อรรถกถา อังคุตตรนิกาย ปัญจกนิบาต จตุตถปัณณาสก์ พราหมณวรรคที่ ๕
Chú giải Tăng Chi Bộ Kinh, Phẩm Năm Pháp, Phần Thứ Tư, Chương Bà-La-Môn Thứ Năm.
๑. โสณสูตร
1. Kinh Soṇa.
พราหมณวรรคที่ ๕
Chương Bà-La-Môn Thứ Năm.
อรรถกถาโสณสูตรที่ ๑
Chú giải Kinh Soṇa Thứ Nhất.
พึงทราบวินิจฉัยในโสณสูตรที่ ๑ แห่งวรรคที่ ๕ ดังต่อไปนี้ :-
Sau đây là phần phân tích Kinh Soṇa Thứ Nhất trong Chương Thứ Năm.
บทว่า พฺราหฺมณธมฺมา ได้แก่ สภาพของพราหมณ์.
Cụm từ “Brāhmaṇadhammā” nghĩa là bản chất của một vị Bà-la-môn.
บทว่า สุนเขสุ แปลว่า ในสุนัขทั้งหลาย.
Cụm từ “Sunakhesu” được dịch là “trong các loài chó.”
บทว่า เนว กิณนฺติ น วิกฺกิณนฺติ ได้แก่ ถือเอาไม่ซื้อ ให้ไปไม่ขาย.
Cụm từ “Neva kiṇanti na vikkiṇanti” nghĩa là không mua để lấy, không bán để trao.
บทว่า สมฺปิเยเนว สํวาสํ สมฺพนฺธาย สมฺปวตฺเตนฺติ ความว่า เข้าไปหาผู้เป็นที่รักและไม่เป็นที่รักแล้วอยู่ร่วมกัน เพื่อสืบประเวณี.
Cụm từ “Sampiyeneva saṃvāsaṃ saṃbandhāya sampavattenti” nghĩa là họ sống chung với nhau, tiếp cận cả người yêu thích lẫn không yêu thích để nối dõi tông đường.
บทว่า อุทราวเทหกํ ได้แก่ บริโภคจนเต็มท้อง.
Cụm từ “Udarāvadehakaṃ” nghĩa là ăn cho đến khi đầy bụng.
บทว่า อวเสสํ อาทาย ปกฺกมนฺติ ได้แก่ ห่อส่วนที่บริโภคไม่หมดถือเอากลับไป.
Cụm từ “Avasesaṃ ādāya pakkamanti” nghĩa là mang phần ăn còn lại về.
ในสูตรนี้ พระผู้มีพระภาคเจ้าตรัสวัฏฏะอย่างเดียว.
Trong bài kinh này, Đức Phật chỉ giảng về vòng luân hồi (saṃsāra).
จบอรรถกถาโสณสูตรที่ ๑
Chấm dứt phần chú giải Kinh Soṇa Thứ Nhất.
อรรถกถาโทณสูตรที่ ๒
Chú giải Kinh Doṇa Thứ Hai.
พึงทราบวินิจฉัยในโทณสูตรที่ ๒ ดังต่อไปนี้ :-
Sau đây là phần phân tích Kinh Doṇa Thứ Hai.
บทว่า ตฺวํปิ โน แก้เป็น ตฺวมฺปิ นฺ แปลว่า แม้ท่านหนอ.
Cụm từ “Tvaṃpi no” được sửa thành “Tvaṃpi n”, nghĩa là “Ngay cả ngài, thưa ngài”.
บทว่า ปวตฺตาโร คือ ผู้สอน.
Cụm từ “Pavattāro” nghĩa là những người giảng dạy.
บทว่า เยสํ คือ เป็นสมบัติของฤาษีเหล่าใด.
Cụm từ “Yesaṃ” nghĩa là thuộc về những vị ẩn sĩ nào.
บทว่า มนฺตปทํ ได้แก่ มนต์ คือพระเวทนั่นเอง.
Cụm từ “Mantapadaṃ” nghĩa là thần chú, tức là các câu kinh Vệ-đà.
บทว่า คีตํ ได้แก่ พวกโบราณพราหมณ์ ๑๐ คนมีอัฏฐกพราหมณ์เป็นต้นสาธยายแล้วด้วยสรภัญญสมบัติ คือเสียง.
Cụm từ “Gītaṃ” nghĩa là những câu thần chú được mười vị Bà-la-môn xưa như Aṭṭhaka và các vị khác tụng với giọng điệu hài hòa.
บทว่า ปวุตฺตํ ได้แก่ บอกกล่าว [สอน] แก่คนอื่น.
Cụm từ “Pavuttaṃ” nghĩa là đã được truyền dạy cho người khác.
บทว่า สมิหิตํ ได้แก่ รวบรวม คือทำให้เป็นกอง. อธิบายว่า ตั้งไว้เป็นกลุ่มเป็นก้อน.
Cụm từ “Samīhitaṃ” nghĩa là được tập hợp lại, tức là được sắp xếp thành từng nhóm hoặc từng bộ.
บทว่า ตทนุคายนฺติ ความว่า บัดนี้พราหมณ์ทั้งหลายก็ขับสาธยายมนต์ตามที่โบราณพราหมณ์เหล่านั้นขับมาก่อน.
Cụm từ “Tadanugāyanti” nghĩa là bây giờ các vị Bà-la-môn cũng tụng đọc các thần chú theo cách mà những vị Bà-la-môn xưa đã làm trước đây.
