10. Kosambakakkhandhakaṃ
10. Chương Kosambaka
Kosambakavivādakathā
Câu chuyện về sự tranh cãi ở Kosambī
451. Kosambakakkhandhake – taṃ bhikkhuṃ āpattiyā adassane ukkhipiṃsūti ettha ayamanupubbikathā – dve kira bhikkhū ekasmiṃ āvāse vasanti vinayadharo ca suttantiko ca. Tesu suttantiko bhikkhu ekadivasaṃ vaccakuṭiṃ paviṭṭho ācamanaudakāvasesaṃ bhājane ṭhapetvāva nikkhami. Vinayadharo pacchā paviṭṭho taṃ udakaṃ disvā nikkhamitvā taṃ bhikkhuṃ pucchi – ‘‘āvuso, tayā idaṃ udakaṃ ṭhapita’’nti? ‘‘Āmāvuso’’ti. ‘‘Kiṃ tvaṃ ettha āpattibhāvaṃ na jānāsī’’ti? ‘‘Āma, na jānāmī’’ti. ‘‘Hoti, āvuso ettha āpattī’’ti? ‘‘Sace hoti, desissāmī’’ti. ‘‘Sace pana te, āvuso, asañcicca asatiyā kataṃ, natthi āpattī’’ti. So tassā āpattiyā anāpattidiṭṭhi ahosi.
451. Trong chương Kosambaka – câu ‘họ đã khai trừ vị tỳ khưu ấy vì không thấy tội’ ở đây có câu chuyện tuần tự như vầy: Được biết, có hai vị tỳ khưu sống trong cùng một trú xứ, một vị thông Luật (vinayadhara) và một vị thông Kinh (suttantika). Trong số họ, vị tỳ khưu thông Kinh một ngày nọ, sau khi vào nhà xí, đã để lại phần nước rửa còn thừa trong đồ đựng rồi đi ra. Vị thông Luật vào sau, thấy nước đó, đi ra rồi hỏi vị tỳ khưu kia: “Này hiền giả, có phải hiền giả đã để lại nước này không?” “Vâng, thưa hiền giả.” “Sao hiền giả không biết rằng việc này là phạm tội?” “Vâng, tôi không biết.” “Này hiền giả, ở đây có tội đấy.” “Nếu có tội, tôi sẽ sám hối.” “Tuy nhiên, này hiền giả, nếu hiền giả làm việc đó không cố ý, không có chánh niệm, thì không có tội.” Vị ấy (thông Kinh) đã có tà kiến cho rằng tội ấy là không có tội.
Vinayadharopi attano nissitakānaṃ ‘‘ayaṃ suttantiko āpattiṃ āpajjamānopi na jānātī’’ti ārocesi. Te tassa nissitake disvā ‘‘tumhākaṃ upajjhāyo āpattiṃ āpajjitvāpi āpattibhāvaṃ na jānātī’’ti āhaṃsu. Te gantvā attano upajjhāyassa ārocesuṃ. So evamāha – ‘‘ayaṃ vinayadharo pubbe anāpattī’’ti vatvā ‘‘idāni āpattī’’ti vadati. Musāvādī esoti. Te gantvā ‘‘tumhākaṃ upajjhāyo musāvādī’’ti evaṃ aññamaññaṃ kalahaṃ vaḍḍhayiṃsu. Tato vinayadharo okāsaṃ labhitvā tassa āpattiyā adassane ukkhepanīyakammaṃ akāsi. Tena vuttaṃ – ‘‘taṃ bhikkhuṃ āpattiyā adassane ukkhipiṃsū’’ti.
Vị thông Luật cũng báo cho các đệ tử của mình rằng: “Vị thông Kinh này, ngay cả khi phạm tội cũng không biết.” Họ (đệ tử vị thông Luật) gặp các đệ tử của vị kia (thông Kinh) và nói: “Thầy tế độ của các vị phạm tội mà cũng không biết là mình phạm tội.” Họ (đệ tử vị thông Kinh) đi về báo lại cho thầy tế độ của mình. Vị ấy (thông Kinh) nói thế này: “Vị thông Luật này trước kia nói là không có tội, bây giờ lại nói là có tội. Ông ta là người nói dối.” Họ (đệ tử vị thông Kinh) đi đến (chỗ đệ tử vị thông Luật) nói: “Thầy tế độ của các vị là người nói dối.” Cứ như thế, họ làm cho sự cãi vã lẫn nhau tăng trưởng. Sau đó, vị thông Luật, tìm được cơ hội, đã thực hiện hành vi khai trừ (ukkhepanīyakamma) đối với vị kia vì không thấy tội của mình. Do đó mới nói rằng: “họ đã khai trừ vị tỳ khưu ấy vì không thấy tội.”
