Mục lục
7. Kathinakkhandhakaṃ
7. Chương về Kaṭhina
Kathinānujānanakathā
Câu chuyện về việc cho phép Kaṭhina
306. Kathinakkhandhake – pāveyyakāti pāveyyaraṭṭhavāsino. Pāveyyaṃ nāma kosalesu pacchimadisābhāge raṭṭhaṃ; tattha vāsinoti vuttaṃ hoti. Kosalarañño ekapitukabhātūnaṃ bhaddavaggiyattherānaṃ etaṃ adhivacanaṃ. Tesu sabbajeṭṭhako anāgāmī, sabbapacchimako sotāpanno, ekopi arahā vā puthujjano vā natthi. Āraññikāti dhutaṅgasamādānavasena āraññikā; na araññavāsamattena. Piṇḍapātikādibhāvepi tesaṃ eseva nayo. Sīsavasena cetaṃ vuttaṃ. Ime pana terasāpi dhutaṅgāni samādāyeva vattanti. Udakasaṅgaheti udakena saṅgahite ghaṭite saṃsaṭṭhe; thale ca ninne ca ekodakībhūteti attho.
306. Trong Chương về Kaṭhina – những người ở xứ Pāveyya: những người dân ở xứ Pāveyya. Pāveyya là xứ ở phía tây nước Kosala; được nói là những người ở đó. Đây là tên gọi các vị Trưởng lão nhóm Bhaddavaggiya, là anh em họ với vua Kosala. Trong số họ, vị lớn nhất là bậc A-na-hàm, vị nhỏ nhất là bậc Tu-đà-hoàn; không có một vị nào là A-la-hán hay phàm phu. Những vị sống trong rừng: những vị sống trong rừng do thọ trì hạnh đầu-đà; không phải chỉ do ở trong rừng. Đối với tình trạng là người đi khất thực v.v. của họ cũng theo cách này. Và điều này được nói theo phương diện đứng đầu. Nhưng các vị này thực hành sau khi đã thọ trì cả mười ba hạnh đầu-đà. Trong vùng ngập nước: bị nước bao phủ, kết hợp, trộn lẫn; có nghĩa là trên cạn và chỗ trũng đã trở thành một vùng nước.
Udakacikkhalleti akkantaakkantaṭṭhāne udakacikkhallo uṭṭhahitvā yāva ānisadā paharati, īdise cikkhalleti attho. Okapuṇṇehīti udakapuṇṇehi. Tesaṃ kira cīvarāni ghanāni, tesu patitaṃ udakaṃ na paggharati ghanattā puṭabaddhaṃ viya tiṭṭhati. Tena vuttaṃ – ‘‘okapuṇṇehi cīvarehī’’ti. ‘‘Oghapuṇṇehī’’tipi pāṭho.
Trong vùng bùn lầy nước đọng: bùn lầy nước đọng ở nơi cứ bị giẫm đạp bắn lên cho đến tận mông; có nghĩa là trong vùng bùn lầy như vậy. (Y) đẫm nước: đầy nước. Nghe nói y của các vị ấy dày; nước rơi vào chúng không chảy đi, do dày nên đọng lại như bị buộc trong túi. Do đó đã nói là “với những chiếc y đẫm nước”. Cũng có bản đọc là oghapuṇṇehi.
Avivadamānā vassaṃ vasimhāti ettha āgantukaṭṭhāne senāsanaphāsutāya abhāvena ca bhagavato dassanālābhena ukkaṇṭhitatāya ca te bhikkhū phāsuṃ na vasiṃsu, tasmā ‘‘avivadamānā phāsukaṃ vassaṃ vasimhā’’ti nāvocuṃ. Dhammiṃ kathaṃ katvāti bhagavā tesaṃ bhikkhūnaṃ anamataggiyakathaṃ kathesi. Te sabbepi kathāpariyosāne arahattaṃ pāpuṇitvā nisinnaṭṭhānatoyeva ākāse uppatitvā agamaṃsu, taṃ sandhāya vuttaṃ – ‘‘dhammiṃ kathaṃ katvā’’ti. Tato bhagavā ‘‘sace kathinatthāro paññatto abhavissa, ete bhikkhū ekaṃ cīvaraṃ ṭhapetvā santaruttarena āgacchantā na evaṃ kilantā assu, kathinatthāro ca nāmesa sabbabuddhehi anuññāto’’ti cintetvā kathinatthāraṃ anujānitukāmo bhikkhū āmantesi, āmantetvā ca pana ‘‘anujānāmi bhikkhave’’tiādimāha.
Về chúng con đã an cư không tranh cãi: ở đây, do không có sự thoải mái về chỗ ở tại nơi đến và do sự mong mỏi được gặp Đức Thế Tôn, các Tỳ khưu đó đã không sống thoải mái; do đó, họ đã không nói rằng “chúng con đã an cư thoải mái không tranh cãi”. Về sau khi thuyết pháp thoại: Đức Thế Tôn đã thuyết bài pháp Vô Thỉ cho các Tỳ khưu đó. Tất cả các vị ấy sau khi kết thúc bài pháp đã chứng đắc A-la-hán quả, đã bay lên hư không từ chính chỗ ngồi rồi ra đi; nhắm đến điều đó mà nói là “sau khi thuyết pháp thoại”. Khi đó Đức Thế Tôn, sau khi suy nghĩ: “Nếu việc thọ Kaṭhina đã được quy định, các Tỳ khưu này, sau khi để lại một y, đến chỉ với y nội và y vai trái, đã không mệt mỏi như vậy; và việc thọ Kaṭhina này đã được tất cả các Đức Phật cho phép”, muốn cho phép việc thọ Kaṭhina, đã gọi các Tỳ khưu đến; và sau khi gọi đến, đã nói câu bắt đầu bằng “Này các Tỳ khưu, Ta cho phép…” v.v.
Tattha atthatakathinānaṃ voti nipātamattaṃ vokāro; atthatakathinānanti attho. Evañhi sati parato ‘‘so nesaṃ bhavissatī’’ti yujjati. Atha vā voti sāmivacanamevetaṃ. So nesanti ettha pana so cīvaruppādo ye atthatakathinā, tesaṃ bhavissatīti attho.
Ở đó, về đối với các ông là những người đã thọ Kaṭhina: tiếng vo chỉ là một tiểu từ; có nghĩa là đối với những người đã thọ Kaṭhina. Vì như vậy thì mới hợp với câu ở sau “vật đó sẽ thuộc về họ”. Hoặc là, vo chính là sở hữu cách (của các ông). Còn về vật đó của họ: có nghĩa là sự phát sanh y đó sẽ thuộc về những vị nào đã thọ Kaṭhina.
