Mục lục
- 3. Vassūpanāyikakkhandhakaṃ
- 3. Chương về Việc An Cư Mùa Mưa
- Vassūpanāyikānujānanakathā
- Câu chuyện về việc cho phép An Cư Mùa Mưa
- Vassānecārikāpaṭikkhepādikathā
- Câu chuyện về việc ngăn chặn đi lại trong mùa mưa v.v.
- Sattāhakaraṇīyānujānanakathā
- Câu chuyện về việc cho phép đi có công việc trong bảy ngày
- Pañcannaṃappahitepianujānanakathā
- Câu chuyện về việc cho phép đi không cần phái đi đối với năm hạng người
- Pahiteyevaanujānanakathā
- Câu chuyện về việc chỉ cho phép đi khi được phái đi
- Antarāyeanāpattivassacchedakathā
- Câu chuyện về việc không phạm tội và gián đoạn an cư khi có trở ngại
- Saṅghabhedeanāpattivassacchedakathā
- Câu chuyện về việc không phạm tội và gián đoạn an cư khi Tăng bị chia rẽ
- Vajādīsuvassūpagamanakathā
- Câu chuyện về việc nhập hạ tại trại mục súc v.v.
- Adhammikakatikādikathā
- Câu chuyện về giao ước phi pháp v.v.
3. Vassūpanāyikakkhandhakaṃ
3. Chương về Việc An Cư Mùa Mưa
Vassūpanāyikānujānanakathā
Câu chuyện về việc cho phép An Cư Mùa Mưa
184. Vassūpanāyikakkhandhake – apaññattoti ananuññāto asaṃvihito vā. Te idha bhikkhūti te bhikkhū, idhasaddo nipātamatto. Saṅghātaṃ āpādentāti vināsaṃ āpādentā. Saṅkasāyissantīti appossukkā nibaddhavāsaṃ vasissanti. Sakuntakāti sakuṇā. Vassāne vassaṃ upagantunti vassānanāmake temāse vassaṃ upagantabbanti attho. Kati nu kho vassūpanāyikāti kati nu kho vassūpagamanāni. Aparajjugatāyāti ettha aparajjugatāya assāti aparajjugatā, tassā aparajjugatāya; atikkantāya aparasmiṃ divaseti attho. Dutiyanayepi māso gatāya assāti māsagatā, tassā māsagatāya; atikkantāya māse paripuṇṇeti attho. Tasmā āsāḷhīpuṇṇamāya anantare pāṭipadadivase, āsāḷhīpuṇṇamito vā aparāya puṇṇamāya anantare pāṭipadadivaseyeva vihāraṃ paṭijaggitvā pānīyaṃ paribhojanīyaṃ upaṭṭhapetvā sabbaṃ cetiyavandanādisāmīcikammaṃ niṭṭhāpetvā ‘‘imasmiṃ vihāre imaṃ temāsaṃ vassaṃ upemī’’ti sakiṃ vā dvattikkhattuṃ vā vācaṃ nicchāretvā vassaṃ upagantabbaṃ.
184. Trong Phẩm An Cư Mùa Mưa – từ chưa được quy định có nghĩa là chưa được cho phép hoặc chưa được sắp đặt. Cụm từ các vị tỳ khưu ấy ở đây có nghĩa là các vị tỳ khưu ấy, từ ở đây chỉ là một tiểu từ. Cụm từ gây ra sự va chạm/tổn hại có nghĩa là gây ra sự hủy hoại. Cụm từ sẽ bị ô uế/trở nên uể oải có nghĩa là sẽ sống đời sống thường xuyên tại một nơi với sự ít hăng hái hoặc thiếu nhiệt tâm. Từ sakuntakā có nghĩa là các loài chim. Cụm từ vào mùa mưa để an cư mùa mưa có nghĩa là: vào ba tháng được gọi là mùa mưa để thực hiện việc an cư mùa mưa. Câu hỏi Có bao nhiêu cách an cư mùa mưa? có nghĩa là có bao nhiêu thời điểm nhập hạ? Về từ aparajjugatāyā: ở đây, ngày rằm đã trôi qua vào ngày hôm sau của nó nên gọi là aparajjugatā, vào ngày aparajjugatāya ấy; có nghĩa là vào ngày kế tiếp sau khi ngày rằm đã trôi qua. Theo cách thứ hai cũng vậy: tháng đã trôi qua của nó nên gọi là māsagatā, vào ngày māsagatāya ấy; có nghĩa là vào ngày khi tháng đã trôi qua trọn vẹn. Do đó, vào ngày mùng một liền sau ngày rằm tháng Āsāḷhī, hoặc vào ngày mùng một liền sau ngày rằm kế tiếp tính từ ngày rằm tháng Āsāḷhī, sau khi đã sửa sang trú xứ, chuẩn bị sẵn nước uống nước dùng, hoàn tất tất cả phận sự hợp lẽ như đảnh lễ bảo tháp v.v., nên nhập hạ bằng cách phát lời nói ra một lần hoặc hai ba lần rằng: “Tôi an cư mùa mưa ba tháng này tại trú xứ này.”
Vācaṃ nicchāretvā vassaṃ upagantabbaṃ.
Nên nhập hạ sau khi phát lời nói ra.