บทว่า ตทนุภาสนฺติ ได้แก่ กล่าวมนต์นั้นตาม.
Cụm từ “Tadanubhāsanti” nghĩa là nói theo những câu thần chú đó.
บทนี้เป็นไวพจน์ของบทก่อนนั่นแล.
Cụm từ này đồng nghĩa với cụm từ trước đó.
บทว่า ภาสิตมนุภาสนฺติ ได้แก่ กล่าวตามที่พวกโบราณพราหมณ์เหล่านั้นกล่าวไว้.
Cụm từ “Bhāsitamanubhāsanti” nghĩa là nói theo những gì các Bà-la-môn xưa đã nói.
บทว่า สชฺฌายิตมนุสชฌายนฺติ ได้แก่ สาธยายตามที่พวกโบราณพราหมณ์เหล่านั้นสาธยาย.
Cụm từ “Sajjhāyitamanusajjhāyanti” nghĩa là tụng đọc theo những gì các Bà-la-môn xưa đã tụng đọc.
บทว่า วาจิตมนุวาเจนฺติ ได้แก่ บอกตามที่พวกโบราณพราหมณ์เหล่านั้นบอกแก่ผู้อื่น.
Cụm từ “Vācitamanuvāceti” nghĩa là lặp lại những gì các Bà-la-môn xưa đã truyền dạy cho người khác.
บทว่า เสยฺยถีทํ ได้แก่ โบราณพราหมณ์เหล่านั้นมีใครบ้าง.
Cụm từ “Seyyathīdaṃ” nghĩa là: những Bà-la-môn xưa đó là ai?
บทว่า อฏฺฐุโก เป็นต้นเป็นชื่อของโบราณพราหมณ์เหล่านั้น.
Cụm từ “Aṭṭhuko” và các từ khác là tên của các vị Bà-la-môn xưa.
ได้ยินว่า โบราณพราหมณ์เหล่านั้นตรวจดูด้วยทิพยจักษุแล้วไม่ทำการเบียดเบียนผู้อื่น เทียบปาพจน์คำสอนของพระผู้มีพระภาคเจ้าพระนามว่าพระกัสสปสัมมาสัมพุทธเจ้า แล้วเรียบเรียงมนต์ทั้งหลาย.
Nghe rằng các vị Bà-la-môn xưa, sau khi quan sát bằng thiên nhãn, không làm tổn hại ai khác, đối chiếu với lời dạy của Đức Phật Chánh Đẳng Chánh Giác Kassapa và biên soạn các câu thần chú.
แต่พราหมณ์อีกพวกหนึ่งใส่กรรมมีปาณาติบาตเป็นต้นเข้าไปทำลายพระเวท ๓ ทำให้ขัดแย้งกับพระพุทธพจน์เสีย.
Tuy nhiên, một nhóm Bà-la-môn khác đã đưa những hành vi như sát sinh vào, phá hủy ba bộ kinh Vệ-đà, khiến chúng mâu thuẫn với lời dạy của Đức Phật.
บทว่า อสฺสุ ในบทว่า ตฺยาสฺสุเม นี้ เป็นเพียงนิบาต.
Cụm từ “Assu” trong câu “Tyassume” chỉ là một hư từ.
อธิบายว่า พราหมณ์เหล่านั้นบัญญัติพราหมณธรรม ๕ เหล่านี้.
Điều này có nghĩa là các vị Bà-la-môn đó đã lập ra năm phẩm chất của Bà-la-môn.
บทว่า มนฺเต อธิยมาโน ได้แก่ ท่องเรียนพระเวททั้งหลาย.
Cụm từ “Mante adhiyamāno” nghĩa là học thuộc và nghiên cứu các câu kinh Vệ-đà.
บทว่า อาจริยนํ ได้แก่ ทรัยพ์บูชาอาจารย์ คือทรัพย์อันเป็นส่วนบูชาอาจารย์.
Cụm từ “Ācariyanaṃ” nghĩa là lễ vật cúng dường thầy dạy, tức là tài sản dùng để tri ân thầy.
บทว่า น อิสฺสตฺเถน ได้แก่ ไม่ใช่ให้เกิดขึ้นด้วยงานนักรบอาชีพ.
Cụm từ “Na issatthenā” nghĩa là không phải do nghề chiến binh mà có.
บทว่า น ราชโปริเสน ได้แก่ ไม่ใช่ให้เกิดขึ้นด้วยความเป็นข้าราชการ.
Cụm từ “Na rājakapurisena” nghĩa là không phải do làm quan hay phục vụ nhà vua mà có.
บทว่า เกวลํ ภิกฺขาจริยาย ได้แก่ เกิดขึ้นด้วยภิกขาจารอันบริสุทธิ์ [ล้วนๆ] เท่านั้น.
Cụm từ “Kevalaṃ bhikkhācariyāya” nghĩa là chỉ thông qua hạnh khất thực trong sạch mà đạt được.
บทว่า กปาลํ อนติมญฺญมาโน ได้แก่ ไม่ดูหมิ่นภิกขาภาชนะ.
Cụm từ “Kapālaṃ anatimaññamāno” nghĩa là không khinh thường bát khất thực của mình.
