhā bhavissāmā’’ti vatvāpi anuyogavattaṃ kathāpetabbo. Caṇḍo nisedhetabboti apasādetabbo tajjetabbo. Asuci vibhāvetabboti alajjiṃ pakāsetvā āpattiṃ desāpetabbo. Ujumaddavenāti yo bhikkhu uju sīlavā kāyavaṅkādirahito, so maddaveneva upacaritabbo. Dhammesu ca puggalesu cāti ettha yo dhammagaruko hoti na puggalagaruko, ayameva dhammesu ca puggalesu ca majjhattoti veditabbo.
‘Nên đánh giá người khiển trách’ nghĩa là nên đánh giá như vầy: “liệu có phải là người khiển trách đúng Pháp hay không?”. ‘Nên đánh giá người bị khiển trách’ nghĩa là nên đánh giá như vầy: “liệu có phải là người bị khiển trách đúng Pháp hay không?”. ‘Nên đánh giá người khiển trách phi pháp’ nghĩa là nên biết mức độ của người ấy. Đối với những trường hợp còn lại, phương pháp cũng tương tự như vậy. ‘Không bỏ sót điều đã nói’ nghĩa là không bỏ sót lời nói đã được nói bởi người khiển trách và người bị khiển trách. ‘Không trình bày điều chưa nói’ nghĩa là không trình bày sự việc chưa được đề cập đến. ‘Người chậm lụt nên được khuyến khích’ nghĩa là người chậm lụt, người si mê nên được nâng đỡ; sau khi khích lệ rằng “chẳng phải đạo hữu là thiện nam tử sao?”, nên yêu cầu trình bày phần tra hỏi của mình rồi nắm lấy phần tra hỏi đó. ‘Người nhút nhát nên được an ủi’ nghĩa là người nào, do trước đây chưa từng đi vào giữa Tăng chúng hay giữa nhóm, khởi sanh sự rụt rè, người như vậy, sau khi nói rằng “đừng sợ, hãy nói năng thoải mái, chúng tôi sẽ là người hỗ trợ cho đạo hữu”, cũng nên yêu cầu trình bày phần tra hỏi của mình. ‘Người hung dữ nên được ngăn cản’ nghĩa là nên bị khiển trách, nên bị cảnh cáo. ‘Người không trong sạch nên được làm cho rõ ràng’ nghĩa là sau khi làm rõ người không biết hổ thẹn, nên yêu cầu sám hối tội phạm. ‘Bằng sự thẳng thắn và nhu hòa’ nghĩa là vị tỳ khưu nào thẳng thắn, có giới hạnh, không có sự cong vẹo thân v.v…, vị ấy nên được đối xử bằng sự nhu hòa. ‘Trong Pháp và trong các cá nhân’: ở đây, người nào xem trọng Pháp, không xem trọng cá nhân, chính người này nên được hiểu là người trung lập trong Pháp và trong các cá nhân.

