Antarapeyyālaṃ
Phần Tiếp Theo Dạng Lược
Katipucchāvāravaṇṇanā
Giải Thích Chương Về Các Câu Hỏi (Về Số Lượng)
271. Idāni āpattiādikoṭṭhāsesu kosallajananatthaṃ ‘‘kati āpattiyo’’tiādinā nayena mātikaṃ ṭhapetvā niddesappaṭiniddesavasena vibhaṅgo vutto.
271. Bây giờ, nhằm mục đích tạo sự thiện xảo trong các phần như tội v.v., sau khi đã thiết lập đề mục theo phương pháp bắt đầu bằng “có bao nhiêu tội?”, sự phân tích đã được nói ra theo cách giải thích và đối giải thích.
Tattha kati āpattiyoti mātikāya ca vibhaṅge ca āgatāpattipucchā. Esa nayo dutiyapadepi. Kevalañhettha āpattiyo eva rāsivasena khandhāti vuttā. Vinītavatthūnīti tāsaṃ āpattīnaṃ vinayapucchā; ‘‘vinītaṃ vinayo vūpasamo’’ti idañhi atthato ekaṃ, vinītāniyeva vinītavatthūnīti ayamettha padattho. Idāni yesu sati āpattiyo honti, asati na honti, te dassetuṃ ‘‘kati agāravā’’ti pucchādvayaṃ. Vinītavatthūnīti ayaṃ pana tesaṃ agāravānaṃ vinayapucchā. Yasmā pana tā āpattiyo vipattiṃ āpattā nāma natthi, tasmā ‘‘kati vipattiyo’’ti ayaṃ āpattīnaṃ vipattibhāvapucchā. Kati āpattisamuṭṭhānānīti tāsaṃyeva āpattīnaṃ samuṭṭhānapucchā. Vivādamūlāni anuvādamūlānīti imā ‘‘vivādādhikaraṇaṃ anuvādādhikaraṇa’’nti āgatānaṃ vivādānuvādānaṃ mūlapucchā. Sāraṇīyā dhammāti vivādānuvādamūlānaṃ abhāvakaradhammapucchā. Bhedakaravatthūnīti ayaṃ ‘‘bhedanasaṃvattanikaṃ vā adhikaraṇa’’ntiādīsu vuttabhedakaraṇapucchā. Adhikaraṇānīti bhedakaravatthūsu sati uppajjanadhammapucchā. Samathāti tesaṃyeva vūpasamanadhammapucchā. Pañca āpattiyoti mātikāya āgatavasena vuttā. Sattāti vibhaṅge āgatavasena.
Trong đó, câu hỏi “có bao nhiêu tội?” là câu hỏi về tội đã đến trong cả đề mục và trong phần phân tích. Phương pháp này cũng áp dụng cho từ thứ hai. Chỉ là ở đây, chính các tội được gọi là uẩn theo ý nghĩa là tập hợp. “Các sự việc đã được xử lý” là câu hỏi về luật đối với những tội đó; bởi vì “đã xử lý, luật, sự lắng dịu” – những điều này về mặt ý nghĩa là một, (nên) “chính những điều đã được xử lý” là “các sự việc đã được xử lý” – đây là ý nghĩa của từ ở đây. Bây giờ, để chỉ ra những điều mà khi có chúng thì có tội, khi không có chúng thì không có tội, (đã có) hai câu hỏi “có bao nhiêu sự không tôn kính?”. Còn “Các sự việc đã được xử lý” này là câu hỏi về luật đối với những sự không tôn kính đó. Bởi vì những tội đó không được gọi là đã đạt đến sự thất bại, do đó “có bao nhiêu sự thất bại?” là câu hỏi về trạng thái thất bại của các tội. “Có bao nhiêu sự khởi sinh của tội?” là câu hỏi về sự khởi sinh của chính những tội đó. “Các gốc rễ tranh tụng, các gốc rễ khiển trách” – đây là những câu hỏi về gốc rễ của tranh tụng và khiển trách đã đến như là “tranh tụng sự” và “khiển trách sự”. “Các pháp đáng nhớ tưởng” là câu hỏi về các pháp làm cho không có các gốc rễ tranh tụng và khiển trách. “Các sự việc gây chia rẽ” là câu hỏi về việc gây chia rẽ đã được nói đến trong các đoạn như “hoặc là sự việc dẫn đến chia rẽ” v.v. “Các sự” là câu hỏi về các pháp phát sinh khi có các sự việc gây chia rẽ. “Các pháp dàn xếp” là câu hỏi về các pháp làm lắng dịu chính những (sự) đó. “Năm tội” được nói theo cách đã đến trong đề mục. “Bảy” (được nói) theo cách đã đến trong phần phân tích.
