Chú giải Tăng Chi Bộ Kinh

Chú giải kinh Tăng Chi Bộ I – Chương 1 – 1. Phẩm sắc

1. Rūpādivaggavaṇṇanā
Giải thích chương liên quan đến sắc pháp.

Tattha aṅguttarāgamo nāma ekakanipāto dukanipāto tikanipāto catukkanipāto pañcakanipāto chakkanipāto sattakanipāto aṭṭhakanipāto navakanipāto dasakanipāto ekādasakanipātoti ekādasa nipātā honti.
Tại đó, Tăng Chi Bộ kinh bao gồm các chương: một pháp, hai pháp, ba pháp, bốn pháp, năm pháp, sáu pháp, bảy pháp, tám pháp, chín pháp, mười pháp và mười một pháp.

Suttato –
Theo kinh văn –

‘‘Nava suttasahassāni, pañca suttasatāni ca; Sattapaññāsa suttāni, honti aṅguttarāgame’’.
‘‘Chín ngàn kinh, cùng năm trăm kinh nữa; Bảy mươi lăm kinh, đều nằm trong Aṅguttara Nikāya.’’

Tassa nipātesu ekakanipāto ādi, suttesu cittapariyādānasuttaṃ.
Trong các chương đó, chương một pháp là đầu tiên, và trong các kinh, kinh Cittapariyādānasuttaṃ (Kinh Về Sự Chiếm Lấy Tâm) là đầu tiên.

Tassāpi ‘‘evaṃ me suta’’ntiādikaṃ āyasmatā ānandena paṭhamamahāsaṅgītikāle vuttaṃ nidānamādi.
Và kinh đó bắt đầu với câu ‘‘Như vầy tôi nghe’’ do tôn giả Ānanda đọc lại trong kỳ kết tập kinh điển lần đầu tiên.

Sā panesā paṭhamamahāsaṅgīti sumaṅgalavilāsiniyā dīghanikāyaṭṭhakathāya ādimhi vitthāritā, tasmā sā tattha vitthāritanayeneva veditabbā.
Kinh đó đã được giải thích chi tiết trong bộ Sumaṅgalavilāsinī (Các bài bình luận về Kinh tạng “Sutta Piṭaka” – Chú giải Trường bộ kinh, có thể hiểu nghĩa là “Vẻ Đẹp của Sự May Mắn” hoặc “Ánh Sáng của Điều Tốt Lành”), phần chú giải của Trường Bộ kinh trong kỳ kết tập kinh điển lần đầu, vì vậy nên hiểu kinh này theo cách giải thích ở đó.

Nidānavaṇṇanā
Giải thích về phần mở đầu.

1. Yaṃ panetaṃ ‘‘evaṃ me suta’’ntiādikaṃ nidānaṃ, tattha evanti nipātapadaṃ, metiādīni nāmapadāni.
Còn câu mở đầu “Như vầy tôi nghe”, trong đó “evaṃ” là tiểu từ, “me” và các từ đi kèm là danh từ.

Sāvatthiyaṃ viharatīti ettha vīti upasaggapadaṃ, haratīti ākhyātapadanti iminā tāva nayena padavibhāgo veditabbo.
Trong câu “Sāvatthiyaṃ viharatīti”, “vī” là tiền tố, “harati” là động từ, theo cách này phân tích từ ngữ cần phải hiểu.

Atthato pana evaṃsaddo tāva upamūpadesa-sampahaṃsana-garahaṇavacana-sampaṭiggahākāranidassanāvadhāraṇādi-anekatthappabhedo.
Về ý nghĩa, từ “evaṃ” có nhiều ý nghĩa khác nhau như: ví dụ, chỉ dẫn, tán thán, phê phán, chấp nhận, biểu thị lý do, nhấn mạnh, và nhiều ý nghĩa khác.

Tathā hesa ‘‘evaṃ jātena maccena, kattabbaṃ kusalaṃ bahu’’nti evamādīsu (dha. pa. 53) upamāyaṃ āgato.
Chẳng hạn, trong câu “Một khi đã sinh ra làm người, cần phải làm nhiều điều lành” (Kinh Pháp Cú 53), “evaṃ” được sử dụng như một ví dụ.

‘‘Evaṃ te abhikkamitabbaṃ, evaṃ te paṭikkamitabba’’ntiādīsu (a. ni. 4.122) upadese.
Trong câu “Con hãy tiến lên như vậy, con hãy lùi lại như vậy” (Aṅguttara Nikāya 4.122), “evaṃ” được sử dụng để chỉ dẫn.

‘‘Evametaṃ bhagavā, evametaṃ sugatā’’tiādīsu (a. ni. 3.66) sampahaṃsane.
Trong câu “Bạch Thế Tôn, điều này thật đúng, điều này thật lành thay” (Aṅguttara Nikāya 3.66), “evaṃ” được sử dụng để tán thán.

‘‘Evamevaṃ panāyaṃ vasalī yasmiṃ vā tasmiṃ vā tassa muṇḍakassa samaṇakassa vaṇṇaṃ bhāsatī’’tiādīsu (saṃ. ni. 1.187) garahaṇe.
Trong câu “Như thế đó, kẻ ác ngợi khen vị Sa-môn đầu trọc này” (Saṃyutta Nikāya 1.187), “evaṃ” được sử dụng để phê phán.

‘‘Evaṃ, bhanteti kho te bhikkhū bhagavato paccassosu’’ntiādīsu (ma. ni. 1.1) vacanasampaṭiggahe.
Trong câu “Vâng, bạch Thế Tôn” (Majjhima Nikāya 1.1), “evaṃ” được sử dụng để chấp nhận lời nói.

‘‘Evaṃ byākho ahaṃ, bhante, bhagavatā dhammaṃ desitaṃ ājānāmī’’tiādīsu (ma. ni. 1.398) ākāre.
Trong câu “Thưa Thế Tôn, con hiểu giáo pháp của Ngài như vậy” (Majjhima Nikāya 1.398), “evaṃ” được sử dụng để chỉ hình thức.

‘‘Ehi tvaṃ, māṇavaka, yena samaṇo ānando tenupasaṅkama; upasaṅkamitvā mama vacanena samaṇaṃ ānandaṃ appābādhaṃ appātaṅkaṃ lahuṭṭhānaṃ balaṃ phāsuvihāraṃ puccha – ‘subho māṇavo todeyyaputto bhavantaṃ ānandaṃ appābādhaṃ…pe… phāsuvihāraṃ pucchatī’ti, evañca vadehi ‘‘sādhu kira bhavaṃ ānando yena subhassa māṇavassa todeyyaputtassa nivesanaṃ, tenupasaṅkamatu anukampaṃ upādāyā’’tiādīsu (dī. ni. 1.445) nidassane.
Trong câu “Hãy đến, này thanh niên, đến gặp tôn giả Ānanda và hỏi Ngài có khỏe không, và sau đó nói rằng Ngài nên đến nhà của Subha, con của Todeyya, vì lòng từ bi” (Dīgha Nikāya 1.445), “evaṃ” được sử dụng để biểu thị.

‘‘Taṃ kiṃ maññatha, kālāmā, ime dhammā kusalā vā akusalā vāti? Akusalā, bhante. Sāvajjā vā anavajjā vāti? Sāvajjā, bhante. Viññugarahitā vā viññuppasatthā vāti? Viññugarahitā, bhante. Samattā samādinnā ahitāya dukkhāya saṃvattanti no vā, kathaṃ vo ettha hotīti? Samattā, bhante, samādinnā ahitāya dukkhāya saṃvattanti, evaṃ no ettha hotī’’tiādīsu (a. ni. 3.66) avadhāraṇe.
Trong câu “Các ông nghĩ sao, hỡi các Kālāma, những pháp này là thiện hay bất thiện? Bất thiện, bạch Thế Tôn. Đáng trách hay không đáng trách? Đáng trách, bạch Thế Tôn” (Aṅguttara Nikāya 3.66), “evaṃ” được sử dụng để nhấn mạnh.

Svāyamidha ākāranidassanāvadhāraṇesu daṭṭhabbo.
Do đó, trong trường hợp này, “evaṃ” cần phải được hiểu theo ý nghĩa biểu thị hình thức, chỉ dẫn, và nhấn mạnh.

Tattha ākāratthena evaṃsaddena etamatthaṃ dīpeti
Tại đây, từ “evaṃ” trong ý nghĩa biểu thị hình thức chỉ ra rằng: lời dạy của đức Phật, với ngôn từ và ý nghĩa phong phú, xuất phát từ trí tuệ đa dạng và khởi nguồn từ nhiều tâm hướng khác nhau, là sâu sắc trong sự giải thích về chân lý, thấu đáo về Pháp, và đạt đến tai mọi chúng sinh theo ngôn ngữ riêng của họ. Ai có thể hiểu trọn vẹn lời của đức Phật bằng mọi cách? Sau khi đã khơi dậy lòng mong muốn được nghe Pháp bằng mọi cách, con đã nghe như vậy, và theo một cách nào đó, ta cũng đã nghe như vậy.

Nidassanatthena ‘‘nāhaṃ sayambhū, na mayā idaṃ sacchikata’’nti attānaṃ parimocento ‘‘evaṃ me sutaṃ, mayāpi evaṃ suta’’nti idāni vattabbaṃ sakalaṃ suttaṃ nidasseti.
Với ý nghĩa minh họa, “Ta không phải là bậc giác ngộ tự mình, và ta cũng không tự mình chứng ngộ điều này” – là cách để giải thoát bản thân, nói rằng: “Như vầy tôi nghe, tôi cũng đã nghe như vậy”, bây giờ trích dẫn toàn bộ kinh để chỉ dẫn.

Avadhāraṇatthena ‘‘etadaggaṃ, bhikkhave, mama sāvakānaṃ bhikkhūnaṃ bahussutānaṃ yadidaṃ ānando, satimantānaṃ, gatimantānaṃ, dhitimantānaṃ, upaṭṭhākānaṃ yadidaṃ ānando’’ti (a. ni. 1.219, 223) evaṃ bhagavatā
Với ý nghĩa nhấn mạnh, “Này các Tỳ-khưu, đứng đầu trong số những vị đệ tử Tỳ-khưu của ta về sự đa văn là Ānanda, về sự cẩn trọng, sự hiểu biết và trí nhớ tốt, người có khả năng phục vụ tốt là Ānanda” (Aṅguttara Nikāya 1.219, 223), đức Phật đã nói như vậy.

‘‘āyasmā ānando atthakusalo dhammakusalo byañjanakusalo niruttikusalo pubbāparakusalo’’ti (a. ni. 5.169) evaṃ dhammasenāpatinā ca pasatthabhāvānurūpaṃ attano dhāraṇabalaṃ dassento sattānaṃ sotukāmataṃ janeti
“Tôn giả Ānanda là người thông suốt về ý nghĩa, thông thạo về giáo pháp, ngôn từ, cách diễn đạt và sự phân tích” (Aṅguttara Nikāya 5.169) – và cũng như vậy, bậc Đại tướng của Pháp đã khen ngợi ông phù hợp với phẩm hạnh, biểu lộ khả năng ghi nhớ của mình và khơi dậy lòng mong muốn nghe pháp của chúng sinh.

‘‘evaṃ me sutaṃ, tañca kho atthato vā byañjanato vā anūnamanadhikaṃ, evameva, na aññathā daṭṭhabba’’nti.
“Như vầy tôi nghe, và điều đó không thiếu cũng không thừa về mặt ý nghĩa hay ngôn từ, như vậy chứ không thể khác được” – điều này cần phải được hiểu như vậy.

Mesaddo tīsu atthesu dissati.
Từ “me” xuất hiện trong ba ý nghĩa.

Tathā hissa ‘‘gāthābhigītaṃ me abhojaneyya’’ntiādīsu (su. ni. 81; saṃ. ni. 1.194) mayāti attho.
Ví dụ như trong câu “Bài kệ này được hát lên cho ta thì không thể ăn” (Sutta Nipāta 81; Saṃyutta Nikāya 1.194), “me” có nghĩa là “ta”.

‘‘Sādhu me, bhante, bhagavā saṃkhittena dhammaṃ desetū’’tiādīsu (saṃ. ni. 4.88) mayhanti attho.
Trong câu “Bạch Thế Tôn, mong Ngài thuyết giảng Pháp tóm tắt cho con” (Saṃyutta Nikāya 4.88), “me” có nghĩa là “cho con”.

‘‘Dhammadāyādā me, bhikkhave, bhavathā’’tiādīsu (ma. ni. 1.29) mamāti attho.
Trong câu “Này các Tỳ-khưu, hãy là người thừa kế Pháp của ta” (Majjhima Nikāya 1.29), “me” có nghĩa là “của ta”.

Idha pana ‘‘mayā suta’’nti ca, ‘‘mama suta’’nti ca atthadvaye yujjati.
Ở đây, cả hai ý nghĩa “ta nghe” và “của ta nghe” đều phù hợp.

Sutanti ayaṃ sutasaddo saupasaggo ca anupasaggo ca gamana-vissuta-kilinnaupacitānuyoga-sotaviññeyya-sotadvārānusāraviññātādianekatthappabhedo.
Từ “suta” có thể xuất hiện cả khi có tiền tố và không có tiền tố, và mang nhiều ý nghĩa như: đi, lan truyền, dính bẩn, tích tụ, chuyên tâm, nhận biết qua tai, hoặc hiểu qua cửa tai.

Tathā hissa – ‘‘senāya pasuto’’tiādīsu gacchantoti attho.
Ví dụ như trong câu “Đã lạc lối trong quân đội” thì có nghĩa là “đi”.

‘‘Sutadhammassa passato’’tiādīsu (udā. 11) vissutadhammassāti attho.
Trong câu “Người thấy Pháp đã nghe” (Udāna 11), “suta” có nghĩa là “đã lan truyền”.

‘‘Avassutā avassutassā’’tiādīsu (pāci. 657) kilinnākilinnassāti attho.
Trong câu “Người bị ô nhiễm và người không bị ô nhiễm” (Pācittiya 657), “suta” có nghĩa là “dính bẩn”.

‘‘Tumhehi puññaṃ pasutaṃ anappaka’’ntiādīsu (khu. pā. 7-12) upacitanti attho.
Trong câu “Các ngươi đã tích lũy nhiều công đức” (Khuddakapāṭha 7-12), “suta” có nghĩa là “tích tụ”.

‘‘Ye jhānappasutā dhīrā’’tiādīsu (dha. pa. 181) jhānānuyuttāti attho.
Trong câu “Những bậc trí tuệ chuyên tâm vào thiền định” (Dhammapada 181), “suta” có nghĩa là “chuyên tâm”.

‘‘Diṭṭhaṃ sutaṃ muta’’ntiādīsu (ma. ni. 1.241) sotaviññeyyanti attho.
Trong câu “Điều thấy, điều nghe, điều cảm nhận” (Majjhima Nikāya 1.241), “suta” có nghĩa là “nhận biết qua tai”.

‘‘Sutadharo sutasannicayo’’tiādīsu (ma. ni. 1.339) sotadvārānusāraviññātadharoti attho.
Trong câu “Người giữ gìn điều đã nghe, tích lũy điều đã nghe” (Majjhima Nikāya 1.339), “suta” có nghĩa là “hiểu biết qua cửa tai”.

Idha panassa sotadvārānusārena upadhāritanti vā upadhāraṇanti vāti attho.
Ở đây, nó có nghĩa là được hiểu qua cửa tai hoặc sự hiểu biết.

Me-saddassa hi mayāti atthe sati ‘‘evaṃ mayā sutaṃ sotadvārānusārena upadhārita’’nti yujjati.
Trong trường hợp từ “me” mang nghĩa “ta”, câu “như vầy ta nghe, đã được ta hiểu qua cửa tai” là phù hợp.

Mamāti atthe sati ‘‘evaṃ mama sutaṃ sotadvārānusārena upadhāraṇa’’nti yujjati.
Trong trường hợp từ “me” mang nghĩa “của ta”, câu “như vầy điều ta nghe, được hiểu qua cửa tai” là phù hợp.

Evametesu tīsu padesu evanti sotaviññāṇādiviññāṇakiccanidassanaṃ.
Trong ba phần này, “evaṃ” là sự biểu thị chức năng của ý thức nghe qua cửa tai và các hoạt động khác của ý thức.

Meti vuttaviññāṇasamaṅgipuggalanidassanaṃ.
“Me” biểu thị sự liên kết với người có ý thức đã được đề cập.

Sutanti assavanabhāvapaṭikkhepato anūnādhikāviparītaggahaṇanidassanaṃ.
“Suta” biểu thị sự loại trừ việc không nghe, không nắm bắt sai lệch, thiếu hay thừa điều đã nghe.

Tathā evanti tassā sotadvārānusārena pavattāya viññāṇavīthiyā nānappakārena ārammaṇe pavattabhāvappakāsanaṃ.
“Evaṃ” cũng biểu thị sự biểu lộ của dòng chảy ý thức hoạt động theo nhiều cách khác nhau qua cửa tai với đối tượng.

Meti attappakāsanaṃ.
“Me” biểu thị sự biểu lộ của bản ngã.

Sutanti dhammappakāsanaṃ.
“Suta” biểu thị sự biểu lộ của Pháp.

Ayañhettha saṅkhepo – ‘‘nānappakārena ārammaṇe pavattāya viññāṇavīthiyā mayā na aññaṃ kataṃ, idaṃ pana kataṃ, ayaṃ dhammo suto’’ti.
Đây là tóm tắt: “Trong dòng chảy của ý thức hoạt động theo nhiều cách khác nhau với đối tượng, ta không làm điều gì khác, nhưng ta đã làm điều này, Pháp này đã được nghe”.

Tathā evanti niddisitabbappakāsanaṃ.
“Evaṃ” biểu thị sự biểu lộ của điều cần được giải thích.

Meti puggalappakāsanaṃ.
“Me” biểu thị sự biểu lộ của con người.

Sutanti puggalakiccappakāsanaṃ.
“Suta” biểu thị sự biểu lộ của hành động của con người.

Idaṃ vuttaṃ hoti – yaṃ suttaṃ niddisissāmi, taṃ mayā evaṃ sutanti.
Điều này có nghĩa là: Kinh văn mà ta sẽ giải thích, ta đã nghe như vậy.

Tathā evanti yassa cittasantānassa nānākārappavattiyā nānatthabyañjanaggahaṇaṃ hoti, tassa nānākāraniddeso.
“Evaṃ” biểu thị sự diễn tả của người có dòng tâm thức với các biến hóa khác nhau, nắm bắt các ý nghĩa và ngôn từ đa dạng.

Evanti hi ayaṃ ākārapaññatti.
“Evaṃ” là biểu hiện về hình thức.

