Codanākaṇḍaṃ
Phẩm Về Sự Khiển Trách
Anuvijjakakiccavaṇṇanā
Giải Thích về Bổn Phận Của Vị Tra Xét
360-361. Idāni evaṃ uppannāya codanāya vinayadharena kattabbakiccaṃ dassetuṃ anuvijjakenātiādi āraddhaṃ. Tattha diṭṭhaṃ diṭṭhenāti gāthāya ayamattho – ekeneko mātugāmena saddhiṃ ekaṭṭhānato nikkhamanto vā pavisanto vā diṭṭho, so taṃ pārājikena codeti, itaro tassa dassanaṃ anujānāti. Taṃ pana dassanaṃ paṭicca pārājikaṃ na upeti, na paṭijānāti. Evamettha yaṃ tena diṭṭhaṃ, taṃ tassa ‘‘diṭṭho mayā’’ti iminā diṭṭhavacanena sameti. Yasmā pana itaro taṃ dassanaṃ paṭicca dosaṃ na paṭijānāti, tasmā asuddhaparisaṅkito hoti; amūlakaparisaṅkitoti attho. Tassa puggalassa ‘‘suddho aha’’nti paṭiññāya tena saddhiṃ uposatho kātabbo. Sesagāthādvayepi eseva nayo. Sesaṃ sabbattha uttānamevāti.
360-361. Bây giờ, để chỉ ra việc cần làm của vị Tỳ khưu trì Luật đối với lời cáo buộc đã khởi lên như vậy, (đoạn luận giải) được bắt đầu bằng cụm từ ‘(bởi) người thẩm xét‘ v.v… Trong đó, ý nghĩa của câu kệ bắt đầu bằng cụm từ ‘điều được thấy bởi người đã thấy‘ là như sau: Một Tỳ khưu bị người khác thấy hoặc đang đi ra hoặc đang đi vào từ một nơi cùng với một người nữ, người thấy liền cáo buộc vị Tỳ khưu đó phạm tội Bất Cộng Trụ. Vị kia (bị cáo buộc) thừa nhận việc mình bị thấy. Nhưng chỉ dựa vào việc bị thấy đó, vị ấy không chấp nhận mình phạm tội Bất Cộng Trụ, không thú nhận. Như vậy ở đây, điều mà người thấy đã thấy, thì phù hợp với lời nói này của người ấy về việc đã thấy là: “Tôi đã thấy”. Nhưng vì vị kia (bị cáo buộc), dựa vào việc bị thấy đó, không thú nhận tội lỗi, nên bị nghi ngờ là không thanh tịnh; (Chú giải) muốn nói rằng sự nghi ngờ (dựa trên việc thấy đơn thuần này) là không có căn cứ (vững chắc để kết tội Bất Cộng Trụ). Đối với vị Tỳ khưu đó, nếu vị ấy tuyên bố “Tôi thanh tịnh”, thì nên làm lễ Bố-tát cùng với vị ấy. Đối với hai câu kệ còn lại, cách giải thích cũng tương tự. Phần còn lại ở các đoạn khác đều rõ ràng.
Anuvijjakakiccavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải Thích về Bổn Phận Của Vị Tra Xét được chấm dứt.
Codakapucchāvissajjanāvaṇṇanā
Giải Thích về Phần Hỏi Đáp Liên Quan Đến Người Khiển Trách
362-363.Codanāyako ādītiādipucchānaṃ vissajjane sacce ca akuppe cāti sacce patiṭṭhātabbaṃ akuppe ca. Yaṃ kataṃ vā na kataṃ vā, tadeva vattabbaṃ, na ca codake vā anuvijjake vā saṅghe vā kopo uppādetabbo. Otiṇṇānotiṇṇaṃ jānitabbanti otiṇṇañca anotiṇṇañca vacanaṃ jānitabbaṃ. Tatrāyaṃ jānanavidhi – ettakā codakassa pubbakathā, ettakā pacchimakathā, ettakā cuditakassa pubbakathā, ettakā pacchimakathāti jānitabbā . Codakassa pamāṇaṃ gaṇhitabbaṃ, cuditakassa pamāṇaṃ gaṇhitabbaṃ, anuvijjakassa pamāṇaṃ gaṇhitabbaṃ, anuvijjako appamattakampi ahāpento ‘‘āvuso samannāharitvā ujuṃ katvā āharā’’ti vattabbo, saṅghena evaṃ paṭipajjitabbaṃ. Yena dhammena yena vinayena yena satthusāsanena taṃ adhikaraṇaṃ vūpasammatīti ettha dhammoti bhūtaṃ vatthu. Vinayoti codanā ceva sāraṇā ca. Satthusāsananti ñattisampadā ceva anussāvanasampadā ca. Etena hi dhammena ca vinayena ca satthusāsanena ca adhikaraṇaṃ vūpasamati, tasmā anuvijjakena bhūtena vatthunā codetvā āpattiṃ sāretvā ñattisampadāya ceva anussāvanasampadāya ca taṃ adhikaraṇaṃ vūpasametabbaṃ, anuvijjakena evaṃ paṭipajjitabbaṃ. Sesamettha uttānameva.