Vassānecārikāpaṭikkhepādikathā
Câu chuyện về việc ngăn chặn đi lại trong mùa mưa v.v.
185-6.Yo pakkameyyāti ettha anapekkhagamanena vā aññattha aruṇaṃ uṭṭhāpanena vā āpatti veditabbā. Yo atikkameyyāti ettha vihāragaṇanāya āpattiyo veditabbā. Sace hi taṃ divasaṃ vihārasatassa upacāraṃ okkamitvā atikkamati, sataṃ āpattiyo. Sace pana vihārūpacāraṃ atikkamitvā aññassa vihārassa upacāraṃ anokkamitvāva nivattati, ekā eva āpatti. Kenaci antarāyena purimikaṃ anupagatena pacchimikā upagantabbā.
185-6. Về câu vị nào ra đi: ở đây, nên biết là có tội do việc ra đi không đoái hoài hoặc do việc làm cho rạng đông ló dạng ở nơi khác. Về câu vị nào vượt qua: ở đây, nên biết số lượng tội phạm tùy theo sự đếm số trú xứ. Bởi vì, nếu vào ngày đó, vị ấy đi vào và vượt qua phạm vi của một trăm trú xứ, thì có một trăm tội. Nhưng nếu, sau khi vượt qua phạm vi trú xứ hiện tại mà quay về, không đi vào phạm vi của trú xứ khác, thì chỉ có một tội mà thôi. Do có trở ngại nào đó, vị chưa nhập tiền an cư thì nên nhập hậu an cư.
Vassaṃukkaḍḍhitukāmoti vassanāmakaṃ paṭhamamāsaṃ ukkaḍḍhitukāmo, sāvaṇamāsaṃ akatvā puna āsāḷhīmāsameva kattukāmoti attho. Āgame juṇheti āgame māseti attho. Anujānāmi bhikkhave rājūnaṃ anuvattitunti ettha vassukkaḍḍhane bhikkhūnaṃ kāci parihāni nāma natthīti anuvattituṃ anuññātaṃ, tasmā aññasmimpi dhammike kamme anuvattitabbaṃ. Adhammike pana na kassaci anuvattitabbaṃ.
Cụm từ muốn dời ngày an cư có nghĩa là muốn dời việc nhập tháng đầu tiên gọi là tháng an cư; nghĩa là trong trường hợp vua dời lịch, không tính tháng Sāvaṇa theo lịch thông thường mà lại muốn tính chính tháng Āsāḷhī theo lịch đã được vua điều chỉnh. Cụm từ Āgame juṇhe có nghĩa là vào thượng tuần của tháng tới. Về câu Này các Tỳ khưu, Ta cho phép thuận theo các vị vua: ở đây, trong việc dời ngày an cư, vì không có sự tổn giảm nào cho các Tỳ khưu nên việc thuận theo được cho phép; do đó, trong công việc hợp pháp khác cũng nên thuận theo. Nhưng trong việc không hợp pháp thì không nên thuận theo bất cứ ai.
Sattāhakaraṇīyānujānanakathā
Câu chuyện về việc cho phép đi có công việc trong bảy ngày
187-8. Sattāhakaraṇīyesu – sattāhakaraṇīyena gantunti sattāhabbhantare yaṃ kattabbaṃ taṃ sattāhakaraṇīyaṃ, tena sattāhakaraṇīyena karaṇabhūtena gantuṃ anujānāmīti attho. Pahite gantunti imehi sattahi bhikkhuādīhi dūte pahiteyeva gantuṃ anujānāmīti attho. Sattāhaṃ sannivatto kātabboti sattāheyeva sannivattitabbo, aṭṭhamo aruṇo tattheva na uṭṭhāpetabboti attho.
187-8. Trong các công việc bảy ngày – câu đi vì công việc bảy ngày có nghĩa là: việc nào phải làm trong vòng bảy ngày, đó là công việc bảy ngày; Đức Phật cho phép đi với công việc bảy ngày đó làm lý do. Câu đi khi được phái đi có nghĩa là: Đức Phật cho phép đi chỉ khi được phái đi bởi sứ giả là một trong bảy hạng người này: Tỳ khưu, v.v. Câu phải quay về trong bảy ngày có nghĩa là: phải quay về trong chính bảy ngày, không được để rạng đông ngày thứ tám ló dạng tại nơi đó.
Bhikkhunisaṅghaṃ uddissāti ito paṭṭhāya vaccakuṭi jantāgharaṃ jantāgharasālāti imāni tīṇi parihīnāni.
Cụm từ nhắm đến Tỳ khưu Ni Tăng: kể từ đây trong danh sách các lý do, ba mục này: nhà vệ sinh, nhà tắm hơi, sảnh nhà tắm hơi, khi chúng bị hư hỏng là lý do được phép đi bảy ngày.