Meti kattuniddeso.
“Me” là sự chỉ dẫn về chủ thể.

Sutanti visayaniddeso.
“Suta” là sự chỉ dẫn về đối tượng.

Ettāvatā nānākārappavattena cittasantānena taṃsamaṅgino kattu visaye gahaṇasanniṭṭhānaṃ kataṃ hoti.
Như vậy, qua dòng tâm thức với nhiều hình thái khác nhau, sự nắm bắt về đối tượng của chủ thể đã hoàn thành.

Atha vā evanti puggalakiccaniddeso.
Hoặc, “evaṃ” biểu thị hành động của con người.

Sutanti viññāṇakiccaniddeso.
“Suta” biểu thị hành động của ý thức.

Meti ubhayakiccayuttapuggalaniddeso.
“Me” biểu thị con người có liên quan đến cả hai loại hành động.

Ayaṃ panettha saṅkhepo – mayā savanakiccaviññāṇasamaṅginā puggalena viññāṇavasena laddhasavanakiccavohārena sutanti.
Đây là tóm tắt: Do ta, người có ý thức nghe, qua quá trình nhận thức bằng ý thức, đã nghe được điều này.

Tattha evanti ca meti ca saccikaṭṭhaparamatthavasena avijjamānapaññatti.
Ở đây, “evaṃ” và “me” là những khái niệm chỉ có trong ý nghĩa quy ước, không thực sự tồn tại theo cách tối hậu.

Kiñhettha taṃ paramatthato atthi, yaṃ evanti vā meti vā niddesaṃ labhetha.
Bởi vì, có điều gì đó thực sự tồn tại tối hậu để có thể nhận dạng là “evaṃ” hoặc “me” không?

Sutanti vijjamānapaññatti.
“Suta” là một khái niệm có thực theo cách tối hậu.

Yañhi taṃ ettha sotena upaladdhaṃ, taṃ paramatthato vijjamānanti.
Điều gì được nhận biết qua thính giác thì điều đó thực sự tồn tại theo cách tối hậu.

Tathā evanti ca meti ca taṃ taṃ upādāya vattabbato upādāpaññatti.
Tương tự, “evaṃ” và “me” là những khái niệm quy ước dựa trên những điều kiện cụ thể.

Sutanti diṭṭhādīni upanidhāya vattabbato upanidhāpaññatti.
“Suta” là một khái niệm quy ước dựa trên sự nhận thức bằng các giác quan như thấy và nghe.

Ettha ca evanti vacanena asammohaṃ dīpeti.
Ở đây, từ “evaṃ” biểu thị sự không mê mờ.

Na hi sammūḷho nānappakārapaṭivedhasamattho hoti.
Vì người mê muội không có khả năng hiểu biết theo nhiều cách khác nhau.

Sutanti vacanena sutassa asammosaṃ dīpeti.
Từ “suta” biểu thị sự không quên điều đã nghe.

Yassa hi sutaṃ sammuṭṭhaṃ hoti, na so kālantarena mayā sutanti paṭijānāti.
Vì ai quên điều đã nghe, người đó không thể khẳng định rằng “tôi đã nghe điều này” sau một thời gian dài.

Iccassa asammohena paññāsiddhi, asammosena pana satisiddhi.
Do đó, nhờ không mê mờ mà trí tuệ được thành tựu, và nhờ không quên mà sự tỉnh thức được hoàn thiện.

Tattha paññāpubbaṅgamāya satiyā byañjanāvadhāraṇasamatthatā, satipubbaṅgamāya paññāya atthapaṭivedhasamatthatā.
Ở đây, nhờ sự tỉnh thức đi trước mà có khả năng nắm bắt ngôn từ, và nhờ trí tuệ đi trước mà có khả năng hiểu thấu ý nghĩa.

Tadubhayasamatthatāyogena atthabyañjanasampannassa dhammakosassa anupālanasamatthato dhammabhaṇḍāgārikattasiddhi.
Nhờ sự phối hợp của cả hai khả năng này, việc bảo vệ kho tàng Pháp đầy đủ cả ý nghĩa lẫn ngôn từ được hoàn thành, và vai trò người giữ gìn Pháp được xác lập.

Aparo nayo – evanti vacanena yoniso manasikāraṃ dīpeti, ayoniso manasikaroto hi nānappakārapaṭivedhābhāvato.
Một cách giải thích khác: Từ “evaṃ” biểu thị sự quán chiếu hợp lý, vì người không quán chiếu hợp lý không thể hiểu biết theo nhiều cách khác nhau.

Sutanti vacanena avikkhepaṃ dīpeti, vikkhittacittassa savanābhāvato.
Từ “suta” biểu thị sự tập trung, vì người có tâm tán loạn không thể nghe đúng đắn.

Tathā hi vikkhittacitto puggalo sabbasampattiyā vuccamānopi ‘‘na mayā sutaṃ, puna bhaṇathā’’ti bhaṇati.
Người có tâm tán loạn, dù có được nói về mọi điều tốt lành, vẫn nói “tôi chưa nghe, xin nói lại”.

Yoniso manasikārena cettha attasammāpaṇidhiṃ pubbe ca katapuññataṃ sādheti sammā appaṇihitattassa pubbe akatapuññassa vā tadabhāvato.
Nhờ sự quán chiếu hợp lý, người ta có thể thiết lập đúng đắn bản thân và đạt được quả của những công đức đã làm trong quá khứ, nếu đã có công đức. Nếu không, sự thiếu công đức trong quá khứ sẽ cản trở.

Tathā avikkhepena saddhammassavanaṃ sappurisūpanissayañca sādheti.
Tương tự, nhờ sự không tán loạn, người ta có thể nghe chánh pháp và dựa vào sự trợ giúp của người hiền trí.

Na hi vikkhittacitto sotuṃ sakkoti, na ca sappurise anupassayamānassa savanaṃ atthīti.
Người có tâm tán loạn không thể nghe Pháp, và nếu không có sự trợ giúp của người hiền trí, thì cũng không có khả năng nghe đúng đắn.

Aparo nayo – yasmā ‘‘evanti yassa cittasantānassa nānākārappavattiyā nānatthabyañjanaggahaṇaṃ hoti, tassa nānākāraniddeso’’ti vuttaṃ.
Một cách giải thích khác – bởi vì câu “evaṃ” biểu thị sự diễn tả của người có dòng tâm thức biến hóa theo nhiều cách khác nhau, nắm bắt được nhiều ý nghĩa và ngôn từ đa dạng.

So ca evaṃ bhaddako ākāro na sammā appaṇihitattano pubbe akatapuññassa vā hoti, tasmā evanti iminā bhaddakenākārena pacchimacakkadvayasampattimattano dīpeti.
Và hình thức “evaṃ” tốt đẹp này không xảy ra với người không có sự chuẩn bị đúng đắn hoặc người thiếu công đức từ trước. Do đó, “evaṃ” biểu thị sự hoàn thành của hai mắt trí tuệ ở mức độ cao nhất.

Sutanti savanayogena purimacakkadvayasampattiṃ.
“Suta” biểu thị sự hoàn thành của hai mắt trí tuệ ban đầu nhờ vào quá trình nghe.

Na hi appatirūpadese vasato sappurisūpanissayavirahitassa vā savanaṃ atthi.
Người sống ở nơi không thuận lợi hoặc không có sự trợ giúp của người hiền trí sẽ không thể nghe Pháp.

Iccassa pacchimacakkadvayasiddhiyā āsayasuddhi siddhā hoti, purimacakkadvayasiddhiyā payogasuddhi.
Do đó, với sự hoàn thành của hai mắt trí tuệ sau cùng, sự thanh tịnh của tâm ý được thành tựu, và với sự hoàn thành của hai mắt trí tuệ ban đầu, sự thanh tịnh của hành động được thành tựu.

Tāya ca āsayasuddhiyā adhigamabyattisiddhi, payogasuddhiyā āgamabyattisiddhi.
Với sự thanh tịnh của tâm ý, khả năng đạt đến chân lý được hoàn thiện, và với sự thanh tịnh của hành động, khả năng hiểu biết về kinh điển được hoàn thiện.

Iti payogāsayasuddhassa āgamādhigamasampannassa vacanaṃ aruṇuggaṃ viya sūriyassa udayato, yoniso manasikāro viya ca kusalakammassa, arahati bhagavato vacanassa pubbaṅgamaṃ bhavitunti ṭhāne nidānaṃ ṭhapento evaṃ me sutantiādimāha.
Do đó, lời nói của người có sự thanh tịnh trong cả tâm ý và hành động, và đã hoàn thiện sự hiểu biết về kinh điển và chân lý, giống như ánh sáng ban mai báo hiệu mặt trời mọc, giống như sự quán chiếu hợp lý dẫn đến hành động lành. Vì vậy, khi thiết lập nền tảng của giáo lý, Ngài nói: “Như vầy tôi nghe”.

Aparo nayo – evanti iminā nānappakārapaṭivedhadīpakena vacanena attano atthapaṭibhānapaṭisambhidāsampattisabbhāvaṃ dīpeti.
Một cách giải thích khác – “evaṃ” biểu thị sự hoàn thành đầy đủ của trí tuệ phân biệt ý nghĩa và sự sáng suốt của bản thân qua lời nói làm sáng tỏ sự hiểu biết theo nhiều cách khác nhau.

Sutanti iminā sotabbabhedapaṭivedhadīpakena vacanena dhammaniruttipaṭisambhidāsampattisabbhāvaṃ.
“Suta” biểu thị sự hoàn thành đầy đủ của trí tuệ phân biệt ngôn từ qua lời nói làm sáng tỏ sự hiểu biết về các loại Pháp cần nghe.

Evanti ca idaṃ yoniso manasikāradīpakavacanaṃ bhāsamāno ‘‘ete mayā dhammā manasā anupekkhitā diṭṭhiyā suppaṭividdhā’’ti dīpeti.
Khi nói “evaṃ”, biểu thị lời nói làm sáng tỏ sự quán chiếu hợp lý, Ngài chỉ ra rằng: “Những Pháp này đã được ta quán xét kỹ lưỡng bằng tâm trí và đã được thấu hiểu rõ ràng”.

Sutanti idaṃ savanayogadīpakavacanaṃ bhāsamāno ‘‘bahū mayā dhammā sutā dhātā vacasā paricitā’’ti dīpeti.
Khi nói “suta”, biểu thị lời nói làm sáng tỏ quá trình nghe, Ngài chỉ ra rằng: “Ta đã nghe nhiều Pháp, ghi nhớ chúng và luyện tập với lời nói”.

Tadubhayenapi atthabyañjanapāripūriṃ dīpento savane ādaraṃ janeti.
Bằng cả hai điều này, Ngài biểu lộ sự viên mãn trong cả ý nghĩa và ngôn từ, làm phát sinh sự quan tâm đến việc nghe Pháp.

Atthabyañjanaparipuṇṇaṃ hi dhammaṃ ādarena assuṇanto mahatā hitā paribāhiro hotīti ādaraṃ janetvā sakkaccaṃ dhammo sotabboti.
Ai không nghe Pháp với sự viên mãn về ý nghĩa và ngôn từ thì sẽ bị loại khỏi lợi ích lớn lao. Vì vậy, khi đã khơi dậy lòng tôn kính, Pháp cần phải được nghe một cách cẩn thận và chân thành.
Evaṃ me sutanti iminā pana sakalena vacanena āyasmā ānando tathāgatappaveditaṃ dhammaṃ attano adahanto asappurisabhūmiṃ atikkamati, sāvakattaṃ paṭijānanto sappurisabhūmiṃ okkamati.
Khi nói “Như vầy tôi nghe” với toàn bộ câu này, Tôn giả Ānanda, không tự coi Pháp do Đức Thế Tôn giảng dạy là của riêng mình, vượt qua phạm vi của kẻ không chân thật và, khi thừa nhận địa vị của một đệ tử, đi vào phạm vi của người chân thật.

Tathā asaddhammā cittaṃ vuṭṭhāpeti, saddhamme cittaṃ patiṭṭhāpeti.
Như vậy, Ngài rút tâm ra khỏi tà pháp và đặt tâm vững chắc vào chánh pháp.

‘‘Kevalaṃ sutamevetaṃ mayā, tasseva pana bhagavato vacana’’nti dīpento attānaṃ parimoceti, satthāraṃ apadisati, jinavacanaṃ appeti, dhammanettiṃ patiṭṭhāpeti.
Bằng cách chỉ ra rằng: “Điều này chỉ đơn thuần là điều tôi đã nghe, nhưng là lời của Đức Thế Tôn”, Ngài tự giải thoát mình khỏi mọi trách nhiệm cá nhân, tôn vinh bậc Thầy, đưa ra lời dạy của Đức Phật, và thiết lập ngọn đuốc của chánh pháp.

Apica ‘‘evaṃ me suta’’nti attanā uppāditabhāvaṃ appaṭijānanto purimavacanaṃ vivaranto ‘‘sammukhā paṭiggahitamidaṃ mayā tassa bhagavato catuvesārajjavisāradassa dasabaladharassa āsabhaṭṭhānaṭṭhāyino sīhanādanādino sabbasattuttamassa dhammissarassa dhammarājassa dhammādhipatino dhammadīpassa dhammasaraṇassa saddhammavaracakkavattino sammāsambuddhassa vacanaṃ, na ettha atthe vā dhamme vā pade vā byañjane vā kaṅkhā vā vimati vā kattabbā’’ti sabbadevamanussānaṃ imasmiṃ dhamme assaddhiyaṃ vināseti, saddhāsampadaṃ uppādeti.
Hơn nữa, khi nói “Như vầy tôi nghe”, mà không nhận trách nhiệm về việc tự mình tạo ra điều này, Ngài giải thích câu nói trước rằng: “Điều này đã được tôi tiếp nhận trực tiếp từ Đức Thế Tôn, bậc hoàn toàn thông suốt, bậc có mười lực, bậc phát ra tiếng gầm sư tử, vua của các Pháp, người hướng dẫn tối cao cho mọi chúng sinh, vua của chánh pháp, vị thánh toàn giác. Không có sự nghi ngờ hay lầm lẫn nào cần có về ý nghĩa, pháp, lời nói, hoặc ngôn từ trong đó”. Bằng cách này, Ngài loại bỏ mọi sự hoài nghi trong lòng chư thiên và loài người về Pháp này, và khơi dậy niềm tin chân thật.

Tenetaṃ vuccati –
Do đó, điều này được nói rằng –

‘‘Vināsayati assaddhaṃ, saddhaṃ vaḍḍheti sāsane;
Evaṃ me sutamiccevaṃ, vadaṃ gotamasāvako’’ti.
“Người đệ tử của Đức Gotama, khi nói ‘Như vầy tôi nghe’, tiêu diệt sự bất tín và làm tăng trưởng niềm tin vào Giáo pháp”.

Ekanti gaṇanaparicchedaniddeso.
“Eka” biểu thị sự giới hạn trong con số.

Samayanti paricchinnaniddeso.
“Samaya” biểu thị sự giới hạn trong thời gian.

Ekaṃ samayanti aniyamitaparidīpanaṃ.
“Ekaṃ samaya” biểu thị một sự chỉ dẫn không cụ thể.

Tattha samayasaddo –
Từ “samaya” –

‘‘Samavāye khaṇe kāle, samūhe hetudiṭṭhisu;
Paṭilābhe pahāne ca, paṭivedhe ca dissati’’.
“Được sử dụng để chỉ sự tập hợp, khoảnh khắc, thời gian, nhóm, lý do, sự đạt được, sự từ bỏ, và sự hiểu biết”.
Tathā hissa ‘‘appeva nāma svepi upasaṅkameyyāma kālañca samayañca upādāyā’’ti evamādīsu (dī. ni. 1.447) samavāyo attho.
Như trong câu “Có lẽ chúng ta sẽ gặp nhau vào ngày mai, dựa trên thời gian và cơ hội” (Dīgha Nikāya 1.447), “samaya” mang ý nghĩa là sự tập hợp.

‘‘Ekova kho, bhikkhave, khaṇo ca samayo ca brahmacariyavāsāyā’’tiādīsu (a. ni. 8.29) khaṇo.
Trong câu “Này các Tỳ-khưu, chỉ có một khoảnh khắc và thời điểm cho sự thực hành đời sống phạm hạnh” (Aṅguttara Nikāya 8.29), “samaya” mang ý nghĩa là khoảnh khắc.

‘‘Uṇhasamayo pariḷāhasamayo’’tiādīsu (pāci. 358) kālo.
Trong câu “Thời tiết nóng bức và mùa oi bức” (Pācittiya 358), “samaya” mang ý nghĩa là thời gian.

‘‘Mahāsamayo pavanasmi’’ntiādīsu (dī. ni. 2.332) samūho.
Trong câu “Cuộc hội ngộ lớn tại cánh đồng” (Dīgha Nikāya 2.332), “samaya” mang ý nghĩa là sự tập hợp.

‘‘Samayopi kho te bhaddāli appaṭividdho ahosi, bhagavā kho sāvatthiyaṃ viharati, bhagavāpi maṃ jānissati ‘bhaddāli nāma bhikkhu satthu sāsane sikkhāya aparipūrakārī’ti, ayampi kho te, bhaddāli, samayo appaṭividdho ahosī’’tiādīsu (ma. ni. 2.135) hetu.
Trong câu “Bhaddāli, thời cơ đã trôi qua, Đức Phật đang ở Sāvatthī và Ngài sẽ biết rằng Bhaddāli không hoàn thành sự tu tập trong giáo lý của bậc Thầy” (Majjhima Nikāya 2.135), “samaya” mang ý nghĩa là nguyên nhân hoặc lý do.

‘‘Tena kho pana samayena uggāhamāno paribbājako samaṇamuṇḍikāputto samayappavādake tindukācīre ekasālake mallikāya ārāme paṭivasatī’’tiādīsu (ma. ni. 2.260) diṭṭhi.
Trong câu “Vào thời điểm đó, nhà sư Uggāhamāno sống tại khu vườn Mallikāya, tuân theo hệ tư tưởng của những người tuyên bố về thời gian” (Majjhima Nikāya 2.260), “samaya” mang ý nghĩa là quan điểm hoặc hệ tư tưởng.

‘‘Diṭṭhe dhamme ca yo attho, yo cattho samparāyiko; Atthābhisamayā dhīro, paṇḍitoti pavuccatī’’ti. – Ādīsu (saṃ. ni. 1.129) paṭilābho.
Trong câu “Người nào hiểu được lợi ích trong hiện tại và lợi ích trong tương lai, người đó được gọi là bậc trí” (Saṃyutta Nikāya 1.129), “samaya” mang ý nghĩa là sự đạt được.