453.Bhinno bhikkhusaṅgho bhinno bhikkhusaṅghoti ettha na tāva bhinno; apica kho yathā deve vuṭṭhe ‘‘idāni sassaṃ nipphanna’’nti vuccati, avassañhi taṃ nipphajjissati, evameva iminā kāraṇena āyatiṃ avassaṃ bhijjissati, so ca kho kalahavasena na saṅghabhedavasena, tasmā ‘‘bhinno’’ti vuttaṃ. Sambhamaatthavasena cettha āmeḍitaṃ veditabbaṃ.
453. Tăng chúng bị chia rẽ, Tăng chúng bị chia rẽ: Ở đây (câu này có nghĩa là), lúc ấy Tăng chúng vẫn chưa bị chia rẽ; tuy nhiên, cũng giống như khi trời mưa, người ta nói “bây giờ lúa đã trổ bông”, (vì) chắc chắn nó sẽ trổ bông, cũng vậy, do nguyên nhân này mà trong tương lai chắc chắn sẽ có sự chia rẽ, và sự chia rẽ đó là do cãi vã chứ không phải do phá hòa Tăng (saṅghabheda), vì thế mới nói là “bị chia rẽ”. Nên hiểu rằng sự lặp lại ở đây là vì ý nghĩa nhấn mạnh (hoặc do sự bối rối, hốt hoảng).
454.Etamatthaṃbhāsitvā uṭṭhāyāsanā pakkāmīti kasmā evaṃ bhāsitvā pakkāmi? Sace hi bhagavā ukkhepake vā ‘‘akāraṇe tumhehi so bhikkhu ukkhitto’’ti vadeyya, ukkhittānuvattake vā ‘‘tumhe āpattiṃ āpannā’’ti vadeyya, ‘‘etesaṃ bhagavā pakkho, etesaṃ bhagavā pakkho’’ti vatvā āghātaṃ bandheyyuṃ, tasmā tantimeva ṭhapetvā etamatthaṃ bhāsitvā uṭṭhāyāsanā pakkāmi.
454. Sau khi nói lên ý nghĩa này, Ngài đứng dậy khỏi chỗ ngồi và ra đi: Tại sao Ngài lại nói như vậy rồi ra đi? Bởi vì, nếu Đức Thế Tôn nói với nhóm khai trừ rằng “các ông đã khai trừ vị tỳ khưu đó vô cớ”, hoặc nói với nhóm ủng hộ vị bị khai trừ rằng “các ông đã phạm tội”, thì họ sẽ nghĩ rằng “Đức Thế Tôn thiên vị phe này, Đức Thế Tôn thiên vị phe kia” rồi sinh lòng oán hận. Vì thế, Ngài chỉ đặt ra nguyên tắc (tantim eva ṭhapetvā), nói lên ý nghĩa này rồi đứng dậy khỏi chỗ ngồi và ra đi.
455.Attanā vā attānanti ettha yo saṅghena ukkhepanīyakatānaṃ adhammavādīnaṃ pakkhe nisinno ‘‘tumhe kiṃ bhaṇathā’’ti tesañca itaresañca laddhiṃ sutvā ‘‘ime adhammavādino, itare dhammavādino’’ti cittaṃ uppādeti, ayaṃ tesaṃ majjhe nisinnova tesaṃ nānāsaṃvāsako hoti, kammaṃ kopeti, itaresampi hatthapāsaṃ anāgatattā kopeti. Evaṃ attanā vā attānaṃ nānāsaṃvāsakaṃ karoti. Samānasaṃvāsakanti etthāpi yo adhammavādīnaṃ pakkhe nisinno ‘‘adhammavādino ime, itare dhammavādino’’ti tesaṃ majjhaṃ pavisati, yattha vā tattha vā pana pakkhe nisinno ‘‘ime dhammavādino’’ti gaṇhāti, ayaṃ attanā vā attānaṃ samānasaṃvāsakaṃ karotīti veditabbo.
455. Tự mình hoặc đối với tự mình: Ở đây, người nào ngồi về phía những người theo phi pháp, là những người đã bị Tăng chúng thực hiện hành vi khai trừ, rồi hỏi “các vị nói gì?” và sau khi nghe chủ trương của cả hai bên (phe phi pháp và phe còn lại), tâm khởi lên rằng “những người này theo phi pháp, những người kia theo chánh pháp”, người ấy, ngay khi ngồi giữa họ, đã trở thành người có trú xứ riêng biệt đối với họ (phe phi pháp), làm hỏng nghiệp sự, và cũng làm hỏng nghiệp sự đối với phe kia vì chưa đến trong tầm tay của họ. Như vậy là tự mình làm cho mình trở thành người có trú xứ riêng biệt. Có trú xứ chung: Ở đây cũng vậy, người nào ngồi về phía những người theo phi pháp, (nghe chủ trương của họ và của phe kia rồi nghĩ) “những người này theo phi pháp, những người kia theo chánh pháp”, rồi đi vào giữa họ, hoặc ngồi về bất kỳ phe nào mà chấp nhận rằng “những người này theo chánh pháp”, người này được hiểu là tự mình làm cho mình trở thành người có trú xứ chung.