362-363. Trong phần giải đáp các câu hỏi bắt đầu bằng (cụm từ) “Người cáo buộc là khởi đầu” v.v…, (đối với cụm từ) “trên sự thật và trên sự không tức giận“, (nghĩa là) nên đứng vững trên sự thật và không tức giận. Điều gì đã làm hoặc chưa làm, chỉ nên nói điều đó thôi, và không nên khởi tâm tức giận đối với người cáo buộc, hoặc người thẩm xét, hoặc Tăng chúng. (Đối với cụm từ) “điều đã rõ ràng và chưa rõ ràng cần được biết“, (nghĩa là) cần phải biết lời nói nào đã rõ ràng và lời nói nào chưa. Trong đó, phương pháp để biết là như vầy – Cần phải biết rằng: “Lời nói trước của người cáo buộc là chừng ấy, lời nói sau là chừng ấy; lời nói trước của người bị cáo buộc là chừng ấy, lời nói sau là chừng ấy”. Cần nắm vững phạm vi (lời nói/vai trò) của người cáo buộc, cần nắm vững phạm vi của người bị cáo buộc, cần nắm vững phạm vi của người thẩm xét; người thẩm xét không bỏ sót dù chỉ một chút nhỏ, nên nói rằng: “Này hiền giả, hãy xem xét kỹ lưỡng, trình bày lại cho thẳng thắn rõ ràng”; Tăng chúng nên thực hành như vậy. Ở đây, (trong cụm từ) “Sự tranh tụng ấy được dàn xếp bởi Pháp nào, bởi Luật nào, bởi Lời dạy nào của Bậc Đạo Sư“, “Pháp” nghĩa là sự việc có thật. “Luật” nghĩa là sự cáo buộc và sự nhắc nhở. “Lời dạy của Bậc Đạo Sư” nghĩa là sự thành tựu của Tuyên ngôn (Yết-ma) và sự thành tựu của Tuyên đọc (lặp lại lời Yết-ma). Bởi vì sự tranh tụng được dàn xếp chính là nhờ Pháp, Luật và Lời dạy của Bậc Đạo Sư này, do đó, người thẩm xét nên dàn xếp sự tranh tụng ấy bằng cách cáo buộc dựa trên sự việc có thật, nhắc nhở về tội (nếu có), và (tiến hành) bằng sự thành tựu của Tuyên ngôn (Yết-ma) và sự thành tựu của Tuyên đọc. Người thẩm xét nên thực hành như vậy. Phần còn lại ở đây đều rõ ràng.
364.Uposatho kimatthāyātiādipucchāvissajjanampi uttānameva. Avasānagāthāsu there ca paribhāsatīti avamaññaṃ karonto ‘‘kiṃ ime jānantī’’ti paribhāsati. Khato upahatindriyoti tāya chandādigāmitāya tena ca paribhāsanena attanā attano khatattā khato. Saddhādīnañca indriyānaṃ upahatattā upahatindriyo. Nirayaṃ gacchati dummedho, na ca sikkhāya gāravoti so khato upahatindriyo paññāya abhāvato dummedho tīsu sikkhāsu asikkhanato na ca sikkhāya gāravo kāyassa bhedā nirayameva upagacchati, tasmā na ca āmisaṃ nissāya…pe… yathā dhammo tathā kareti. Tassattho na ca āmisaṃ nissāya kare, cuditakacodakesu hi aññatarena dinnaṃ cīvarādiāmisaṃ gaṇhanto āmisaṃ nissāya karoti, evaṃ na kareyya. Na ca nissāya puggalanti ‘‘ayaṃ me upajjhāyo vā ācariyo vā’’tiādinā nayena chandādīhi gacchanto puggalaṃ nissāya karoti, evaṃ na kareyya. Atha kho ubhopete vivajjetvā yathā dhammo ṭhito, tatheva kareyyāti.