‘‘Sammā mānābhisamayā antamakāsi dukkhassā’’tiādīsu (ma. ni. 1.28) pahānaṃ.
Trong câu “Người đã hiểu đúng đắn về sự kiêu ngạo và đã chấm dứt khổ đau” (Majjhima Nikāya 1.28), “samaya” mang ý nghĩa là sự từ bỏ.

‘‘Dukkhassa pīḷanaṭṭho saṅkhataṭṭho santāpaṭṭho vipariṇāmaṭṭho abhisamayaṭṭho’’tiādīsu (paṭi. ma. 2.8) paṭivedho.
Trong câu “Khổ đau có tính chất áp bức, tạo thành, gây nóng bức, biến hoại, và có tính chất thấu hiểu” (Paṭisambhidāmagga 2.8), “samaya” mang ý nghĩa là sự thấu hiểu.

Idha panassa kālo attho.
Ở đây, “samaya” mang ý nghĩa là thời gian.

Tena saṃvacchara-utu-māsa-aḍḍhamāsa-ratti-diva-pubbaṇha-majjhanhika-sāyanha-paṭhama-majjhima-pacchimayāma-muhuttādīsu kālappabhedabhūtesu samayesu ekaṃ samayanti dīpeti.
Do đó, nó chỉ ra một thời gian cụ thể giữa các khoảng thời gian như năm, mùa, tháng, nửa tháng, đêm, ngày, sáng sớm, giữa trưa, buổi chiều, canh đầu, canh giữa, canh cuối, hoặc khoảnh khắc.
f
Tattha kiñcāpi etesu saṃvaccharādīsu yaṃ yaṃ suttaṃ yamhi yamhi saṃvacchare utumhi māse pakkhe rattibhāge divasabhāge vā vuttaṃ, sabbaṃ taṃ therassa suviditaṃ suvavatthāpitaṃ paññāya.
Trong những thời gian như năm, mùa, tháng, nửa tháng, phần của đêm hoặc ngày mà kinh điển được thuyết giảng, tất cả những điều đó đều được bậc Trưởng lão ghi nhớ và xác định rõ ràng bằng trí tuệ của mình.

Yasmā pana ‘‘evaṃ me sutaṃ asukasaṃvacchare asukautumhi asukamāse asukapakkhe asukarattibhāge asukadivasabhāge vā’’ti evaṃ vutte na sakkā sukhena dhāretuṃ vā uddisituṃ vā uddisāpetuṃ vā, bahu ca vattabbaṃ hoti, tasmā ekeneva padena tamatthaṃ samodhānetvā ‘‘ekaṃ samaya’’nti āha.
Tuy nhiên, nếu nói “Như vầy tôi nghe vào năm đó, vào mùa đó, vào tháng đó, vào nửa tháng đó, vào phần của đêm đó hoặc ngày đó” thì không thể dễ dàng ghi nhớ hoặc giảng lại, và cũng cần nói rất nhiều. Do đó, ý nghĩa này được gói gọn trong một từ duy nhất “ekaṃ samaya” (một thời điểm).

Ye vā ime gabbhokkantisamayo jātisamayo saṃvegasamayo abhinikkhamanasamayo dukkarakārikasamayo māravijayasamayo abhisambodhisamayo diṭṭhadhammasukhavihārasamayo desanāsamayo parinibbānasamayoti evamādayo bhagavato devamanussesu ativiya suppakāsā anekakālappabhedā eva samayā, tesu samayesu desanāsamayasaṅkhātaṃ ekaṃ samayanti dīpeti.
Hoặc các thời điểm như: thời điểm nhập thai, thời điểm sinh ra, thời điểm thức tỉnh, thời điểm xuất gia, thời điểm thực hành khổ hạnh, thời điểm chiến thắng Ma vương, thời điểm đạt giác ngộ, thời điểm an trú trong hạnh phúc của chân lý, thời điểm thuyết pháp, và thời điểm nhập Niết-bàn – những thời điểm này của Đức Phật đều rất rõ ràng và xuất hiện vào nhiều thời gian khác nhau giữa chư thiên và loài người. Trong những thời điểm đó, Ngài chỉ ra “ekaṃ samaya” là thời điểm thuyết pháp.

Yo cāyaṃ ñāṇakaruṇākiccasamayesu karuṇākiccasamayo, attahitaparahita-paṭipattisamayesu parahita-paṭipattisamayo, sannipatitānaṃ karaṇīyadvayasamayesu dhammikathāsamayo, desanāpaṭipattisamayesu desanāsamayo, tesupi samayesu aññataraṃ sandhāya ‘‘ekaṃ samaya’’nti āha.
Thời điểm mà có sự kết hợp của trí tuệ và lòng từ bi thì gọi là thời điểm hành động từ bi, thời điểm thực hành lợi ích cho chính mình và người khác thì gọi là thời điểm thực hành vì lợi ích của người khác, trong những buổi gặp gỡ có hai nhiệm vụ thì gọi là thời điểm nói về Pháp, trong các thời điểm thuyết giảng thì gọi là thời điểm thuyết pháp. Trong những thời điểm đó, một trong các thời điểm được nhắc đến khi nói “ekaṃ samaya” (một thời điểm).

Kasmā panettha yathā abhidhamme ‘‘yasmiṃ samaye kāmāvacara’’nti ca, ito aññesu ca suttapadesu ‘‘yasmiṃ samaye, bhikkhave, bhikkhu vivicceva kāmehī’’ti ca bhummavacanena niddeso kato, vinaye ca ‘‘tena samayena buddho bhagavā’’ti karaṇavacanena niddeso kato, tathā akatvā ‘‘ekaṃ samaya’’nti upayogavacanena niddeso katoti.
Tại sao ở đây, như trong Abhidhamma, có cách diễn đạt bằng cách sử dụng cách sở thuộc “yasmiṃ samaye kāmāvacara” (vào thời điểm đó thuộc về dục giới) và ở những đoạn kinh khác như “yasmiṃ samaye, bhikkhave, bhikkhu vivicceva kāmehī” (này các Tỳ-khưu, vào thời điểm đó, Tỳ-khưu tách biệt khỏi dục lạc), lại được sử dụng dạng sở thuộc, còn trong giới luật thì lại sử dụng cách công cụ “tena samayena buddho bhagavā” (vào thời điểm đó, Đức Phật)? Tại sao không dùng cách này mà lại dùng cách đối ngữ “ekaṃ samaya” (vào một thời điểm)?

Tattha tathā, idha ca aññathā atthasambhavato.
Bởi vì ở đó ý nghĩa thích hợp là như vậy, còn ở đây thì khác.

Tattha hi abhidhamme ito aññesu suttapadesu ca adhikaraṇattho bhāvenabhāvalakkhaṇattho ca sambhavati.
Trong Abhidhamma và ở những đoạn kinh khác, “samaya” có nghĩa là địa điểm hoặc thời điểm và mang tính chất của hiện tượng hoặc điều kiện.

Adhikaraṇaṃ hi kālattho samūhattho ca samayo, tattha vuttānaṃ phassādidhammānaṃ khaṇasamavāyahetusaṅkhātassa ca samayassa bhāvena tesaṃ bhāvo lakkhīyati, tasmā tadatthajotanatthaṃ tattha bhummavacanena niddeso kato.
Ở đó, “samaya” mang nghĩa là thời gian hoặc sự tập hợp, và thời điểm khi các pháp như xúc chạm xảy ra, được xác định bởi tính chất của các điều kiện. Vì vậy, để làm rõ nghĩa này, cách sở thuộc đã được sử dụng.

Vinaye ca hetuattho karaṇattho ca sambhavati.
Trong giới luật, “samaya” mang nghĩa là nguyên nhân hoặc phương tiện.

Yo hi so sikkhāpadapaññattisamayo sāriputtādīhipi dubbiññeyyo, tena samayena hetubhūtena karaṇabhūtena ca sikkhāpadāni paññāpayanto sikkhāpadapaññattihetuñca apekkhamāno bhagavā tattha tattha vihāsi.
Thời điểm khi các giới luật được Đức Phật ban hành, ngay cả những vị như Sāriputta cũng khó hiểu rõ. Vào thời điểm đó, Đức Phật, dựa vào nguyên nhân và phương tiện, đã ban hành các giới luật và thiết lập nền tảng cho việc ban hành giới luật.

Tasmā tadatthajotanatthaṃ tattha karaṇavacanena niddeso kato.
Vì vậy, để làm sáng tỏ ý nghĩa này, cách công cụ đã được sử dụng trong trường hợp đó.

Idha pana aññasmiñca evaṃjātike accantasaṃyogattho sambhavati.
Ở đây và trong các trường hợp tương tự, ý nghĩa về sự kết hợp tuyệt đối được thể hiện.

Yañhi samayaṃ bhagavā imaṃ aññaṃ vā suttantaṃ desesi, accantameva taṃ samayaṃ karuṇāvihārena vihāsi.
Vào thời điểm mà Đức Phật giảng bài kinh này hay bất kỳ bài kinh nào khác, Ngài luôn sống trong lòng từ bi vô hạn.

Tasmā tadatthajotanatthaṃ idha upayogavacananiddeso katoti.
Do đó, để làm sáng tỏ ý nghĩa này, ở đây cách đối ngữ được sử dụng.

Tenetaṃ vuccati –
Do đó, điều này được nói rằng –

‘‘Taṃ taṃ atthamapekkhitvā, bhummena karaṇena ca;
‘‘Tùy theo ý nghĩa, cách sở thuộc và cách công cụ được sử dụng;

Aññatra samayo vutto, upayogena so idhā’’ti.
Ở nơi khác thì “samaya” được diễn tả, nhưng ở đây nó được thể hiện bằng cách đối ngữ.”

Porāṇā pana vaṇṇayanti – ‘‘tasmiṃ samaye’’ti vā ‘‘tena samayenā’’ti vā ‘‘ekaṃ samaya’’nti vā abhilāpamattabhedo esa, sabbattha bhummamevatthoti.
Các vị cổ đức giải thích rằng: Dù là “tasmiṃ samaye” (vào thời điểm đó), “tena samayena” (vào thời gian đó), hay “ekaṃ samaya” (vào một thời điểm), tất cả đều chỉ là sự khác biệt trong cách diễn đạt, và trong mọi trường hợp, ý nghĩa chính là cách sở thuộc.

Tasmā ‘‘ekaṃ samaya’’nti vuttepi ‘‘ekasmiṃ samaye’’ti attho veditabbo.
Do đó, khi nói “ekaṃ samaya” thì cũng phải hiểu là “vào một thời điểm”.

Bhagavāti garu. Garuñhi loke ‘‘bhagavā’’ti vadanti.
“Bhagavā” có nghĩa là đáng kính. Trong thế gian, người ta gọi những bậc đáng kính là “Bhagavā”.

Ayañca sabbaguṇavisiṭṭhatāya sabbasattānaṃ garu, tasmā ‘‘bhagavā’’ti veditabbo.
Và Ngài, do hoàn hảo trong tất cả các phẩm hạnh, là đáng kính đối với tất cả chúng sinh, nên phải hiểu rằng Ngài được gọi là “Bhagavā”.

Porāṇehipi vuttaṃ –
Các bậc cổ đức cũng đã nói rằng –

‘‘Bhagavāti vacanaṃ seṭṭhaṃ, bhagavāti vacanamuttamaṃ;
“Từ ‘Bhagavā’ là cách gọi cao quý, từ ‘Bhagavā’ là cách gọi tối thượng;

Garu gāravayutto so, bhagavā tena vuccatī’’ti.
Ngài gắn liền với sự kính trọng, nên Ngài được gọi là ‘Bhagavā’.”

Apica –
Thêm nữa –

‘‘Bhāgyavā bhaggavā yutto, bhagehi ca vibhattavā;
“Ngài là người có phước báu, đã giải thoát, đã đạt đến những thành tựu;

Bhattavā vantagamano, bhavesu bhagavā tato’’ti.
Ngài là người đã từ bỏ sự tái sinh, do đó được gọi là ‘Bhagavā’.”

Imissāpi gāthāya vasenassa padassa vitthārato attho veditabbo.
Theo gāthā này, ý nghĩa của từ này phải được hiểu rộng rãi.

So ca visuddhimagge (visuddhi. 1.142, 144) buddhānussatiniddese vuttoyeva.
Và điều này đã được giải thích trong Visuddhimagga, phần về niệm Phật.

Ettāvatā cettha evaṃ me sutanti vacanena yathāsutaṃ dhammaṃ dassento bhagavato dhammasarīraṃ paccakkhaṃ karoti.
Ở đây, bằng câu “Như vầy tôi nghe”, Tôn giả Ānanda trình bày giáo pháp như đã nghe và làm cho thân Pháp của Đức Phật trở nên rõ ràng trước mắt.

Tena ‘‘na idaṃ atikkantasatthukaṃ pāvacanaṃ, ayaṃ vo satthā’’ti satthu adassanena ukkaṇṭhitaṃ janaṃ samassāseti.
Bằng điều này, Ngài an ủi những người cảm thấy thất vọng vì không còn được thấy Đức Phật nữa, rằng: “Đây không phải là một lời dạy đã vượt qua bậc Thầy, vị Thầy của các ngươi vẫn còn đây”.

Ekaṃ samayaṃ bhagavāti vacanena tasmiṃ samaye bhagavato avijjamānabhāvaṃ dassento rūpakāyaparinibbānaṃ sādheti.
Bằng câu “Ekaṃ samayaṃ bhagavā” (vào một thời điểm, Đức Phật…), Ngài chỉ ra rằng, vào thời điểm đó, Đức Phật không còn hiện hữu, và điều này ám chỉ sự viên tịch của thân vật lý của Ngài.

Tena ‘‘evaṃvidhassa nāma ariyadhammassa desako dasabaladharo vajirasaṅghātasamānakāyo sopi bhagavā parinibbuto, kena aññena jīvite āsā janetabbā’’ti jīvitamadamattaṃ janaṃ saṃvejeti, saddhamme cassa ussāhaṃ janeti.
Với điều này, Ngài khơi dậy sự xúc động trong lòng những người còn đắm say trong sự sống, rằng: “Đức Phật, người đã thuyết giảng Pháp vi diệu, người có mười lực, người có thân thể cứng rắn như kim cương, cũng đã viên tịch. Vậy còn ai khác để mà hy vọng vào sự sống?”. Đồng thời, điều này cũng khích lệ mọi người đặt niềm tin và sự nhiệt tâm vào Chánh Pháp.

Evanti ca bhaṇanto desanāsampattiṃ niddisati.
Khi nói “evaṃ” (như vầy), Ngài chỉ ra sự hoàn hảo của bài thuyết pháp.

Me sutanti sāvakasampattiṃ.
Khi nói “me suta” (tôi đã nghe), Ngài chỉ ra sự hoàn hảo của vị đệ tử.

Ekaṃ samayanti kālasampattiṃ.
Khi nói “ekaṃ samaya” (vào một thời điểm), Ngài chỉ ra sự hoàn hảo của thời gian.

Bhagavāti desakasampattiṃ.
Khi nói “Bhagavā” (Đức Phật), Ngài chỉ ra sự hoàn hảo của vị thuyết giảng.

Sāvatthiyanti evaṃnāmake nagare.
“Sāvatthī” là tên của một thành phố.

Samīpatthe cetaṃ bhummavacanaṃ.
Từ này sử dụng cách sở thuộc để chỉ địa điểm.

Viharatīti avisesena iriyāpathadibbabrahmaariyavihāresu aññataravihārasamaṅgiparidīpanametaṃ.
“Viharatī” (an trú) chỉ sự an trú mà không phân biệt ở các trạng thái đi, đứng, ngồi, nằm, hoặc sự an trú của các bậc trời, Phạm Thiên, hay các bậc thánh.

Idha pana ṭhānagamananisajjāsayanappabhedesu iriyāpathesu aññatarairiyāpathasamāyogaparidīpanaṃ, tena ṭhitopi gacchantopi nisinnopi sayānopi bhagavā viharaticceva veditabbo.
Ở đây, từ này chỉ sự an trú trong các trạng thái đi, đứng, ngồi, nằm. Dù Đức Phật đang đứng, đi, ngồi, hay nằm, Ngài cũng vẫn được hiểu là đang “viharati” (an trú).

So hi ekaṃ iriyāpathabādhanaṃ aññena iriyāpathena vicchinditvā aparipatantaṃ attabhāvaṃ harati pavatteti, tasmā ‘‘viharatī’’ti vuccati.
Ngài thay đổi một trạng thái (đi, đứng, ngồi, nằm) khi cảm thấy trạng thái đó gây bất tiện và tiếp tục duy trì sự vận hành của thân thể. Vì vậy, Ngài được nói là “viharatī” (an trú).

Jetavaneti jetassa rājakumārassa vane.
“Jetavana” là khu rừng thuộc về thái tử Jeta.

Tañhi tena ropitaṃ saṃvaḍḍhitaṃ paripālitaṃ, so cassa sāmī ahosi, tasmā jetavananti saṅkhaṃ gataṃ, tasmiṃ jetavane.
Khu rừng đó được thái tử Jeta trồng, nuôi dưỡng và bảo vệ, nên Ngài là chủ nhân của khu rừng, vì vậy nó được gọi là “Jetavana”. Tại khu rừng Jetavana đó.

Anāthapiṇḍikassa ārāmeti anāthapiṇḍikena gahapatinā catupaññāsahiraññakoṭipariccāgena buddhappamukhassa bhikkhusaṅghassa niyyātitattā anāthapiṇḍikassāti saṅkhaṃ gate ārāme.
“Anāthapiṇḍika’s Monastery” là khu vườn được cúng dường cho Đức Phật và chúng Tăng bởi ông cư sĩ Anāthapiṇḍika, với số tiền cúng dường là bốn mươi lăm triệu đồng tiền vàng, nên nó được gọi là khu vườn của Anāthapiṇḍika.

Ayamettha saṅkhepo, vitthāro pana papañcasūdaniyā majjhimaṭṭhakathāya sabbāsavasuttavaṇṇanāyaṃ (ma. ni. aṭṭha. 1.14 ādayo) vutto.
Đây là phần tóm tắt, còn phần giải thích chi tiết được nêu trong chú giải Papañcasūdanī của bài kinh Sabbāsava thuộc Majjhima Nikāya.

Tattha siyā – yadi tāva bhagavā sāvatthiyaṃ viharati, ‘‘jetavane’’ti na vattabbaṃ. Atha tattha viharati, ‘‘sāvatthiya’’nti na vattabbaṃ. Na hi sakkā ubhayattha ekaṃ samayaṃ viharitunti.
Có thể có câu hỏi rằng: nếu Đức Phật ở Sāvatthī, thì không nên nói “tại Jetavana”; và nếu Ngài ở Jetavana, thì không nên nói “tại Sāvatthī”, vì không thể ở cả hai nơi cùng một lúc.