Ārakā etehi ramatīti ārati; bhusā vā rati ārati. Vinā etehi ramatīti virati. Paccekaṃ paccekaṃ viramatīti paṭivirati. Veraṃ maṇati vināsetīti veramaṇī. Na etāya ete āpattikkhandhā karīyantīti akiriyā. Yaṃ etāya asati āpattikkhandhakaraṇaṃ uppajjeyya, tassa paṭipakkhato akaraṇaṃ. Āpattikkhandhaajjhāpattiyā paṭipakkhato anajjhāpatti. Velanato velā; calayanato vināsanatoti attho . Niyyānaṃ sinoti bandhati nivāretīti setu. Āpattikkhandhānametaṃ adhivacanaṃ. So setu etāya paññattiyā haññatīti setughāto. Sesavinītavatthuniddesesupi eseva nayo.
Người ta vui thích xa lánh những điều này, nên gọi là sự xa lánh; hoặc sự vui thích mãnh liệt là sự xa lánh. Người ta vui thích không có những điều này, nên gọi là sự tránh xa. Người ta tránh xa từng điều một, nên gọi là sự kiêng cữ riêng biệt. Nó tiêu diệt sự oan trái, nên gọi là sự kiêng cữ. Bởi điều này mà các uẩn tội này không được làm, nên gọi là sự không làm. Khi không có điều này, việc làm các uẩn tội có thể phát sinh, đối nghịch với điều đó là sự không làm. Đối nghịch với sự phạm phải uẩn tội là sự không phạm phải. Do sự dao động là bờ mé, giới hạn; nghĩa là do sự lay động, sự hủy hoại. Nó trói buộc, ngăn chặn sự xuất ly, nên gọi là con đê, sự ngăn chặn. Đây là tên gọi khác của các uẩn tội. Con đê đó bị phá hủy bởi sự chế định này, nên gọi là sự phá đê. Trong các phần giải thích về các sự việc đã được xử lý còn lại, phương pháp cũng là như vậy.
Buddhe agāravādīsu yo buddhe dharamāne upaṭṭhānaṃ na gacchati, parinibbute cetiyaṭṭhānaṃ bodhiṭṭhānaṃ na gacchati, cetiyaṃ vā bodhiṃ vā na vandati, cetiyaṅgaṇe sachatto saupāhano carati, natthetassa buddhe gāravoti veditabbo. Yo pana sakkontoyeva dhammassavanaṃ na gacchati, sarabhaññaṃ na bhaṇati, dhammakathaṃ na katheti, dhammassavanaggaṃ bhinditvā gacchati, vikkhitto vā anādaro vā nisīdati, natthetassa dhamme gāravo. Yo theranavamajjhimesu cittīkāraṃ na paccupaṭṭhāpeti, uposathāgāravitakkamāḷakādīsu kāyappāgabbhiyaṃ dasseti, yathāvuḍḍhaṃ na vandati, natthetassa saṅghe gāravo. Tisso sikkhā samādāya asikkhamānoyeva pana sikkhāya agāravoti veditabbo. Pamāde ca sativippavāse tiṭṭhamānoyeva appamādalakkhaṇaṃ abrūhayamāno appamāde agāravoti veditabbo. Tathā āmisappaṭisanthāraṃ dhammappaṭisanthāranti imaṃ duvidhaṃ paṭisanthāraṃ akarontoyeva paṭisanthāre agāravoti veditabbo. Gāravaniddese vuttavipariyāyena attho veditabbo.