189.Udositādīni udositasikkhāpadādīsu vuttāneva. Rasavatīti bhattagehaṃ vuccati. Vāreyyaṃ sañcarittasikkhāpade vuttameva. Purāyaṃ suttanto palujjatīti yāva ayaṃ suttanto na palujjati, yāva ayaṃ suttanto na vinassati. Aññataraṃ vā panassa kiccaṃ hoti karaṇīyaṃ vāti etena parisaṅkhataṃ yaṃkiñci karaṇīyaṃ saṅgahitaṃ hoti. Sabbattha ca ‘‘icchāmi dānañca dātuṃ dhammañca sotuṃ bhikkhū ca passitu’’nti imināva kappiyavacanena pesite gantabbaṃ, etesaṃ vā vevacanena. Peyyālakkamo pana evaṃ veditabbo, yathā ‘‘upāsakena saṅghaṃ uddissa vihārādayo kārāpitā honti, sambahule bhikkhū uddissa, ekaṃ bhikkhuṃ uddissa, bhikkhunisaṅghaṃ uddissa, sambahulā bhikkhuniyo, ekaṃ bhikkhuniṃ, sambahulā sikkhamānāyo, ekaṃ sikkhamānaṃ, sambahule sāmaṇere, ekaṃ sāmaṇeraṃ, sambahulā sāmaṇeriyo, ekaṃ sāmaṇeriṃ uddissa attano atthāya nivesanaṃ kārāpitaṃ hotī’’ti vuttaṃ; evameva ‘‘upāsikāya, bhikkhunā, bhikkhuniyā, sikkhamānāya, sāmaṇerena, sāmaṇeriyā saṅghaṃ uddissā’’ti sabbaṃ vattabbaṃ. Etesu sattappakāresu karaṇīyesu pahite gantabbaṃ.
189. Các trường hợp Udosita, v.v. chính là những điều đã được nói trong các học giới Udosita, v.v. Từ Rasavatī được gọi là nhà ăn. Việc Vāreyyaṃ chính là điều đã được nói trong học giới về môi giới (Sañcaritta). Cụm từ miễn là bản kinh này chưa bị hư hoại có nghĩa là chừng nào bản kinh này chưa bị hư hoại, chừng nào bản kinh này chưa bị biến mất. Cụm từ hoặc là có công việc hay phận sự nào khác của vị ấy: bởi câu này, bất kỳ công việc chính đáng nào khác không được liệt kê cụ thể cũng được bao gồm. Và trong mọi trường hợp, khi được phái đi, nên đi với lời nói thích hợp này: “Tôi muốn cúng dường, muốn nghe Pháp, và muốn thăm các Tỳ khưu,” hoặc bằng từ đồng nghĩa của những điều này. Còn cách thức tỉnh lược (dấu …) nên được hiểu như sau: giống như đã nói “(công việc xảy ra khi) do người cận sự nam cho xây dựng trú xứ, v.v. nhắm đến Tăng chúng, nhắm đến nhiều vị Tỳ khưu, nhắm đến một vị Tỳ khưu, nhắm đến Tỳ khưu Ni Tăng, (nhắm đến) nhiều vị Tỳ khưu Ni, một vị Tỳ khưu Ni, nhiều vị Học Nữ, một vị Học Nữ, nhiều vị Sa Di, một vị Sa Di, nhiều vị Sa Di Ni, nhắm đến một vị Sa Di Ni; hoặc đã cho xây dựng nơi ở vì lợi ích của mình;” cũng tương tự như vậy, tất cả nên được nói áp dụng cho trường hợp “do người cận sự nữ, do vị Tỳ khưu, do vị Tỳ khưu Ni, do vị Học Nữ, do vị Sa Di, do vị Sa Di Ni (cho xây dựng) nhắm đến Tăng chúng,…”. Trong bảy loại công việc này, nên đi khi được phái đi.
Pañcannaṃappahitepianujānanakathā
Câu chuyện về việc cho phép đi không cần phái đi đối với năm hạng người
193.Pañcannaṃsattāhakaraṇīyenāti etesaṃ bhikkhuādīnaṃ sahadhammikānaṃ ‘‘gilānabhattaṃ vā gilānupaṭṭhākabhattaṃ vā bhesajjaṃ vā pariyesissāmi , pucchissāmi vā, upaṭṭhahissāmi vā’’ti evamādinā parato vitthāretvā dassitena kāraṇena appahitepi gantabbaṃ, pageva pahite. Bhikkhu gilāno hoti, anabhirati uppannā hoti, kukkuccaṃ uppannaṃ hoti, diṭṭhigataṃ uppannaṃ hoti, garudhammaṃ ajjhāpanno hoti parivāsāraho, mūlāya paṭikassanāraho hoti, mānattāraho, abbhānāraho, saṅgho kammaṃ kattukāmo hoti, kataṃ vā saṅghena kammaṃ hotīti etehi dasahi kāraṇehi bhikkhussa santikaṃ gantabbaṃ. Bhikkhuniyā santikaṃ navahi kāraṇehi gantabbaṃ, sikkhamānāya santikaṃ chahi – ādito catūhi, sikkhā kuppitā hoti, upasampajjitukāmā hotīti. Sāmaṇerassāpi chahi – ādito catūhi, vassaṃ pucchitukāmo upasampajjitukāmo hotīti. Sāmaṇeriyā upasampadaṃ apanetvā sikkhāpadaṃ dātukāmo hotīti iminā saddhiṃ pañcahi. Parato mātāpitūnaṃ anuññātaṭṭhānepi eseva nayo. Andhakaṭṭhakathāyaṃ pana ‘‘ye mātāpitūnaṃ upaṭṭhākā ñātakā vā aññātakā vā tesampi appahite gantuṃ vaṭṭatī’’ti vuttaṃ, taṃ neva aṭṭhakathāyaṃ, na pāḷiyā vuttaṃ, tasmā na gahetabbaṃ.