ก็โทณพราหมณ์นั้นถือภิกขาภาชนะใส่น้ำเต็มแล้ว สนานศีรษะ ไปยืนอยู่ที่ประตูของตระกูลทั้งหลายร้องขอว่า ข้าพเจ้าประพฤติโกมารพรหมจรรย์ (เป็นชายโสด) มาตลอด ๔๘ ปี ทั้งมนต์ข้าพเจ้าก็เรียนแล้ว ข้าพเจ้าจักให้ทรัพย์บูชาอาจารย์แก่อาจารย์ ขอท่านทั้งหลายจงให้ทรัพย์แก่ข้าพเจ้าเถิดดังนี้.
Khi ấy, Doṇa Bà-la-môn cầm bát khất thực đựng đầy nước, tắm đầu, đứng ở cửa nhà các gia đình và xin rằng: “Tôi đã sống đời phạm hạnh (không lập gia đình) trong suốt 48 năm, đã học các thần chú. Tôi sẽ dâng của cải cúng dường thầy dạy. Xin hãy cho tôi tài sản.”
พวกมนุษย์ได้ฟังดังนั้นต่างก็ให้ทรัพย์ ๘ กหาปณะบ้าง ๑๖ กหาปณะบ้าง ๑๐๐ กหาปณะบ้างตามกำลังสามารถ โทณพราหมณ์เที่ยวไปขอทั่วหมู่บ้าน อย่างนี้แล้วมอบทรัพย์ที่ได้ให้แก่อาจารย์.
Nghe lời ấy, mọi người tùy theo khả năng mà cho: người cho 8 kahāpaṇa, người cho 16 kahāpaṇa, người cho 100 kahāpaṇa. Doṇa Bà-la-môn đi khắp làng xin của cải như vậy rồi mang những gì nhận được cúng dường thầy dạy.
คำนั้นท่านกล่าวหมายถึงภิกขาภาชนะนั้น.
Lời nói đó ám chỉ đến bát khất thực.
บทว่า เอวํ โข โทณพฺราหฺมโณ พฺรหฺมสโม โหติ ความว่า พราหมณ์เป็นผู้ชื่อว่าเสมอด้วยพรหม เพราะประกอบด้วยพรหมวิหารอย่างนี้.
Cụm từ “Evaṃ kho Doṇa Brāhmaṇo Brahmasamo hoti” nghĩa là Bà-la-môn Doṇa được gọi là “ngang bằng với Phạm thiên” vì thực hành các Phạm trú như vậy.
บทว่า เนว กเยน น วิกฺกเยน ได้แก่ ไม่ใช่ตนเองซื้อ ไม่ใช่ผู้อื่นขายให้.
Cụm từ “Neva kayena na vikkayena” nghĩa là không phải tự mình mua, cũng không phải người khác bán cho.
บทว่า อุทกูปสฏฺฐํ ได้แก่ ที่เขาหลั่งน้ำสละให้.
Cụm từ “Udakūpasaṭṭhaṃ” nghĩa là nước được đổ ra để hiến tặng.
โทณพราหมณ์นั้นไปยืนอยู่ที่ประตูของตระกูลที่มีหญิงสาววัยรุ่น เมื่อเขาถามว่าเหตุไรท่านจึงยืนอยู่ พราหมณ์ตอบว่า ข้าพเจ้าประพฤติโกมารพรหมจรรย์มา ๔๘ ปี ข้าพเจ้าจะให้ทุกสิ่งทุกอย่างแก่ท่าน ขอท่านจงให้หญิงสาวแก่ข้าพเจ้าเถิด.
Doṇa Bà-la-môn đứng trước cửa một gia đình có một thiếu nữ trẻ tuổi. Khi họ hỏi tại sao ông đứng ở đó, ông trả lời: “Tôi đã sống đời phạm hạnh trong suốt 48 năm. Tôi sẽ trao tất cả những gì tôi có cho các vị, xin hãy cho tôi cô gái này làm vợ.”
พวกเขานำหญิงสาวมาแล้วหลั่งน้ำลงบนมือของพราหมณ์นั้นให้.
Họ mang thiếu nữ đến và đổ nước lên tay Bà-la-môn ấy để làm lễ trao tặng.
โทณพราหมณ์นั้นรับหญิงสาวที่เขาหลั่งน้ำให้เป็นภรรยาก็กลับไป.
Doṇa Bà-la-môn nhận thiếu nữ làm vợ, sau đó ông trở về.
บทว่า อติมิฬฺหโช ได้แก่ เกิดในที่สกปรกยิ่ง คือกองคูถใหญ่.
Cụm từ “Atimiḷhajo” nghĩa là sinh ra ở nơi cực kỳ ô uế, như đống phân lớn.
บทว่า ตสฺสสฺส ตัดบทเป็น ตสฺส เอตสฺส.
Cụm từ “Tassassa” được tách thành “Tassa Etassa.”
บทว่า น ทฺวตฺถา ได้แก่ ไม่ต้องการเล่น.
Cụm từ “Na Dvattha” nghĩa là không ham thích trò chơi.
บทว่า น รตตฺถา ได้แก่ ไม่ต้องการความยินดีในกาม.
Cụm từ “Na Ratattha” nghĩa là không ham thích thú vui trong dục vọng.
บทว่า เมถุนํ อุปฺปาเทตฺวา ความว่า พราหมณ์ให้กำเนิดธิดาหรือบุตร แล้วคิดว่า บัดนี้ประเวณีจักสืบต่อไปจึงออกบวช.