456.Kāyakammaṃ vacīkammanti ettha kāyena paharantā kāyakammaṃ upadaṃsenti, pharusaṃ vadantā vacīkammaṃ upadaṃsentīti veditabbā. Hatthaparāmāsaṃ karontīti kodhavasena hatthehi aññamaññaṃ parāmasanaṃ karonti. Adhammiyāyamāneti adhammiyāni kiccāni kurumāne. Asammodikāvattamānāyāti asammodikāya vattamānāya. Ayameva vā pāṭho. Sammodanakathāya avattamānāyāti attho. Ettāvatā na aññamaññanti ettha dve pantiyo katvā upacāraṃ muñcitvā nisīditabbaṃ, dhammiyāyamāne pana sammodikāya vattamānāya āsanantarikāya nisīditabbaṃ, ekekaṃ āsanaṃ antaraṃ katvā nisīditabbaṃ.
456. Thân nghiệp, khẩu nghiệp: Ở đây nên hiểu là họ biểu lộ thân nghiệp bằng cách đánh đập bằng thân, biểu lộ khẩu nghiệp bằng cách nói lời thô ác. Đụng chạm bằng tay nghĩa là do sân hận mà họ dùng tay đụng chạm lẫn nhau. Khi đang hành xử phi pháp nghĩa là khi đang làm những việc phi pháp. Khi đang không hòa hợp nghĩa là khi đang hành xử trong sự không hòa hợp. Hoặc bản đọc là như vậy. Nghĩa là khi không nói lời hòa hợp. Chừng đó không gần nhau: Ở đây nên ngồi thành hai hàng, chừa ra khoảng sân tiếp cận, còn khi hành xử đúng pháp, đang hòa hợp với nhau thì nên ngồi cách một ghế, tức là ngồi cách nhau một ghế.
457-458.Mā bhaṇḍanantiādīsu ‘‘akatthā’’ti pāṭhasesaṃ gahetvā ‘‘mā bhaṇḍanaṃ akatthā’’ti evamattho daṭṭhabbo. Adhammavādīti ukkhittānuvattakesu aññataro. Ayaṃ pana bhikkhu bhagavato atthakāmo, ayaṃ kirassa adhippāyo ‘‘ime bhikkhū kodhābhibhūtā satthu vacanaṃ na gaṇhanti, mā bhagavā ete ovadanto kilamitthā’’ti tasmā evamāha. Bhagavā pana ‘‘pacchāpi saññaṃ labhitvā oramissantī’’ti tesaṃ anukampāya atītavatthuṃ āharitvā kathesi. Tattha anatthatoti anattho ato; etasmā me purisā anatthoti vuttaṃ hoti. Atha vā anatthatoti anatthado. Sesaṃ pākaṭameva.
457-458. Trong các câu bắt đầu bằng Chớ có cãi cọ, nên lấy phần còn thiếu của bản đọc là “akatthā” và hiểu ý nghĩa là “chớ có gây ra sự cãi cọ”. Người theo phi pháp là một trong số những người ủng hộ vị bị khai trừ. Vị tỳ khưu này lại là người mong muốn lợi ích cho Đức Thế Tôn, được biết ý định của vị ấy là: “những tỳ khưu này bị sân hận chi phối, không tiếp nhận lời dạy của bậc Đạo Sư, mong rằng Đức Thế Tôn đừng mệt nhọc khi khuyên dạy họ”, vì thế vị ấy đã nói như vậy. Tuy nhiên, Đức Thế Tôn, với lòng bi mẫn đối với họ, nghĩ rằng “sau này họ cũng sẽ nhận thức được và dừng lại”, nên đã kể lại câu chuyện quá khứ. Ở đó, từ điều bất lợi nghĩa là ‘bất lợi từ đây’; tức là muốn nói ‘những người này là sự bất lợi cho ta’. Hoặc thuật ngữ này cũng có nghĩa là ‘người gây bất lợi’. Phần còn lại đã rõ ràng.
464.Puthusaddotiādigāthāsu pana puthu mahā saddo assāti puthusaddo. Samajanoti samāno ekasadiso jano; sabbo cāyaṃ bhaṇḍanakārakojano samantato saddanicchāraṇena puthusaddo ceva sadiso cāti vuttaṃ hoti. Na bālo koci maññathāti tattha koci ekopi ‘‘ahaṃ bālo’’ti na maññittha; sabbepi paṇḍitamāninoyeva. Nāññaṃ bhiyyo amaññarunti koci ekopi ‘‘ahaṃ bālo’’ti ca na maññittha; bhiyyo ca saṅghasmiṃ bhijjamāne aññampi ekaṃ ‘‘mayhaṃ kāraṇā saṅgho bhijjatī’’ti idaṃ kāraṇaṃ na maññitthāti attho.