Na kho panetaṃ evaṃ daṭṭhabbaṃ. Nanu avocumha ‘‘samīpatthe bhummavacana’’nti.
Tuy nhiên, điều này không nên được hiểu như vậy. Như đã giải thích trước đó, “samīpatthe bhummavacana” (cách sở thuộc chỉ sự gần gũi) được sử dụng.

Tasmā yathā gaṅgāyamunādīnaṃ samīpe goyūthāni carantāni ‘‘gaṅgāya caranti, yamunāya carantī’’ti vuccanti, evamidhāpi yadidaṃ sāvatthiyā samīpe jetavanaṃ, tattha viharanto vuccati ‘‘sāvatthiyaṃ viharati jetavane’’ti.
Vì vậy, giống như những đàn bò ăn cỏ gần sông Hằng hoặc sông Yamunā được nói là “chúng ăn cỏ tại sông Hằng” hoặc “tại sông Yamunā”, tương tự, ở đây, khi Đức Phật an trú tại Jetavana gần Sāvatthī, Ngài được nói là “Ngài ở Sāvatthī, tại Jetavana”.

Gocaragāmanidassanatthaṃ hissa sāvatthivacanaṃ, pabbajitānurūpanivāsanaṭṭhānanidassanatthaṃ sesavacanaṃ.
Từ “Sāvatthī” chỉ ra khu vực cư trú rộng lớn, còn “Jetavana” chỉ ra nơi cư trú phù hợp cho các vị xuất gia.

Tattha sāvatthivacanena āyasmā ānando bhagavato gahaṭṭhānuggahakaraṇaṃ dasseti, jetavanādikittanena pabbajitānuggahakaraṇaṃ.
Ở đây, bằng cách đề cập đến Sāvatthī, Tôn giả Ānanda chỉ ra sự hỗ trợ cho các cư sĩ của Đức Phật, và bằng cách đề cập đến Jetavana, Ngài chỉ ra sự hỗ trợ cho các vị xuất gia.

Tathā purimena paccayaggahaṇato attakilamathānuyogavivajjanaṃ, pacchimena vatthukāmappahānato kāmasukhallikānuyogavivajjanūpāyadassanaṃ.
Tương tự, phần đầu chỉ ra sự từ bỏ sự khổ hạnh và nhận các yếu tố cần thiết, còn phần sau chỉ ra phương pháp tránh xa sự đam mê dục lạc vật chất.

Purimena ca dhammadesanābhiyogaṃ, pacchimena vivekādhimuttiṃ.
Phần đầu còn chỉ ra sự tận tâm trong việc thuyết pháp, trong khi phần sau chỉ ra sự nghiêng về sự ẩn dật.

Purimena karuṇāya upagamanaṃ, pacchimena paññāya apagamanaṃ.
Phần đầu liên quan đến lòng từ bi, trong khi phần sau liên quan đến sự từ bỏ thông qua trí tuệ.

Purimena sattānaṃ hitasukhanipphādanādhimuttitaṃ, pacchimena parahitasukhakaraṇe nirupalepataṃ.
Phần đầu biểu thị sự quyết tâm mang lại lợi ích và hạnh phúc cho chúng sinh, trong khi phần sau biểu thị sự không dính mắc khi làm việc vì lợi ích của người khác.

Purimena dhammikasukhāpariccāganimittaphāsuvihāraṃ, pacchimena uttarimanussadhammānuyoganimittaṃ.
Phần đầu chỉ ra sự an trú thoải mái trong việc từ bỏ hạnh phúc chính đáng, trong khi phần sau chỉ ra sự thực hành các phẩm chất siêu việt của con người.

Purimena manussānaṃ upakārabahulataṃ, pacchimena devatānaṃ.
Phần đầu biểu thị sự hỗ trợ lớn lao cho loài người, trong khi phần sau biểu thị sự hỗ trợ cho chư thiên.

Purimena loke jātassa loke saṃvaḍḍhabhāvaṃ, pacchimena lokena anupalittataṃ.
Phần đầu chỉ ra sự sinh ra và lớn lên trong thế gian, trong khi phần sau chỉ ra sự không bị ô nhiễm bởi thế gian.

Purimena ‘‘ekapuggalo, bhikkhave, loke uppajjamāno uppajjati bahujanahitāya bahujanasukhāya lokānukampāya atthāya hitāya sukhāya devamanussānaṃ. Katamo ekapuggalo? Tathāgato arahaṃ sammāsambuddho’’ti (a. ni. 1.170) vacanato yadatthaṃ bhagavā uppanno, tadatthaparinipphādanaṃ, pacchimena yattha uppanno, tadanurūpavihāraṃ.
Phần đầu liên quan đến lời dạy rằng: “Này các Tỳ-khưu, khi một người xuất hiện trong thế gian, người đó xuất hiện vì lợi ích và hạnh phúc của số đông, vì sự từ bi đối với thế gian. Người đó là ai? Chính là bậc Tathāgata, A-la-hán, Chánh Đẳng Giác”. Điều này chỉ ra mục đích mà Đức Phật xuất hiện. Phần sau chỉ ra sự an trú của Ngài tại nơi Ngài xuất hiện.

Bhagavā hi paṭhamaṃ lumbinivane, dutiyaṃ bodhimaṇḍeti lokiyalokuttarāya uppattiyā vaneyeva uppanno.
Đức Phật sinh ra lần đầu tiên trong rừng Lumbinī, và lần thứ hai tại Bodhimaṇḍa, nơi Ngài giác ngộ, và cả hai lần đều xảy ra trong rừng, liên quan đến các hiện tượng thế gian và siêu việt.

Tenassa vaneyeva vihāraṃ dassetīti evamādinā nayenettha atthayojanā veditabbā.
Do đó, việc Ngài an trú trong rừng được nhấn mạnh ở đây, và ý nghĩa này nên được hiểu theo cách như vậy.
Tatrāti desakālaparidīpanaṃ.
“Tatra” chỉ sự biểu thị về địa điểm và thời gian.

Tañhi yaṃ samayaṃ viharati, tatra samaye.
Khi Đức Phật an trú vào thời điểm nào, thì đó là thời điểm đó.

Yasmiñca ārāme viharati, tatra ārāmeti dīpeti.
Khi Ngài an trú trong khu vườn nào, thì đó là khu vườn ấy.

Bhāsitabbayutte vā desakāle dīpeti.
Hoặc Ngài chỉ ra thời gian và địa điểm thích hợp để thuyết giảng.

Na hi bhagavā ayutte dese vā kāle vā dhammaṃ bhāsati.
Đức Phật không bao giờ thuyết giảng Pháp ở nơi hay vào thời điểm không thích hợp.

‘‘Akālo kho tāva, bāhiyā’’tiādi (udā. 10) cettha sādhakaṃ.
Câu “Này Bāhiya, thời điểm này không phù hợp” (Udāna 10) là bằng chứng cho điều này.

Khoti padapūraṇamatte avadhāraṇe ādikālatthe vā nipāto.
Từ “kho” là một tiểu từ, được dùng để bổ sung, xác định hoặc chỉ sự khởi đầu của một sự kiện.

Bhagavāti lokagarudīpanaṃ.
“Bhagavā” biểu thị Đức Phật là bậc tôn quý trên thế gian.

Bhikkhūti kathāsavanayuttapuggalavacanaṃ.
“Bhikkhu” là lời nói chỉ đến những người thích hợp để nghe bài thuyết pháp.

Api cettha ‘‘bhikkhakoti bhikkhu, bhikkhācariyaṃ ajjhupagatoti bhikkhū’’tiādinā (pārā. 45; vibha. 511) nayena vacanattho veditabbo.
Hơn nữa, theo định nghĩa rằng: “Bhikkhu là người đi khất thực, là người đã tiếp nhận đời sống khất sĩ”, nghĩa của từ này nên được hiểu.

Āmantesīti ālapi abhāsi sambodhesīti ayamettha attho.
“Āmantesi” có nghĩa là gọi tên, nói chuyện, hoặc nhắc nhở. Đó là ý nghĩa ở đây.

Aññatra pana ñāpanepi hoti. Yathāha – ‘‘āmantayāmi vo, bhikkhave, paṭivedayāmi vo, bhikkhave’’ti.
Nó cũng có thể mang nghĩa thông báo, như trong câu: “Này các Tỳ-khưu, ta nhắc nhở các ngươi, ta thông báo với các ngươi”.

Pakkosanepi. Yathāha – ‘‘ehi tvaṃ, bhikkhu, mama vacanena sāriputtaṃ āmantehī’’ti (a. ni. 9.11; saṃ. ni. 2.32).
Nó cũng có thể mang nghĩa gọi đến, như trong câu: “Này Tỳ-khưu, hãy gọi Sāriputta đến bằng lời của ta”.

Bhikkhavoti āmantanākāraparidīpanaṃ.
Từ “Bhikkhave” biểu thị cách gọi thân thiết.

Tañca bhikkhanasīlatādiguṇayogasiddhattā vuttaṃ.
Điều này được nói đến vì các Tỳ-khưu đã được thành tựu nhờ vào các phẩm chất như đức tính khất thực.

Bhikkhanasīlatāguṇayuttopi hi bhikkhu, bhikkhanadhammatāguṇayuttopi bhikkhu, bhikkhane sādhukāritāguṇayuttopīti saddavidū maññanti.
Những người tinh thông ngôn ngữ cho rằng: Tỳ-khưu là người có phẩm chất khất thực tốt, người đã thực hiện hành động khất thực đúng đắn, và người có sự thành tựu trong việc khất thực một cách tốt đẹp.

Tena ca nesaṃ bhikkhanasīlatādiguṇayogasiddhena vacanena hīnādhikajanasevitaṃ vuttiṃ pakāsento uddhatadīnabhāvaniggahaṃ karoti.
Do đó, với lời nói này, chỉ ra sự thành tựu của họ qua các phẩm chất khất thực, Ngài làm sáng tỏ hành vi phục vụ cho cả những người kém cỏi và xuất sắc, và đồng thời kiềm chế những thái độ kiêu ngạo hoặc bất cẩn.

Bhikkhavoti iminā karuṇāvipphārasommahadayanayananipātapubbaṅgamena vacanena te attano mukhābhimukhe karoti.
Bằng cách sử dụng từ “Bhikkhave” (Này các Tỳ-khưu) với giọng nói tràn đầy lòng từ bi và ánh mắt dịu dàng, Ngài khiến họ (Tất cả hội chúng đang hiện diện) hướng sự chú ý trực tiếp về phía Ngài.

Teneva ca kathetukamyatādīpakena vacanena tesaṃ sotukamyataṃ janeti.
Bằng lời nói biểu thị mong muốn được giảng dạy, Ngài khơi dậy trong họ sự khao khát được nghe.

Teneva ca sambodhanatthena sādhukaṃ savanamanasikārepi te niyojeti.
Bằng giọng nói để thức tỉnh họ, Ngài khuyến khích họ lắng nghe và chú tâm một cách cẩn thận.

Sādhukaṃ savanamanasikārāyattā hi sāsanasampatti.
Sự thành tựu trong giáo pháp phụ thuộc vào việc lắng nghe và chú tâm một cách cẩn thận.
Aparesupi devamanussesu vijjamānesu kasmā bhikkhūyeva āmantesīti ce?
Nếu có các chư thiên và loài người khác đang hiện diện, tại sao Đức Phật lại chỉ gọi các Tỳ-khưu?

Jeṭṭhaseṭṭhāsannasadāsannihitabhāvato.
Đó là vì các Tỳ-khưu có vị trí trưởng thượng, xuất sắc, gần gũi và luôn hiện diện bên cạnh Đức Phật.

Sabbaparisasādhāraṇā hi bhagavato dhammadesanā.
Giáo pháp của Đức Phật luôn được thuyết giảng cho tất cả các hội chúng.

Parisāya ca jeṭṭhā bhikkhū paṭhamuppannattā, seṭṭhā anagāriyabhāvaṃ ādiṃ katvā satthucariyānuvidhāyakattā sakalasāsanapaṭiggāhakattā ca.
Các Tỳ-khưu là trưởng thượng trong hội chúng vì họ là những người đầu tiên xuất gia, là những người đã từ bỏ đời sống thế tục, là những người tuân theo sự dẫn dắt của Đức Phật và là những người tiếp nhận toàn bộ giáo pháp.

Āsannā te tattha nisinnesu satthusantikattā.
Họ ngồi gần Đức Phật nhất trong buổi thuyết giảng.

Sadāsannihitā satthusantikāvacarattāti.
Họ luôn luôn gần gũi và thường xuyên ở bên cạnh Đức Phật.

Apica te dhammadesanāya bhājanaṃ yathānusiṭṭhaṃ paṭipattisabbhāvatotipi te eva āmantesi.
Hơn nữa, họ là những người thụ hưởng giáo pháp và có khả năng thực hành đúng theo những gì đã được chỉ dạy, do đó Đức Phật gọi họ trước tiên.

Kimatthaṃ pana bhagavā dhammaṃ desento paṭhamaṃ bhikkhū āmantesi, na dhammameva desesīti?
Nhưng tại sao khi Đức Phật thuyết giảng, Ngài lại gọi các Tỳ-khưu trước, mà không giảng pháp ngay lập tức?

Satijananatthaṃ.
Đó là để khơi dậy sự chú tâm.

Bhikkhū hi aññaṃ cintentāpi vikkhittacittāpi dhammaṃ paccavekkhantāpi kammaṭṭhānaṃ manasikarontāpi nisinnā honti, te anāmantetvā dhamme desiyamāne ‘‘ayaṃ desanā kiṃnidānā kiṃpaccayā katamāya aṭṭhuppattiyā desitā’’ti sallakkhetuṃ asakkontā duggahitaṃ vā gaṇheyyuṃ, na vā gaṇheyyuṃ.
Các Tỳ-khưu có thể đang suy nghĩ về việc khác, có thể đang bị phân tâm, có thể đang suy ngẫm về Pháp hoặc đang chú tâm vào đề mục thiền của mình. Nếu không được gọi trước khi Đức Phật thuyết giảng, họ có thể không hiểu được nguồn gốc, lý do, hoặc bối cảnh của bài thuyết pháp và có thể hiểu sai hoặc không hiểu gì cả.

Tena nesaṃ satijananatthaṃ bhagavā paṭhamaṃ āmantetvā pacchā dhammaṃ deseti.
Vì vậy, để khơi dậy sự chú tâm của họ, Đức Phật gọi họ trước, rồi mới thuyết giảng Pháp sau.
Bhadanteti gāravavacanametaṃ, satthu paṭivacanadānaṃ vā.
Từ “Bhadante” là lời nói bày tỏ sự kính trọng hoặc là sự đáp lại lời của Đức Phật.

Api cettha ‘‘bhikkhavo’’ti vadamāno bhagavā te bhikkhū ālapati.
Khi Đức Phật nói “Bhikkhavo” (các Tỳ-khưu), Ngài gọi các Tỳ-khưu.

‘‘Bhadante’’ti vadamānā te bhagavantaṃ paccālapanti.
Khi các Tỳ-khưu nói “Bhadante” (Bạch Thế Tôn), họ đáp lại lời của Đức Phật.

Tathā ‘‘bhikkhavo’’ti bhagavā ādimhi bhāsati, ‘‘bhadante’’ti te paccābhāsanti.
Đức Phật bắt đầu bằng câu “Bhikkhavo” và các Tỳ-khưu đáp lại bằng câu “Bhadante”.

‘‘Bhikkhavo’’ti paṭivacanaṃ dāpeti, ‘‘bhadante’’ti paṭivacanaṃ denti.
Khi Đức Phật nói “Bhikkhavo”, Ngài yêu cầu câu trả lời, và khi các Tỳ-khưu đáp lại “Bhadante”, họ đưa ra câu trả lời.

Te bhikkhūti ye bhagavā āmantesi, te.
“Te bhikkhū” có nghĩa là các Tỳ-khưu mà Đức Phật đã gọi.

Bhagavato paccassosunti bhagavato āmantanaṃ paṭiassosuṃ, abhimukhā hutvā suṇiṃsu sampaṭicchiṃsu paṭiggahesunti attho.
Bhagavato paccassosuṃ” có nghĩa là họ đáp lại lời gọi của Đức Phật, đối diện với Ngài, lắng nghe, hiểu và tiếp nhận lời dạy.

Bhagavāetadavocāti bhagavā etaṃ idāni vattabbaṃ sakalaṃ suttaṃ avoca.
“Bhagavā etadavoca” có nghĩa là Đức Phật đã nói toàn bộ bài kinh này, những gì cần phải nói.

Ettāvatā ca yaṃ āyasmatā ānandena imassa suttassa sukhāvagāhaṇatthaṃ kāladesadesakaparisāpadesapaṭimaṇḍitaṃ nidānaṃ bhāsitaṃ, tassa atthavaṇṇanā samattāti.
Với điều này, phần giải thích về bối cảnh được trình bày bởi Tôn giả Ānanda, bao gồm thời gian, địa điểm, người giảng và hội chúng để giúp dễ dàng thâm nhập vào bài kinh, đã được hoàn tất.
Rūpādivaṇṇanā
Giải thích về hình tướng và các vấn đề liên quan

Idāni nāhaṃ, bhikkhave, aññaṃ ekarūpampi samanupassāmītiādinā nayena bhagavatā nikkhittassa suttassa vaṇṇanāya okāso anuppatto, sā panesā suttavaṇṇanā yasmā suttanikkhepaṃ vicāretvāva vuccamānā pākaṭā hoti, tasmā suttanikkhepavicāraṇā tāva veditabbā.
Bây giờ, đã đến lúc giải thích về bài kinh do Đức Phật thuyết giảng, bắt đầu với câu “Này các Tỳ-khưu, ta không thấy một hình tướng nào khác…”. Sự giải thích này sẽ rõ ràng hơn khi chúng ta xem xét bối cảnh mà bài kinh được đặt ra, vì vậy cần phải hiểu rõ về các loại bối cảnh (suttanikkhepa).

Cattāro hi suttanikkhepā attajjhāsayo parajjhāsayo pucchāvasiko aṭṭhuppattikoti.
Có bốn loại bối cảnh trong kinh điển: (1) tự khởi ý, (2) theo ý người khác, (3) dựa trên câu hỏi, và (4) dựa trên sự kiện phát sinh.