193. Về công việc bảy ngày của năm hạng người: đối với những vị đồng pháp này là Tỳ khưu v.v., nên đi dù không được phái đi với lý do được trình bày chi tiết sau đây: “Tôi sẽ tìm kiếm vật thực cho người bệnh, hoặc vật thực cho người chăm sóc bệnh, hoặc dược phẩm; hoặc tôi sẽ hỏi thăm; hoặc tôi sẽ chăm sóc”, huống nữa là khi được phái đi. (Trường hợp) Tỳ khưu bị bệnh, hoặc sự chán nản sanh khởi, hoặc sự hối tiếc sanh khởi, hoặc tà kiến sanh khởi, hoặc đã phạm tội nặng đáng chịu biệt trú, hoặc đáng bị phạt hạ bậc về lại từ đầu, hoặc đáng chịu hành phạt, hoặc đáng được phục hồi; hoặc Tăng chúng muốn thực hiện nghiệp sự, hoặc Tăng chúng đã thực hiện nghiệp sự xong – với mười lý do này, nên đi đến chỗ vị Tỳ khưu. Nên đi đến chỗ vị Tỳ khưu Ni với chín lý do. Nên đi đến chỗ vị Học Nữ với sáu lý do – bốn lý do đầu, (thêm) học giới bị vi phạm, và muốn thọ Cụ túc giới. Đối với vị Sa Di cũng có sáu lý do – bốn lý do đầu, (thêm) muốn hỏi về tuổi hạ, và muốn thọ Cụ túc giới. Đối với vị Sa Di Ni, ngoại trừ việc thọ Cụ Túc giới, (thêm) muốn trao học giới, cùng với (bốn lý do đầu) là năm lý do. Về sau, trong trường hợp được phép (đi thăm) cha mẹ cũng theo cách này. Tuy nhiên, trong Chú giải Andhaka có nói rằng: “Đối với những người chăm sóc cha mẹ, dù là bà con hay không phải bà con, cũng được phép đi dù không được phái đi”, điều đó không được nói đến trong Chú giải (chính) hay trong Pāḷi, do đó không nên chấp nhận.
Pahiteyevaanujānanakathā
Câu chuyện về việc chỉ cho phép đi khi được phái đi
199.Bhikkhugatikoti ekasmiṃ vihāre bhikkhūhi saddhiṃ vasanakapuriso. Undriyatīti palujjati. Bhaṇḍaṃ chedāpitanti dabbasambhārabhaṇḍaṃ chedāpitaṃ. Āvahāpeyyunti āharāpeyyuṃ. Dajjāhanti dajje ahaṃ. Saṅghakaraṇīyenāti ettha yaṃkiñci uposathāgārādīsu senāsanesu cetiyachattavedikādīsu vā kattabbaṃ, antamaso bhikkhuno puggalikasenāsanampi, sabbaṃ saṅghakaraṇīyameva. Tasmā tassa nipphādanatthaṃ dabbasambhārādīni vā āharituṃ vaḍḍhakīppabhutīnaṃ bhattavetanādīni vā dāpetuṃ gantabbaṃ.
199. Người sống cùng các Tỳ khưu. Bị hư hoại/mục nát. Vật liệu bị hư hao/thiếu hụt. Họ nên mang đến/vận chuyển đến. Tôi sẽ cho/cúng dường. Về công việc của Tăng chúng: ở đây, bất cứ việc gì phải làm trong các sàng tọa tại nhà bố-tát v.v., hoặc trong các đài thờ, lọng che tháp v.v., thậm chí cả sàng tọa cá nhân của Tỳ khưu, tất cả đều là công việc của Tăng chúng. Do đó, nên đi để hoàn thành việc đó, hoặc để mang đến vật liệu, vật tư v.v., hoặc để cấp phát vật thực, tiền công v.v. cho thợ mộc và những người khác.
Ayaṃ panettha pāḷimuttakaratticchedavinicchayo – dhammasavanatthāya animantitena gantuṃ na vaṭṭati. Sace ekasmiṃ mahāvāse paṭhamaṃyeva katikā katā hoti – ‘‘asukadivasaṃ nāma sannipatitabba’’nti , nimantitoyeva nāma hoti, gantuṃ vaṭṭati. ‘‘Bhaṇḍakaṃ dhovissāmī’’ti gantuṃ na vaṭṭati. Sace pana ācariyupajjhāyā pahiṇanti, vaṭṭati. Nātidūre vihāro hoti, tattha gantvā ajjeva āgamissāmīti sampāpuṇituṃ na sakkoti, vaṭṭati. Uddesaparipucchādīnaṃ atthāyapi gantuṃ na vaṭṭati. ‘‘Ācariyaṃ passissāmī’’ti pana gantuṃ labhati. Sace pana naṃ ācariyo ‘‘ajja mā gacchā’’ti vadati, vaṭṭati. Upaṭṭhākakulaṃ vā ñātikulaṃ vā dassanāya gantuṃ na labhatīti.