464. Còn trong các câu kệ bắt đầu bằng Tiếng ồn ào, thuật ngữ này có nghĩa là ‘tiếng ồn lớn của nó’. Thuật ngữ Samajano nghĩa là ‘những người giống nhau, tương tự nhau’; muốn nói rằng tất cả những người gây ra cãi cọ này đều ồn ào do phát ra tiếng động khắp nơi và đều giống nhau. Không kẻ ngu nào tự nghĩ nghĩa là ở đó không một ai nghĩ rằng “ta là kẻ ngu”; tất cả đều tự cho mình là bậc trí. Họ chẳng nghĩ gì hơn nữa nghĩa là không một ai nghĩ rằng “ta là kẻ ngu”; và hơn nữa, khi Tăng chúng đang bị chia rẽ, họ cũng không nghĩ đến một điều khác rằng “vì nguyên nhân của ta mà Tăng chúng bị chia rẽ”, đó là ý nghĩa.
Parimuṭṭhāti parimuṭṭhassatino. Vācāgocarabhāṇinoti rākārassa rassādeso kato , vācāgocarā na satipaṭṭhānādigocarā. Bhāṇino ca kathaṃ bhāṇino? Yāvicchanti mukhāyāmaṃ yāva mukhaṃ pasāretuṃ icchanti, tāva pasāretvā bhāṇino, ekopi saṅghagāravena mukhasaṅkocaṃ na karotīti attho. Yena nītāti yena kalahena imaṃ nillajjabhāvaṃ nītā. Na taṃ vidūti na taṃ jānanti, ‘‘evaṃ sādīnavo aya’’nti.
Lãng quên nghĩa là những người có niệm bị lãng quên. Nói năng tùy theo cảnh giới lời nói – chữ ‘rā’ đã được đọc ngắn lại (thành ‘ra’), họ có cảnh giới là lời nói chứ không phải là các cảnh giới như Tứ Niệm Xứ v.v… Và nói như thế nào? Họ muốn mở miệng đến đâu, họ muốn mở miệng (nói) đến đâu thì mở đến đó mà nói, không một ai vì kính trọng Tăng chúng mà ngậm miệng lại, đó là ý nghĩa. Bởi điều gì mà bị dẫn dắt nghĩa là bởi sự cãi cọ nào mà họ bị dẫn đến tình trạng không biết xấu hổ này. Họ không biết điều đó nghĩa là họ không biết rằng “điều này có tai hại như vậy”.
Ye ca taṃ upanayhantīti taṃ ‘‘akkocchi maṃ, avadhi ma’’ntiādikaṃ ākāraṃ ye ca upanayhanti. Sanantanoti porāṇo.
Những ai nuôi dưỡng điều ấy nghĩa là những ai nuôi dưỡng thái độ như “nó đã mắng tôi, đánh tôi” v.v… Từ ngàn xưa nghĩa là cổ xưa.
Pareti paṇḍite ṭhapetvā tato aññe bhaṇḍanakārakā pare nāma. Te ettha saṅghamajjhe kalahaṃ karontā ‘‘mayaṃ yamāmase upayamāma; satataṃ samitaṃ maccusantikaṃ gacchāmā’’ti na jānanti. Ye ca tattha vijānantīti ye tattha paṇḍitā ‘‘mayaṃ maccusamīpaṃ gacchāmā’’ti vijānanti. Tatosammanti medhagāti evañhi te jānantā yonisomanasikāraṃ uppādetvā medhagānaṃ kalahānaṃ vūpasamāya paṭipajjanti.
Pare (người khác) có nghĩa là những người gây ra cãi cọ, ngoại trừ các bậc trí. Họ, khi đang gây gổ giữa Tăng chúng ở đây, không biết rằng “chúng ta đang đi, đang đến gần; chúng ta liên tục, thường xuyên đi đến gần cái chết”. Câu Những ai ở đó hiểu rõ nghĩa là những bậc trí ở đó hiểu rõ rằng “chúng ta đang đi đến gần cái chết”. Câu Nhờ đó các cuộc tranh tụng lắng dịu nghĩa là vì biết như vậy, họ khởi lên sự tác ý đúng đắn và thực hành để làm lắng dịu các cuộc tranh tụng, cãi vã.
Aṭṭhicchinnāti ayaṃ gāthā brahmadattañca dīghāvukumārañca sandhāya vuttā. Tesampi hoti saṅgati, kasmā tumhākaṃ na hoti, yesaṃ vo neva mātāpitūnaṃ aṭṭhīni chinnāni, na pāṇā hatā, na gavāssadhanāni haṭānīti.