Tattha yāni suttāni bhagavā parehi anajjhiṭṭho kevalaṃ attano ajjhāsayeneva kathesi, seyyathidaṃ – ākaṅkheyyasuttaṃ vatthasuttanti evamādīni, tesaṃ attajjhāsayo nikkhepo.
Trong những bài kinh mà Đức Phật tự mình thuyết giảng mà không có sự yêu cầu từ người khác, như bài kinh Ākaṅkheyyasutta và Vatthasutta, bối cảnh được gọi là “tự khởi ý” (attajjhāsaya).

Yāni pana ‘‘paripakkā kho rāhulassa vimuttiparipācanīyā dhammā, yaṃnūnāhaṃ rāhulaṃ uttari āsavānaṃ khaye vineyya’’nti (saṃ. ni. 4.121; ma. ni. 3.416) evaṃ paresaṃ ajjhāsayaṃ khantiṃ manaṃ abhinīhāraṃ bujjhanabhāvañca oloketvā parajjhāsayavasena kathitāni, seyyathidaṃ – rāhulovādasuttaṃ dhammacakkappavattananti evamādīni, tesaṃ parajjhāsayo nikkhepo.
Còn những bài kinh mà Đức Phật thuyết giảng sau khi quan sát tâm trí và sự hiểu biết của người khác, như bài kinh Rāhulovādasutta và Dhammacakkappavattanasutta, bối cảnh của chúng được gọi là “theo ý người khác” (parajjhāsaya).

Bhagavantaṃ pana upasaṅkamitvā te te devamanussā tathā tathā pañhaṃ pucchanti. Evaṃ puṭṭhena bhagavatā yāni kathitāni devatāsaṃyuttabojjhaṅgasaṃyuttādīni, tesaṃ pucchāvasiko nikkhepo.
Những bài kinh được Đức Phật thuyết giảng sau khi các chư thiên hay người đời đến hỏi Ngài, như các bài kinh trong bộ Devatāsaṃyutta và Bojjhaṅgasaṃyutta, thì bối cảnh của chúng được gọi là “dựa trên câu hỏi” (pucchāvasika).

Yāni pana uppannaṃ kāraṇaṃ paṭicca kathitāni dhammadāyādasuttaputtamaṃsūpamādīni, tesaṃ aṭṭhuppattiko nikkhepo.
Những bài kinh được Đức Phật thuyết giảng dựa trên một sự kiện phát sinh, như bài kinh Dhammadāyādasutta và Putta-Maṃsūpama, thì bối cảnh của chúng được gọi là “dựa trên sự kiện phát sinh” (aṭṭhuppattika).

Evamimesu catūsu nikkhepesu imassa suttassa parajjhāsayo nikkhepo. Parajjhāsayavasena hetaṃ nikkhittaṃ.
Trong bốn loại bối cảnh này, bối cảnh của bài kinh này là “theo ý người khác” (parajjhāsaya). Bài kinh này được Đức Phật thuyết giảng theo ý của người khác.

Kesaṃ ajjhāsayenāti? Rūpagarukānaṃ purisānaṃ.
Theo ý muốn của ai? Đó là những người xem trọng hình tướng (rūpa).

Tattha nāhaṃ, bhikkhavetiādīsu nakāro paṭisedhattho.
Trong câu “Nāhaṃ, bhikkhave”, từ “na” mang ý nghĩa phủ định.

Ahanti attānaṃ niddisati.
“Ahaṃ” (tôi) chỉ đến chính bản thân Đức Phật.

Bhikkhaveti bhikkhū ālapati.
“Bhikkhave” (này các Tỳ-khưu) là cách Đức Phật gọi các Tỳ-khưu.

Aññanti idāni vattabbā itthirūpato aññaṃ.
“Aññaṃ” có nghĩa là một cái gì đó khác ngoài điều sắp được nói đến, tức là hình tướng khác.

Ekarūpampīti ekampi rūpaṃ.
“Ekarūpaṃ” có nghĩa là một hình tướng duy nhất.

Samanupassāmīti dve samanupassanā ñāṇasamanupassanā ca diṭṭhisamanupassanā ca.
“Samanupassāmi” có nghĩa là sự quan sát, và có hai loại quan sát: quan sát bằng trí tuệ (ñāṇasamanupassanā) và quan sát bằng tà kiến (diṭṭhisamanupassanā).

Tattha ‘‘aniccato samanupassati, no niccato’’ti (paṭi. ma. 3.35) ayaṃ ñāṇasamanupassanā nāma.
Trong đó, “Nhìn thấy vô thường, không nhìn thấy thường hằng” (Paṭisambhidāmagga 3.35) là ví dụ về quan sát bằng trí tuệ.

‘‘Rūpaṃ attato samanupassatī’’tiādikā (paṭi. ma. 1.130) pana diṭṭhisamanupassanā nāma.
Còn câu “Nhìn thấy hình tướng như là tự ngã” (Paṭisambhidāmagga 1.130) là ví dụ về quan sát bằng tà kiến.

Tāsu idha ñāṇasamanupassanā adhippetā.
Ở đây, ý muốn nói đến sự quan sát bằng trí tuệ.

Imassa pana padassa nakārena sambandho veditabbo.
Phải hiểu rằng từ này có liên quan đến chữ “na” phủ định.

Idaṃ hi vuttaṃ hoti – ahaṃ, bhikkhave, sabbaññutaññāṇena olokentopi aññaṃ ekarūpampi na samanupassāmīti.
Ý nghĩa ở đây là: “Này các Tỳ-khưu, ngay cả khi nhìn bằng trí tuệ toàn giác, ta cũng không thấy bất kỳ một hình tướng nào khác”.

Yaṃ evaṃ purisassa cittaṃ pariyādāya tiṭṭhatīti yaṃ rūpaṃ rūpagarukassa purisassa catubhūmakakusalacittaṃ pariyādiyitvā gaṇhitvā khepetvā tiṭṭhati.
“Cái hình tướng chiếm trọn tâm trí của người ấy” có nghĩa là hình tướng này chiếm lĩnh, nắm bắt và tiêu thụ tâm thức của người xem trọng hình tướng, khiến cho thiện tâm của họ trong bốn cõi bị tiêu tán.

‘‘Sabbaṃ hatthikāyaṃ pariyādiyitvā’’tiādīsu (saṃ. ni. 1.126) hi gahaṇaṃ pariyādānaṃ nāma.
Trong câu “Chiếm trọn thân voi” (Saṃyutta Nikāya 1.126), từ “pariyādānaṃ” có nghĩa là nắm bắt hoặc chiếm giữ.

‘‘Aniccasaññā, bhikkhave, bhāvitā bahulīkatā sabbaṃ kāmarāgaṃ pariyādiyatī’’tiādīsu (saṃ. ni. 3.102) khepanaṃ.
Trong câu “Sự quán tưởng về vô thường, khi được phát triển và tăng cường, sẽ tiêu diệt hoàn toàn dục ái” (Saṃyutta Nikāya 3.102), “pariyādānaṃ” có nghĩa là sự tiêu diệt.

Idha ubhayampi vaṭṭati.
Ở đây, cả hai ý nghĩa này đều phù hợp.

Tattha idaṃ rūpaṃ catubhūmakakusalacittaṃ gaṇhantaṃ na nīluppalakalāpaṃ puriso viya hatthena gaṇhāti, nāpi khepayamānaṃ aggi viya uddhane udakaṃ santāpetvā khepeti.
Hình tướng này không chiếm lấy thiện tâm trong bốn cõi như người đàn ông nắm bó hoa sen xanh bằng tay, cũng không tiêu hủy nó như lửa làm khô nước trong nồi bằng cách đun nóng.

Uppattiñcassa nivārayamānameva catubhūmakampi kusalacittaṃ gaṇhāti ceva khepeti cāti veditabbaṃ.
Người ta phải hiểu rằng, nó ngăn chặn sự sinh khởi và đồng thời chiếm lấy cũng như tiêu diệt thiện tâm trong bốn cõi.

Tena vuttaṃ – ‘‘purisassa cittaṃ pariyādāya tiṭṭhatī’’ti.
Vì vậy, đã nói rằng: “Nó chiếm trọn tâm trí của người ấy”.
Yathayidanti yathā idaṃ.
“Yathayidaṃ” có nghĩa là “như điều này”.

Itthirūpanti itthiyā rūpaṃ.
“Itthirūpa” là hình tướng của phụ nữ.

Tattha ‘‘kiñca, bhikkhave, rūpaṃ vadetha? Ruppatīti kho, bhikkhave, tasmā rūpanti vuccati. Kena ruppati? Sītenapi ruppati uṇhenapi ruppatī’’ti (saṃ. ni. 3.79) suttānusārena rūpassa vacanattho ceva sāmaññalakkhaṇañca veditabbaṃ.
Trong đoạn kinh này, câu “Này các Tỳ-khưu, các ông gọi là gì là hình tướng (rūpa)? Chính vì nó bị tổn thương (ruppa) nên được gọi là hình tướng (rūpa). Bị tổn thương bởi điều gì? Nó bị tổn thương bởi lạnh, bởi nóng…” (Saṃyutta Nikāya 3.79) chỉ ra ý nghĩa của từ “rūpa” và đặc điểm chung của nó.

Ayaṃ pana rūpasaddo khandhabhavanimittapaccayasarīravaṇṇasaṇṭhānādīsu anekesu atthesu vattati.
Từ “rūpa” này có nhiều ý nghĩa khác nhau như sắc uẩn, cõi sắc, dấu hiệu thiền, nhân duyên, cơ thể, màu sắc, và hình dáng.

Ayañhi ‘‘yaṃ kiñci rūpaṃ atītānāgatapaccuppanna’’nti (vibha. 2; mahāva. 22) ettha rūpakkhandhe vattati.
Trong câu “Bất cứ hình tướng nào thuộc về quá khứ, tương lai hay hiện tại” (Vibhaṅga 2; Mahāvagga 22), từ “rūpa” chỉ sắc uẩn.

‘‘Rūpūpapattiyā maggaṃ bhāvetī’’ti (dha. sa. 161; vibha. 624) ettha rūpabhave.
Trong câu “Người tu hành phát triển con đường để tái sinh vào cõi sắc” (Dhammasaṅgaṇi 161; Vibhaṅga 624), từ “rūpa” chỉ cõi sắc (rūpabhava).

‘‘Ajjhattaṃ arūpasaññī bahiddhā rūpāni passatī’’ti (dha. sa. 204-232 ādayo) ettha kasiṇanimitte.
Trong câu “Người có sự quán tưởng về vô sắc bên trong nhưng vẫn nhìn thấy các hình tướng bên ngoài” (Dhammasaṅgaṇi 204-232), từ “rūpa” chỉ dấu hiệu thiền (kasiṇanimitta).

‘‘Sarūpā, bhikkhave, uppajjanti pāpakā akusalā dhammā no arūpā’’ti (a. ni. 2.83) ettha paccaye.
Trong câu “Này các Tỳ-khưu, các pháp bất thiện sinh khởi với hình tướng, không phải vô tướng” (Aṅguttara Nikāya 2.83), từ “rūpa” chỉ nhân duyên (paccaya).

‘‘Ākāso parivārito rūpanteva saṅkhaṃ gacchatī’’ti (ma. ni. 1.306) ettha sarīre.
Trong câu “Không gian bị bao quanh bởi sắc và được coi như là hình tướng” (Majjhima Nikāya 1.306), từ “rūpa” chỉ cơ thể (sarīra).

‘‘Cakkhuñca paṭicca rūpe ca uppajjati cakkhuviññāṇa’’nti (ma. ni. 1.400; 3.421) ettha vaṇṇe.
Trong câu “Dựa vào mắt và hình tướng, nhận thức về mắt sinh khởi” (Majjhima Nikāya 1.400; 3.421), từ “rūpa” chỉ màu sắc (vaṇṇa).

‘‘Rūpappamāṇo rūpappasanno’’ti (a. ni. 4.65) ettha saṇṭhāne.
Trong câu “Hình tướng và sắc đẹp rõ ràng” (Aṅguttara Nikāya 4.65), từ “rūpa” chỉ hình dáng (saṇṭhāna).

Ādisaddena ‘‘piyarūpaṃ sātarūpaṃ, arasarūpo’’tiādīnipi saṅgaṇhitabbāni.
Những từ như “piyarūpa” (hình tướng yêu thích), “sātarūpa” (hình tướng dễ chịu), “arasarūpo” (hình tướng không dễ chịu) cũng phải được bao gồm theo nghĩa này.

Idha panesa itthiyā catusamuṭṭhāne rūpāyatanasaṅkhāte vaṇṇe vattati.
Ở đây, từ “itthirūpa” chỉ đến màu sắc trong bốn yếu tố tạo nên hình tướng (rūpāyatana) của người phụ nữ.

Apica yo koci itthiyā nivatthanivāsanassa vā alaṅkārassa vā gandhavaṇṇakādīnaṃ vā piḷandhanamālādīnaṃ vāti kāyappaṭibaddho ca vaṇṇo purisassa cakkhuviññāṇassa ārammaṇaṃ hutvā upakappati, sabbametaṃ itthirūpanteva veditabbaṃ.
Bất cứ màu sắc nào thuộc về y phục, đồ trang sức, hương thơm, hoặc vòng hoa đeo trên cơ thể của người phụ nữ mà trở thành đối tượng của nhận thức về mắt của nam giới, tất cả đều được coi là “itthirūpa” (hình tướng của phụ nữ).

Itthirūpaṃ, bhikkhave, purisassa cittaṃ pariyādāya tiṭṭhatīti idaṃ purimasseva daḷhīkaraṇatthaṃ vuttaṃ.
“Hình tướng của người phụ nữ, này các Tỳ-khưu, chiếm trọn tâm trí của người đàn ông” được nói để củng cố điều đã được nêu ra trước đó.

Purimaṃ vā ‘‘yathayidaṃ, bhikkhave, itthirūpa’’nti evaṃ opammavasena vuttaṃ, idaṃ pariyādānānubhāvadassanavasena.
Câu đầu tiên, “Này các Tỳ-khưu, như hình tướng của phụ nữ”, được nói theo cách so sánh, và câu này được nói để chỉ sức mạnh của sự chiếm hữu.
Tatridaṃ itthirūpassa pariyādānānubhāve vatthu –
Dưới đây là câu chuyện minh họa về sức mạnh chiếm trọn tâm trí của hình tướng phụ nữ:

Mahādāṭhikanāgarājā kira cetiyagirimhi ambatthale mahāthūpaṃ kārāpetvā giribhaṇḍapūjaṃ nāma katvā kālena kālaṃ orodhagaṇaparivuto cetiyagiriṃ gantvā bhikkhusaṅghassa mahādānaṃ deti.
Được biết rằng, vua Mahādāṭhikanāga đã xây dựng một ngôi đại tháp tại Ambatthala trên đỉnh Cetiya và thường xuyên tổ chức các lễ cúng dường lớn tại đó. Ngài thường dẫn đoàn vợ và cung nữ đến Cetiya và cúng dường đại thí cho Tăng đoàn.

Bahūnaṃ sannipātaṭṭhāne nāma na sabbesaṃ sati sūpaṭṭhitā hoti, rañño ca damiḷadevī nāma mahesī paṭhamavaye ṭhitā dassanīyā pāsādikā.
Tại nơi có đông đảo người tụ họp, không phải ai cũng có thể giữ vững niệm, và hoàng hậu của nhà vua, tên là Damiḷadevī, đang ở tuổi thanh xuân, vô cùng xinh đẹp và duyên dáng.

Atheko cittatthero nāma vuḍḍhapabbajito asaṃvaraniyāmena olokento tassā rūpārammaṇe nimittaṃ gahetvā ummādappatto viya ṭhitanisinnaṭṭhānesu ‘‘handa damiḷadevī, handa damiḷadevī’’ti vadanto vicarati.
Lúc ấy, có một vị trưởng lão tên là Cittatthera, một vị tu sĩ già. Vị trưởng lão này, do không giữ được sự tự chế, đã nhìn thấy hình tướng của hoàng hậu Damiḷadevī và bị mê hoặc. Ông ấy bị ám ảnh và đi quanh chỗ ngồi, chỗ đứng, miệng cứ nói: “Damiḷadevī đây, Damiḷadevī kia”.

Tato paṭṭhāya cassa daharasāmaṇerā ummattakacittattherotveva nāmaṃ katvā vohariṃsu.
Từ đó, các chú sa-di trẻ gọi vị trưởng lão này là “Ummattakacittatthera”, tức là “Trưởng lão Cittatthera điên loạn”.

Atha sā devī nacirasseva kālamakāsi.
Không lâu sau, hoàng hậu Damiḷadevī qua đời.

Bhikkhusaṅghe sivathikadassanaṃ gantvā āgate daharasāmaṇerā tassa santikaṃ gantvā evamāhaṃsu – ‘‘bhante cittatthera, yassatthāya tvaṃ vilapasi, mayaṃ tassā deviyā sivathikadassanaṃ gantvā āgatā’’ti.
Khi Tăng đoàn trở về sau khi tham dự nghi lễ xem xác chết của hoàng hậu tại bãi thiêu, các sa-di trẻ đến gặp trưởng lão Cittatthera và nói: “Thưa Trưởng lão Cittatthera, chúng con vừa trở về từ nghi lễ xem xác của hoàng hậu, người mà ngài đang than khóc”.

Evaṃ vuttepi assaddahanto ‘‘yassā vā tassā vā tumhe sivathikadassanatthāya gatā, mukhaṃ tumhākaṃ dhūmaṇṇa’’nti.
Mặc dù họ nói vậy, trưởng lão vẫn không tin và nói: “Dù là các ngươi đến xem xác của ai đi nữa, miệng các ngươi chỉ toàn nói khói mù”.

Ummattakavacanameva avoca.
Đó chỉ là những lời nói của một người điên loạn.

Evaṃ ummattakacittattherassa cittaṃ pariyādāya aṭṭhāsi idaṃ itthirūpaṃ.
Như vậy, hình tướng của người phụ nữ này đã chiếm trọn tâm trí của trưởng lão Cittatthera và khiến ông trở nên điên loạn.
Aparampi vatthu – saddhātissamahārājā kira ekadivasaṃ orodhagaṇaparivuto vihāraṃ āgato.
Thêm một câu chuyện khác – Được biết rằng, vua Saddhātissa một ngày kia đã đến thăm chùa cùng với đoàn tùy tùng hoàng hậu và cung nữ.

Eko daharo lohapāsādadvārakoṭṭhake ṭhatvā asaṃvare ṭhito ekaṃ itthiṃ olokesi.
Một vị sa-di trẻ đứng gần cổng chính của tòa nhà kim loại đã không giữ được sự tự chế và nhìn thấy một người phụ nữ.

Sāpi gamanaṃ pacchinditvā taṃ olokesi.
Người phụ nữ đó cũng ngừng lại và nhìn lại vị sa-di.