366.Suttaṃ saṃsandanatthāyātiādīsu tena ca pana evaṃ sabrahmacārīnaṃ piyamanāpagarubhāvanīyena anuvijjakena samudāhaṭesu suttādīsu suttaṃ saṃsandanatthāya; āpattānāpattīnaṃ saṃsandanatthanti veditabbaṃ. Opammaṃ nidassanatthāyāti opammaṃ atthadassanatthāya. Attho viññāpanatthāyāti attho jānāpanatthāya. Paṭipucchā ṭhapanatthāyāti pucchā puggalassa ṭhapanatthāya. Okāsakammaṃ codanatthāyāti vatthunā vā āpattiyā vā codanatthāya. Codanā sāraṇatthāyāti dosādosaṃ sarāpanatthāya. Sāraṇā savacanīyatthāyāti dosādosasāraṇā savacanīyakaraṇatthāya. Savacanīyaṃ palibodhatthāyāti savacanīyaṃ ‘‘imamhā āvāsā paraṃ mā pakkamī’’ti evaṃ palibodhatthāya. Palibodho vinicchayatthāyāti vinicchayaṃ pāpanatthāya. Vinicchayo santīraṇatthāyāti dosādosaṃ santīraṇatthāya tulanatthāya. Santīraṇaṃ ṭhānāṭṭhānagamanatthāyāti āpattianāpattigarukalahukāpattijānanatthāya . Saṅgho sampariggahasampaṭicchanatthāyāti vinicchayasampaṭiggahaṇatthāya ca; suvinicchitadubbinicchitabhāvajānanatthāya cāti attho. Paccekaṭṭhāyino avisaṃvādakaṭṭhāyinoti issariyādhipaccajeṭṭhakaṭṭhāne ca avisaṃvādakaṭṭhāne ca ṭhitā; na te apasādetabbāti attho.
366. Trong (các câu) bắt đầu bằng ‘Kinh là để đối chiếu’ v.v…, và lại nữa, trong các kinh v.v… đã được vị tra xét, người đáng được các bạn đồng phạm hạnh quý mến, ưa thích, kính trọng, tôn kính như vậy, nêu lên, kinh là để đối chiếu; nên hiểu là để đối chiếu tội phạm và không phải tội phạm. ‘Ví dụ là để chỉ rõ’ nghĩa là ví dụ là để chỉ rõ ý nghĩa. ‘Ý nghĩa là để làm cho hiểu rõ’ nghĩa là ý nghĩa là để làm cho biết rõ. ‘Câu hỏi lại là để xác lập’ nghĩa là câu hỏi là để xác lập cá nhân. ‘Việc xin phép là để khiển trách’ nghĩa là để khiển trách bằng sự việc hoặc bằng tội phạm. ‘Sự khiển trách là để nhắc nhở’ nghĩa là để nhắc nhở về lỗi và không lỗi. ‘Sự nhắc nhở là để làm cho dễ bảo’ nghĩa là sự nhắc nhở về lỗi và không lỗi là để làm cho trở nên dễ bảo. ‘Sự dễ bảo là để ràng buộc’ nghĩa là sự dễ bảo là để ràng buộc như vầy: “kể từ trú xứ này, đừng đi nơi khác”. ‘Sự ràng buộc là để xét xử’ nghĩa là để đưa đến sự xét xử. ‘Sự xét xử là để thẩm xét’ nghĩa là để thẩm xét, để cân nhắc lỗi và không lỗi. ‘Sự thẩm xét là để đi đến chỗ đúng và không đúng’ nghĩa là để biết tội phạm, không phải tội phạm, tội nặng, tội nhẹ. ‘Tăng chúng là để hoàn toàn chấp nhận và thừa nhận’ nghĩa là để chấp nhận sự xét xử và để biết tình trạng xét xử đúng hay xét xử sai. ‘Những người đứng riêng lẻ, những người đứng ở chỗ không tranh cãi’ nghĩa là những người đứng ở vị trí có quyền lực, quyền làm chủ, vị trí trưởng thượng và ở vị trí không tranh cãi; nghĩa là họ không nên bị khiển trách.