Trong các trường hợp không tôn kính đối với Phật v.v.: Người nào khi Đức Phật còn tại thế mà không đi đến hầu hạ, khi Ngài đã nhập Niết-bàn mà không đi đến nơi bảo tháp, nơi cây Bồ-đề, không đảnh lễ bảo tháp hay cây Bồ-đề, đi lại trong sân bảo tháp mà che dù, mang giày dép, phải được hiểu là người đó không có sự tôn kính đối với Đức Phật. Còn người nào, dù có khả năng, mà không đi nghe pháp, không đọc tụng, không thuyết pháp, phá ngang buổi nghe pháp mà bỏ đi, hoặc ngồi với tâm tán loạn hay không chú ý, thì người đó không có sự tôn kính đối với Pháp. Người nào không thể hiện sự kính trọng đối với các vị Thượng tọa, Trung tọa, Hạ tọa, thể hiện sự xấc xược về thân trong nhà lễ Uposatha, nhà hành thiền v.v., không đảnh lễ theo hạ lạp, thì người đó không có sự tôn kính đối với Tăng. Còn người đã thọ trì ba học giới mà lại không thực hành, thì phải được hiểu là người đó không tôn kính học giới. Người đang sống trong sự dễ duôi và thất niệm mà không phát triển đặc tính không dễ duôi, thì phải được hiểu là người đó không tôn kính sự không dễ duôi. Tương tự, người không thực hiện hai loại tiếp đãi này là tiếp đãi bằng vật thực và tiếp đãi bằng pháp, thì phải được hiểu là người đó không tôn kính sự tiếp đãi. Ý nghĩa cần được hiểu theo cách ngược lại với những gì đã nói trong phần giải thích về sự tôn kính.
272. Vivādamūlaniddese ‘‘sattharipi agāravo’’tiādīnaṃ buddhe agāravādīsu vuttanayeneva attho veditabbo. Appatissoti anīcavutti; na satthāraṃ jeṭṭhakaṃ katvā viharati. Ajjhattaṃ vāti attano santāne vā attano pakkhe vā; sakāya parisāyāti attho. Bahiddhā vāti parasantāne vā parapakkhe vā. Tatra tumheti tasmiṃ ajjhattabahiddhābhede saparasantāne vā saparaparisāya vā. Pahānāya vāyameyyāthāti mettābhāvanādīhi nayehi pahānatthaṃ vāyameyyātha; mettābhāvanādinayena hi taṃ ajjhattampi bahiddhāpi pahīyati. Anavassavāyāti appavattibhāvāya.
272. Trong phần giải thích về các gốc rễ tranh tụng, ý nghĩa của các câu như “cũng không tôn kính đối với Bậc Đạo Sư” v.v. cần được hiểu theo phương pháp đã nói trong các trường hợp không tôn kính đối với Phật v.v. Không kính phục nghĩa là có thái độ không khiêm hạ; không xem Bậc Đạo Sư là bậc tối thượng mà sống. Hoặc bên trong nghĩa là trong tự thân hoặc trong phe nhóm của mình; nghĩa là trong hội chúng của mình. Hoặc bên ngoài nghĩa là trong tự thân người khác hoặc trong phe nhóm người khác. Ở đó, các ngươi nghĩa là trong sự phân biệt bên trong và bên ngoài đó, hoặc trong tự thân của mình và người khác, hoặc trong hội chúng của mình và người khác. Hãy cố gắng để đoạn trừ nghĩa là hãy cố gắng vì mục đích đoạn trừ bằng các phương pháp như tu tập tâm từ v.v.; vì rằng bằng phương pháp tu tập tâm từ v.v., điều đó được đoạn trừ cả bên trong lẫn bên ngoài. Để không tiếp diễn nghĩa là để cho tình trạng không còn tiếp tục xảy ra.
Sandiṭṭhiparāmāsīti sakameva diṭṭhiṃ parāmasati; yaṃ attanā diṭṭhigataṃ gahitaṃ, idameva saccanti gaṇhāti . Ādhānaggāhīti daḷhaggāhī.
Người chấp thủ tự kiến nghĩa là người chỉ chấp thủ vào kiến giải của chính mình; điều gì mà tự mình đã thấy, đã nắm giữ, người ấy nhận lấy rằng “chỉ điều này là sự thật”. Người nắm giữ chặt chẽ nghĩa là người cố chấp.