Câu kệ Xương bị chặt này được nói liên hệ đến vua Brahmadatta và hoàng tử Dīghāvu. (Ý là) Ngay cả họ còn có sự hòa giải, tại sao các ông lại không thể, khi mà xương cốt của cha mẹ các ông không hề bị chặt, mạng sống không bị giết hại, tài sản trâu bò ngựa không bị cướp đoạt?
Sace labhethātiādigāthā paṇḍitasahāyassa ca bālasahāyassa ca vaṇṇāvaṇṇadīpanatthaṃ vuttā. Abhibhuyya sabbāni parissayānīti pākaṭaparissaye ca paṭicchannaparissaye ca abhibhavitvā tena saddhiṃ attamano satimā careyya.
Các câu kệ bắt đầu bằng Nếu tìm được được nói để làm sáng tỏ ưu điểm và khuyết điểm của bạn hiền trí và bạn ngu si. Câu Vượt qua mọi hiểm nguy nghĩa là sau khi chế ngự được các hiểm nguy rõ ràng và các hiểm nguy che giấu, nên sống chung với vị ấy (bạn hiền trí) với tâm hoan hỷ và chánh niệm.
Rājāvaraṭṭhaṃ vijitanti yathā attano vijitaṃ raṭṭhaṃ mahājanakarājā ca arindamamahārājā ca pahāya ekakā cariṃsu; evaṃ careyyāti attho. Mātaṅgaraññeva nāgoti mātaṅgo araññe nāgova. Mātaṅgoti hatthī vuccati; nāgoti mahantādhivacanametaṃ. Yathā hi mātuposako mātaṅganāgo araññe eko cari, na ca pāpāni akāsi. Yathā ca pālileyyako, evaṃ eko care, na ca pāpāni kayirāti vuttaṃ hoti.
Câu Như vua bỏ quốc độ chinh phục được nghĩa là nên sống một mình như vua Mahājanaka và vua Arindama đã từ bỏ quốc độ mình chinh phục được mà sống một mình. Câu Như voi Mātaṅga trong rừng nghĩa là như voi chúa trong rừng. Thuật ngữ Mātaṅga được gọi là voi; nāga là từ đồng nghĩa với ‘lớn’. Giống như voi chúa Mātaṅga nuôi mẹ đã sống một mình trong rừng và không làm điều ác. Và giống như voi Pālileyyaka, cũng vậy, nên sống một mình và không làm điều ác, ý là như vậy.
Pālileyyakagamanakathā
Câu chuyện về việc đi đến Pālileyyaka
467.Pālileyyake viharati rakkhitavanasaṇḍeti pālileyyakaṃ upanissāya rakkhitavanasaṇḍe viharati. Hatthināgoti mahāhatthī. Hatthikalabhehīti hatthipotakehi. Hatthicchāpehīti khīrūpakehi daharapotakehi. Chinnaggānīti tehi purato purato gacchantehi chinnaggāni khāyitāvasesāni khāṇusadisāni tiṇāni khādati. Obhaggobhagganti tena hatthināgena uccaṭṭhānato bhañjitvā bhañjitvā pātitaṃ. Assa sākhābhaṅganti etassa santakaṃ sākhābhaṅgaṃ te khādanti. Āvilānīti tehi paṭhamataraṃ otaritvā pivantehi ālulitāni kaddamodakāni pivati. Ogāhāti titthato.
467. Câu Trú tại Pālileyyaka, trong khu rừng được bảo vệ nghĩa là trú trong khu rừng được bảo vệ, gần Pālileyyaka. Hatthināga nghĩa là voi lớn (voi chúa). Bởi những con voi con nghĩa là bởi những con voi non. Bởi những con voi con còn bú nghĩa là bởi những con voi con còn nhỏ, đang bú sữa. Câu Cỏ bị cắt ngọn nghĩa là nó (voi chúa) ăn cỏ đã bị những con voi đi trước cắt ngọn, phần còn lại giống như gốc cây. Bị bẻ gãy liên tục nghĩa là cành cây bị con voi chúa kia bẻ từ trên cao làm rơi xuống liên tục. Câu Cành cây gãy của nó nghĩa là chúng (voi con) ăn những cành cây gãy thuộc về nó (voi chúa). Nước đục nghĩa là nó (voi chúa) uống nước bùn đã bị khuấy đục bởi những con voi con xuống uống trước. Khi đi xuống nghĩa là từ bến nước.
Nāgassa nāgenāti hatthināgassa buddhanāgena. Īsādantassāti rathaīsāsadisadantassa. Yadeko ramatī vaneti yasmā buddhanāgo viya ayampi hatthināgo eko pavivitto vane ramati; tasmāssa nāgassa nāgena cittaṃ sameti, ekībhāvaratiyā ekasadisaṃ hotīti attho.