Idāni ye mandā mandabuddhino evaṃ vadeyyuṃ ‘‘vinayo nāma kimatthāyā’’ti tesaṃ vacanokāsapidahanatthamattaṃ dassetuṃ vinayo saṃvaratthāyātiādimāha. Tattha vinayo saṃvaratthāyāti sakalāpi vinayapaññatti kāyavacīdvārasaṃvaratthāya. Ājīvavisuddhipariyosānassa sīlassa upanissayo hoti; paccayo hotīti attho. Esa nayo sabbattha. Apicettha avippaṭisāroti pāpapuññānaṃ katākatavasena cittavippaṭisārābhāvo. Pāmujjanti dubbalā taruṇapīti. Pītīti balavā bahalapīti. Passaddhīti kāyacittadarathapaṭippassaddhi. Sukhanti kāyikacetasikasukhaṃ. Tañhi duvidhampi samādhissa upanissayapaccayo hoti. Samādhīti cittekaggatā. Yathābhūtañāṇadassananti taruṇavipassanā; udayabbayañāṇassetaṃ adhivacanaṃ. Cittekaggatā hi taruṇavipassanāya upanissayapaccayo hoti. Nibbidāti sikhāpattā vuṭṭhānagāminibalavavipassanā. Virāgoti ariyamaggo. Vimuttīti arahattaphalaṃ. Catubbidhopi hi ariyamaggo arahattaphalassa upanissayapaccayo hoti. Vimuttiñāṇadassananti paccavekkhaṇāñāṇaṃ. Vimuttiñāṇadassanaṃ anupādāparinibbānatthāyāti apaccayaparinibbānatthāya. Apaccayaparinibbānassa hi taṃ paccayo hoti, tasmiṃ anuppatte avassaṃ parinibbāyitabbatoti. Etadatthā kathāti ayaṃ vinayakathā nāma etadatthā. Mantanāti vinayamantanā eva. Upanisāti ayaṃ ‘‘vinayo saṃvaratthāyā’’tiādikā paramparapaccayatāpi etadatthāya. Sotāvadhānanti imissā paramparapaccayakathāya sotāvadhānaṃ. Imaṃ kathaṃ sutvā yaṃ uppajjati ñāṇaṃ, tampi etadatthāya. Yadidaṃ anupādā cittassa vimokkhoti yo ayaṃ catūhi upādānehi anupādiyitvā cittassa arahattaphalasaṅkhāto vimokkho, sopi etadatthāya; apaccayaparinibbānatthāya evāti attho.
Bây giờ, để trình bày ý nghĩa nhằm ngăn chặn cơ hội nói năng của những người chậm lụt, trí tuệ kém cỏi, những người có thể nói như vầy: “Luật có mục đích gì?”, (Đức Phật) đã nói (các câu) bắt đầu bằng ‘Luật là để thu thúc’. Ở đó, ‘Luật là để thu thúc’ nghĩa là toàn bộ giới luật được chế định là để thu thúc thân và khẩu. Nó là duyên trợ mạnh cho giới hạnh có sự thanh tịnh mạng sống làm đỉnh điểm; nghĩa là nó là duyên. Phương pháp này (áp dụng) ở mọi nơi. Hơn nữa, ở đây ‘sự không hối tiếc’ là sự không có hối tiếc trong tâm do việc đã làm hay chưa làm các điều ác và điều thiện. ‘Sự hân hoan’ là hỷ yếu ớt, non trẻ. ‘Hỷ’ là hỷ mạnh mẽ, dồi dào. ‘Sự khinh an’ là sự lắng dịu những khổ não của thân và tâm. ‘Lạc’ là lạc thuộc thân và thuộc tâm. Vì rằng cả hai loại ấy đều là duyên trợ mạnh cho định. ‘Định’ là sự nhất tâm. ‘Tri kiến như thật’ là minh sát non trẻ; đây là tên gọi khác của trí tuệ về sanh diệt. Vì rằng sự nhất tâm là duyên trợ mạnh cho minh sát non trẻ. ‘Sự nhàm chán’ là minh sát mạnh mẽ đạt đến đỉnh điểm, đưa đến sự xuất khởi. ‘Sự ly tham’ là Thánh đạo. ‘Sự giải thoát’ là quả A-la-hán. Vì rằng cả bốn loại Thánh đạo đều là duyên trợ mạnh cho quả A-la-hán. ‘Tri kiến về sự giải thoát’ là trí tuệ phản khán. ‘Tri kiến về sự giải thoát là để đạt đến Vô dư y Niết-bàn’ nghĩa là để đạt đến Niết-bàn không còn duyên. Vì rằng nó là duyên cho Niết-bàn không còn duyên; khi đạt đến đó, chắc chắn phải nhập Niết-bàn. ‘Câu chuyện là vì mục đích này’ nghĩa là câu chuyện về Luật này là vì mục đích này. ‘Sự bàn luận’ chính là sự bàn luận về Luật. ‘Duyên trợ mạnh’ nghĩa là tính duyên tuần tự này, bắt đầu bằng ‘Luật là để thu thúc’ v.v…, cũng vì mục đích này. ‘Sự lắng nghe’ là sự lắng nghe câu chuyện về duyên tuần tự này. Sau khi nghe câu chuyện này, trí tuệ nào phát sanh, trí tuệ đó cũng vì mục đích này. ‘Đó là sự giải thoát của tâm không còn chấp thủ’ nghĩa là sự giải thoát của tâm này, được gọi là quả A-la-hán, do không chấp thủ bởi bốn loại chấp thủ, sự giải thoát đó cũng vì mục đích này; nghĩa là chính là vì Niết-bàn không còn duyên.