Cụm từ “Methunaṃ Uppādetvā” nghĩa là Bà-la-môn sinh con trai hoặc con gái, sau đó nghĩ rằng dòng dõi đã được tiếp tục, và do đó ông xuất gia.
บทว่า สุคตึ สคฺคํ โลกํ นี้ ท่านกล่าวหมายถึงพรหมโลกเท่านั้น.
Cụm từ “Sugatiṃ Saggam Lokaṃ” ở đây ám chỉ chỉ riêng cõi Phạm thiên.
บทว่า เทวสโม โหติ ได้แก่ เป็นผู้ชื่อว่าเสมอด้วยเทวดา เพราะประกอบด้วยทิพยวิหารธรรม.
Cụm từ “Devasamo Hoti” nghĩa là được gọi là “ngang bằng với chư thiên” vì thực hành các thiên trú (dibba vihāra).
บทว่า ตเมว ปุตฺตสฺสาทํ นิกายมาโน ความว่า พราหมณ์ปรารถนาคือต้องการความรักในบุตร ความพอใจในบุตรที่เกิดขึ้นเพราะเห็นธิดาหรือบุตรเกิด.
Cụm từ “Tameva Putta Saddhaṃ Nikāyamāno” nghĩa là Bà-la-môn mong muốn và tìm kiếm niềm vui trong con cái, hạnh phúc phát sinh khi nhìn thấy con trai hoặc con gái mình ra đời.
บทว่า กุฏฺมฺพํ อชฺฌาวสติ ได้แก่ อยู่ท่ามกลางทรัพยสมบัติ.
Cụm từ “Kuṭumbaṃ Ajjhāvasati” nghĩa là sống giữa những tài sản và của cải.
บทที่เหลือในสูตรนี้ง่ายทั้งนั้นแล.
Những phần còn lại trong bài kinh này rất dễ hiểu.
จบอรรถกถาโทณสูตรที่ ๒
Kết thúc phần chú giải Kinh Doṇa Thứ Hai.
อรรถกถาสังคารวสูตรที่ ๓
Chú giải Kinh Saṅgārava Thứ Ba.
พึงทราบวินิจฉัยในสังคารวสูตรที่ ๓ ดังต่อไปนี้ :-
Sau đây là phần phân tích Kinh Saṅgārava Thứ Ba.
บทว่า ปเคว แปลว่า ก่อนทีเดียว.
Cụm từ “Pageva” nghĩa là “trước hết”.
บทว่า กามราคปริยุฏฺฐิเตน ได้แก่ ถูกกามราคะยึดไว้.
Cụm từ “Kāmarāgapariyuṭṭhitena” nghĩa là bị tham dục chi phối.
บทว่า กามราคปเรเตน ได้แก่ ถูกกามราคะติดตาม.
Cụm từ “Kāmarāgaparetena” nghĩa là bị tham dục bám đuổi.
บทว่า นิสฺสรณํ ความว่า การออกไปแห่งกามราคะมี ๓ อย่าง คือ การออกไปด้วยการข่มไว้ ๑ การออกไปชั่วคราว ๑ การออกไปเด็ดขาด ๑.
Cụm từ “Nissaraṇaṃ” nghĩa là sự thoát khỏi tham dục, gồm ba loại: thoát qua sự chế ngự, thoát tạm thời, và thoát hoàn toàn.
ใน ๓ อย่างนั้น ปฐมฌานในอสุภกรรมฐาน ชื่อว่าการออกไปด้วยการข่มไว้. วิปัสสนาชื่อว่าการออกไปชั่วคราว อรหัตมรรคชื่อว่าการออกไปเด็ดขาด.
Trong ba loại đó, sơ thiền trên đề mục bất tịnh (asubhakammaṭṭhāna) được gọi là thoát qua sự chế ngự. Vipassanā được gọi là thoát tạm thời. Arahattamagga (đạo quả A-la-hán) được gọi là thoát hoàn toàn.
อธิบายว่า ไม่รู้การออกไปแม้ทั้ง ๓ อย่างนั้น.
Điều này giải thích rằng, người ấy không biết cả ba cách thoát khỏi tham dục.
ในบทว่า อตฺตตฺถมฺปิ เป็นต้น ประโยชน์ของตนอันได้แก่พระอรหัต ชื่อว่าประโยชน์ตน.
Cụm từ “Attattham-pi” nghĩa là lợi ích của bản thân, tức là đạo quả A-la-hán, được gọi là “lợi ích của mình”.
ประโยชน์ของผู้ให้ปัจจัย ชื่อว่าประโยชน์ผู้อื่น.
Lợi ích của người cúng dường các vật phẩm được gọi là “lợi ích của người khác”.
ประโยชน์แม้ทั้งสองนั้นแล ชื่อว่าประโยชน์ทั้งสอง.
Cả hai loại lợi ích đó được gọi là “lợi ích song phương”.
พึงทราบเนื้อความในทุกวาระโดยนัยนี้.
Hãy hiểu ý nghĩa trong từng trường hợp theo cách này.
แต่พึงทราบความต่างกันต่อไปนี้.
Tuy nhiên, cần hiểu thêm sự khác biệt như sau.
จริงอยู่ ในบทมีอาทิว่า พฺยาปาทสฺส นิสฺสรณํ การออกไปมีสองอย่าง คือ การออกไปด้วยการข่มไว้และการออกไปโดยเด็ดขาด.