Đây là sự quyết định về việc gián đoạn đêm (an cư) không có trong Pāḷi (tức là theo Chú giải): không được phép đi vì mục đích nghe Pháp khi không được mời. Nếu trong một trú xứ lớn, giao ước đã được lập từ trước rằng: “Phải tụ họp vào ngày kia”, thì vị ấy thực sự là đã được mời, được phép đi. Không được phép đi với lý do: “Tôi sẽ giặt y/vật dụng”. Nhưng nếu được thầy tổ phái đi thì được phép. (Nếu) trú xứ không quá xa, (vị ấy nghĩ rằng) “tôi sẽ về ngay trong hôm nay” nhưng không thể về kịp, thì được phép. Ngay cả vì mục đích học thuộc lòng, hỏi nghĩa v.v. cũng không được phép đi. Nhưng được phép đi với lý do: “Tôi sẽ thăm thầy”. Tuy nhiên, nếu vị thầy nói: “Hôm nay đừng đi”, thì (việc không đi đó) được phép. Không được phép đi để thăm viếng gia đình thí chủ hay gia đình bà con.
Antarāyeanāpattivassacchedakathā
Câu chuyện về việc không phạm tội và gián đoạn an cư khi có trở ngại
201.Yena gāmo tena gantuntiādīsu sace gāmo avidūraṃ gato hoti, tattha piṇḍāya caritvā vihārameva āgantvā vasitabbaṃ. Sace dūraṃ gato, sattāhavārena aruṇo uṭṭhāpetabbo. Na sakkā ce hoti, tatreva sabhāgaṭṭhāne vasitabbaṃ. Sace manussā yathāpavattāni salākabhattādīni denti, ‘‘na mayaṃ tasmiṃ vihāre vasimhā’’ti vattabbā. ‘‘Mayaṃ vihārassa vā pāsādassa vā na dema, tumhākaṃ dema, yattha katthaci vasitvā bhuñjathā’’ti vutte pana yathāsukhaṃ bhuñjitabbaṃ, tesaṃyeva taṃ pāpuṇāti. ‘‘Tumhākaṃ vasanaṭṭhāne pāpuṇāpetvā bhuñjathā’’ti vutte pana yattha vasanti, tattha netvā vassaggena pāpuṇāpetvā bhuñjitabbaṃ.
201. Về đi về hướng làng đã di dời v.v.: nếu làng đã di dời không xa, nên đi khất thực ở đó rồi trở về chính trú xứ để ở. Nếu làng đã đi xa, phải làm rạng đông ló dạng (ở đó) trong giới hạn bảy ngày. Nếu không thể được, nên ở tại chính nơi thích hợp đó. Nếu dân chúng cúng dường vật thực rút thăm v.v. như thường lệ, phải nói rằng: “Chúng tôi không ở tại trú xứ đó”. Nếu họ nói: “Chúng tôi không cúng cho trú xứ hay lâu đài, chúng tôi cúng cho quý vị; quý vị ở đâu cũng được, hãy thọ dụng”, thì nên thọ dụng tùy ý, vật cúng đó thuộc về chính các vị Tỳ khưu. Nếu họ nói: “Hãy mang đến chỗ ở của quý vị rồi hãy thọ dụng”, thì nên mang đến nơi mình đang ở, phân chia theo hạ lạp rồi thọ dụng.
Sace pavāritakāle vassāvāsikaṃ denti, yadi sattāhavārena aruṇaṃ uṭṭhāpayiṃsu, gahetabbaṃ. Chinnavassehi pana ‘‘na mayaṃ tattha vasimha, chinnavassā maya’’nti vattabbaṃ. Yadi ‘‘yesaṃ amhākaṃ senāsanaṃ pāpitaṃ, te gaṇhantū’’ti vadanti, gahetabbaṃ. Yaṃ pana vihāre upanikkhittakaṃ mā vinassīti idha āhaṭaṃ cīvarādivebhaṅgiyabhaṇḍaṃ, taṃ tattheva gantvā apaloketvā bhājetabbaṃ. ‘‘Ito ayyānaṃ cattāro paccaye dethā’’ti kappiyakārakānaṃ dinne khettavatthuādike tatruppādepi eseva nayo. Saṅghikañhi vebhaṅgiyabhaṇḍaṃ antovihāre vā bahisīmāya vā hotu, bahisīmāya ṭhitānaṃ apaloketvā bhājetuṃ na vaṭṭati. Ubhayattha ṭhitampi pana antosīmāya ṭhitānaṃ apaloketvā bhājetuṃ vaṭṭatiyeva.
Nếu vào lúc tự tứ, họ cúng dường vật dụng an cư mùa mưa, nếu (các vị Tỳ khưu) đã làm rạng đông ló dạng (ở ngoài trú xứ) trong giới hạn bảy ngày, thì nên nhận lấy. Nhưng những vị bị gián đoạn an cư phải nói rằng: “Chúng tôi không ở đó, chúng tôi bị gián đoạn an cư”. Nếu (thí chủ) nói: “Những ai mà sàng tọa của chúng tôi được cấp đến, họ hãy nhận lấy”, thì nên nhận lấy. Còn những y phục và các vật dụng có thể phân chia khác được gửi giữ tại trú xứ, được mang đến đây để không bị hư hoại, thì nên đến chính nơi đó, thông báo rồi phân chia. Đối với ruộng đất v.v. đã được cho những người phục vụ (với lời dặn): “Từ đây, hãy cúng bốn món vật dụng đến các ngài”, và đối với các hoa lợi sanh ra từ đó cũng theo cách này. Vì vật dụng của Tăng có thể phân chia, dù ở trong trú xứ hay ngoài giới trường, không được phép thông báo và phân chia cho những vị đang ở ngoài giới trường. Nhưng vật dụng ở cả hai nơi thì được phép thông báo và phân chia cho những vị đang ở trong giới trường.