Câu Của voi chúa với voi chúa nghĩa là của voi chúa (hatthināga) với voi chúa là Đức Phật (buddhanāgena). Có ngà như càng xe nghĩa là có ngà giống như càng xe. Câu Vì sống một mình thích thú trong rừng nghĩa là bởi vì cũng giống như Đức Phật voi chúa, con voi chúa này cũng sống một mình, độc cư, thích thú trong rừng; do đó, tâm của voi chúa này hòa hợp với tâm của voi chúa kia, tức là trở nên giống nhau trong sự thích thú về trạng thái đơn độc.
Yathābhirantaṃ viharitvāti ettha temāsaṃ bhagavā tattha vihāsīti veditabbo. Ettāvatā kosambakehi kira ubbāḷho bhagavā temāsaṃ araññaṃ pavisitvā vasīti sabbattha kathā patthaṭā ahosi.
Câu Sau khi trú theo ý thích ở đây nên hiểu là Đức Thế Tôn đã trú ở đó ba tháng. Do đó, câu chuyện đã lan truyền khắp nơi rằng: “Đức Thế Tôn, vì phiền nhiễu bởi các vị ở Kosambī, đã vào rừng sống trong ba tháng.”
Atha kho kosambakā upāsakāti atha kho imaṃ kathāsallāpaṃ sutvā kosambivāsino upāsakā.
Câu Bấy giờ các cư sĩ ở Kosambī nghĩa là bấy giờ, sau khi nghe cuộc đối thoại này, các cư sĩ trú ở Kosambī.
Aṭṭhārasavatthukathā
Câu chuyện về mười tám căn cứ
468.Adhammaṃ dhammotiādīni aṭṭhārasa bhedakaravatthūni saṅghabhedakakkhandhake vaṇṇayissāma.
468. Mười tám căn cứ gây chia rẽ bắt đầu bằng Phi pháp là Pháp v.v… sẽ được chúng tôi giải thích trong chương Phá hòa Tăng.
475.Taṃukkhittakaṃ bhikkhuṃ osāretvāti taṃ gahetvā sīmaṃ gantvā āpattiṃ desāpetvā kammavācāya osāretvā. Tāvadeva uposathoti taṃdivasameva uposathakkhandhake vuttanayeneva sāmaggīuposatho kātabbo.
475. Câu Sau khi phục hồi vị tỳ khưu bị khai trừ ấy nghĩa là sau khi đưa vị ấy đến giới trường, cho sám hối tội, rồi phục hồi bằng lời tuyên bố. Câu Ngay lúc ấy làm lễ Uposatha nghĩa là ngay ngày hôm đó phải thực hiện lễ Uposatha hòa hợp theo cách đã được nói trong chương Uposatha.
476.Amūlā mūlaṃ gantvāti na mūlā mūlaṃ gantvā; taṃ vatthuṃ avinicchinitvāti attho. Ayaṃ vuccati upāli saṅghasāmaggī atthāpetā byañjanūpetāti atthato apagatā, ‘‘saṅghasāmaggī’’ti imaṃ pana byañjanamattaṃ upetā.
476. Câu Đi đến gốc rễ từ chỗ không phải gốc rễ nghĩa là không đi đến gốc rễ từ gốc rễ; nghĩa là không thẩm xét vấn đề đó. Câu Này Upāli, đây gọi là sự hòa hợp Tăng đã lìa ý nghĩa, chỉ đạt được văn tự nghĩa là đã xa lìa ý nghĩa, chỉ đạt được văn tự là “sự hòa hợp Tăng” mà thôi.
477.Saṅghassa kiccesūti saṅghassa karaṇīyesu uppannesu. Mantanāsūti vinayamantanāsu. Atthesu jātesūti vinayaatthesu uppannesu. Vinicchayesūti tesaṃyeva atthānaṃ vinicchayesu. Mahatthikoti mahāupakāro. Paggahārahoti paggaṇhituṃ vutto.
477. Trong các phận sự của Tăng nghĩa là khi các việc cần làm của Tăng chúng khởi lên. Trong các cuộc bàn luận nghĩa là trong các cuộc bàn luận về Luật. Khi các vấn đề phát sinh nghĩa là khi các vấn đề về Luật phát sinh. Trong các sự thẩm xét nghĩa là trong sự thẩm xét chính các vấn đề đó. Có lợi ích lớn nghĩa là có sự giúp đỡ lớn. Đáng được tán dương nghĩa là được nói là đáng được tán dương.
Anānuvajjo paṭhamena sīlatotiādimhiyeva tāva sīlato na upavajjo. Avekkhitācāroti apekkhitācāro; ālokite vilokite sampajānakārītiādinā nayena upaparikkhitācāro. Aṭṭhakathāsu pana ‘‘appaṭicchannācāro’’ti vuttaṃ.
Không đáng bị khiển trách trước hết về giới nghĩa là trước hết không đáng bị khiển trách về phương diện giới. Có hạnh kiểm được xem xét nghĩa là có hạnh kiểm được quan tâm; có hạnh kiểm được thẩm xét theo cách như: tỉnh giác khi nhìn tới, nhìn lui v.v… Tuy nhiên, trong các sách Chú giải thì nói là “có hạnh kiểm không che giấu”.