Thực ra, cụm từ “Byāpādassa Nissaraṇaṃ” (thoát khỏi sân hận) được chia thành hai loại: thoát qua sự chế ngự và thoát hoàn toàn.
ในสองอย่างนั้น สำหรับพยาบาทก่อน เมตตาปฐมฌาน ชื่อว่าการออกไปด้วยการข่ม.
Trong hai loại đó, đối với sân hận, sơ thiền về từ bi (mettāpaṭhamajjhāna) được gọi là thoát qua sự chế ngự.
อนาคามิมรรค ชื่อว่าการออกไปโดยเด็ดขาด.
Anāgāmimagga (đạo quả Bất Lai) được gọi là thoát hoàn toàn.
สำหรับถีนมิทธะ อาโลกสัญญา ชื่อว่าการออกไปด้วยการข่มไว้ อรหัตมรรค ชื่อว่าการออกไปโดยเด็ดขาด.
Đối với thụy miên và hôn trầm (thīnamiddha), ý niệm về ánh sáng (āloka saññā) được gọi là thoát qua sự chế ngự, còn đạo quả A-la-hán (arahattamagga) được gọi là thoát hoàn toàn.
สำหรับอุทธัจจกุกกุจจะ สมถะอย่างใดอย่างหนึ่ง ชื่อว่าการออกไปด้วยการข่มไว้ แต่ในที่นี้ อรหัตมรรค ชื่อว่าการนำออกไปโดยเด็ดขาดแห่งอุทธัจจะ.
Đối với phóng tâm (uddhacca) và hối tiếc (kukkucca), bất kỳ loại thiền định (samatha) nào cũng được gọi là thoát qua sự chế ngự. Tuy nhiên, ở đây, đạo quả A-la-hán được gọi là loại bỏ hoàn toàn phóng tâm.
อนาคามิมรรค ชื่อว่าการนำออกไปโดยเด็ดขาดแห่งกุกกุจจะ.
Anāgāmimagga được gọi là loại bỏ hoàn toàn hối tiếc (kukkucca).
สำหรับวิจิกิจฉา การกำหนดธรรม ชื่อว่าการนำออกไปด้วยการข่มไว้. ปฐมมรรค ชื่อว่าการนำออกไปโดยเด็ดขาด.
Đối với hoài nghi (vicikicchā), sự quán chiếu pháp (dhammavavatthāna) được gọi là thoát qua sự chế ngự, còn sơ đạo (paṭhamamagga) được gọi là thoát hoàn toàn.
ก็ในสูตรนี้ท่านกล่าวข้ออุปมาเหล่าใดมีอาทิว่า เสยฺยถาปิ พฺราหฺมณ อุทปตฺโต สํสฏโฐ ลาขาย วา ดังนี้
Trong bài kinh này, bất kỳ ví dụ nào được nói đến, như: “Seyyathāpi, Brāhmaṇa, Udapatto Saṃsaṭṭho Lākhāya Vā…”
ในอุปมาเหล่านั้น บทว่า อุทปตฺโต ได้แก่ ภาชนะเต็มด้วยน้ำ.
Trong các ví dụ đó, cụm từ “Udapatto” nghĩa là một vật chứa đầy nước.
บทว่า สํสฏฺโฐ ได้แก่ ผสมสีต่างชนิด.
Cụm từ “Saṃsaṭṭho” nghĩa là bị pha trộn với các màu sắc khác nhau.
บทว่า อุกฺกุฏฺฐิโต ได้แก่ เดือดพล่าน.
Cụm từ “Ukkuddhito” nghĩa là đang sôi sục.
บทว่า อุสฺสทกชาโต ได้แก่ มีควันตลบ.
Cụm từ “Ussadakajāto” nghĩa là bốc lên với khói mịt mù.
บทว่า เสวาลปณกปริโยนทฺโธ ได้แก่ ปกคลุมด้วยสาหร่ายมีประเภทเป็นพืชงาเป็นต้น หรือแหนมีสีเขียวและสีเหมือนหลังกบซึ่งเกิดปิดผิวน้ำ.
Cụm từ “Sevālapaṇakapariyonaddho” nghĩa là bị che phủ bởi các loại thực vật nổi trên nước như rong rêu, bèo màu xanh hoặc màu giống lưng ếch, phủ kín mặt nước.
บทว่า เวเตริโต ได้แก่ ถูกลมพัดกระเพื่อม.
Cụm từ “Veterito” nghĩa là bị gió thổi làm xao động.
บทว่า อาวิโล คือ ไม่ใส.
Cụm từ “Āvilo” nghĩa là không trong suốt.
บทว่า ลุฬิโต คือ ไม่นิ่ง.
Cụm từ “Luḷito” nghĩa là không yên tĩnh.
บทว่า กลลีภูโต คือ มีเปือกตม.
Cụm từ “Kalalībhūto” nghĩa là bị vẩn đục bởi bùn lầy.
บทว่า อนฺธกาเร นิกฺขิตฺโต ได้แก่ ถูกวางไว้ในที่ไม่มีแสงสว่าง (มืด) เช่น ภายในยุ้งเป็นต้น.
Cụm từ “Andhakāre Nikkhitto” nghĩa là được đặt trong một nơi tối tăm, như bên trong kho lúa chẳng hạn.
ในสูตรนี้ พระผู้มีพระภาคเจ้าทรงยักเยื้องเทศนาด้วยภพ ๓ แล้วทรงจบลงด้วยยอดธรรม คือพระอรหัต.