Saṅghabhedeanāpattivassacchedakathā
Câu chuyện về việc không phạm tội và gián đoạn an cư khi Tăng bị chia rẽ
202.Saṅghobhinnoti ettha bhinne saṅghe gantvā karaṇīyaṃ natthi, yo pana ‘‘bhijjissatī’’ti āsaṅkito, taṃ sandhāya ‘‘bhinno’’ti vuttaṃ. Sambahulāhi bhikkhunīhi saṅgho bhinnoti ettha na bhikkhunīhi saṅgho bhinnoti daṭṭhabbo. Vuttañhetaṃ ‘‘na kho upāli bhikkhunī saṅghaṃ bhindatī’’ti. Etā pana nissāya anubalaṃ katvā yaṃ saṅghaṃ ‘‘bhikkhū bhindeyyu’’nti āsaṅkā hoti, taṃ sandhāyetaṃ vuttaṃ.
202. Về Tăng bị chia rẽ: ở đây, khi Tăng đã bị chia rẽ thì không có việc gì phải làm (liên quan đến việc đi); nhưng (từ) bị chia rẽ được nói ra nhắm đến trường hợp Tăng bị nghi ngờ rằng “sẽ bị chia rẽ”. Về Tăng bị chia rẽ bởi nhiều Tỳ khưu Ni: ở đây, nên hiểu rằng Tăng không bị chia rẽ bởi Tỳ khưu Ni. Điều này đã được nói: “Này Upāli, Tỳ khưu Ni không làm Tăng chia rẽ”. Nhưng điều này được nói ra nhắm đến trường hợp có sự nghi ngờ rằng các Tỳ khưu, dựa vào các vị Ni này và lấy đó làm trợ lực, sẽ chia rẽ Tăng chúng đó.
Vajādīsuvassūpagamanakathā
Câu chuyện về việc nhập hạ tại trại mục súc v.v.
203.Vajoti gopālakānaṃ nivāsaṭṭhānaṃ. Yena vajoti ettha vajena saddhiṃ gatassa vassacchede anāpatti.
203. Trại mục súc là nơi ở của những người chăn bò. Về về hướng trại mục súc: ở đây, đối với vị đã đi cùng trại mục súc, không phạm tội khi bị gián đoạn an cư.
Upakaṭṭhāyāti āsannāya. Satthe vassaṃ upagantunti ettha vassūpanāyikadivase tena bhikkhunā upāsakā vattabbā ‘‘kuṭikā laddhuṃ vaṭṭatī’’ti. Sace karitvā denti, tattha pavisitvā ‘‘idha vassaṃ upemī’’ti tikkhattuṃ vattabbaṃ. No ce denti, sālāsaṅkhepena ṭhitasakaṭassa heṭṭhā upagantabbaṃ. Tampi alabhantena ālayo kātabbo. Satthe pana vassaṃ upagantuṃ na vaṭṭati. Ālayo nāma ‘‘idha vassaṃ vasissāmī’’ti cittuppādamattaṃ. Sace maggappaṭipanneyeva satthe pavāraṇadivaso hoti, tattheva pavāretabbaṃ. Atha sattho antovasseyeva bhikkhunā patthitaṭṭhānaṃ patvā atikkamati, patthitaṭṭhāne vasitvā tattha bhikkhūhi saddhiṃ pavāretabbaṃ. Athāpi sattho antovasseyeva antarā ekasmiṃ gāme tiṭṭhati vā vippakirati vā, tasmiṃyeva gāme bhikkhūhi saddhiṃ vasitvā pavāretabbaṃ, apavāretvā tato paraṃ gantuṃ na vaṭṭati.
Gần. Về nhập hạ trong đoàn lữ hành: ở đây, vào ngày nhập hạ, vị Tỳ khưu đó nên nói với các cận sự nam: “Có thể kiếm được một cái am không?” Nếu họ làm và cúng dường, sau khi vào đó, nên nói ba lần: “Tôi nhập hạ ở đây”. Nếu họ không cúng dường, nên nhập hạ dưới gầm chiếc xe bò có mái che đang đậu. Vị không kiếm được cả cái đó thì nên khởi ý niệm (an cư). Ý niệm (an cư) là chỉ sự sanh khởi của tâm rằng “tôi sẽ an cư ở đây”. Nhưng không được phép nhập hạ (chính thức bằng lời) trong đoàn lữ hành. Nếu ngày tự tứ diễn ra khi đoàn lữ hành đang trên đường đi, nên tự tứ ngay tại đó. Nếu đoàn lữ hành trong mùa an cư đến và đi qua nơi vị Tỳ khưu mong muốn, thì sau khi ở tại nơi mong muốn đó, nên tự tứ cùng các Tỳ khưu ở đó. Hoặc nếu đoàn lữ hành trong mùa an cư dừng lại hoặc tan rã tại một làng nào đó giữa đường, thì nên ở và tự tứ cùng các Tỳ khưu trong chính làng đó; không được phép đi xa hơn từ đó mà chưa tự tứ.