Tattha anāmantacāroti yāva kathinaṃ na uddhariyati, tāva anāmantetvā caraṇaṃ kappissati , cārittasikkhāpadena anāpatti bhavissatīti attho. Asamādānacāroti ticīvaraṃ asamādāya caraṇaṃ; cīvaravippavāso kappissatīti attho. Gaṇabhojananti gaṇabhojanampi kappissati. Yāvadatthacīvaranti yāvattakena cīvarena attho, tāvattakaṃ anadhiṭṭhitaṃ avikappitaṃ kappissatīti attho. Yo ca tattha cīvaruppādoti tattha kathinatthatasīmāyaṃ matakacīvaraṃ vā hotu saṅghaṃ uddissa dinnaṃ vā saṅghikena tatruppādena ābhataṃ vā, yena kenaci ākārena yaṃ saṅghikacīvaraṃ uppajjati, taṃ tesaṃ bhavissatīti attho.
Ở đó, sự đi lại không cần xin phép: có nghĩa là cho đến khi Kaṭhina chưa được xả, chừng đó việc đi lại không cần xin phép sẽ hợp lệ; sẽ không phạm tội theo học giới về việc đi lại. Sự đi lại không mang đủ tam y: việc đi lại không thọ trì tam y; có nghĩa là việc rời xa y sẽ hợp lệ. Việc ăn chung nhóm: việc ăn chung nhóm cũng sẽ hợp lệ. Y phục nhiều đến mức cần thiết: có nghĩa là (y) chưa phát nguyện, chưa tác pháp xả sẽ hợp lệ. Và sự phát sanh y nào ở đó: y nào thuộc về Tăng phát sanh do bất kỳ hình thức nào trong giới trường đã thọ Kaṭhina đó, dù là y của người chết, hoặc được cúng dường nhắm đến Tăng chúng, hoặc được mang đến từ hoa lợi của Tăng sanh ra tại đó, vật đó sẽ thuộc về họ, đó là ý nghĩa.
Evañca pana bhikkhave kathinaṃ attharitabbanti ettha kathinatthāraṃ ke labhanti, ke na labhantīti? Gaṇanavasena tāva pacchimakoṭiyā pañca janā labhanti, uddhaṃ satasahassampi, pañcannaṃ heṭṭhā na labhanti. Vutthavassavasena purimikāya vassaṃ upagantvā paṭhamapavāraṇāya pavāritā labhanti, chinnavassā vā pacchimikāya upagatā vā na labhanti, aññasmiṃ vihāre vutthavassāpi na labhantīti mahāpaccariyaṃ vuttaṃ. Purimikāya upagatānaṃ pana sabbe gaṇapūrakā honti, ānisaṃsaṃ na labhanti, ānisaṃso itaresaṃyeva hoti. Sace purimikāya upagatā cattāro vā honti tayo vā dve vā eko vā, itare gaṇapūrake katvā kathinaṃ attharitabbaṃ. Atha cattāro bhikkhū upagatā, eko paripuṇṇavasso sāmaṇero, so ce pacchimikāya upasampajjati, gaṇapūrako ceva hoti, ānisaṃsañca labhati. Tayo bhikkhū dve sāmaṇerā, dve bhikkhū tayo sāmaṇerā, eko bhikkhu cattāro sāmaṇerāti etthāpi eseva nayo. Sace purimikāya upagatā kathinatthārakusalā na honti, atthārakusalā khandhakabhāṇakatherā pariyesitvā ānetabbā. Kammavācaṃ sāvetvā kathinaṃ attharāpetvā dānañca bhuñjitvā gamissanti. Ānisaṃso pana itaresaṃyeva hoti.
Về Và này các Tỳ khưu, Kaṭhina nên được thọ như vầy: ở đây, ai được phép thọ Kaṭhina, ai không được phép? Trước hết, về mặt số lượng, giới hạn cuối cùng là năm người được phép; trở lên thì dù cả trăm ngàn cũng được; dưới năm người thì không được phép. Về mặt đã an cư, những vị đã nhập tiền an cư và đã tự tứ trong lễ Tự tứ đầu tiên thì được phép; những vị bị gián đoạn an cư hoặc nhập hậu an cư thì không được phép; ngay cả những vị đã an cư ở trú xứ khác cũng không được phép, theo Mahāpaccarī. Nhưng đối với những vị đã nhập tiền an cư, tất cả (những vị khác) đều là người đủ túc số nhóm; họ không được hưởng phước báu (Kaṭhina); phước báu chỉ thuộc về những vị kia (tiền an cư). Nếu những vị nhập tiền an cư có bốn, hoặc ba, hoặc hai, hoặc một vị, nên thọ Kaṭhina sau khi lấy những vị khác làm người đủ túc số nhóm. Nếu có bốn Tỳ khưu nhập (tiền an cư) và một Sa di đủ tuổi hạ, nếu vị đó thọ giới Cụ túc vào hậu an cư, thì vừa là người đủ túc số nhóm, vừa được hưởng phước báu. Ba Tỳ khưu, hai Sa di; hai Tỳ khưu, ba Sa di; một Tỳ khưu, bốn Sa di – ở đây cũng theo cách này. Nếu những vị nhập tiền an cư không rành về việc thọ Kaṭhina, nên tìm kiếm và mời đến các vị Trưởng lão rành về việc thọ Kaṭhina, thông thuộc các Chương (Luật). Sau khi đọc lời yết-ma và cho họ thọ Kaṭhina, họ sẽ dùng vật cúng dường rồi ra đi. Nhưng phước báu thì chỉ thuộc về những vị kia (an cư tại đó).
Kathinaṃ kena dinnaṃ vaṭṭati? Yena kenaci devena vā manussena vā pañcannaṃ vā sahadhammikānaṃ aññatarena dinnaṃ vaṭṭati. Kathinadāyakassa vattaṃ atthi, sace so taṃ ajānanto pucchati – ‘‘bhante kathaṃ kathinaṃ dātabba’’nti tassa evaṃ ācikkhitabbaṃ – ‘‘tiṇṇaṃ cīvarānaṃ aññatarappahonakaṃ sūriyuggamanasamaye vatthaṃ ‘kathinacīvaraṃ demā’ti dātuṃ vaṭṭati , tassa parikammatthaṃ ettakā nāma sūciyo, ettakaṃ suttaṃ, ettakaṃ rajanaṃ, parikammaṃ karontānaṃ ettakānaṃ bhikkhūnaṃ yāgubhattañca dātuṃ vaṭṭatī’’ti.
Kaṭhina do ai cúng dường thì hợp lệ? Do bất kỳ trời hay người nào, hoặc do một trong năm vị đồng pháp cúng dường cũng hợp lệ. Có bổn phận của người cúng dường Kaṭhina; nếu người đó không biết điều đó mà hỏi: “Kính bạch ngài, nên cúng dường Kaṭhina như thế nào?” thì nên chỉ dạy cho người đó như vầy: “Được phép cúng dường tấm vải đủ làm một trong ba y vào lúc mặt trời mọc với (lời tác bạch): ‘chúng tôi xin cúng dường y Kaṭhina’; vì mục đích gia công y đó, được phép cúng dường chừng này kim, chừng này chỉ, chừng này thuốc nhuộm, và cháo và vật thực cho chừng này Tỳ khưu làm việc gia công”.