Trong bài kinh này, Đức Thế Tôn đã mở rộng bài giảng qua ba cõi (tam giới) và kết thúc bằng đỉnh cao của Pháp, đó là quả vị A-la-hán.
ส่วนพราหมณ์ตั้งอยู่ในคุณเพียงแค่สรณะ.
Trong khi đó, vị Bà-la-môn chỉ đạt được phẩm hạnh ở mức quy y Tam Bảo.
จบอรรถกถาสังคารวสูตรที่ ๓
Kết thúc phần chú giải Kinh Saṅgārava Thứ Ba.
อรรถกถาการณปาลีสูตรที่ ๔
Chú giải Kinh Kāraṇapālī Thứ Tư.
พึงทราบวินิจฉัยในการณปาลีสูตรที่ ๔ ดังต่อไปนี้ :-
Sau đây là phần phân tích Kinh Kāraṇapālī Thứ Tư.
บทว่า การณปาลี เป็นชื่อของพราหมณ์นั้น. พราหมณ์ชื่อการณปาลี เพราะทำราชการในราชสำนัก.
Cụm từ “Kāraṇapālī” là tên của vị Bà-la-môn. Ông được gọi là Kāraṇapālī vì làm việc trong triều đình hoàng gia.
บทว่า กมฺมนฺตํ กาเรติ ความว่า การณปาลีพราหมณ์ลุกแต่เช้าตรู่ กระทำประตูป้อม และกำแพงที่ยังไม่ได้ทา ซ่อมส่วนที่ชำรุด.
Cụm từ “Kammantaṃ Kāreti” nghĩa là Bà-la-môn Kāraṇapālī thức dậy sớm, thực hiện công việc như xây cổng thành, tường thành chưa hoàn chỉnh, và sửa chữa các phần bị hư hỏng.
บทว่า ปิงฺคิยานึ พฺราหฺมณํ ได้แก่ พราหมณ์ผู้เป็นอริยสาวกตั้งอยู่ในอนาคามิผล จึงมีชื่ออย่างนี้.
Cụm từ “Piṅgiyānī Brāhmaṇaṃ” ám chỉ vị Bà-la-môn là bậc Thánh đệ tử, đã đạt quả vị Bất Lai (Anāgāmī), và được gọi bằng tên này.
ได้ยินว่า พราหมณ์นั้นลุกขึ้นแต่เช้าตรู่ ถือของหอมและดอกไม้เป็นต้นไปเฝ้าพระศาสดา ถวายบังคมแล้วบูชาด้วยดอกไม้เป็นต้น แล้วจึงเข้าเมือง. นี้เป็นกิจวัตรประจำวันของพราหมณ์.
Nghe rằng vị Bà-la-môn đó thức dậy sớm, mang theo hương và hoa đến đảnh lễ Đức Phật, dâng hương hoa cúng dường, rồi mới trở về thành. Đây là công việc thường nhật của vị Bà-la-môn này.
การณปาลีพราหมณ์นั้นได้เห็นพราหมณ์ปิงคิยานีทำกิจวัตรอย่างนั้นแล้วกำลังเดินมา.
Bà-la-môn Kāraṇapālī đã thấy Bà-la-môn Piṅgiyānī thực hiện công việc thường nhật như vậy và đang đi đến gần.
บทว่า เอตทโวจ ความว่า การณปาลีพราหมณ์คิดว่า พราหมณ์ผู้นี้มีปัญญา ญาณกล้า ไปไหนมาแต่เช้าหนอ รู้สึกว่าพราหมณ์เดินเข้ามาใกล้โดยลำดับ จึงได้กล่าวคำมีอาทิว่า หนฺท กุโต ดังนี้.
Cụm từ “Etadovāca” nghĩa là Bà-la-môn Kāraṇapālī nghĩ: “Vị Bà-la-môn này thật thông tuệ, có trí tuệ sắc bén. Sáng sớm như vậy, ông đi đâu?” Khi thấy vị ấy dần dần đến gần, ông đã nói lời bắt đầu bằng “Handa Kuto” (Này, ngài đi đâu vậy?).
ในบทเหล่านั้น บทว่า ทิวา ทิวสฺส ได้แก่ กลางวัน. อธิบายว่า เที่ยงวัน.
Trong các từ đó, cụm từ “Divā Divassa” nghĩa là ban ngày, và được giải thích là giữa trưa.
บทว่า ปณฺฑิโต มญฺญติ ในสูตรนี้มีใจความว่า การณปาลีพราหมณ์คิดว่า ท่านพราหมณ์ปิงคิยานีย่อมสำคัญพระสมณโคดมว่าเป็นบัณฑิตหรือไม่หนอ.
Cụm từ “Paṇḍito Maññati” trong bài kinh này mang ý nghĩa rằng Bà-la-môn Kāraṇapālī suy nghĩ: “Liệu Bà-la-môn Piṅgiyānī có xem Đức Thế Tôn Gotama là một bậc trí tuệ hay không?”
บทว่า โกจาหมฺโภ ความว่า ท่านผู้เจริญ ข้าพเจ้าเป็นใครเล่าในอันที่จะรู้ถึงความฉลาดปราดเปรื่องแห่งพระปัญญาของพระสมณโคดมได้.