364.Phần trả lời câu hỏi bắt đầu bằng ‘Lễ bố-tát có mục đích gì?’ v.v… cũng rõ ràng. Trong các câu kệ kết thúc, ‘và lăng mạ các vị trưởng lão’ nghĩa là, trong khi tỏ ra khinh thường, lăng mạ rằng: “Những vị này biết gì chứ?”. ‘Bị tổn thương, các căn bị hư hoại’: ‘bị tổn thương’ là do tự mình làm tổn thương chính mình bằng việc đi theo thiên vị v.v… đó và bằng sự lăng mạ đó. Và ‘các căn bị hư hoại’ là do các căn như tín v.v… bị hư hoại. ‘Kẻ trí tuệ thấp kém đi đến địa ngục, và không kính trọng sự học hỏi’: Vị ấy, người bị tổn thương, các căn bị hư hoại, là kẻ trí tuệ thấp kém do thiếu trí tuệ, và không kính trọng sự học hỏi do không thực hành ba học xứ, sau khi thân hoại mạng chung, đi đến chính địa ngục. Do đó, ‘không nên dựa vào lợi dưỡng… (cho đến)… như thế nào là Pháp, nên làm như thế ấy’. Ý nghĩa của câu đó là: không nên làm (việc xử kiện) dựa vào lợi dưỡng. Thật vậy, người nhận lợi dưỡng như y phục v.v… được cho bởi một trong hai bên (người bị khiển trách hoặc người khiển trách) là làm việc dựa vào lợi dưỡng; không nên làm như vậy. ‘Và không nên dựa vào cá nhân’ nghĩa là người đi theo thiên vị v.v… theo cách như “vị này là thầy tế độ của tôi” hoặc “vị này là thầy dạy của tôi” v.v… là làm việc dựa vào cá nhân; không nên làm như vậy. Trái lại, sau khi từ bỏ cả hai điều ấy, nên làm đúng như Pháp đã được xác lập.
Upakaṇṇakaṃ jappatīti ‘‘evaṃ kathehi, mā evaṃ kathayitthā’’ti kaṇṇamūle manteti. Jimhaṃ pekkhatīti dosameva gavesati. Vītiharatīti vinicchayaṃ hāpeti. Kummaggaṃ paṭisevatīti āpattiṃ dīpeti.
‘Nói thầm vào tai’ nghĩa là bàn bạc nhỏ ở gốc tai rằng “hãy nói như vầy, đừng nói như thế kia”. ‘Nhìn một cách quanh co’ nghĩa là chỉ tìm kiếm lỗi lầm. ‘Mang đi chỗ khác’ nghĩa là làm hỏng việc xét xử. ‘Thực hành theo đường lối sai lầm’ nghĩa là chỉ ra (sai) tội phạm.
Akālena ca codetīti anokāse anajjhiṭṭhova codeti. Pubbāparaṃ na jānātīti purimakathañca pacchimakathañca na jānāti.
‘Và khiển trách phi thời’ nghĩa là khiển trách không đúng lúc, không được yêu cầu. ‘Không biết trước sau’ nghĩa là không biết lời nói trước và lời nói sau.
Anusandhivacanapathaṃna jānātīti kathānusandhivinicchayānusandhivasena vacanaṃ na jānāti. Sesaṃ sabbattha uttānamevāti.
‘Không biết đường lối lời nói có sự liên kết’ nghĩa là không biết lời nói theo cách liên kết câu chuyện và liên kết sự xét xử. Phần còn lại ở mọi nơi đều rõ ràng.
Codanākaṇḍavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải Thích Phẩm Về Sự Khiển Trách được chấm dứt.