367. Anuyogavattagāthāsu paṭhamagāthā vuttatthā eva.
367. Trong các kệ về bổn phận tra hỏi, câu kệ đầu tiên có ý nghĩa đã được nói.

Vatthuṃ vipattiṃ āpattiṃ, nidānaṃ ākāraakovido pubbāparaṃ na jānātīti ‘‘vatthu’’ntiādīni ‘‘na jānātī’’ti padena sambandho. ‘‘Akovido’’ti padassa ‘‘sa ve tādisako’’ti iminā sambandho. Tasmā ayamettha yojanā – yo bhikkhu pārājikādīnaṃ vatthuṃ na jānāti, catubbidhaṃ vipattiṃ na jānāti, sattavidhaṃ āpattiṃ na jānāti, ‘‘idaṃ sikkhāpadaṃ asukasmiṃ nāma nagare paññatta’’nti evaṃ nidānaṃ na jānāti, ‘‘idaṃ purimavacanaṃ idaṃ pacchimavacana’’nti pubbāparaṃ na jānāti, ‘‘idaṃ kataṃ idaṃ akata’’nti katākataṃ na jānāti. Samena cāti teneva pubbāparaṃ ajānanassa samena aññāṇena, ‘‘katākataṃ na jānātī’’ti vuttaṃ hoti; evaṃ tāva najānāti-padena saddhiṃ sambandho veditabbo. Yaṃ panetaṃ ‘‘ākāraakovido’’ti vuttaṃ, tattha ākāraakovidoti kāraṇākāraṇe akovido. Iti yvāyaṃ vatthuādīnipi na jānāti, ākārassa ca akovido, sa ve tādisako bhikkhu apaṭikkhoti vuccati.
(Trong câu) ‘Không biết sự việc, sự sai phạm, tội phạm, duyên khởi, người không thiện xảo về cách thức, không biết trước sau’: các từ bắt đầu bằng ‘sự việc’ v.v… có liên hệ với từ ‘không biết’. Từ ‘người không thiện xảo’ có liên hệ với (câu) ‘vị ấy quả là người như vậy’. Do đó, sự liên kết ở đây là như vầy: vị tỳ khưu nào không biết sự việc của tội bất cộng trụ v.v…, không biết bốn loại sai phạm, không biết bảy loại tội phạm, không biết duyên khởi như vầy: “học giới này được chế định tại thành phố tên là như vậy”, không biết trước sau như vầy: “đây là lời nói trước, đây là lời nói sau”, không biết điều đã làm và chưa làm như vầy: “đây là điều đã làm, đây là điều chưa làm”. ‘Và do sự giống nhau’ nghĩa là do sự vô minh tương tự với sự không biết trước sau đó, (nên) được nói là: “không biết điều đã làm và chưa làm”; nên hiểu sự liên hệ với từ ‘không biết’ là như vậy. Còn điều này được nói là ‘người không thiện xảo về cách thức’, ở đó, ‘người không thiện xảo về cách thức’ là người không thiện xảo về lý do và không phải lý do (đúng và sai). Như vậy, vị nào không biết cả sự việc v.v…, và lại không thiện xảo về cách thức, vị tỳ khưu như vậy quả thật được gọi là người không đáng tin cậy.