Cụm từ “Ko Cāham Bho” nghĩa là: “Thưa ngài tôn quý, tôi là ai mà có thể hiểu được sự thông tuệ phi thường trong trí tuệ của Đức Thế Tôn Gotama?”
บทว่า โก จ สมณสฺส โคตมสฺส ปญฺญา เวยฺยตฺติยํ ชานิสฺสามิ ความว่า พราหมณ์ปิงคิยานีแสดงความไม่รู้ของตนด้วยประการทั้งปวงอย่างนี้ว่า ข้าพเจ้าจักรู้ความฉลาดปราดเปรื่องแห่งพระปัญญาของพระสมณได้แต่ไหน คือข้าพเจ้าจักรู้ได้ด้วยเหตุไรเล่า.
Cụm từ “Ko Ca Samaṇassa Gotamassa Paññā Veyyattiyam Jānissāmi” nghĩa là Bà-la-môn Piṅgiyānī bày tỏ sự không hiểu biết của mình rằng: “Làm sao tôi có thể hiểu được trí tuệ sâu xa của Đức Thế Tôn? Tôi có thể biết được điều đó bằng cách nào?”
บทว่า โสปิ นูนสฺสตาทิโสว ความว่า พราหมณ์ปิงคิยานีแสดงว่า ผู้ใดพึงรู้ถึงความฉลาดปราดเปรื่องแห่งพระปัญญาของพระสมณโคดม ผู้นั้นก็ต้องบำเพ็ญบารมี ๑๐ แล้วบรรลุพระสัพพัญญุตญาณ ก็จะพึงเป็นพุทธะเช่นนั้นเท่านั้น.
Cụm từ “So Pi Nūnassata Adisova” nghĩa là Bà-la-môn Piṅgiyānī nói rằng: “Bất kỳ ai muốn hiểu được trí tuệ phi thường của Đức Thế Tôn Gotama, người đó phải tu tập mười ba-la-mật, đạt được trí tuệ toàn giác (sabbaññutañāṇa), và chỉ khi đó mới trở thành một vị Phật như vậy.”
อันผู้ประสงค์จะวัดภูเขาสิเนรุก็ดี แผ่นดินก็ดี อากาศก็ดี ควรได้ไม้วัดหรือเชือกเท่ากับเขาสิเนรุแผ่นดินและอากาศนั้น แม้ผู้รู้ปัญญาของพระสมณโคดม ก็ควรจะได้พระสัพพัญญุตญาณเช่นเดียวกับพระญาณของพระองค์เหมือนกัน.
Ai muốn đo lường núi Sineru, mặt đất hay không gian, thì phải có một dụng cụ đo hay một sợi dây có chiều dài tương ứng với núi Sineru, mặt đất hoặc không gian đó. Tương tự, ai muốn hiểu trí tuệ của Đức Thế Tôn Gotama cũng phải đạt được trí tuệ toàn giác giống như trí tuệ của Ngài.
ก็ในสูตรนี้ พราหมณ์ปิงคิยานีกล่าวย้ำด้วยความเอื้อเฟื้อ.
Trong bài kinh này, Bà-la-môn Piṅgiyānī nhấn mạnh lời nói của mình với sự kính trọng và yêu mến.
บทว่า อุฬาราย ได้แก่ สูงสุดคือประเสริฐสุด.
Cụm từ “Uḷārāya” nghĩa là cao nhất, tối thượng, và xuất sắc nhất.
บทว่า โกจาหมฺโภ ความว่า ท่านผู้เจริญ เราเป็นใครเล่าในการที่จะสรรเสริญพระสมณโคดม.
Cụm từ “Ko Cāham Bho” nghĩa là: “Thưa ngài tôn quý, tôi là ai mà có thể ca ngợi Đức Thế Tôn Gotama?”
บทว่า โก จ สมณํ โคตมํ ปสํสิสฺสามิ ความว่า เราจักสรรเสริญได้ด้วยเหตุไรเล่า.
Cụm từ “Ko Ca Samaṇaṃ Gotamaṃ Pasaṃsisāmi” nghĩa là: “Làm sao tôi có thể ca ngợi Đức Thế Tôn Gotama được?”
บทว่า ปสฏฺฐปสฏฺโฐ ความว่า พราหมณ์ปิงคิยานีสรรเสริญด้วยพระคุณทั้งหลายของพระองค์ ซึ่งชาวโลกทั้งปวงสรรเสริญแล้ว อันฟุ้งไปเหนือคุณทั้งหมด ไม่จำเป็นต้องสรรเสริญพระองค์ด้วยพระคุณอื่นๆ.
Cụm từ “Pasattha-pasattho” nghĩa là Bà-la-môn Piṅgiyānī ca ngợi Đức Thế Tôn với những phẩm hạnh mà toàn thế giới đã ca ngợi. Những phẩm hạnh này vượt trội hơn mọi phẩm chất khác, và không cần phải ca ngợi Ngài bằng bất kỳ phẩm hạnh nào khác.
เหมือนอย่างว่า ดอกจัมปาก็ดี อุบลขาบก็ดี ปทุมแดงก็ดี จันทน์แดงก็ดี เป็นของผ่องใสและมีกลิ่นหอมด้วยสิริ คือสีและกลิ่นประจำภายในของมันเอง ไม่จำจะต้องชมดอกไม้นั้นด้วยสีและกลิ่นทีจรมาภายนอก.