Nāvāyaṃ vassaṃ upagacchantenāpi kuṭiyaṃyeva upagantabbaṃ. Pariyesitvā alabhantena ālayo kātabbo. Sace antotemāsaṃ nāvā samuddeyeva hoti, tattheva pavāretabbaṃ. Atha nāvā kūlaṃ labhati, ayañca parato gantukāmo hoti, gantuṃ na vaṭṭati. Nāvāya laddhagāmeyeva vasitvā bhikkhūhi saddhiṃ pavāretabbaṃ. Sacepi nāvā anutīrameva aññattha gacchati, bhikkhu ca paṭhamaṃ laddhagāmeyeva vasitukāmo, nāvā gacchatu bhikkhunā tattheva vasitvā bhikkhūhi saddhiṃ pavāretabbaṃ .
Đối với vị nhập hạ trên thuyền cũng vậy, nên nhập hạ trong một cái am/buồng (trên thuyền). Vị tìm kiếm mà không được thì nên khởi ý niệm (an cư). Nếu trong ba tháng, thuyền vẫn ở trên biển, nên tự tứ ngay tại đó. Nếu thuyền cập bờ, và vị này muốn đi xa hơn, thì không được phép đi. Nên ở và tự tứ cùng các Tỳ khưu trong chính làng mà thuyền đã đến. Ngay cả nếu thuyền đi dọc bờ đến nơi khác, và vị Tỳ khưu muốn ở lại chính làng đầu tiên đã đến, thì thuyền cứ đi, vị Tỳ khưu nên ở lại đó và tự tứ cùng các Tỳ khưu.
Iti vaje satthe nāvāyanti tīsu ṭhānesu natthi vassacchede āpatti, pavāretuñca labhati. Purimesu pana ‘‘vāḷehi ubbāḷhā hontī’’tiādīsu saṅghabhedapariyantesu vatthūsu kevalaṃ anāpatti hoti, pavāretuṃ pana na labhati.
Như vậy, tại ba nơi: trại mục súc, đoàn lữ hành, thuyền, không có tội khi gián đoạn an cư và được phép tự tứ. Nhưng trong các trường hợp trước đây, từ trường hợp bị thú dữ quấy nhiễu v.v. cho đến trường hợp Tăng bị chia rẽ, chỉ là không phạm tội, nhưng không được phép tự tứ (nếu hạ bị gián đoạn).
204.Na bhikkhave rukkhasusireti ettha suddhe rukkhasusireyeva na vaṭṭati; mahantassa pana rukkhasusirassa anto padaracchadanaṃ kuṭikaṃ katvā pavisanadvāraṃ yojetvā upagantuṃ vaṭṭati. Rūkkhaṃ chinditvā khāṇukamatthake padaracchadanaṃ kuṭikaṃ katvāpi vaṭṭatiyeva. Rukkhaviṭabhiyāti etthāpi suddhe viṭapamatte na vaṭṭati. Mahāviṭape pana aṭṭakaṃ bandhitvā tattha padaracchadanaṃ kuṭikaṃ katvā upagantabbaṃ. Asenāsanikenāti yassa pañcannaṃ chadanānaṃ aññatarena channaṃ yojitadvārabandhanaṃ senāsanaṃ natthi, tena na upagantabbaṃ. Na bhikkhave chavakuṭikāyanti chavakuṭikā nāma ṭaṅkitamañcādibhedā kuṭi, tattha upagantuṃ na vaṭṭati. Susāne pana aññaṃ kuṭikaṃ katvā upagantuṃ vaṭṭati. Na bhikkhave chatteti etthāpi catūsu thambhesu chattaṃ ṭhapetvā āvaraṇaṃ katvā dvāraṃ yojetvā upagantuṃ vaṭṭati, chattakuṭikā nāmesā hoti. Cāṭiyāti etthāpi mahantena kapallena chatte vuttanayena kuṭiṃ katvā upagantuṃ vaṭṭati.
204. Này các Tỳ khưu, không (được nhập hạ) trong hốc cây: ở đây, chỉ không được phép trong hốc cây đơn thuần; nhưng bên trong hốc cây lớn, sau khi làm một cái am lợp bằng ván/lá, lắp cửa ra vào, thì được phép nhập hạ. Cũng được phép làm một cái am lợp bằng ván/lá trên gốc cây sau khi đã đốn cây. Về trên chạc cây: ở đây cũng vậy, không được phép trên chạc cây đơn thuần. Nhưng trên chạc cây lớn, sau khi dựng một cái sàn/giàn, nên làm một cái am lợp bằng ván/lá ở đó rồi nhập hạ. Bởi người không có sàng tọa/chỗ ở: người không có chỗ ở được lợp bằng một trong năm loại vật liệu lợp và có gắn cửa nẻo, vị ấy không nên nhập hạ (ở đó). Này các Tỳ khưu, không (được nhập hạ) trong lều xác chết: lều xác chết là loại lều tạm ở nơi để xác; không được phép nhập hạ ở đó. Nhưng được phép làm một cái am khác trong nghĩa địa để nhập hạ. Này các Tỳ khưu, không (được nhập hạ) dưới cây dù/lọng: ở đây cũng vậy, sau khi đặt cây dù/lọng trên bốn cột trụ, làm vách ngăn, lắp cửa, thì được phép nhập hạ; đó gọi là am hình cây dù/lọng. Về trong cái chum/lu: ở đây cũng vậy, được phép làm một cái am bằng một cái chum/lu lớn theo cách đã nói về cây dù/lọng rồi nhập hạ.