Kammañca adhikaraṇañcāti imesampi padānaṃ ‘‘na jānātī’’ti padeneva sambandho. Ayaṃ panettha yojanā – tatheva iti yvāyaṃ kammañca na jānāti, adhikaraṇañca na jānāti, sattappakāre samathe cāpi akovido, rāgādīhi pana ratto duṭṭho ca mūḷho ca, bhayena bhayā gacchati, sammohena mohā gacchati, rattattā pana duṭṭhattā ca chandā dosā ca gacchati, paraṃ saññāpetuṃ asamatthatāya na ca saññattikusalo, kāraṇākāraṇadassane asamatthatāya nijjhattiyā ca akovido attano sadisāya parisāya laddhattā laddhapakkho, hiriyā paribāhirattā ahiriko, kāḷakehi kammehi samannāgatattā kaṇhakammo, dhammādariyapuggalādariyānaṃ abhāvato anādaro, sa ve tādisako bhikkhu apaṭikkhoti vuccati, na paṭikkhitabbo na oloketabbo, na sammannitvā issariyādhipaccajeṭṭhakaṭṭhāne ṭhapetabboti attho. Sukkapakkhagāthānampi yojanānayo vuttanayeneva veditabboti.
‘Và nghiệp sự và vụ tranh tụng’: các từ này cũng có liên hệ chính với từ ‘không biết’. Sự liên kết ở đây là như vầy – cũng vậy, như vậy vị nào không biết nghiệp sự, không biết vụ tranh tụng, và lại không thiện xảo về bảy cách dàn xếp (tranh tụng), nhưng lại tham nhiễm, sân hận và si mê bởi tham ái v.v…, đi đến sợ hãi do sợ hãi, đi đến si mê do si mê, và lại do tham nhiễm, do sân hận mà đi đến thiên vị do tham muốn và thiên vị do sân hận, lại không thiện xảo trong việc làm cho người khác hiểu do không có khả năng làm cho người khác hiểu, và không thiện xảo trong việc phán quyết do không có khả năng thấy lý do và không phải lý do, đã có được phe phái do đã có được hội chúng tương tự mình, không biết hổ thẹn do ở ngoài sự hổ thẹn, có nghiệp đen tối do có những nghiệp đen tối, không kính trọng do không có sự kính trọng Pháp và sự kính trọng cá nhân, vị tỳ khưu như vậy quả thật được gọi là người không đáng tin cậy; nghĩa là không nên tin cậy, không nên nhìn đến, không nên sau khi đồng thuận mà đặt vào vị trí có quyền lực, quyền làm chủ, vị trí trưởng thượng. Phương pháp liên kết của các câu kệ thuộc phần trong sạch cũng nên được hiểu theo cách đã nói.

Cūḷasaṅgāmavaṇṇanā niṭṭhitā.

Giải Thích Tiểu Tranh Luận được chấm dứt.

Hộp bình luận Facebook

Soṇa Thiện Kim

Panha.org là trang web chuyên sâu về Pháp học của Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Tông), nơi cung cấp kiến thức và tài liệu quý báu về kinh điển, giáo lý, và triết học Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Tông). Tại đây, bạn có thể tìm hiểu về các giáo pháp truyền thống, kinh nghiệm tu tập, và những bài giảng từ các vị tôn sư hàng đầu trong cộng đồng Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Tông). Với mục tiêu giúp người học hiểu sâu hơn về con đường giác ngộ và sự giải thoát, Panha.org mang đến nguồn tài nguyên phong phú, chính xác và cập nhật để hỗ trợ hành giả trên hành trình tu tập Pháp học.

Bài viết liên quan

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.

0 Góp ý
Được bỏ phiếu nhiều nhất
Mới nhất Cũ nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Back to top button