Kathinatthārakenāpi dhammena samena uppannaṃ kathinaṃ attharantena vattaṃ jānitabbaṃ. Tantavāyagehato hi ābhatasantāneneva khalimakkhitasāṭako na vaṭṭati, malīnasāṭakopi na vaṭṭati, tasmā kathinatthārasāṭakaṃ labhitvā suṭṭhu dhovitvā sūciādīni cīvarakammūpakaraṇāni sajjetvā bahūhi bhikkhūhi saddhiṃ tadaheva sibbitvā niṭṭhitasūcikammaṃ rajitvā kappabinduṃ datvā kathinaṃ attharitabbaṃ. Sace tasmiṃ anatthateyeva aññaṃ kathinasāṭakaṃ āharati, aññāni ca bahūni kathinānisaṃsavatthāni deti, yo ānisaṃsaṃ bahuṃ deti, tassa santakeneva attharitabbaṃ. Itaro yathā tathā ovaditvā saññāpetabbo.
Ngay cả đối với vị thọ Kaṭhina, vị thọ Kaṭhina đã phát sanh đúng pháp, đúng luật, cũng phải biết bổn phận. Vì (vải) vừa mới mang đến từ nhà thợ dệt, y có dính hồ không hợp lệ, y dơ bẩn cũng không hợp lệ; do đó, sau khi nhận được y Kaṭhina, sau khi giặt sạch sẽ, sau khi chuẩn bị kim v.v., các dụng cụ làm y, sau khi may cùng với nhiều Tỳ khưu ngay trong ngày đó, sau khi việc may đã hoàn tất, nhuộm xong, chấm dấu hợp lệ (kappabindu), nên thọ Kaṭhina. Nếu khi y đó chưa được thọ, người khác mang đến y Kaṭhina khác, và cúng dường nhiều vật phước báu Kaṭhina khác, thì người nào cúng dường nhiều phước báu hơn, nên thọ (y) sở hữu của người đó. Người kia nên được khuyên bảo và làm cho hiểu rõ tùy trường hợp.
Kathinaṃ pana kena attharitabbaṃ? Yassa saṅgho kathinacīvaraṃ deti. Saṅghena pana kassa dātabbaṃ? Yo jiṇṇacīvaro hoti. Sace bahū jiṇṇacīvarā honti, vuḍḍhassa dātabbaṃ. Vuḍḍhesupi yo mahāpariso tadaheva cīvaraṃ katvā attharituṃ sakkoti, tassa dātabbaṃ. Sace vuḍḍho na sakkoti navakataro sakkoti, tassa dātabbaṃ. Apica saṅghena mahātherassa saṅgahaṃ kātuṃ vaṭṭati, tasmā ‘‘tumhe bhante gaṇhatha, mayaṃ katvā dassāmā’’ti vattabbaṃ. Tīsu cīvaresu yaṃ jiṇṇaṃ hoti, tadatthāya dātabbaṃ. Pakatiyā dupaṭṭacīvarassa dupaṭṭatthāyeva dātabbaṃ. Sacepissa ekapaṭṭacīvaraṃ ghanaṃ hoti, kathinasāṭako ca pelavo, sāruppatthāya dupaṭṭappahonakameva dātabbaṃ, ‘‘ahaṃ alabhanto ekapaṭṭaṃ pārupāmī’’ti vadantassāpi dupaṭṭaṃ dātuṃ vaṭṭati. Yo pana lobhapakatiko hoti, tassa na dātabbaṃ. Tenāpi ‘‘kathinaṃ attharitvā pacchā sibbitvā dve cīvarāni karissāmī’’ti na gahetabbaṃ. Yassa pana dīyati, tassa yena vidhinā dātabbaṃ, taṃ dassetuṃ ‘‘evañca pana bhikkhave kathinaṃ attharitabba’’nti ārabhitvā suṇātu me bhantetiādikā dānakammavācā tāva vuttā.
Nhưng Kaṭhina nên được thọ bởi ai? Vị nào mà Tăng chúng trao y Kaṭhina. Nhưng Tăng chúng nên trao cho ai? Vị nào có y cũ rách. Nếu có nhiều vị y cũ rách, nên trao cho vị lớn tuổi nhất. Ngay cả trong các vị lớn tuổi, vị nào có đông người giúp đỡ, có thể làm y xong và thọ ngay trong ngày đó, nên trao cho vị đó. Nếu vị lớn tuổi không thể, vị trẻ hơn có thể, nên trao cho vị đó. Hơn nữa, Tăng chúng được phép giúp đỡ vị Đại Trưởng lão; do đó, nên nói rằng: “Kính bạch ngài, xin ngài hãy nhận, chúng con sẽ làm và dâng lên ngài”. Trong ba y, y nào cũ rách, nên trao (y Kaṭhina) cho mục đích đó. Thông thường, đối với người có y hai lớp, nên trao (y Kaṭhina) cho mục đích làm y hai lớp. Ngay cả nếu y một lớp của vị ấy dày và y Kaṭhina mỏng, vì sự thích hợp, nên trao (vải) đủ làm y hai lớp; ngay cả đối với vị nói rằng “tôi không nhận được (vải đủ hai lớp), tôi sẽ đắp y một lớp”, cũng được phép trao (vải) hai lớp. Nhưng người nào có bản tánh tham lam, không nên trao cho vị đó. Vị ấy cũng không nên nhận với ý nghĩ “tôi sẽ thọ Kaṭhina, sau đó may thành hai y”. Nhưng đối với người được trao, nên trao theo phương pháp nào, để chỉ rõ điều đó, sau khi bắt đầu bằng Và này các Tỳ khưu, Kaṭhina nên được thọ như vầy, trước hết, các lời yết-ma cúng dường bắt đầu bằng “Kính bạch Đại đức Tăng…” đã được nói.
Evaṃ dinne pana kathine sace taṃ kathinadussaṃ niṭṭhitaparikammameva hoti , iccetaṃ kusalaṃ. No ce niṭṭhitaparikammaṃ hoti, ‘‘ahaṃ thero’’ti vā ‘‘bahussuto’’ti vā ekenāpi akātuṃ na labbhati, sabbeheva sannipatitvā dhovanasibbanarajanāni niṭṭhāpetabbāni. Idañhi kathinavattaṃ nāma buddhappasatthaṃ. Atīte padumuttaropi bhagavā kathinavattaṃ akāsi. Tassa kira aggasāvako sujātatthero nāma kathinaṃ gaṇhi, taṃ satthā aṭṭhasaṭṭhiyā bhikkhusatasahassehi saddhiṃ nisīditvā akāsi.