273. Anuvādamūlaniddeso kiñcāpi vivādamūlaniddeseneva samāno, atha kho aṭṭhārasa bhedakaravatthūni nissāya vivadantānaṃ kodhūpanāhādayo vivādamūlāni. Tathā vivadantā pana sīlavipattiādīsu aññataravipattiṃ āpajjitvā ‘‘asuko bhikkhu asukaṃ nāma vipattiṃ āpanno’’ti vā, ‘‘pārājikaṃ āpannosi, saṅghādisesaṃ āpannosī’’ti vā anuvadanti. Evaṃ anuvadantānaṃ kodhūpanāhādayo anuvādamūlānīti ayamettha viseso.
273. Phần giải thích về các gốc rễ khiển trách mặc dù giống với phần giải thích về các gốc rễ tranh tụng, nhưng (có điểm khác là) sự phẫn nộ, hiềm hận v.v. của những người tranh cãi do nương vào mười tám sự việc gây chia rẽ là các gốc rễ tranh tụng. Còn những người tranh cãi như vậy, sau khi đã phạm vào một sự thất bại nào đó trong các sự thất bại về giới v.v., họ khiển trách rằng “vị tỷ-kheo kia đã phạm phải sự thất bại tên là như vậy” hoặc “ông đã phạm tội bất cộng trụ”, “ông đã phạm tội tăng tàn”. Sự phẫn nộ, hiềm hận v.v. của những người khiển trách như vậy là các gốc rễ khiển trách – đây là sự khác biệt ở đây.
274. Sāraṇīyadhammaniddese mettacittena kataṃ kāyakammaṃ mettaṃ kāyakammaṃ nāma. Āvi ceva raho cāti sammukhā ca parammukhā ca. Tattha navakānaṃ cīvarakammādīsu sahāyabhāvagamanaṃ sammukhā mettaṃ kāyakammaṃ nāma. Therānaṃ pana pādadhovanabījanavātadānādibhedampi sabbaṃ sāmīcikammaṃ sammukhā mettaṃ kāyakammaṃ nāma. Ubhayehipi dunnikkhittānaṃ dārubhaṇḍādīnaṃ tesu avamaññaṃ akatvā attanā dunnikkhittānaṃ viya paṭisāmanaṃ parammukhā mettaṃ kāyakammaṃ nāma. Ayampi dhammo sāraṇīyoti ayaṃ mettākāyakammasaṅkhāto dhammo saritabbo satijanako; yo naṃ karoti, taṃ puggalaṃ; yesaṃ kato hoti, te pasannacittā ‘‘aho sappuriso’’ti anussarantīti adhippāyo. Piyakaraṇoti taṃ puggalaṃ sabrahmacārīnaṃ piyaṃ karoti. Garukaraṇoti taṃ puggalaṃ sabrahmacārīnaṃ garuṃ karoti. Saṅgahāyātiādīsu sabrahmacārīhi saṅgahetabbabhāvāya. Tehi saddhiṃ avivādāya samaggabhāvāya ekībhāvāya ca saṃvattati.
274. Trong phần giải thích về các pháp đáng nhớ tưởng, hành động về thân được làm với tâm từ được gọi là hành động thân thương mến. Công khai và kín đáo nghĩa là trước mặt và sau lưng. Trong đó, việc trở thành người giúp đỡ trong các công việc về y v.v. cho các vị tân tỷ-kheo là hành động thân thương mến trước mặt. Còn đối với các vị trưởng lão, tất cả các công việc phục vụ, bao gồm cả các việc như rửa chân, quạt mát v.v., cũng là hành động thân thương mến trước mặt. Việc cả hai (tân tỷ-kheo và trưởng lão) sắp xếp lại các đồ gỗ, vật dụng v.v. đã bị đặt để không đúng chỗ, không tỏ ra khinh thường chúng, mà (sắp xếp) như thể chính mình đã đặt để không đúng chỗ, là hành động thân thương mến sau lưng. Pháp này cũng đáng nhớ tưởng nghĩa là pháp này, được gọi là hành động thân thương mến, là điều đáng ghi nhớ, làm phát sinh niệm; ý muốn nói rằng: người làm việc đó, (đối với) người đó; và những người mà việc đó được làm cho, họ với tâm hoan hỷ sẽ nhớ tưởng rằng “Ồ, thật là bậc chân nhân!”. Làm cho được thương mến nghĩa là làm cho người đó được các vị đồng phạm hạnh thương mến. Làm cho được tôn trọng nghĩa là làm cho người đó được các vị đồng phạm hạnh tôn trọng. Để được nhiếp trì v.v. nghĩa là để có được tình trạng được các vị đồng phạm hạnh nhiếp trì. Nó đưa đến tình trạng không tranh cãi, hòa hợp, và đoàn kết với họ.