Ubhopi abbhantare uṭṭhitena rāgagginā ḍayhitvā kālamakaṃsu.
Cả hai đều bị ngọn lửa tham dục trong lòng thiêu đốt và qua đời vì ngọn lửa đó.
Dịch lần 2:
Cả hai bị thiêu đốt bởi ngọn lửa tham ái bùng lên ở bên trong và đã trút hơi thở cuối cùng.

Evaṃ itthirūpaṃ daharassa cittaṃ pariyādāya tiṭṭhati.
Như vậy, hình tướng của người phụ nữ đã chiếm trọn tâm trí của vị sa-di trẻ.

Aparampi vatthu – kalyāṇiyamahāvihārato kireko daharo uddesatthāya kāḷadīghavāpigāmadvāravihāraṃ gantvā niṭṭhituddesakicco atthakāmānaṃ vacanaṃ aggahetvā ‘‘gataṭṭhāne daharasāmaṇerehi puṭṭhena gāmassa niviṭṭhākāro kathetabbo bhavissatī’’ti gāme piṇḍāya caranto visabhāgārammaṇe nimittaṃ gahetvā attano vasanaṭṭhānaṃ gato tāya nivatthavatthaṃ sañjānitvā ‘‘kahaṃ, bhante, idaṃ laddha’’nti pucchanto tassā matabhāvaṃ ñatvā ‘‘evarūpā nāma itthī maṃ nissāya matā’’ti cintento antouṭṭhitena rāgagginā ḍayhitvā jīvitakkhayaṃ pāpuṇi.
Một câu chuyện khác – Một vị sa-di trẻ từ chùa Kalyāṇiya Mahāvihāra đã đi đến chùa Kāḷadīghavāpigāma để học kinh văn. Sau khi hoàn thành việc học, dù được những người thiện ý khuyên bảo, vị này không nghe lời và nghĩ rằng: “Khi ta quay lại chỗ ở, các sa-di trẻ sẽ hỏi ta về cấu trúc của ngôi làng này”. Trong khi đi khất thực trong làng, vị sa-di bị thu hút bởi một đối tượng không phù hợp và mang theo dấu ấn đó trở về chỗ ở của mình. Nhìn thấy chiếc y phục mà người phụ nữ đã mặc, vị ấy hỏi: “Bạch Thầy, y phục này lấy từ đâu?” Sau khi biết người phụ nữ đó đã qua đời, vị sa-di nghĩ: “Người phụ nữ này đã chết vì ta”. Suy nghĩ này khiến vị ấy bị thiêu đốt bởi ngọn lửa tham dục trong lòng và qua đời.
Dịch lần 2:
Một câu chuyện khác nữa là – Có một chú tiểu trẻ từ Kalyāṇiya Mahā Vihāra đến ngôi làng Kāḷadīghavāpi để tu học. Sau khi hoàn khóa tu học và nhận lời chỉ dạy của các vị có trí, chú nghĩ rằng: “Khi được các chú tiểu trẻ hỏi về sự sắp xếp trong làng này, ta sẽ giải thích.” Trong khi đi khất thực ở làng, chú nhận thấy một dấu hiệu bất thường và đã ghi nhớ nơi đó. Sau khi trở về chỗ ở của mình, chú nhận ra nơi mà y phục ấy đã được giặt sạch. Khi được hỏi: “Bạch thầy, cái này tìm được ở đâu?” chú biết rằng người phụ nữ này đã qua đời và suy nghĩ: “Đây là người phụ nữ đã nương tựa vào ta mà chết.” Chú bị thiêu đốt bởi ngọn lửa tham ái bùng lên bên trong và cuối cùng đã mạng chung.

Soṇa Thiện Kim trích dẫn thêm:
Tích Đức-Bồ-tát Haritacajātaka

Một thuở nọ Đức-Thế-Tôn ngự tại ngôi chùa Jetavana, gần kinh-thành Sāvatthī. Khi ấy, Đức- Phật đề cập đến vị tỳ-khưu nhìn thấy người nữ xinh đẹp nên phát sinh tâm tham-dục, muốn hoàn tục, trở về gia đình. Đức-Phật cho truyền gọi vị tỳ-khưu ấy đến, truyền hỏi rằng:

– Này tỳ-khưu! Con phát sinh tâm tham-dục có thật như vậy không?

Vị tỳ-khưu kính bạch với Đức-Phật rằng:

– Kính bạch Đức-Thế-Tôn, có thật như vậy. Bạch Ngài.

– Này tỳ-khưu! Do nguyên nhân nào mà con phát sinh tâm tham-dục như vậy?

Vị tỳ-khưu kính bạch với Đức-Phật rằng:

– Kính bạch Đức-Thế-Tôn, do con không cẩn trọng giữ gìn nhãn-môn khi nhìn thấy người nữ xinh đẹp, nên phát sinh phiền-não tham-dục nơi người nữ ấy như vậy. Bạch Ngài.

Đức-Phật truyền dạy rằng:

– Này tỳ-khưu! Phiền-não tham-dục chướng- ngại ngăn cản các thiện-nghiệp không phát sinh để các ác-nghiệp phát sinh, rồi cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi địa-ngục. Sao phiền-não ấy không làm cho con khổ tâm được? Ví như cơn bão táp thổi bay núi Sineru, sao không thể thổi bay những chiếc lá vàng trên cây rụng rải rác khắp mọi nơi được?

Trong thời quá-khứ xa xưa, Đức-Bồ-tát đạo- sĩ thuộc dòng dõi cao quý đã chứng đắc 8 bậc thiền thiện-tâm (4 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm và 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm) và chứng đắc ngũ-thông (5 phép-thần-thông thế-gian). Một hôm, Đức-Bồ-tát đạo-sĩ dể duôi, phát sinh phiền-não tham-dục nơi người nữ ấy, không thể giữ gìn vững trí nhớ biết mình, nên làm mất 8 bậc thiền thiện-tâm và 5 phép-thần-thông ngay tức khắc.

Khi ấy, Đức-Phật thuyết dạy về tiền-kiếp của Ngài là Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Haritaca được tóm lược như sau:

Trong thời quá-khứ, Đức-vua Brahmadatta ngự tại kinh-thành Bārāṇasī. Khi ấy, Đức-Bồ-tát tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama sinh trong gia đình thuộc dòng dõi bà-la-môn giàu sang phú quý, có của cải tài-sản khoảng 800 triệu kahāpaṇa, trong một tỉnh thành lớn. Cha mẹ đặt tên Đức-Bồ-tát là công-tử Haritaca, bởi vì Đức- Bồ-tát có màu da như màu vàng ròng.

Khi công-tử Haritaca trưởng thành, ông bà- la-môn gửi cho đi học tại xứ Takkasilā. Sau khi học các bộ môn theo truyền thống bà-la-môn xong, công-tử Haritaca trở về giúp đỡ cha mẹ.

Sau khi cha mẹ đều qua đời, tất cả của cải tài- sản thuộc về công-tử Haritaca vốn là Đức-Bồ- tát tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama.

Đức-Bồ-tát Haritaca suy xét rằng:

“Tất cả của cải tài sản lớn lao này được tích- lũy do ông bà, cha mẹ của ta để lại, đến khi chết, không ai đem theo một thứ báu vật nào cả.

Đến khi ta chết, chắc chắn ta cũng sẽ không đem theo một thứ nào cả. Ngay bây giờ, ta nên đem tất cả của cải tài sản tạo phước-thiện bố-thí đến cho mọi người nghèo khổ, ta nên thông báo cho mọi người biết, nếu ai cần thứ của cải nào thì tự nhiên lấy thứ của cải ấy theo ý muốn.”

Đức-Bồ-tát Haritaca từ bỏ nhà đi vào rừng núi Himavanta xuất gia trở thành đạo-sĩ, hằng ngày sống bằng các loại trái cây, các loại củ, các loại lá cây rồi thực-hành pháp-hành thiền-định. Đến ngày thứ 7, Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Haritaca chứng đắc 4 bậc thiền sắc-giới thiện-tâm và 4 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm, chứng đắc 5 phép-thần- thông (abhiññā). Đức-Bồ-tát đạo-sĩ sống trong rừng núi Himavanta trải qua thời gian lâu ngày, vì thiếu chất muối, vật thực cần phải có vị mặn, nên Đức-Bồ-tát đạo-sĩ rời khỏi khu rừng núi Himavanta, đi vào xóm làng khất thực, rồi đi dần đến kinh-thành Bārāṇasī, vào trú tại khu vườn thượng uyển của Đức-vua.

Sáng ngày hôm sau, Đức-Bồ-tát đạo-sĩ đi vào kinh-thành Bārāṇasī khất thực. Khi đi ngang qua hoàng cung, Đức-vua nhìn thấy oai nghi của Đức-Bồ-tát đạo-sĩ liền phát sinh đức-tin trong sạch, nên truyền lệnh vị quan ra thỉnh Đức-Bồ- tát đạo-sĩ vào cung điện, Đức-vua thỉnh Đức- Bồ-tát đạo-sĩ lên ngồi trên ngai vàng rồi tự tay kính dâng vật thực ngon lành của mình.

Sau khi thọ thực xong, Đức-Bồ-tát đạo-sĩ thuyết dạy lời hoan-hỷ, Đức-vua lắng nghe xong, càng phát sinh đức-tin trong sạch nơi Đức-Bồ-tát đạo-sĩ.

Đức-vua bạch hỏi rằng:

– Kính bạch Ngài đạo-sĩ, Ngài sẽ đi nơi nào?

Đức-Bồ-tát đạo-sĩ thưa với Đức-vua rằng:

– Thưa Đại-vương, bần đạo đi tìm chỗ thích hợp để an cư nhập hạ.

Nghe Đức-Bồ-tát đạo-sĩ thưa như vậy, Đức- vua bạch rằng:

– Kính bạch Ngài đạo-sĩ, sādhu! Lành thay!

Sau khi Đức-Bồ-tát đạo-sĩ thọ thực xong, Đức- vua thỉnh Ngài đạo-sĩ đến vườn thượng uyển. Đức-vua truyền lệnh các quan tìm thợ đến xây dựng chỗ ở ban đêm, chỗ nghỉ ban ngày, đường đi kinh hành, mọi thứ tiện nghi cho Ngài đạo-sĩ.

Đức-vua truyền bảo các người giữ gìn vườn thượng uyển phục vụ chu đáo Ngài đạo-sĩ.

Đức-vua kính đảnh lễ Ngài đạo-sĩ xong, rồi hồi cung ngự trở về cung điện.

Từ ngày ấy về sau, mỗi ngày Đức-Bồ-tát đạo- sĩ đi vào cung điện của Đức-vua thọ thực, chính tự tay Đức-vua dâng cúng dường vật thực hằng ngày đến Đức-Bồ-tát đạo-sĩ suốt 12 năm.

Một hôm nọ, các quan tâu lên Đức-vua rằng:

– Muôn tâu Bệ-hạ, ở vùng biên giới, bọn giặc kéo đến xâm lăng, quấy nhiễu dân lành. Kính xin Bệ-hạ truyền lệnh các quan dẫn binh đến vùng biên giới dẹp giặc.

Nghe các quan tâu như vậy, Đức-vua ngự đến gặp Chánh-cung Hoàng-hậu, truyền bảo rằng:

– Này ái-khanh! Trẫm thân chinh cầm quân ngự đi đến vùng biên giới dẹp giặc, ái-khanh ở cung điện, mỗi ngày hãy tạo phước-thiện bố-thí tự tay cung-kính cúng-dường đến Ngài đạo-sĩ một cách chu đáo.

Đức-vua thân chinh dẫn đầu đoàn quân ngự đi ra khỏi hoàng cung. Kể từ hôm ấy, Chánh-cung Hoàng-hậu thay Đức-vua tự tay cung-kính cúng- dường vật thực đến Đức-Bồ-tát đạo-sĩ rất chu đáo.

Một hôm, Chánh-cung Hoàng-hậu sửa soạn các món vật thực xong rồi, trong lúc chờ đợi Đức- Bồ-tát đạo-sĩ đến, Chánh-cung Hoàng-hậu đi tắm với nước thơm, rồi mặc tấm choàng mỏng bằng thứ lụa tốt bóng loáng, ngồi hóng mát tại cửa sổ. Khi ấy, Đức-Bồ-tát đạo-sĩ mặc y, mang bát bay trên hư không đến cung điện của Chánh- cung Hoàng-hậu khất thực. Khi bay đến gần cửa sổ, Chánh-cung Hoàng-hậu nghe tiếng y của Đức-Bồ-tát đạo-sĩ, Bà vội vàng đứng dậy, tấm choàng trên thân mình tuột xuống, để lộ rõ sắc thân tiếp xúc với nhãn-thức-tâm của Đức-Bồ-tát đạo-sĩ. Ngay tức thì, phiền-não tham-dục bị chế ngự do năng lực của bậc thiền sắc-giới thiện-tâm (vikkhambhanappahāna) trong suốt thời gian 1.00 tỷ năm (anekavassakoṭisatasahassakāle) nay có cơ hội phát sinh mạnh mẽ (ví như con rắn độc bị đè nén lâu năm, nay có cơ hội thoát ra khỏi), nên làm cho 8 bậc thiền thiện-tâm bị mất ngay tức khắc, 5 phép thần-thông thế-gian cũng bị mất luôn, Đức-Bồ-tát đạo-sĩ đáp xuống đất.

Đức-Bồ-tát đạo-sĩ bị phiền-não tham-dục khống chế, không còn trí nhớ biết mình, nên đến cầm tay Chánh-cung Hoàng-hậu dẫn vào phòng, Đức-Bồ-tát đạo-sĩ phạm điều-giới tà-dâm với Chánh-cung Hoàng-hậu.

Sau đó, Đức-Bồ-tát đạo-sĩ thọ thực xong, đi bộ trở về vườn thượng uyển. Từ ngày ấy về sau, mỗi ngày Đức-Bồ-tát đạo-sĩ mang bát đi bộ đến cung điện của Chánh-cung Hoàng-hậu thọ thực, cũng phạm điều-giới tà-dâm như vậy.

Tin Đức-Bồ-tát đạo-sĩ phạm điều-giới tà-dâm với Chánh-cung Hoàng-hậu được lan truyền khắp kinh-thành Bārāṇasī, các quan trong triều gửi người dâng tấu sớ tâu lên Đức-vua rằng:

“Đạo-sĩ Haritaca phạm điều-giới tà-dâm với Chánh-cung Hoàng-hậu.”

Đức-vua đọc tấu sớ như vậy, nhưng không tin đó là sự thật bởi vì Đức-vua có đức-tin trong sạch nơi Ngài đạo-sĩ.

Sau khi Đức-vua dẹp yên giặc xong, mới hồi cung ngự trở về kinh-thành Bārāṇasī. Đức-vua ngự đi đến cung điện của Chánh-cung Hoàng- hậu, Hoàng-hậu vui mừng đón rước Đức-vua. Khi ấy, Đức-vua truyền hỏi Hoàng-hậu rằng:

– Này ái-khanh! Trẫm nghe tâu rằng: “Ngài đạo-sĩ Haritaca là Tôn-sư của Trẫm phạm điều- giới tà-dâm với ái-khanh”, có thật hay không?

Nghe Đức-vua truyền hỏi như vậy, Chánh- cung Hoàng-hậu tâu với Đức-vua rằng:

– Muôn tâu Hoàng-thượng, điều ấy là có thật.

Nghe Chánh-cung Hoàng-hậu tâu như vậy, Đức-vua vẫn chưa tin, liền ngự đi đến vườn thượng uyển, vào đảnh lễ Đức-Bồ-tát đạo-sĩ rồi ngồi một nơi hợp lẽ. Đức-vua bạch hỏi Đức-Bồ- tát đạo-sĩ bằng câu kệ rằng:

“Sutaṃ me’taṃ Mahābrahme, kāme bhuñjati hārito.

Kaccetaṃ vacanaṃ tucchaṃ, kacci sudddho iriyyasi.”

– Kính bạch Ngài Đại-phạm-thiên,

Quả-nhân nghe nói rằng:

“Đạo-sĩ Harita hưởng sắc dục.”

Lời nói ấy không phải thật chăng?

Ngài vẫn còn là bậc có giới-hạnh trong sạch phải không?

Nghe Đức-vua bạch hỏi như vậy, Đức-Bồ-tát đạo-sĩ suy xét rằng:

Nếu ta thưa với Đức-vua rằng: “Ta không hưởng sắc dục. Ta vẫn còn có giới-hạnh trong sạch thì Đức-vua sẽ tin, nhưng mà trong đời này, chỉ có lời chân-thật là nơi nương nhờ chân chính mà thôi, bởi vì người nào bỏ lời chân-thật rồi, người ấy không thể ngồi trên bồ đoàn chứng đắc thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác được. Vậy, ta chỉ nói lời chân-thật mà thôi.

Đối với Đức-Bồ-tát đôi khi có thể phạm điều- giới sát-sinh, điều-giới trộm-cắp, điều-giới tà- dâm, điều-giới uống rượu và các chất say, nhưng phạm điều-giới nói-dối sai lời chân-thật, đem lại điều bất lợi, chắc chắn không bao giờ có đối với Đức-Bồ-tát.”

Cho nên, Đức-Bồ-tát đạo-sĩ thưa với Đức-vua lời chân-thật bằng câu kệ rằng:

“Evametaṃ mahārāja,

yathā te vacanaṃ sutaṃ.

Kummaggaṃ paṭipannosmi,

mohaneyyesu mucchito.”

– Thưa Đại-vương, Đại-vương được nghe những lời tâu như thế nào, những lời tâu ấy đều là sự-thật như thế ấy.

Bần đạo là người đã ham mê nữ-sắc, đối-tượng nữ-sắc làm cho phát sinh tham-tâm mê muội. Bần đạo đã hành tà-đạo sai đường rồi.

Nghe Đức-Bồ-tát đạo-sĩ thành thật thú nhận điều sai lầm của mình, Đức-vua bạch bằng câu kệ rằng:

– Kính bạch Ngài đạo-sĩ, trí-tuệ sáng suốt thấy rõ, biết rõ thật-tánh các pháp, tiêu diệt ác-pháp (tâm tham-dục) đã phát sinh đối với Ngài hiện có lợi ích gì? Sao Ngài không sử dụng trí-tuệ ấy tiêu diệt tà tư-duy trong đối-tượng sắc-dục ấy?