Visayhāti abhibhavitvā. Anuyyutaṃ bhaṇanti anuññātaṃ anapagataṃ bhaṇanto. Yasmā hi so anuyyutaṃ bhaṇati, usūyāya vā agatigamanavasena vā kāraṇāpagataṃ na bhaṇati, tasmā atthaṃ na hāpeti. Usūyāya pana agatigamanavasena vā bhaṇanto atthaṃ hāpeti, kāraṇaṃ na deti, tasmā so parisagato chambhati ceva vedhati ca. Yo īdiso na hoti, ayaṃ ‘‘paggahāraho’’ti dasseti.
Sau khi chế ngự nghĩa là sau khi vượt qua. Nói điều liên hệ nghĩa là nói điều được chấp thuận, không xa rời (vấn đề). Bởi vì vị ấy nói điều liên hệ, không nói điều xa rời lý do vì ganh tỵ hay vì đi theo đường lối sai lệch, do đó vị ấy không làm mất đi ý nghĩa. Còn người nói vì ganh tỵ hay vì đi theo đường lối sai lệch thì làm mất đi ý nghĩa, không đưa ra lý do, do đó vị ấy khi đến giữa hội chúng thì run sợ và rúng động. Người nào không phải như vậy, người ấy được chỉ rõ là “đáng được tán dương”.
Kiñca bhiyyo ‘‘tatheva pañha’’nti gāthā, tassattho – yathā ca anuyyutaṃ bhaṇanto atthaṃ na hāpeti, tatheva parisāya majjhe pañhaṃ pucchito samāno na ceva pajjhāyati, na ca maṅku hoti. Yo hi atthaṃ na jānāti, so pajjhāyati. Yo vattuṃ na sakkoti, so maṅku hoti. Yo pana atthañca jānāti, vattuñca sakkoti; so na pajjhāyati, na maṅku hoti. Kālāgatanti kathetabbayuttakāle āgataṃ. Byākaraṇārahanti pañhassa atthānulomatāya byākaraṇānucchavikaṃ. Vacoti vadanto; evarūpaṃ vacanaṃ bhaṇantoti attho. Rañjetīti toseti. Viññūparisanti viññūnaṃ parisaṃ.
Hơn nữa, câu kệ ‘‘Cũng vậy khi được hỏi’’, ý nghĩa của nó là – cũng như khi nói điều liên hệ thì không làm mất ý nghĩa, cũng vậy, khi được hỏi câu hỏi giữa hội chúng, vị ấy không lúng túng và không bối rối. Người nào không biết ý nghĩa thì lúng túng. Người nào không thể nói được thì bối rối. Còn người nào vừa biết ý nghĩa, vừa có thể nói được thì không lúng túng, không bối rối. Đúng lúc nghĩa là đến vào lúc thích hợp để nói. Xứng đáng giải đáp nghĩa là thích hợp để giải đáp thuận theo ý nghĩa của câu hỏi. Lời nói nghĩa là đang nói; tức là nói lên lời nói như vậy. Làm vui lòng nghĩa là làm hài lòng. Hội chúng bậc trí nghĩa là hội chúng của những người hiểu biết.
Ācerakamhica saketi attano ācariyavāde. Alaṃ pametunti vīmaṃsituṃ taṃ taṃ kāraṇaṃ paññāya tulayituṃ samattho. Paguṇoti kataparicayo laddhāsevano. Kathetaveti kathetabbe. Viraddhikovidoti viraddhaṭṭhānakusalo.
Trong chủ trương của thầy mình nghĩa là trong chủ trương của thầy mình. Đủ sức đo lường nghĩa là có khả năng thẩm xét, dùng trí tuệ để cân nhắc lý lẽ này lý lẽ kia. Thuần thục nghĩa là đã thực hành quen thuộc, đã đạt được sự thân cận. Trong điều cần nói nghĩa là trong những điều nên nói. Thông thạo chỗ sai sót nghĩa là thiện xảo về chỗ sai sót.
Paccatthikā yena vajantīti ayaṃ gāthā yādise kathetabbe paguṇo, taṃ dassetuṃ vuttā. Ayañhettha attho – yādisena kathitena paccatthikā ca niggahaṃ gacchanti, mahājano ca saññapanaṃ gacchati; saññattiṃ avabodhanaṃ gacchatīti attho. Yañca kathento sakaṃ ādāyaṃ attano ācariyavādaṃ na hāpeti, yasmiṃ vatthusmiṃ adhikaraṇaṃ uppannaṃ, tadanurūpaṃ anupaghātakaraṃ pañhaṃ byākaramāno tādise kathetabbe paguṇo hotīti.