Mettaṃ vacīkammantiādīsu devatthero tissattheroti evaṃ paggayha vacanaṃ sammukhā mettaṃ vacīkammaṃ nāma. Vihāre asante pana taṃ paṭipucchantassa ‘‘kuhiṃ amhākaṃ devatthero, kuhiṃ amhākaṃ tissatthero, kadā nu kho āgamissatī’’ti evaṃ mamāyanavacanaṃ parammukhā mettaṃ vacīkammaṃ nāma. Mettāsinehasiniddhāni pana nayanāni ummīletvā pasannena mukhena olokanaṃ sammukhā mettaṃ manokammaṃ nāma. ‘‘Devatthero tissatthero arogo hotu, appābādho’’ti samannāharaṇaṃ parammukhā mettaṃ manokammaṃ nāma.
Trong các câu như hành động lời thương mến v.v., lời nói xưng tán như “Trưởng lão Deva, Trưởng lão Tissa” là hành động lời thương mến trước mặt. Còn khi (vị ấy) không có ở trong tu viện, lời nói thể hiện sự quý mến của người hỏi về vị ấy rằng “Trưởng lão Deva của chúng ta ở đâu, Trưởng lão Tissa của chúng ta ở đâu, khi nào ngài sẽ trở lại?” là hành động lời thương mến sau lưng. Còn việc mở mắt với ánh nhìn đầy từ ái và trìu mến, nhìn với gương mặt hoan hỷ là hành động ý thương mến trước mặt. Sự suy niệm rằng “Mong Trưởng lão Deva, Trưởng lão Tissa được vô bệnh, ít bệnh” là hành động ý thương mến sau lưng.
Appaṭivibhattabhogīti neva āmisaṃ paṭivibhajitvā bhuñjati, na puggalaṃ. Yo hi ‘‘ettakaṃ paresaṃ dassāmi, ettakaṃ attanā bhuñjissāmi, ettakaṃ vā asukassa ca asukassa ca dassāmi, ettakaṃ attanā bhuñjissāmī’’ti vibhajitvā bhuñjati, ayaṃ paṭivibhattabhogī nāma. Ayaṃ pana evaṃ akatvā ābhataṃ piṇḍapātaṃ therāsanato paṭṭhāya datvā gahitāvasesaṃ bhuñjati. ‘‘Sīlavantehī’’ti vacanato dussīlassa adātumpi vaṭṭati, sāraṇīyadhammapūrakena pana sabbesaṃ dātabbamevāti vuttaṃ. Gilāna-gilānupaṭṭhāka-āgantuka-gamikacīvarakammādipasutānaṃ viceyya dātumpi vaṭṭati. Na hi ete vicinitvā dentena puggalavibhāgo kato hoti, īdisānañhi kicchalābhattā viseso kātabboyevāti ayaṃ karoti.
Người không phân chia vật thực để dùng nghĩa là người không phân chia vật thực cũng như không phân biệt người (để cho) rồi mới dùng. Bởi vì người nào phân chia rồi mới dùng rằng “chừng này tôi sẽ cho người khác, chừng này tôi sẽ tự mình dùng, hoặc chừng này tôi sẽ cho người này và người kia, chừng này tôi sẽ tự mình dùng”, người này được gọi là người phân chia vật thực để dùng. Còn người này thì không làm như vậy, mà đem vật thực khất thực đã nhận được đi phân phát bắt đầu từ chỗ ngồi của trưởng lão, rồi mới dùng phần còn lại sau khi đã lấy. Mặc dù theo câu “(chia sẻ) với những người có giới”, việc không cho người ác giới cũng được phép, nhưng đã nói rằng người thực hành các pháp đáng nhớ tưởng thì phải cho tất cả mọi người. Việc xem xét rồi mới cho những người bệnh, người chăm sóc bệnh nhân, khách đến, người đi xa, người đang bận rộn với công việc về y v.v. cũng được phép. Bởi vì người cho sau khi đã xem xét những người này thì không phải là đã tạo ra sự phân biệt người, mà người này làm vậy vì cho rằng đối với những hạng người như thế, do khó khăn trong việc nhận vật thực, sự ưu tiên quả thật cần phải được thực hiện.