Nghe Đức-vua bạch hỏi như vậy, Đức-Bồ-tát đạo-sĩ thưa với Đức-vua bằng câu kệ rằng:

– Thưa Đại-vương, phiền-não có 4 loại là tham-dục, sân-hận, si-mê, say-đắm là loại phiền-não có năng lực dữ dội trong đời, khi loại phiền-não nào phát sinh ràng buộc rồi thì trí-tuệ không phát sinh được, như người rơi xuống dòng nước lũ chảy xiết.

Nghe Đức-Bồ-tát đạo-sĩ thưa như vậy, Đức- vua bạch bằng câu kệ rằng:

– Kính bạch Ngài đạo-sĩ, Quả-nhân tán dương ca tụng Ngài rằng: “Ngài đạo-sĩ Haritaca là bậc Thánh A-ra-hán có giới-hạnh trong sạch trọn vẹn, thực-hành pháp cao thượng thanh-tịnh, là bậc đại thiện-trí có trí-tuệ siêu-việt thật sự.”

(Soṇa Thiện Kim giải thích thêm: Lúc này do Đức-vua Brahmadatta do lòng tôn kính nên đã tán dương Đức bồ tát đạo sĩ là A-ra-hán, nhưng lúc này Bồ tát đạo sĩ vẫn chưa phải là Thánh A-ra-hán, chưa chứng Thánh đạo, Thánh quả)

Nghe Đức-vua bạch hỏi như vậy, Đức-Bồ-tát đạo-sĩ thưa với Đức-vua bằng câu kệ rằng:

– Thưa Đại-vương, tà tư-duy trong nữ-sắc là điều tệ hại nhất, bởi vì say mê trong nữ-sắc cho là xinh đẹp đáng yêu hợp với tâm tham-dục, có cơ hội gây ra sự khổ dù là bậc có trí-tuệ thường hoan-hỷ trong thiện-pháp của đạo-sĩ.

Nghe Đức-Bồ-tát đạo-sĩ thưa như vậy, Đức- vua có tác-ý muốn Ngài đạo-sĩ phát sinh đại- thiện-tâm tinh-tấn diệt phiền-não, nên bạch bằng câu kệ rằng:

– Kính bạch Ngài đạo-sĩ, phiền-não tham-dục nữ-sắc phát sinh nơi thân-môn, khi phiền-não ấy đã phát sinh làm hủy hoại thiện-pháp cao thượng của Ngài.

Vậy, Ngài nên sử dụng trí-tuệ siêu-việt của Ngài để diệt phiền-não tham-dục nữ-sắc ấy thì thiện-pháp cao thượng sẽ phát sinh đối với Ngài.

Ngài đạo-sĩ là bậc cao thượng được phần đông tán dương ca tụng rằng: “Ngài đạo-sĩ là bậc có trí-tuệ siêu-việt.”

Nghe Đức-vua tác-động khuyến khích nhắc nhở như vậy nên Đức-Bồ-tát đạo-sĩ thức tỉnh, có trí nhớ và trí-tuệ-tỉnh-giác biết mình, thấy rõ, biết rõ tội lỗi của ngũ-dục (sắc-dục, thanh-dục, hương-dục, vị-dục, xúc-dục), rồi thưa với Đức- vua bằng câu kệ rằng:

– Thưa Đại-vương, bần đạo đã thấy rõ, biết rõ ngũ-dục ấy chỉ làm cho con người tối tăm mê muội mà thôi. Ngũ-dục có nhiều chất độc dữ dội, người nào say mê trong ngũ-dục (sắc-dục, thanh-dục, hương-dục, vị-dục, xúc-dục), người ấy chỉ có khổ nhiều trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp vị-lai mà thôi.

Bần đạo sẽ tìm nguyên nhân của ngũ-dục ấy, sẽ tiêu diệt tâm tham-dục trong nữ-sắc, cùng với pháp ràng buộc của ngũ-dục.

Thật ra, đối-tượng nữ-sắc làm cho người nam phát sinh phiền-não tham-dục say mê do 2 nguyên nhân:

1- Subhanimitta: Đối-tượng nữ-sắc cho là xinh đẹp đáng hài lòng nên phát sinh tham-tâm.

2- Ayonisomanasikāra: Sự biết trong tâm do si-tâm biết sai lầm trong 4 trạng-thái của đối- tượng nữ-sắc là:

– Đối-tượng nữ-sắc có trạng-thái vô-thường (anicca), do si-tâm biết sai lầm cho là thường (nicca).

– Đối-tượng nữ-sắc có trạng-thái khổ (dukkha), do si-tâm biết sai lầm cho là lạc (sukha).

– Đối-tượng nữ-sắc có trạng-thái vô-ngã (anatta), do si-tâm biết sai lầm cho là ngã (atta).

– Đối-tượng nữ-sắc có trạng-thái bất-tịnh (asubha), do si-tâm biết sai lầm cho là xinh đẹp (subha).

Sau khi suy xét, Đức-Bồ-tát đạo-sĩ thưa với Đức-vua rằng:

– Thưa Đại-vương, nay bần đạo có trí-tuệ trong đại-thiện-tâm thấy rõ, biết rõ thật-tánh của đối-tượng sắc (nữ-sắc) là vô-thường, khổ, vô-ngã, bất-tịnh, nên diệt được phiền-não tham- dục nơi đối-tượng sắc (nữ-sắc) rồi.

– Thưa Đại-vương, xin Đại-vương cho phép bần-đạo có cơ hội thực-hành pháp-hành thiền- định để chuộc lại tội lỗi đã tạo vừa qua đối với Chánh-cung Hoàng-hậu của Đại-vương.

Khi ấy, Đức-Bồ-tát đạo-sĩ đi vào cốc lá, ngồi thực-hành pháp-hành thiền-định với đề-mục thiền-định kasiṇa, trong thời gian không lâu, dẫn đến chứng đắc trở lại 4 bậc thiền sắc-giới thiện- tâm và chứng đắc 5 phép-thần-thông thế-gian (lokiya abhiññā).

Đức-Bồ-tát đạo-sĩ từ trong cốc lá bước ra, bay lên hư không, ngồi kiết già thuyết pháp tế độ Đức-vua.

Sau khi lắng nghe Đức-Bồ-tát đạo-sĩ thuyết pháp, Đức-vua phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan-hỷ tán dương ca tụng Đức-Bồ-tát đạo-sĩ.

Đức-Bồ-tát đạo-sĩ thưa với Đức-vua rằng:

– Thưa Đại-vương, bần-đạo xin phép trở lại rừng núi Himavanta, xin Đại-vương không nên dể duôi.

Đức-Bồ-tát đạo-sĩ từ giã Đức-vua, bay trở lại rừng núi Himavanta, sống cho đến hết tuổi thọ. Sau khi Đức-Bồ-tát đạo-sĩ chết, sắc-giới thiện- nghiệp trong bậc thiền sắc-giới thiện-tâm cho quả tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời sắc-giới phạm-thiên. Vị phạm- thiên Bồ-tát hưởng an-lạc cho đến hết tuổi thọ tại tầng trời sắc-giới phạm-thiên ấy.
Đức-Phật tế độ vị tỳ-khưu muốn hoàn tục

Đức-Phật Gotama thuyết về tích tiền-kiếp của Ngài là Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Haritaca xong, rồi tiếp theo Đức-Phật thuyết về tứ Thánh-đế là khổ-Thánh-đế, nhân sinh khổ-Thánh-đế, diệt khổ-Thánh-đế, pháp-hành dẫn đến diệt khổ- Thánh-đế, để tế độ vị tỳ-khưu nhìn thấy người nữ xinh đẹp, muốn hoàn tục ấy.

Sau khi vị tỳ-khưu lắng nghe tích tiền-kiếp của Đức-Phật Gotama là Đức-Bồ-tát đạo-sĩ Haritaca và pháp tứ Thánh-đế, vị tỳ-khưu ấy thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh- quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cao thượng tại nơi ấy.

Nguồn:
Nền Tảng Phật Giáo
Tìm Hiểu Pháp Chướng Ngại
Giảng giải pháp-chướng-ngại (Nīvaraṇa)
Của Ngài Tỳ-khưu Hộ Pháp

Evampi idaṃ itthirūpaṃ purisassa cittaṃ pariyādāya tiṭṭhatīti veditabbaṃ.
Như vậy, cũng cần hiểu rằng hình tướng của người phụ nữ đã chiếm trọn tâm trí của người đàn ông.

2. Dutiyādīni saddagarukādīnaṃ āsayavasena vuttāni.
Các âm thanh như “dutiyā” và những âm tương tự khác được đề cập theo trạng thái của tâm trí người nghe.

Tesu itthisaddoti itthiyā cittasamuṭṭhāno kathitagītavāditasaddo.
Trong số đó, “itthisaddo” là âm thanh phát sinh từ tâm trí của người phụ nữ, bao gồm giọng nói, tiếng hát và tiếng nhạc cụ.

Apica itthiyā nivatthanivāsanassāpi alaṅkatālaṅkārassāpi itthipayoganipphādito vīṇāsaṅkhapaṇavādisaddopi itthisaddotveva veditabbo.
Hơn nữa, tiếng của các nhạc cụ như đàn luýt (vīṇā), kèn (saṅkha) và trống (paṇava) do người phụ nữ trang sức và y phục tạo ra cũng được coi là “itthisaddo”.

Sabbopi heso purisassa cittaṃ pariyādāya tiṭṭhati.
Tất cả những âm thanh này đều chiếm trọn tâm trí của người đàn ông.

Tattha suvaṇṇakakkaṭakasuvaṇṇamoradaharabhikkhuādīnaṃ vatthūni veditabbāni.
Ở đây, nên hiểu những câu chuyện về con cua vàng, con công vàng, các sa-di trẻ và những người khác.

Pabbatantaraṃ kira nissāya mahantaṃ hatthināgakulaṃ vasati.
Người ta kể rằng có một đàn voi lớn sinh sống gần một khu vực đồi núi.

Avidūraṭṭhāne cassa mahāparibhogasaro atthi, tasmiṃ kāyūpapanno suvaṇṇakakkaṭako atthi.
Không xa chỗ đó, có một hồ nước lớn, trong hồ này có một con cua vàng sinh sống.

So taṃ saraṃ otiṇṇotiṇṇe saṇḍāsena viya aḷehi pāde gahetvā attano vasaṃ netvā māreti.
Khi bất kỳ con vật nào xuống hồ, con cua dùng càng của mình giống như kìm để kẹp lấy chân của chúng, kéo chúng về phía nó và giết chết chúng.

Tassa otārāpekkhā hatthināgā ekaṃ mahāhatthiṃ jeṭṭhakaṃ katvā vicaranti.
Đàn voi, lo sợ con cua, thường cử một con voi trưởng thành làm thủ lĩnh để dẫn dắt.

So ekadivasaṃ taṃ hatthināgaṃ gaṇhi.
Một ngày nọ, con cua đã bắt được con voi trưởng.

Thāmasatisampanno hatthināgo cintesi – ‘‘sacāhaṃ bhītaravaṃ ravissāmi, sabbe yathāruciyā akīḷitvā palāyissantī’’ti niccalova aṭṭhāsi.
Con voi mạnh mẽ và tỉnh táo này suy nghĩ: “Nếu ta kêu lên vì sợ hãi, toàn bộ đàn voi sẽ bỏ chạy mà không chơi đùa nữa”. Vì vậy, nó đứng yên.

Atha sabbesaṃ uttiṇṇabhāvaṃ ñatvā tena gahitabhāvaṃ attano bhariyaṃ jānāpetuṃ viravitvā evamāha –
Sau khi biết rằng tất cả những con voi khác đã an toàn thoát khỏi hồ, con voi trưởng kêu lên để báo cho vợ nó biết rằng nó đã bị bắt và nói:

‘‘Siṅgīmigo āyatacakkhunetto,
Con nai sừng dài, có đôi mắt to tròn,

Aṭṭhittaco vārisayo alomo;
Da bọc sát xương, sống trong nước, không có lông;

Tenābhibhūto kapaṇaṃ rudāmi,
Bị đánh bại bởi nó, ta đang khóc thảm thương,

Mā heva maṃ pāṇasamaṃ jaheyyā’’ti. (jā. 1.3.49);
Xin nàng đừng bỏ ta, người thân yêu như chính mạng sống của nàng.” (Jātaka 1.3.49)

Sā taṃ sutvā sāmikassa gahitabhāvaṃ ñatvā taṃ tamhā bhayā mocetuṃ hatthinā ca kuḷīrena ca saddhiṃ sallapantī evamāha –
Sau khi nghe tiếng kêu, vợ của con voi trưởng nhận ra rằng chồng mình đã bị bắt. Để giải cứu chồng khỏi nguy hiểm, cô ấy đã nói chuyện với cả con voi và con cua và nói rằng:

‘‘Ayya na taṃ jahissāmi, kuñjaraṃ saṭṭhihāyanaṃ;
“Thưa ngài, ta sẽ không bỏ rơi ngài, con voi đã sống sáu mươi năm,

Pathabyā cāturantāya, suppiyo hosi me tuvaṃ.
Trên khắp bốn phương của trái đất, ngài là người yêu quý nhất đối với ta.

‘‘Ye kuḷīrā samuddasmiṃ, gaṅgāya yamunāya ca;
Những con cua sống ở đại dương, ở sông Hằng và sông Yamunā,

Tesaṃ tvaṃ vārijo seṭṭho, muñca rodantiyā pati’’nti. (Jātaka 1.3.50-51)
Ngài là vua của những con cua đó, xin hãy thả người chồng đang khóc của ta.”

Kuḷīro saha itthisaddassavanena gahaṇaṃ sithilamakāsi.
Khi nghe những lời này từ người vợ, con cua dần dần nới lỏng gọng kìm của mình.

Atha hatthināgo ‘‘ayamevetassa okāso’’ti ekaṃ pādaṃ gahitākāreneva ṭhapetvā dutiyaṃ ukkhipitvā taṃ piṭṭhikapāle akkamitvā vicuṇṇikaṃ katvā thokaṃ ākaḍḍhitvā tīre khipi.
Con voi trưởng nghĩ: “Đây chính là cơ hội của ta”. Nó để một chân ở trong càng cua như cũ, nâng chân còn lại lên và giẫm mạnh lên lưng con cua, nghiền nát nó, rồi kéo nó lên và ném về phía bờ.

Atha naṃ sabbahatthino sannipatitvā ‘‘amhākaṃ verī’’ti vicuṇṇayiṃsu.
Sau đó, tất cả những con voi khác tụ tập lại và nói: “Đây là kẻ thù của chúng ta”, rồi chúng nghiền nát con cua.

Evaṃ tāva itthisaddo suvaṇṇakakkaṭakassa cittaṃ pariyādiyitvā tiṭṭhati.
Như vậy, tiếng nói của người phụ nữ đã chiếm trọn tâm trí của con cua vàng.

Suvaṇṇamoropi himavantaṃ anupavisitvā mahantaṃ pabbatagahanaṃ nissāya vasanto niccakālaṃ sūriyassa udayakāle sūriyamaṇḍalaṃ ulloketvā attano rakkhaṃ karonto evaṃ vadati –
Con công vàng, sau khi tiến vào dãy núi Himalaya và sống dựa vào vùng rừng núi lớn, vào mỗi buổi bình minh, nó nhìn lên mặt trời và tự bảo vệ mình bằng cách nói những lời sau:

‘‘Udetayaṃ cakkhumā ekarājā,
“Mặt trời, vị vua duy nhất có đôi mắt rực rỡ, đã mọc lên,

Harissavaṇṇo pathavippabhāso;
Màu vàng rực rỡ và chiếu sáng khắp trái đất;

Taṃ taṃ namassāmi harissavaṇṇaṃ pathavippabhāsaṃ,
Ta kính lễ ngài, màu vàng rực rỡ và chiếu sáng khắp trái đất,

Tayājja guttā viharemu divasaṃ.
Hôm nay, được ngài bảo vệ, chúng ta sẽ sống qua ngày.

‘‘Ye brāhmaṇā vedagū sabbadhamme,
Những vị Bà-la-môn thông hiểu Vedas và tất cả các pháp,

Te me namo te ca maṃ pālayantu;
Ta kính lễ họ, mong họ cũng bảo vệ ta.

Namatthu buddhānaṃ namatthu bodhiyā,
Ta kính lễ các bậc Phật, ta kính lễ giác ngộ,

Namo vimuttānaṃ namo vimuttiyā;
Ta kính lễ những bậc giải thoát, ta kính lễ sự giải thoát.

Imaṃ so parittaṃ katvā,
Sau khi đã tạo ra câu kệ bảo vệ này,

Moro carati esanā’’ti. (Jātaka 1.2.17);
Con công vàng tiếp tục cuộc hành trình tìm kiếm thức ăn.” (Jātaka 1.2.17)

So divasaṃ gocaraṃ gahetvā sāyanhasamaye vasanaṭṭhānaṃ pavisanto atthaṅgataṃ sūriyamaṇḍalaṃ oloketvāpi imaṃ gāthaṃ vadati –
Sau khi kiếm ăn suốt cả ngày, vào buổi chiều, khi trở về nơi ở của mình và nhìn thấy mặt trời đã lặn, con công vàng cũng tụng lên bài kệ sau:

‘‘Apetayaṃ cakkhumā ekarājā,
“Mặt trời, vị vua duy nhất có đôi mắt rực rỡ, đã lặn đi,

Harissavaṇṇo pathavippabhāso;
Màu vàng rực rỡ và chiếu sáng khắp trái đất đã biến mất;

Taṃ taṃ namassāmi harissavaṇṇaṃ pathavippabhāsaṃ,
Ta kính lễ ngài, màu vàng rực rỡ đã chiếu sáng khắp trái đất,

Tayājja guttā viharemu rattiṃ.
Hôm nay, được ngài bảo vệ, chúng ta sẽ an trú suốt đêm nay.

‘‘Ye brāhmaṇā vedagū sabbadhamme,
Những vị Bà-la-môn thông hiểu Vedas và tất cả các pháp,

Te me namo te ca maṃ pālayantu;
Ta kính lễ họ, mong họ cũng bảo vệ ta.

Namatthu buddhānaṃ namatthu bodhiyā,
Ta kính lễ các bậc Phật, ta kính lễ giác ngộ,

Namo vimuttānaṃ namo vimuttiyā;
Ta kính lễ những bậc giải thoát, ta kính lễ sự giải thoát.

Imaṃ so parittaṃ katvā,
Sau khi đã tạo ra câu kệ bảo vệ này,

Moro vāsamakappayī’’ti. (Jātaka 1.2.18);
Con công vàng nghỉ ngơi qua đêm.” (Jātaka 1.2.18)

Iminā niyāmena satta vassasatāni vītināmetvā ekadivasaṃ parittakammato puretarameva morakukkuṭikāya saddaṃ sutvā parittakammaṃ asaritvā raññā pesitassa luddakassa vasaṃ upagato.
Bằng cách này, con công vàng đã sống trong suốt bảy trăm năm. Tuy nhiên, một ngày nọ, trước khi thực hiện nghi lễ bảo vệ, nó nghe tiếng con công cái kêu. Vì vậy, nó đã quên thực hiện nghi lễ và bị thợ săn do nhà vua phái đến bắt được.