Nhưng khi Kaṭhina đã được trao như vậy, nếu tấm vải Kaṭhina đó đã được gia công xong rồi, việc này là tốt. Nếu chưa được gia công xong, dù chỉ một người cũng không được phép không làm với lý do “tôi là trưởng lão” hay “tôi là bậc đa văn”; tất cả phải tụ họp lại để hoàn tất việc giặt, may, nhuộm. Vì bổn phận Kaṭhina này được Đức Phật tán thán. Trong quá khứ, Đức Thế Tôn Padumuttara cũng đã làm bổn phận Kaṭhina. Nghe nói Thượng thủ Thanh văn của ngài tên là Trưởng lão Sujāta đã nhận Kaṭhina; Đức Đạo Sư đã ngồi làm (y Kaṭhina) đó cùng với sáu mươi tám trăm ngàn Tỳ khưu.
Katapariyositaṃ pana kathinaṃ gahetvā atthārakena bhikkhunā ‘‘sace saṅghāṭiyā kathinaṃ attharitukāmo hoti, porāṇikā saṅghāṭi paccuddharitabbā, navā saṅghāṭi adhiṭṭhātabbā. ‘Imāya saṅghāṭiyā kathinaṃ attharāmī’ti vācā bhinditabbā’’tiādinā parivāre vuttavidhānena kathinaṃ attharitabbaṃ. Attharitvā ca pana ‘‘tena kathinatthārakena bhikkhunā saṅghaṃ upasaṅkamitvā ekaṃsaṃ uttarāsaṅgaṃ karitvā añjaliṃ paggahetvā evamassa vacanīyo – ‘atthataṃ bhante saṅghassa kathinaṃ, dhammiko kathinatthāro, anumodathā’ti tehi anumodakehi bhikkhūhi ekaṃsaṃ uttarāsaṅgaṃ karitvā añjaliṃ paggahetvā evamassa vacanīyo – ‘atthataṃ āvuso saṅghassa kathinaṃ, dhammiko kathinatthāro, anumodāmā’’ti evamādinā parivāre vuttavidhāneneva anumodāpetabbaṃ, itarehi ca anumoditabbaṃ. Evaṃ sabbesaṃ atthataṃ hoti kathinaṃ. Vuttañhetaṃ parivāre ‘‘dvinnaṃ puggalānaṃ atthataṃ hoti kathinaṃ – atthārakassa ca anumodakassa cā’’ti (pari. 403). Punapi vuttaṃ – ‘‘na saṅgho kathinaṃ attharati, na gaṇo kathinaṃ attharati, puggalo kathinaṃ attharati, saṅghassa anumodanā gaṇassa anumodanā puggalassa atthārā saṅghassa atthataṃ hoti kathinaṃ, gaṇassa atthataṃ hoti kathinaṃ, puggalassa atthataṃ hoti kathinaṃ’’ti (pari. 414).
Nhưng sau khi lấy y Kaṭhina đã làm xong, bởi vị Tỳ khưu thọ Kaṭhina, nếu muốn thọ Kaṭhina bằng y tăng-già-lê, nên xả y tăng-già-lê cũ, nên phát nguyện y tăng-già-lê mới, nên nói thành lời: “Tôi xin thọ Kaṭhina bằng y tăng-già-lê này”, nên thọ Kaṭhina theo phương pháp đã nói trong bộ Parivāra, bắt đầu bằng… Và sau khi đã thọ xong, vị Tỳ khưu thọ Kaṭhina đó, sau khi đến gần Tăng chúng, lệch vai áo vai trái, chắp tay rồi nên nói như vầy: “Kính bạch Đại đức Tăng, Kaṭhina của Tăng đã được thọ, việc thọ Kaṭhina đúng pháp, xin quý ngài hãy tùy hỷ”. Bởi các Tỳ khưu tùy hỷ đó, lệch vai áo vai trái, chắp tay rồi nên nói như vầy: “Này Hiền giả, Kaṭhina của Tăng đã được thọ, việc thọ Kaṭhina đúng pháp, chúng tôi xin tùy hỷ”. Nên làm cho tùy hỷ theo chính phương pháp đã nói trong bộ Parivāra, bắt đầu bằng…, và những vị khác cũng nên tùy hỷ. Như vậy, Kaṭhina được xem là đã thọ đối với tất cả. Điều này đã được nói trong bộ Parivāra: “Kaṭhina được xem là đã thọ đối với hai hạng người: người thọ và người tùy hỷ”. Lại còn nói rằng: “Tăng chúng không thọ Kaṭhina, nhóm không thọ Kaṭhina, cá nhân thọ Kaṭhina; sự tùy hỷ của Tăng chúng, sự tùy hỷ của nhóm, sự thọ của cá nhân – Kaṭhina được xem là đã thọ đối với Tăng chúng, Kaṭhina được xem là đã thọ đối với nhóm, Kaṭhina được xem là đã thọ đối với cá nhân”.
Evaṃ atthate pana kathine sace kathinacīvarena saddhiṃ ābhataṃ ānisaṃsaṃ dāyakā ‘‘yena amhākaṃ kathinaṃ gahitaṃ, tasseva demā’’ti denti , bhikkhusaṅgho anissaro. Atha avicāretvāva datvā gacchanti, bhikkhusaṅgho issaro. Tasmā sace kathinatthārakassa sesacīvarānipi dubbalāni honti, saṅghena apaloketvā tesampi atthāya vatthāni dātabbāni. Kammavācā pana ekāyeva vaṭṭati. Avasese kathinānisaṃse balavavatthāni vassāvāsikaṭṭhitikāya dātabbāni, ṭhitikāya abhāve therāsanato paṭṭhāya dātabbāni, garubhaṇḍaṃ na bhājetabbaṃ. Sace pana ekasīmāya bahū vihārā honti, sabbe bhikkhū sannipātetvā ekattha kathinaṃ attharitabbaṃ, visuṃ visuṃ attharituṃ na vaṭṭati.
Nhưng khi Kaṭhina đã được thọ như vậy, nếu phước báu (vật dụng) được mang đến cùng với y Kaṭhina, (và) thí chủ cúng dường với ý nghĩ: “Người nào đã nhận Kaṭhina của chúng tôi, chúng tôi xin cúng cho chính vị ấy”, thì Tăng chúng Tỳ khưu không có quyền (đối với vật đó). Nếu họ cúng dường mà không chỉ định rồi ra đi, thì Tăng chúng Tỳ khưu có quyền. Do đó, nếu các y còn lại của vị thọ Kaṭhina cũng yếu mỏng, Tăng chúng nên thông báo rồi trao các tấm vải vì lợi ích của những y đó nữa. Nhưng chỉ một lời yết-ma là hợp lệ. Đối với các phước báu Kaṭhina còn lại, các tấm vải tốt nên được trao theo thứ tự hạ lạp an cư; nếu không có thứ tự (an cư), nên trao bắt đầu từ ghế ngồi của Trưởng lão; vật nặng (của Tăng) không nên phân chia. Nhưng nếu có nhiều trú xứ trong cùng một giới trường, nên tập hợp tất cả Tỳ khưu lại rồi thọ Kaṭhina tại một nơi; không được phép thọ riêng lẻ.