Akhaṇḍānītiādīsu yassa sattasu āpattikkhandhesu ādimhi vā ante vā sikkhāpadaṃ bhinnaṃ hoti, tassa sīlaṃ pariyante chinnasāṭako viya khaṇḍaṃ nāma. Yassa pana vemajjhe bhinnaṃ, tassa majjhe chiddasāṭako viya chiddaṃ nāma hoti. Yassa paṭipāṭiyā dve tīṇi bhinnāni, tassa piṭṭhiyaṃ vā kucchiyaṃ vā uṭṭhitena visabhāgavaṇṇena kāḷarattādīnaṃ aññatarasarīravaṇṇā gāvī viya sabalaṃ nāma hoti. Yassa antarantarā bhinnāni, tassa antarantarā visabhāgavaṇṇabinduvicitrā gāvī viya kammāsaṃ nāma hoti. Yassa pana sabbena sabbaṃ abhinnāni sīlāni, tassa tāni sīlāni akhaṇḍāni acchiddāni asabalāni akammāsāni nāma honti. Tāni panetāni bhujissabhāvakaraṇato bhujissāni. Viññūhi pasatthattā viññuppasatthāni. Taṇhādiṭṭhīhi aparāmaṭṭhattā aparāmaṭṭhāni. Upacārasamādhiṃ appanāsamādhiṃ vā saṃvattayantīti samādhisaṃvattanikānīti vuccanti. Sīlasāmaññagato viharatīti tesu tesu disābhāgesu viharantehi kalyāṇasīlehi bhikkhūhi saddhiṃ samānabhāvūpagatasīlo viharati.
Trong các từ như không bị sứt mẻ v.v., người nào mà học giới bị vi phạm ở phần đầu hoặc phần cuối trong bảy uẩn tội, giới của người đó được gọi là bị sứt mẻ, giống như tấm vải bị rách ở mép. Còn người nào mà (học giới) bị vi phạm ở khoảng giữa, (giới của) người đó được gọi là bị thủng, giống như tấm vải bị thủng ở giữa. Người nào mà hai, ba (học giới) bị vi phạm một cách liên tục, (giới của) người đó được gọi là bị lốm đốm, giống như con bò có màu sắc cơ thể không đồng nhất, như màu đen, đỏ v.v., xuất hiện trên lưng hoặc bụng. Người nào mà (các học giới) bị vi phạm cách khoảng, (giới của) người đó được gọi là bị lang lổ, giống như con bò có nhiều đốm màu không đồng nhất cách khoảng nhau. Còn người nào mà các giới hoàn toàn không bị vi phạm, các giới đó của người ấy được gọi là không bị sứt mẻ, không bị thủng, không bị lốm đốm, không bị lang lổ. Những giới này, do làm cho thành người tự do, nên gọi là đưa đến tự do. Do được bậc trí tán thán, nên gọi là được bậc trí tán thán. Do không bị tham ái và tà kiến chi phối, nên gọi là không bị chi phối. Chúng đưa đến cận định hoặc an chỉ định, nên được gọi là đưa đến định. Sống đạt đến sự tương đồng về giới nghĩa là sống với giới đã đạt đến trạng thái tương đồng cùng với các vị tỷ-kheo có giới tốt đẹp đang sống ở các phương hướng đó đây.
Yāyaṃ diṭṭhīti maggasampayuttā sammādiṭṭhi. Ariyāti niddosā. Niyyātīti niyyānikā. Takkarassāti yo tathākārī hoti, tassa. Dukkhakkhayāyāti sabbadukkhassa khayatthaṃ. Sesaṃ yāva samathabhedapariyosānā uttānatthameva.
Kiến nào này là chánh kiến tương ưng với đạo. Thánh thiện nghĩa là không có lỗi lầm. Nó đưa ra khỏi (sinh tử), nên gọi là đưa đến xuất ly. Cho người thực hành như vậy nghĩa là cho người nào là người làm như thế. Để đoạn tận khổ nghĩa là vì mục đích đoạn tận tất cả khổ đau. Phần còn lại cho đến hết phần phân loại các pháp dàn xếp đều có ý nghĩa rõ ràng.
Katipucchāvāravaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích Chương Về Các Câu Hỏi (Về Số Lượng) đã hoàn tất.