Evaṃ itthisaddo suvaṇṇamorassa cittaṃ pariyādiyitvā tiṭṭhatīti.
Như vậy, tiếng kêu của con công cái đã chiếm trọn tâm trí của con công vàng.

Chātapabbatavāsī daharo pana sudhāmuṇḍakavāsī daharo ca itthisaddaṃ sutvā anayabyasanaṃ pattāti.
Hai vị sa-di trẻ sống ở núi Chātapabbata và Sudhāmuṇḍaka cũng đã gặp phải tai họa do nghe tiếng nói của phụ nữ.

3. Tatiye itthigandhoti itthiyā catusamuṭṭhānikaṃ gandhāyatanaṃ.
Thứ ba là “itthigandho” (mùi hương của người phụ nữ), phát sinh từ bốn yếu tố (catusamuṭṭhāna) và thuộc về mùi hương (gandhāyatana).

Svāyaṃ itthiyā sarīragandho duggandho hoti, kāyāruḷho pana āgantukaanulepanādigandho idha adhippeto.
Mùi tự nhiên của cơ thể người phụ nữ thường có thể là mùi khó chịu, nhưng ở đây, chủ yếu là nói về các mùi hương được thoa lên cơ thể như nước hoa hay mỹ phẩm.

Ekaccā hi itthī assagandhinī hoti, ekaccā meṇḍakagandhinī, ekaccā sedagandhinī, ekaccā soṇitagandhinī.
Có người phụ nữ có mùi hương giống mùi ngựa, có người mùi giống cừu, có người mùi giống mồ hôi, và có người có mùi giống máu.

Ekacco andhabālo evarūpāyapi itthiyā rajjateva.
Một số người đàn ông ngu muội vẫn bị hấp dẫn bởi những người phụ nữ có những mùi hương này.

Cakkavattino pana itthiratanassa kāyato candanagandho vāyati, mukhato ca uppalagandho.
Đối với vương phi của các vị Chuyển Luân Vương (Cakkavatti), mùi từ cơ thể phát ra giống như hương đàn hương, còn mùi từ miệng giống như hương hoa sen.

Ayaṃ na sabbāsaṃ hoti, āgantukaanulepanādigandhova idha adhippeto.
Điều này không áp dụng cho tất cả mọi phụ nữ, ở đây chỉ nói về các mùi hương bên ngoài như nước hoa hay mỹ phẩm.

Tiracchānagatā pana hatthiassagoṇādayo tiracchānagatānaṃ sajātiitthīnaṃ utugandhena yojanadviyojanatiyojanacatuyojanampi gacchanti.
Đối với loài vật, như voi, ngựa, bò, chúng có thể bị thu hút bởi mùi hương sinh lý của con cái cùng loài từ khoảng cách hai, ba hoặc bốn do-tuần (yojana).

Itthikāye gandho vā hotu itthiyā nivatthanivāsanaanulittālepanapiḷandhamālādigandho vā, sabbopi itthigandhotveva veditabbo.
Dù mùi phát ra từ cơ thể của người phụ nữ hay từ y phục, nước hoa, vòng hoa hay trang sức của cô ấy, tất cả đều được coi là “itthigandho” (mùi hương của người phụ nữ).
4. Catutthe itthirasoti itthiyā catusamuṭṭhānikaṃ rasāyatanaṃ.
Thứ tư là “itthiraso” (vị giác liên quan đến người phụ nữ), xuất phát từ bốn yếu tố và thuộc về cơ quan vị giác (rasāyatana).

Tipiṭakacūḷanāgacūḷābhayattherā pana ‘‘svāyaṃ itthiyā kiṃkārapaṭissāvitādivasena savanaraso ceva paribhogaraso ca, ayaṃ itthiraso’’ti vadanti.
Các trưởng lão như Tipiṭakacūḷanāga và Cūḷābhaya giải thích rằng: “Vị giác liên quan đến người phụ nữ này bao gồm cả vị của những âm thanh cô ấy phát ra (savanaraso) và vị của sự tiếp xúc (paribhogaraso)”. Đó là “itthiraso” (vị giác của người phụ nữ).

Kiṃ tena?
Tại sao lại như vậy?

Yo panāyaṃ itthiyā oṭṭhamaṃsasammakkhanakheḷādirasopi, sāmikassa dinnayāgubhattādīnaṃ rasopi, sabbo so itthirasotveva veditabbo.
Bất kỳ vị giác nào liên quan đến người phụ nữ, dù là vị của môi, thịt, hay nước bọt, hoặc vị của các món ăn như cháo hay cơm mà cô ấy chuẩn bị cho chồng, tất cả đều được xem là “itthiraso”.

Aneke hi sattā attano mātugāmena yaṃkiñci sahatthā dinnameva madhuranti gahetvā anayabyasanaṃ pattāti.
Có rất nhiều chúng sinh, sau khi nhận bất cứ thứ gì từ tay của phụ nữ mà họ yêu quý, đều xem đó là ngọt ngào và do đó rơi vào tai họa và bất hạnh.

5. Pañcame itthiphoṭṭhabboti itthiyā kāyasamphasso, itthisarīrāruḷhānaṃ vatthālaṅkāramālādīnampi phasso itthiphoṭṭhabbotveva veditabbo.
Thứ năm là “itthiphoṭṭhabbo” (sự tiếp xúc với người phụ nữ), đó là sự tiếp xúc cơ thể với người phụ nữ. Ngay cả sự tiếp xúc với y phục, đồ trang sức, hay vòng hoa mà cô ấy đeo cũng được xem là “itthiphoṭṭhabbo”.

Sabbopesa purisassa cittaṃ pariyādiyati mahācetiyaṅgaṇe gaṇasajjhāyaṃ gaṇhantassa daharabhikkhuno visabhāgārammaṇaphasso viyāti.
Tất cả những điều này chiếm trọn tâm trí của người đàn ông, giống như khi một vị sa-di trẻ tại Mahācetiya đang tụng kinh nhóm nhưng bị phân tâm bởi sự tiếp xúc với đối tượng không phù hợp.

Iti satthā sattānaṃ āsayānusayavasena rūpādīsu ekekaṃ gahetvā aññaṃ īdisaṃ na passāmīti āha.
Như vậy, Đức Phật đã phân tích từng yếu tố như hình tướng và các giác quan khác dựa trên tâm trạng và xu hướng của chúng sinh và nói rằng: “Ta không thấy điều gì khác tương tự như thế này.”

Yathā hi rūpagarukassa purisassa itthirūpaṃ cittuppādaṃ gameti palibundhati bajjhāpeti baddhāpeti moheti saṃmoheti, na tathā sesā saddādayo.
Đối với người đàn ông xem trọng hình tướng, hình tướng của phụ nữ kích thích tâm trí, ràng buộc và trói buộc anh ta, làm cho anh ta bị mê hoặc và lạc lối. Những điều này không xảy ra với các giác quan khác như âm thanh.

Yathā ca saddādigarukānaṃ saddādayo, na tathā rūpādīni ārammaṇāni.
Đối với những người xem trọng âm thanh, âm thanh có thể làm họ bị ràng buộc, nhưng các đối tượng khác như hình tướng không có tác động tương tự.

Ekaccassa ca rūpādīsu ekamevārammaṇaṃ cittaṃ pariyādiyati, ekaccassa dvepi tīṇipi cattāripi pañcapi.
Có người chỉ bị một trong các đối tượng như hình tướng chiếm trọn tâm trí, trong khi có người bị hai, ba, bốn, hoặc cả năm giác quan cùng lúc chiếm giữ.

Iti ime pañca suttantā pañcagarukavasena kathitā, na pañcagarukajātakavasena.
Những bài kinh này được thuyết giảng theo năm loại trọng tâm khác nhau, chứ không phải theo câu chuyện về năm trọng tâm.

Pañcagarukajātakaṃ pana sakkhibhāvatthāya āharitvā kathetabbaṃ.
Tuy nhiên, câu chuyện về năm loại trọng tâm có thể được kể như một minh chứng.

Tatra hi amanussehi kantāramajjhe katāya āpaṇādivicāraṇāya mahāpurisassa pañcasu sahāyesu rūpagaruko rūpārammaṇe bajjhitvā anayabyasanaṃ patto, saddādigarukā saddārammaṇādīsu.
Trong câu chuyện đó, khi các vị thần thực hiện việc điều tra trong khu rừng hoang vắng, một trong năm người bạn của người vĩ đại đã bị ràng buộc bởi hình tướng và gặp tai họa. Những người khác thì bị ràng buộc bởi âm thanh và các giác quan khác.

Iti taṃ sakkhibhāvatthāya āharitvā kathetabbaṃ.
Vì vậy, câu chuyện này có thể được kể như một minh chứng.

Ime pana pañca suttantā pañcagarukavaseneva kathitā.
Nhưng những bài kinh này đã được thuyết giảng theo năm loại trọng tâm khác nhau.

6. Yasmā ca na kevalaṃ purisāyeva pañcagarukā honti, itthiyopi hontiyeva, tasmā tāsampi vasena puna pañca suttante kathesi.
Vì không chỉ có đàn ông mới bị ràng buộc bởi năm yếu tố này, mà phụ nữ cũng vậy, nên Đức Phật đã giảng thêm năm bài kinh khác liên quan đến họ.

Tesampi attho vuttanayeneva veditabbo.
Ý nghĩa của các bài kinh này cũng phải được hiểu theo cách tương tự như đã được giảng cho đàn ông.

Vatthūsupi paṭhamasutte lohapāsādadvāre ṭhitaṃ daharaṃ oloketvā matāya rājorodhāya vatthu veditabbaṃ.
Trong câu chuyện đầu tiên, nên hiểu câu chuyện về hoàng hậu của vua đã qua đời sau khi nhìn thấy một vị sa-di trẻ đứng ở cổng tòa nhà kim loại (Lohapāsāda).

Taṃ heṭṭhā vitthāritameva.
Chi tiết về câu chuyện này đã được kể rõ ở phần trước.

7. Dutiyasutte bārāṇasiyaṃ rūpūpajīvino mātugāmassa vatthu veditabbaṃ.
Trong câu chuyện thứ hai, đó là câu chuyện về một người phụ nữ ở Bārāṇasī sống dựa vào nhan sắc của mình.

Guttilavīṇāvādako kirekissā itthiyā sahassaṃ pahiṇi, sā taṃ uppaṇḍetvā gaṇhituṃ na icchi.
Guttila, người chơi đàn vīṇā, đã gửi tặng một nghìn đồng tiền cho một người phụ nữ, nhưng cô ta chế giễu và từ chối nhận.

So ‘‘karissāmettha kattabba’’nti sāyanhakālasamanantare alaṅkatapaṭiyatto tassā gehassa abhimukhaṭṭhāne aññasmiṃ gehadvāre nisinno vīṇāya tantiyo same guṇe patiṭṭhāpetvā tantissarena gītassaraṃ anatikkamanto gāyi.
Guttila nghĩ rằng: “Ta sẽ thực hiện điều cần làm”, và ngay sau buổi chiều, khi trang phục chỉnh tề, ông ngồi ở cổng nhà gần nhà người phụ nữ đó, cẩn thận chỉnh dây đàn vīṇā và hát một bài hát theo đúng giai điệu của tiếng đàn.

Sā itthī tassa gītasaddaṃ sutvā dvāranti saññāya ‘‘vivaṭavātapānena tassa santikaṃ gamissāmī’’ti ākāseyeva jīvitakkhayaṃ pattā.
Người phụ nữ, khi nghe thấy tiếng đàn và giọng hát của Guttila, nghĩ rằng ông ta đang đứng trước cửa nhà mình. Cô mở cửa sổ với ý định đến gần ông, nhưng đã ngã xuống và chết ngay trong không trung.

8. Tatiyasutte cakkavattirañño kāyato candanagandho vāyati, mukhato ca uppalagandhoti idaṃ āharitabbaṃ.
Trong câu chuyện thứ ba, chúng ta cần nhắc đến việc thân thể của vua Chuyển Luân phát ra hương đàn hương, và từ miệng ngài phát ra hương hoa sen.

Idaṃ cettha vatthu veditabbaṃ.
Câu chuyện sau đây được kể để minh họa điều này.

Sāvatthiyaṃ kirekissā kuṭumbikadhītāya sāmiko satthu dhammadesanaṃ sutvā, ‘‘na sakkā mayā ayaṃ dhammo gihibhūtena pūretu’’nti aññatarassa piṇḍapātikattherassa santike pabbaji.
Tại Sāvatthī, chồng của con gái một gia đình giàu có đã nghe Đức Phật thuyết giảng và nghĩ rằng: “Ta không thể thực hành pháp này khi còn là người cư sĩ”. Sau đó, anh đã xuất gia với một vị trưởng lão nhận đồ cúng dường (piṇḍapātika).

Athassa bhariyaṃ ‘‘assāmikā aya’’nti ñatvā rājā pasenadikosalo antepuraṃ āharāpetvā ekadivasaṃ ekaṃ nīluppalakalāpaṃ ādāya antepuraṃ paviṭṭho ekekissā ekekaṃ nīluppalaṃ dāpesi.
Sau đó, khi nhà vua Pasenadi Kosala biết người vợ này đã không còn chồng, ông đưa cô vào hậu cung. Một ngày nọ, nhà vua mang theo một bó hoa sen xanh và tặng mỗi người phụ nữ trong hậu cung một bông hoa sen.

Pupphesu bhājiyamānesu tassā itthiyā dve hatthaṃ pattāni.
Khi các bông hoa được chia ra, người phụ nữ đó nhận được hai bông.

Sā pahaṭṭhākāraṃ dassetvā upasiṅghitvā parodi.
Cô ấy tỏ vẻ vui mừng, hít lấy hương hoa và sau đó bật khóc.

Rājā tassā ubhayākāraṃ disvā taṃ pakkosāpetvā pucchi.
Nhà vua, khi thấy cả niềm vui và nỗi buồn của cô ấy, đã gọi cô đến và hỏi lý do.

Sā attano pahaṭṭhakāraṇañca rodanakāraṇañca kathesi.
Cô ấy giải thích lý do tại sao mình vui mừng và sau đó tại sao mình khóc.

Yāvatatiyaṃ kathitepi rājā assaddahanto punadivase sakalarājanivesane sabbamālāvilepanādisugandhagandhaṃ harāpetvā buddhappamukhassa bhikkhusaṅghassa āsanāni paññāpetvā buddhappamukhassa bhikkhusaṅghassa mahādānaṃ datvā bhattakiccapariyosāne taṃ itthiṃ ‘‘kataro te thero’’ti pucchitvā, ‘‘aya’’nti vutte ñatvā satthāraṃ vanditvā, ‘‘bhante, tumhehi saddhiṃ bhikkhusaṅgho gacchatu, amhākaṃ asukatthero anumodanaṃ karissatī’’ti āha.
Dù cô ấy đã giải thích ba lần, nhà vua vẫn không tin. Ngày hôm sau, nhà vua sắp xếp một đại lễ cúng dường cho Đức Phật và Tăng đoàn. Sau khi buổi lễ cúng dường kết thúc, nhà vua hỏi người phụ nữ: “Vị trưởng lão nào là chồng của cô?” Khi cô ấy chỉ ra vị trưởng lão, nhà vua đã đảnh lễ Đức Phật và nói: “Bạch Thế Tôn, Ngài và Tăng đoàn hãy đi, vị trưởng lão này sẽ nói lời tán dương cho chúng tôi”.

Satthā taṃ bhikkhuṃ ṭhapetvā vihāraṃ gato.
Đức Phật để lại vị trưởng lão đó và trở về tinh xá.

There anumodanaṃ vattuṃ āraddhamatte sakalaṃ rājanivesanaṃ gandhapūraṃ viya jātaṃ.
Khi vị trưởng lão bắt đầu đọc bài kinh tán dương, cả hoàng cung trở nên tràn ngập mùi hương thơm ngát.

Rājā ‘‘saccamevesā āhā’’ti pasīditvā punadivase satthāraṃ taṃ kāraṇaṃ pucchi.
Nhà vua thừa nhận: “Cô ấy đã nói sự thật”, và ngày hôm sau hỏi Đức Phật về điều này.

Satthā ‘‘ayaṃ atīte dhammakathaṃ suṇanto ‘sādhu sādhū’ti sādhukāraṃ pavattento sakkaccaṃ assosi, tammūlako tena mahārāja ayamānisaṃso laddho’’ti ācikkhi.
Đức Phật giải thích: “Trong quá khứ, người này đã nghe pháp một cách cẩn thận và tán dương bằng lời ‘Sādhu, Sādhu’ (Tốt lành), và nhờ công đức đó, ông ta đã đạt được mùi hương này, thưa Đại vương.”

‘‘Saddhammadesanākāle, sādhu sādhūti bhāsato;
“Khi nghe pháp đúng chánh pháp, người ấy nói ‘Sādhu, Sādhu’ (Tốt lành),

Mukhato jāyate gandho, uppalaṃva yathodake’’ti.
Và từ miệng của người ấy phát ra mùi hương như hương hoa sen trong nước.”

Sesaṃ sabbattha uttānamevāti.
Phần còn lại trong tất cả câu chuyện này đều đã rõ ràng.

Imasmiṃ vagge vaṭṭameva kathitaṃ.
Trong chương này, vòng luân hồi được nhấn mạnh.

Rūpādivaggavaṇṇanā.
Kết thúc phần giải thích về chương “Rūpa và các yếu tố khác”.

Hộp bình luận Facebook

Soṇa Thiện Kim

Panha.org là trang web chuyên sâu về Pháp học của Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Tông), nơi cung cấp kiến thức và tài liệu quý báu về kinh điển, giáo lý, và triết học Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Tông). Tại đây, bạn có thể tìm hiểu về các giáo pháp truyền thống, kinh nghiệm tu tập, và những bài giảng từ các vị tôn sư hàng đầu trong cộng đồng Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Tông). Với mục tiêu giúp người học hiểu sâu hơn về con đường giác ngộ và sự giải thoát, Panha.org mang đến nguồn tài nguyên phong phú, chính xác và cập nhật để hỗ trợ hành giả trên hành trình tu tập Pháp học.

Bài viết liên quan

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.

0 Góp ý
Được bỏ phiếu nhiều nhất
Mới nhất Cũ nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Back to top button