308. Idāni yathā ca kathinaṃ atthataṃ hoti, yathā ca anatthataṃ, taṃ vidhiṃ vitthārato dassetuṃ evañca pana bhikkhave atthataṃ hoti kathinaṃ evaṃ anatthatanti vatvā akaraṇīyañceva mahābhūmikañca anatthatalakkhaṇaṃ tāva dassento na ullikhitamattenātiādike catuvīsati ākāre dassesi. Tato paraṃ atthatalakkhaṇaṃ dassento ahatena atthatantiādike sattarasa ākāre dassesi. Parivārepi hi ‘‘catuvīsatiyā ākārehi anatthataṃ hoti kathinaṃ, sattarasahi ākārehi atthataṃ hoti kathina’’nti idameva lakkhaṇaṃ vuttaṃ.
308. Bây giờ, Kaṭhina được xem là đã thọ như thế nào, và chưa thọ như thế nào, để chỉ rõ phương pháp đó một cách chi tiết, sau khi nói Và này các Tỳ khưu, Kaṭhina được xem là đã thọ như vầy, chưa thọ như vầy, trước hết, chỉ rõ đặc điểm chưa thọ là việc không nên làm và các nền tảng chính, đã chỉ ra hai mươi bốn cách thức bắt đầu bằng không phải chỉ bằng việc vạch dấu… Sau đó, chỉ rõ đặc điểm đã thọ, đã chỉ ra mười bảy cách thức bắt đầu bằng đã thọ bằng vải mới… Vì ngay cả trong bộ Parivāra, chính đặc điểm này đã được nói: “Kaṭhina được xem là chưa thọ do hai mươi bốn cách thức; Kaṭhina được xem là đã thọ do mười bảy cách thức”.
Tattha ullikhitamattenāti dīghato ca puthulato ca pamāṇaggahaṇamattena. Pamāṇañhi gaṇhanto tassa tassa padesassa sañjānanatthaṃ nakhādīhi vā paricchedaṃ dassento ullikhati, nalāṭādīsu vā ghaṃsati, tasmā taṃ pamāṇaggahaṇaṃ ‘‘ullikhitamatta’’nti vuccati. Dhovanamattenāti kathinadussadhovanamattena. Cīvaravicāraṇamattenāti ‘‘pañcakaṃ vā sattakaṃ vā navakaṃ vā ekādasakaṃ vā hotū’’ti evaṃ vicāritamattena. Chedanamattenāti yathāvicāritassa vatthassa chedanamattena. Bandhanamattenāti moghasuttakāropanamattena. Ovaṭṭiyakaraṇamattenāti moghasuttakānusārena dīghasibbitamattena. Kaṇḍusakaraṇamattenāti muddhiyapattabandhanamattena. Daḷhīkammakaraṇamattenāti dve cimilikāyo ekato katvā sibbitamattena. Atha vā paṭhamacimilikā ghaṭetvā ṭhapitā hoti, kathinasāṭakaṃ tassā kucchicimilikaṃ katvā sibbitamattenātipi attho. Mahāpaccariyaṃ ‘‘pakaticīvarassa upassayadānenā’’ti vuttaṃ. Kurundiyaṃ pana ‘‘pakatipattabaddhacīvaraṃ dupaṭṭaṃ kātuṃ kucchicimilikaṃ alliyāpanamattenā’’ti vuttaṃ. Anuvātakaraṇamattenāti piṭṭhianuvātāropanamattena. Paribhaṇḍakaraṇamattenāti kucchianauvātāropanamattena. Ovaddheyyakaraṇamattenāti āgantukapattāropanamattena . Kathinacīvarato vā pattaṃ gahetvā aññasmiṃ akathinacīvare pattāropanamattena.
Ở đó, chỉ bằng việc vạch dấu: chỉ bằng việc lấy kích thước chiều dài và chiều rộng. Vì người lấy kích thước, nhằm mục đích nhận biết từng vị trí của nó, vạch dấu chỉ ranh giới bằng móng tay v.v., hoặc chà xát vào trán v.v.; do đó, việc lấy kích thước đó được gọi là “chỉ bằng việc vạch dấu”. Chỉ bằng việc giặt: chỉ bằng việc giặt vải Kaṭhina. Chỉ bằng việc tính toán y: chỉ bằng việc tính toán như vầy: “hãy làm y năm điều, hoặc bảy điều, hoặc chín điều, hoặc mười một điều”. Chỉ bằng việc cắt: chỉ bằng việc cắt tấm vải đã được tính toán. Chỉ bằng việc ráp nối sơ sài: chỉ bằng việc đính chỉ tạm. Chỉ bằng việc may đường may dài: chỉ bằng việc may dài theo đường chỉ tạm. Chỉ bằng việc làm phần vai: chỉ bằng việc đính miếng vá tròn. Chỉ bằng việc làm đường may củng cố: chỉ bằng việc may ghép hai đường may lại với nhau. Hoặc là, đường may thứ nhất đã được may và để đó; cũng có nghĩa là chỉ bằng việc may y Kaṭhina làm đường may viền trong cho đường may đó. Trong Mahāpaccarī nói là “bằng việc may thêm miếng phụ cho y thường”. Nhưng trong Kurundī nói là “chỉ bằng việc đính đường may viền trong để làm thành y hai lớp cho chiếc y thường đã có miếng vá”. Chỉ bằng việc làm đường may dọc: chỉ bằng việc đắp đường may dọc ở lưng y. Chỉ bằng việc làm đường may viền: chỉ bằng việc đắp đường may ngang bụng. Chỉ bằng việc đắp miếng vá thêm: chỉ bằng việc đắp miếng vá phụ; hoặc chỉ bằng việc lấy miếng vá từ y Kaṭhina đắp vào y không phải Kaṭhina khác.