Adhammikakatikādikathā
Câu chuyện về giao ước phi pháp v.v.
205.Evarūpā katikāti ettha aññāpi yā īdisī adhammikā katikā hoti, sā na kātabbāti attho. Tassā lakkhaṇaṃ mahāvibhaṅge vuttaṃ.
205. Giao ước như vậy: ở đây, có nghĩa là bất kỳ giao ước phi pháp nào khác tương tự như thế cũng không nên lập. Đặc điểm của nó đã được nói trong Đại Phân Tích.
207-8.Paṭissave ca āpatti dukkaṭassāti ettha na kevalaṃ ‘‘imaṃ temāsaṃ idha vassaṃ vasathā’’ti etasseva paṭissave āpatti, ‘‘imaṃ temāsaṃ bhikkhaṃ gaṇhatha, ubhopi mayaṃ idha vassaṃ vasissāma, ekato uddisāpessāmā’’ti evamādināpi tassa tassa paṭissave dukkaṭaṃ. Tañca kho paṭhamaṃ suddhacittassa pacchā visaṃvādanapaccayā, paṭhamampi asuddhacittassa pana paṭissave pācittiyaṃ, visaṃvādane dukkaṭanti pācittiyena saddhiṃ dukkaṭaṃ yujjati.
207-8. Về có tội tác ác khi hứa hẹn: ở đây, không chỉ có tội khi hứa hẹn rằng: “Quý vị hãy an cư ba tháng này ở đây”; mà ngay cả với những lời như: “Quý vị hãy nhận vật thực khất thực ba tháng này”, “Cả hai chúng ta sẽ an cư ở đây”, “Chúng ta sẽ cùng đọc tụng (giới bổn)” v.v., cũng có tội tác ác khi hứa hẹn từng điều đó. Và tội tác ác đó là do việc thất hứa về sau của người ban đầu có tâm trong sạch; nhưng đối với người ngay từ đầu đã có tâm không trong sạch thì có tội Ba-dật-đề khi hứa hẹn, và tội tác ác khi thất hứa; (như vậy) tội tác ác đi cùng với tội Ba-dật-đề là hợp lý.
Sotadaheva akaraṇīyotiādīsu sace vassaṃ anupagantvā vā pakkamati, upagantvā vā sattāhaṃ bahiddhā vītināmeti, purimikā ca na paññāyati, paṭissave ca āpatti. Vassaṃ upagantvā pana aruṇaṃ anuṭṭhāpetvā tadaheva sattāhakaraṇīyena pakkamantassāpi antosattāhe nivattantassa anāpatti, ko pana vādo dvīhatīhaṃ vasitvā antosattāhe nivattantassa. Dvīhatīhaṃ vasitvāti etthāpi nirapekkheneva upacārātikkame vassacchedo veditabbo. Sace idha vasissāmīti ālayo atthi, asatiyā pana vassaṃ na upeti, gahitasenāsanaṃ suggahitaṃ, chinnavasso na hoti, pavāretuṃ labhatiyeva.
Về việc ra đi không nên thực hiện ngay trong ngày đó v.v.: nếu ra đi mà chưa nhập hạ, hoặc đã nhập hạ rồi lại trải qua bảy ngày ở bên ngoài, thì tiền an cư không thành, và có tội khi hứa hẹn (nếu đã hứa ở lại). Nhưng sau khi đã nhập hạ, chưa làm rạng đông ló dạng (ở nơi khác), ngay cả đối với vị ra đi ngay trong ngày đó vì công việc bảy ngày, nếu quay về trong vòng bảy ngày thì không phạm tội; huống nữa là người đã ở lại hai ba ngày rồi quay về trong vòng bảy ngày. Về sau khi ở lại hai ba ngày: ở đây cũng vậy, nên biết là bị gián đoạn an cư nếu vượt qua phạm vi (trú xứ) mà không đoái hoài. Nếu có ý niệm rằng “tôi sẽ ở đây”, nhưng do thất niệm mà không nhập hạ (bằng lời), thì chỗ ở đã nhận là được nhận đúng cách, không bị gián đoạn an cư, vẫn được phép tự tứ.
Sattāhaṃ anāgatāya pavāraṇāyāti ettha navamito paṭṭhāya gantuṃ vaṭṭati, āgacchatu vā mā vā, anāpatti. Sesaṃ uttānamevāti.
Về bảy ngày trước lễ tự tứ chưa đến: ở đây, được phép đi (từ lúc còn chín ngày), dù có về hay không, không phạm tội. Phần còn lại thì rõ ràng rồi.
Vassūpanāyikakkhandhakavaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần chú giải Chương An Cư Mùa Mưa đến đây là kết thúc.