Nhờ đó đối phương bị khuất phục nghĩa là câu kệ này được nói để chỉ rõ người thuần thục trong những điều cần nói như thế nào. Ý nghĩa ở đây là như vầy: Khi nói như thế nào mà đối phương bị khuất phục và đại chúng đạt được sự nhận thức; nghĩa là đạt được sự hiểu rõ. Và người nào khi nói không làm mất đi chủ trương của mình, chủ trương của thầy mình, người nào giải đáp câu hỏi phù hợp với vấn đề mà vụ tranh chấp đã phát sinh, không gây tổn hại, thì người đó thuần thục trong những điều cần nói như vậy.
Dūteyyakammesu alanti aṭṭhahi dūtaṅgehi samannāgatattā saṅghassa dūteyyakammesu samattho. Suṭṭhu uggaṇhātīti samuggaho. Idaṃ vuttaṃ hoti – yathā nāma āhunaṃ āhutipiṇḍaṃ samuggaṇhanti, evaṃ pītisomanassajāteneva cetasā saṅghassa kiccesu samuggaho, saṅghassakiccesu tassa tassa kiccassa paṭiggāhakoti attho. Karaṃ vacoti vacanaṃ karonto. Na tena maññatīti tena vacanakaraṇena ‘‘ahaṃ karomi, saṅghabhāraṃ nittharāmī’’ti na mānātimānaṃ jappeti.
Đủ khả năng trong việc làm người đưa tin nghĩa là có khả năng trong các công việc đưa tin của Tăng chúng do đã hội đủ tám yếu tố của người đưa tin. Tiếp nhận tốt đẹp nghĩa là tiếp nhận tốt đẹp. Điều này muốn nói là: Cũng như người ta tiếp nhận lễ vật cúng dường, cũng vậy, với tâm phát sinh hỷ và ưu, tiếp nhận tốt đẹp các phận sự của Tăng, nghĩa là người tiếp nhận phận sự này phận sự kia trong các phận sự của Tăng. Thực hiện lời nói nghĩa là đang thực hiện lời nói (theo phận sự). Không tự mãn vì điều đó nghĩa là không khởi lên lòng kiêu mạn, quá mạn rằng ‘‘ta đang làm, ta đang gánh vác trách nhiệm của Tăng’’ vì việc thực hiện lời nói đó.
Āpajjati yāvatakesu vatthūsūti yattakesu vatthūsu āpattiṃ āpajjamāno āpajjati. Hoti yathā ca vuṭṭhitīti tassā ca āpattiyā yathā vuṭṭhānaṃ hoti. Ete vibhaṅgāti yesu vatthūsu āpajjati, yathā ca vuṭṭhānaṃ hoti, imesaṃ atthānaṃ jotakā ete vibhaṅgā. Ubhayassāti ubhaye assa. Svāgatāti suṭṭhu āgatā. Āpattivuṭṭhānapadassa kovidoti āpattivuṭṭhānakāraṇakusalo.
Phạm tội trong bao nhiêu trường hợp nghĩa là phạm tội trong bao nhiêu trường hợp khi đang phạm. Và cách xuất tội như thế nào nghĩa là cách xuất khỏi tội ấy như thế nào. Đây là các Phân tích nghĩa là những Phân tích này làm sáng tỏ những ý nghĩa này: các trường hợp phạm tội, và cách xuất tội. Cả hai đối với vị ấy nghĩa là cả hai (Phân tích về Bhikkhu và Bhikkhunī) đối với vị ấy. Đã thông suốt nghĩa là đã đến tốt đẹp (đã nắm vững). Thông thạo căn bản về phạm tội và xuất tội nghĩa là thiện xảo về lý do phạm tội và xuất tội.
Yāni cācaranti yāni ca bhaṇḍanakāraṇādīni ācaranto tajjanīyakammādivasena nissāraṇaṃ gacchati. Osāraṇaṃ taṃvusitassa jantunoti taṃ vattaṃ vusitassa jantuno, yā osāraṇā kātabbā, etampi jānāti. Sesaṃ sabbattha uttānamevāti.
Và những điều gì khi thực hành nghĩa là những điều gì như lý do gây cãi cọ v.v… khi thực hành mà đi đến sự trục xuất qua các hành phạt như khiển trách v.v… Sự phục hồi cho người đã sống theo nghĩa là vị ấy cũng biết sự phục hồi nào cần phải thực hiện cho người đã sống theo hạnh kiểm đó. Phần còn lại ở mọi nơi đều đã rõ ràng.
Kosambakakkhandhakavaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần giải thích chương Kosambaka kết thúc.
Samantapāsādikāya vinayasaṃvaṇṇanāya
Trong bộ Samantapāsādikā, giải thích Luật tạng,
Mahāvaggavaṇṇanā samattā.
Phần giải thích Đại Phẩm đã hoàn tất.
Mahāvagga-aṭṭhakathā niṭṭhitā.
Chú giải Đại Phẩm kết thúc.