Kambalamaddanamattenāti ekavāraṃyeva rajane pakkhittena dantavaṇṇena paṇḍupalāsavaṇṇena vā. Sace pana sakiṃ vā dvikkhattuṃ vā rattampi sāruppaṃ hoti, vaṭṭati. Nimittakatenāti ‘‘iminā dussena kathinaṃ attharissāmī’’ti evaṃ nimittakatena. Ettakameva hi parivāre vuttaṃ. Aṭṭhakathāsu pana ‘‘ayaṃ sāṭako sundaro, sakkā iminā kathinaṃ attharitu’nti evaṃ nimittakammaṃ katvā laddhenā’’ti vuttaṃ. Parikathākatenāti ‘‘kathinaṃ nāma dātuṃ vaṭṭati, kathinadāyako bahuṃ puññaṃ pasavatī’’ti evaṃ parikathāya uppāditena. Kathinaṃ nāma atiukkaṭṭhaṃ vaṭṭati, mātarampi viññāpetuṃ na vaṭṭati, ākāsato otiṇṇasadisameva vaṭṭatīti. Kukkukatenāti tāvakālikena. Sannidhikatenāti ettha duvidho sannidhi karaṇasannidhi ca nicayasannidhi ca. Tattha tadaheva akatvā ṭhapetvā karaṇaṃ karaṇasannidhi. Saṅgho ajja kathinadussaṃ labhitvā punadivase deti, ayaṃ nicayasannidhi.
Chỉ bằng việc nhuộm sơ qua như len: bằng (vải) chỉ nhúng vào thuốc nhuộm một lần duy nhất, (có màu) ngà voi hoặc màu lá úa. Nhưng nếu dù chỉ nhuộm một hoặc hai lần mà thích hợp thì được phép. Bằng (vải) đã được làm dấu hiệu: bằng (vải) đã được làm dấu hiệu như vầy: “tôi sẽ thọ Kaṭhina bằng tấm vải này”. Vì chỉ chừng đó được nói trong bộ Parivāra. Nhưng trong các Chú giải đã nói là “bằng (vải) nhận được sau khi đã làm dấu hiệu như vầy: ‘y này đẹp, có thể thọ Kaṭhina bằng y này’”. Bằng (vải) có được do gợi ý: bằng (vải) được tạo ra do sự gợi ý như vậy: “việc cúng dường Kaṭhina là hợp lệ, người cúng dường Kaṭhina sanh nhiều phước báu”. Kaṭhina hợp lệ phải là loại tốt nhất; ngay cả mẹ cũng không được phép gợi ý; chỉ hợp lệ loại giống như từ trên trời rơi xuống. Bằng (vải) làm vội vàng/tạm bợ: bằng (vải) chỉ dùng trong một thời gian ngắn. Bằng (vải) do cất giữ: ở đây, có hai loại cất giữ: cất giữ để làm và cất giữ tích trữ. Trong đó, việc để đó không làm ngay trong ngày là cất giữ để làm. Tăng chúng hôm nay nhận vải Kaṭhina, ngày hôm sau mới trao, đây là cất giữ tích trữ.
Nissaggiyenāti rattinissaggiyena. Parivārepi vuttaṃ – ‘‘nissaggiyaṃ nāma kariyamāne aruṇaṃ uṭṭhahatī’’ti. Akappakatenāti anādinnakappabindunā. Aññatra saṅghāṭiyātiādīsu ṭhapetvā saṅghāṭiuttarāsaṅgaantaravāsake aññena paccattharaṇādinā atthataṃ anatthataṃ hotīti. Aññatra pañcakena vā atirekapañcakena vāti pañca vā atirekāni vā khaṇḍāni katvā mahāmaṇḍalaaḍḍhamaṇḍalāni dassetvā kateneva vaṭṭati. Evañhi samaṇḍalikataṃ hoti, taṃ ṭhapetvā aññena acchinnakena vā dvatticatukhaṇḍena vā na vaṭṭati. Aññatra puggalassa atthārāti puggalassa atthāraṃ ṭhapetvā na aññena saṅghassa vā gaṇassa vā atthārena atthataṃ hoti. Nissīmaṭṭho anumodatīti bahiupacārasīmāya ṭhito anumodati.
Bằng (vải) ưng xả đối trị (quá hạn): bằng (vải) ưng xả đối trị do để qua đêm. Trong bộ Parivāra cũng nói: “Gọi là ưng xả đối trị khi rạng đông ló dạng trong lúc đang làm (y)”. Bằng (vải) chưa được làm cho hợp lệ (chưa chấm dấu): bằng (vải) chưa được chấm dấu hợp lệ. Về ngoại trừ y tăng-già-lê v.v.: (Kaṭhina) được thọ bằng vật khác như tấm trải v.v., ngoại trừ y tăng-già-lê, y vai trái, y nội, thì xem như chưa thọ. Về ngoại trừ (y) năm điều hoặc hơn năm điều: chỉ hợp lệ khi được làm bằng cách thể hiện các ô lớn, ô nửa sau khi làm thành năm điều hoặc nhiều hơn năm điều. Vì như vậy là đã làm có các ô; ngoại trừ loại đó, không hợp lệ (khi thọ) bằng y chưa cắt hoặc y hai, ba, bốn điều. Về ngoại trừ sự thọ của cá nhân: ngoại trừ sự thọ của cá nhân, không được xem là đã thọ bằng sự thọ của Tăng chúng hay của nhóm. Vị ở ngoài giới trường tùy hỷ: vị đứng ở ngoài giới trường thông thường tùy hỷ.
309.Ahatenāti aparibhuttena. Ahatakappenāti ahatasadisena ekavāraṃ vā dvikkhattuṃ vā dhotena. Pilotikāyāti hatavatthakasāṭakena . Paṃsukūlenāti tevīsatiyā khettesu uppannapaṃsukūlena. Paṃsukūlikabhikkhunā coḷakabhikkhaṃ āhiṇḍitvā laddhacoḷakehi katacīvarenātipi kurundimahāpaccarīsu vuttaṃ. Pāpaṇikenāti āpaṇadvāre patitapilotikaṃ gahetvā kathinatthāya deti, tenāpi vaṭṭatīti attho. Sesaṃ vuttavipallāseneva veditabbaṃ. Imasmiṃ pana ṭhāne ‘‘saha kathinassa atthārā kati dhammā jāyantī’’tiādi bahuaṭṭhakathāsu vuttaṃ, taṃ sabbaṃ parivāre pāḷiārūḷhameva, tasmā tattha āgatanayeneva veditabbaṃ. Na hi tena idha avuccamānena kathinatthārakassa kiñci parihāyati.
309. Bằng vải mới: bằng (vải) chưa dùng. Bằng vải gần như mới: bằng (vải) giống như mới, đã giặt một hoặc hai lần. Bằng vải cũ rách: bằng y đã bị hư hỏng. Bằng y phấn tảo: bằng y phấn tảo phát sanh ở hai mươi ba loại ruộng (nơi vứt bỏ). Cũng được nói trong Kurundī, Mahāpaccarī là bằng y được làm từ những mảnh vải vụn nhận được sau khi vị Tỳ khưu hạnh phấn tảo đi xin vải vụn. Bằng (vải) nhặt ở chợ: có nghĩa là nhặt miếng vải cũ rách rơi ở cửa chợ, cúng dường cho mục đích Kaṭhina, bằng vải đó cũng hợp lệ. Phần còn lại nên hiểu theo cách đối nghịch với những gì đã nói (về anatthata). Nhưng ở chỗ này, điều được nói trong nhiều Chú giải bắt đầu bằng “cùng với việc thọ Kaṭhina, có bao nhiêu pháp sanh khởi?” v.v., tất cả những điều đó đều đã được đưa vào Pāḷi trong bộ Parivāra; do đó, nên hiểu theo phương pháp đã trình bày ở đó. Vì không có gì tổn giảm cho người thọ Kaṭhina do điều đó không được nói ở đây.
310. Evaṃ kathinatthāraṃ dassetvā idāni ubbhāraṃ dassetuṃ kathañca bhikkhave ubbhataṃ hoti kathinantiādimāha. Tattha mātikāti mātaro; janettiyoti attho. Kathinubbhārañhi etā aṭṭha janettiyo. Tāsu pakkamanaṃ anto assāti pakkamanantikā. Evaṃ sesāpi veditabbā.
310. Sau khi chỉ rõ việc thọ Kaṭhina như vậy, bây giờ, để chỉ rõ việc xả (Kaṭhina), đã nói câu bắt đầu bằng Và này các Tỳ khưu, Kaṭhina được xem là đã xả như thế nào? v.v. Ở đó, các đề mục mẹ: các đề mục mẹ; có nghĩa là những điều làm phát sinh (việc xả). Vì tám điều làm phát sinh việc xả Kaṭhina này. Trong đó, sự ra đi nằm trong (danh sách đó) nên là (việc xả) kết thúc bằng sự ra đi. Các trường hợp còn lại cũng nên hiểu như vậy.
Ādāyasattakakathā
Câu chuyện về bảy cách lấy (để xả)
311.Na paccessanti na puna āgamissaṃ. Etasmiṃ pana pakkamanantike kathinuddhāre paṭhamaṃ cīvarapalibodho chijjati, pacchā āvāsapalibodho. Evaṃ pakkamato hi cīvarapalibodho antosīmāyameva chijjati, āvāsapalibodho sīmātikkame. Vuttampi cetaṃ parivāre –
311. Tôi sẽ không trở lại: tôi sẽ không trở lại nữa. Nhưng trong việc xả Kaṭhina kết thúc bằng sự ra đi này, trước tiên, sự ràng buộc về y bị cắt đứt; sau đó, sự ràng buộc về trú xứ (bị cắt đứt). Vì đối với người ra đi như vậy, sự ràng buộc về y bị cắt đứt ngay trong giới trường; sự ràng buộc về trú xứ (bị cắt đứt) khi vượt qua giới trường. Và điều này đã được nói trong bộ Parivāra:
“Việc xả Kaṭhina kết thúc bằng sự ra đi, đã được nói bởi Bậc Thân Thuộc Mặt Trời;
Và điều này Ta sẽ giải thích, sự ràng buộc về y bị cắt đứt trước tiên;
Sau đó sự ràng buộc về trú xứ bị cắt đứt”.
‘‘Pakkamanantiko kathinuddhāro, vutto ādiccabandhunā;
Etañca tāhaṃ vissajjissaṃ, cīvarapalibodho paṭhamaṃ chijjati;
Pacchā āvāsapalibodho chijjatī’’ti. (pari. 415);
“Việc xả Kaṭhina kết thúc bằng sự ra đi, đã được nói bởi Bậc Thân Thuộc Mặt Trời;
Và điều này Ta sẽ giải thích, sự ràng buộc về y bị cắt đứt trước tiên;
Sau đó sự ràng buộc về trú xứ bị cắt đứt”.
Cīvaraṃ ādāyāti akatacīvaraṃ ādāya. Bahisīmagatassāti aññaṃ sāmantavihāraṃ gatassa. Evaṃ hotīti tasmiṃ vihāre senāsanaphāsukaṃ vā sahāyasampattiṃ vā disvā evaṃ hoti . Etasmiṃ pana niṭṭhānantike kathinuddhāre āvāsapalibodho paṭhamaṃ chijjati, so hi ‘‘na paccessa’’nti citte uppannamatteyeva chijjati. Vuttampi cetaṃ –
Về sau khi lấy y: sau khi lấy y chưa làm xong. Về đối với vị đã đi ra ngoài giới trường: đối với vị đã đi đến trú xứ lân cận khác. Về (tâm) sanh khởi như vầy: sau khi thấy sự thoải mái về chỗ ở hoặc sự đầy đủ bạn bè tại trú xứ đó, (tâm) sanh khởi như vầy. Nhưng trong việc xả Kaṭhina kết thúc bằng sự hoàn thành (y) này, sự ràng buộc về trú xứ bị cắt đứt trước tiên; vì sự ràng buộc đó bị cắt đứt ngay khi tâm nghĩ rằng “sẽ không trở lại” vừa sanh khởi. Và điều này đã được nói:
‘‘Niṭṭhānantiko kathinuddhāro, vutto ādiccabandhunā;
Etañca tāhaṃ vissajjissaṃ, āvāsapalibodho paṭhamaṃ chijjati;
Cīvare niṭṭhite cīvarapalibodho chijjatī’’ti.
“Việc xả Kaṭhina kết thúc bằng sự hoàn thành (y), đã được nói bởi Bậc Thân Thuộc Mặt Trời;
Và điều này Ta sẽ giải thích, sự ràng buộc về trú xứ bị cắt đứt trước tiên;
Khi y đã hoàn thành, sự ràng buộc về y bị cắt đứt”.
Etena nayena sesamātikāvibhajanepi attho veditabbo. Ayaṃ pana viseso – ‘‘sanniṭṭhānantike dvepi palibodhā nevimaṃ cīvaraṃ kāressaṃ, na paccessanti citte uppannamatteyeva ekato chijjantīti. Vuttañhetaṃ –
Nên hiểu ý nghĩa trong phần phân tích các đề mục mẹ còn lại cũng theo phương pháp này. Nhưng đây là điểm đặc biệt: trong (việc xả Kaṭhina) kết thúc bằng sự cùng hoàn thành, cả hai sự ràng buộc bị cắt đứt cùng lúc ngay khi tâm nghĩ rằng “tôi sẽ không làm y này nữa, và sẽ không trở lại” vừa sanh khởi. Điều này đã được nói:
‘‘Sanniṭṭhānantiko kathinuddhāro, vutto ādiccabandhunā;
Etañca tāhaṃ vissajjissaṃ, dve palibodhā apubbaṃ acarimaṃ chijjantī’’ti.
“Việc xả Kaṭhina kết thúc bằng sự cùng hoàn thành, đã được nói bởi Bậc Thân Thuộc Mặt Trời;
Và điều này Ta sẽ giải thích, hai sự ràng buộc bị cắt đứt không trước không sau (cùng lúc)”.
Evaṃ sabbakathinuddhāresu palibodhupacchedo veditabbo. So pana yasmā iminā ca vuttanayena parivāre ca āgatabhāvena sakkā jānituṃ, tasmā vitthārato na vutto. Ayaṃ panettha saṅkhepo – nāsanantike āvāsapalibodho paṭhamaṃ chijjati, cīvare naṭṭhe cīvarapalibodho chijjati. Yasmā cīvare naṭṭhe cīvarapalibodho chijjati, tasmā ‘‘nāsanantiko’’ti vuttaṃ.
Nên hiểu sự đoạn trừ các ràng buộc trong tất cả các trường hợp xả Kaṭhina như vậy. Nhưng vì điều đó có thể được biết qua phương pháp đã nói này và qua những gì đã trình bày trong bộ Parivāra, do đó, không được nói chi tiết. Đây là phần tóm tắt ở đây: trong (trường hợp xả) kết thúc bằng sự mất (y), sự ràng buộc về trú xứ bị cắt đứt trước tiên; khi y bị mất, sự ràng buộc về y bị cắt đứt. Vì sự ràng buộc về y bị cắt đứt khi y bị mất, do đó được gọi là (trường hợp xả) kết thúc bằng sự mất.
Savanantike cīvarapalibodho paṭhamaṃ chijjati, tasmā tassa saha savanena āvāsapalibodho chijjati.
Trong (trường hợp xả) kết thúc bằng sự nghe tin, sự ràng buộc về y bị cắt đứt trước tiên; do đó, cùng với việc nghe tin, sự ràng buộc về trú xứ của vị ấy bị cắt đứt.
Āsāvacchedike āvāsapalibodho paṭhamaṃ chijjati. Cīvarāsāya upacchinnāya cīvarapalibodho chijjati. Ayaṃ pana yasmā ‘‘anāsāya labhati; āsāya na labhati; tassa evaṃ hoti ‘idhevimaṃ cīvaraṃ kāressaṃ, na paccessa’’’ntiādinā nayena itarehi uddhārehi saddhiṃ vomissakadesano anekappabhedo hoti, tasmā parato visuṃ vitthāretvā vutto, idha na vutto. Idha pana savanantikassa anantaraṃ sīmātikkantiko vutto. Tattha cīvarapalibodho paṭhamaṃ chijjati, tassa bahisīme āvāsapalibodho chijjati. Sahubbhāre dve palibodhā apubbaṃ acarimaṃ chijjantīti.
Trong (trường hợp xả) kết thúc bằng sự dứt hy vọng, sự ràng buộc về trú xứ bị cắt đứt trước tiên. Khi hy vọng về y bị dứt, sự ràng buộc về y bị cắt đứt. Nhưng vì trường hợp này là pháp thoại trình bày lẫn lộn với các trường hợp xả khác theo phương pháp bắt đầu bằng: “Không hy vọng thì được; hy vọng thì không được; vị ấy có tâm như vầy: ‘tôi sẽ làm y này ngay tại đây, sẽ không trở lại’”… và có nhiều loại khác nhau, do đó, được nói chi tiết riêng ở sau, không được nói ở đây. Nhưng ở đây, sau trường hợp kết thúc bằng sự nghe tin, trường hợp vượt qua giới trường được nói đến. Ở đó, sự ràng buộc về y bị cắt đứt trước tiên; sự ràng buộc về trú xứ của vị ấy bị cắt đứt ở ngoài giới trường. Trong (trường hợp xả) cùng lúc, hai sự ràng buộc bị cắt đứt không trước không sau.
316-325. Evaṃ ādāyavāre sattakathinuddhāre dassetvā puna samādāyavārepi vippakatacīvarassa ādāyasamādāyavāresupi yathāsambhavaṃ teyeva dassitā. Tato paraṃ antosīmāyaṃ ‘‘paccessaṃ na paccessa’’nti imaṃ vidhiṃ anāmasitvāva ‘‘na paccessa’’nti imameva āmasitvā anadhiṭṭhitenā’’tiādinā nayena ca ye ye yujjanti, te te dassitā. Tato paraṃ ‘‘cīvarāsāya pakkamatī’’tiādinā nayena itarehi saddhiṃ vomissakanayena anekakkhattuṃ āsāvacchedikaṃ dassetvā puna disaṃgamiyavasena ca phāsuvihārikavasena ca niṭṭhānantikesu yujjamānā kathinuddhārā dassitā. Evaṃ pabhedato kathinuddhāraṃ dassetvā idāni ye tena tena kathinuddhārena palibodhā chijjantīti vuttā, tesaṃ paṭipakkhe dassento dveme bhikkhave kathinassa palibodhātiādimāha. Tattha cattenāti yena cittena so āvāso catto hoti, taṃ cattaṃ nāma, tena cattena. Vantamuttesupi eseva nayo. Sesaṃ sabbattha uttānamevāti.
316-325. Sau khi chỉ ra bảy cách xả Kaṭhina trong trường hợp mang đi như vậy, lại còn trong trường hợp mang theo đầy đủ y chưa hoàn tất, trong các trường hợp mang đi và mang theo đầy đủ cũng vậy, chính những cách đó được chỉ ra tùy theo khả năng. Sau đó, trong giới trường, không hề đề cập đến phương pháp “sẽ trở lại, không trở lại” này, mà chỉ đề cập đến “không trở lại” này; và theo phương pháp bắt đầu bằng “bằng (y) chưa phát nguyện”…, những trường hợp nào thích hợp, những trường hợp đó được chỉ ra. Sau đó, theo phương pháp bắt đầu bằng “ra đi với hy vọng về y”…, sau khi chỉ ra trường hợp dứt hy vọng nhiều lần theo phương pháp lẫn lộn với các trường hợp khác; lại còn theo phương diện đi đến phương khác và theo phương diện sống thoải mái, các cách xả Kaṭhina thích hợp trong trường hợp kết thúc bằng sự hoàn thành (y) được chỉ ra. Sau khi chỉ rõ việc xả Kaṭhina theo các loại như vậy, bây giờ, chỉ rõ mặt đối lập của những sự ràng buộc nào đã được nói là bị cắt đứt do cách xả Kaṭhina này hay cách xả kia, đã nói câu bắt đầu bằng Này các Tỳ khưu, có hai sự ràng buộc này của Kaṭhina… Ở đó, do đã từ bỏ: tâm nào mà trú xứ đó đã được từ bỏ, tâm đó gọi là sự từ bỏ; do sự từ bỏ đó. Trong các trường hợp đã từ bỏ, đã giải thoát cũng theo cách này. Phần còn lại ở mọi nơi đều rõ ràng rồi.
Kathinakkhandhakavaṇṇanā niṭṭhitā.
Phần chú giải Chương Kaṭhina đến đây là kết thúc.