Ví như hoa champa, hoa sen xanh, hoa sen đỏ, hay gỗ đàn hương đỏ đều rực rỡ và tỏa hương thơm nhờ chính màu sắc và hương thơm tự nhiên của chúng, không cần phải khen ngợi chúng bằng những màu sắc hay hương thơm từ bên ngoài.
อนึ่ง เหมือนอย่างว่า แก้วมณีก็ดี ดวงจันทร์ก็ดี ย่อมส่องประกายด้วยแสงของมันเอง แก้วมณีและดวงจันทร์นั้นก็ไม่จำต้องส่งประกายด้วยแสงอื่นฉันใด.
Tương tự, ngọc quý và mặt trăng đều tự chiếu sáng nhờ ánh sáng của chính mình, không cần phải nhờ ánh sáng từ nguồn khác.
พระสมณโคดมก็ฉันนั้น ทรงได้รับสรรเสริญยกย่อง ให้ถึงความเป็นผู้ประเสริฐที่สุดแห่งโลกทั้งปวงด้วยพระคุณของพระองค์เองที่ชาวโลกทั้งปวงสรรเสริญแล้ว ก็ไม่จำต้องสรรเสริญพระองค์ด้วยพระคุณอื่น.
Cũng như vậy, Đức Thế Tôn Gotama đã được tôn vinh và ca ngợi là bậc cao quý nhất của toàn thế giới nhờ chính những phẩm hạnh của Ngài, và không cần thêm bất kỳ lời ca ngợi nào khác.
อีกอย่างหนึ่ง ชื่อว่า ปสฏฺฐปสฏฺโฐ เพราะเป็นผู้ประเสริฐกว่าชนผู้ประเสริฐทั้งหลาย ดังนี้ก็มี.
Ngoài ra, “Pasattha-pasattho” cũng có nghĩa là Ngài vượt trội hơn tất cả những người được coi là cao quý nhất.
ถามว่า ก็ใครชื่อว่าเป็นผู้ประเสริฐ.
Vậy ai được gọi là cao quý?
ตอบว่า พระเจ้าปเสนทิโกศลเป็นผู้ประเสริฐกว่าชาวกาสีและชาวโกศล.
Trả lời rằng: Đức vua Pasenadi của xứ Kosala là bậc cao quý hơn dân chúng xứ Kāsi và Kosala.
พระเจ้าพิมพิสารเป็นผู้ประเสริฐกว่าชาวอังคะและมคธ.
Đức vua Bimbisāra là bậc cao quý hơn dân chúng xứ Aṅga và Magadha.
กษัตริย์ลิจฉวีกรุงเวสาลีประเสริฐกว่าชาวแคว้นวัชชี.
Các vua Lichchavī ở Vesāli là bậc cao quý hơn dân chúng xứ Vajji.
มัลลกษัตริย์เมืองปาวา เมืองกุสินาราเป็นผู้ประเสริฐ.
Các vua Malla ở Pāvā và Kusināra là những bậc cao quý.
แม้กษัตริย์นั้นๆ เหล่าอื่นก็ประเสริฐกว่าชนบทเหล่านั้นๆ.
Ngay cả những vị vua khác cũng cao quý hơn các vùng quê đó.
พราหมณ์มีจังกีพราหมณ์เป็นต้นก็ประเสริฐกว่าหมู่พราหมณ์ทั้งหลาย.
Các Bà-la-môn như Jānussoṇi và những vị khác cao quý hơn các Bà-la-môn khác.
อุบาสกมีอนาถบิณฑิกะเป็นต้นก็ประเสริฐกว่าอุบาสกทั้งหลาย.
Các cư sĩ như Anāthapiṇḍika cao quý hơn các cư sĩ khác.
อุบาสิกามีนางวิสาขาเป็นต้นก็ประเสริฐกว่าอุบาสิกาหลายร้อย.
Các nữ cư sĩ như Visākhā cao quý hơn hàng trăm nữ cư sĩ khác.
ปริพาชกมีสุกุลุทายีเป็นต้นก็ประเสริฐกว่าปริพาชกหลายร้อย.
Các du sĩ như Sukkuludāyī cao quý hơn hàng trăm du sĩ khác.
มหาสาวิกามีอุบลวัณณาเถรีเป็นต้นก็ประเสริฐกว่าภิกษุณีหลายร้อย.
Các vị nữ đại đệ tử như Uppalavaṇṇā cao quý hơn hàng trăm tỳ-kheo-ni khác.
พระมหาเถระมีพระสารีบุตรเถระเป็นต้นก็ประเสริฐกว่าภิกษุหลายร้อย.
Các vị trưởng lão như Tôn giả Sāriputta cao quý hơn hàng trăm tỳ-kheo khác.
เทวาดมีท้าวสักกะเป็นต้นก็ประเสริฐกว่าทวยเทพหลายพัน.
Các vị thần như Thiên chủ Sakka cao quý hơn hàng ngàn vị thần khác.
พรหมมีมหาพรหมเป็นต้นก็ประเสริฐกว่าพรหมหลายพัน.
Các vị Đại Phạm Thiên như Mahābrahma cao quý hơn hàng ngàn Phạm Thiên khác.
ชนและเทพแม้เหล่านั้นทั้งหมดก็ยังยกย่องชมเชยสรรเสริญพระทศพล.
Tất cả những người và chư thiên đó đều tôn kính, ca ngợi, và suy tôn Đức Thập Lực (Dasabala).
พระผู้มีพระภาคเจ้า ท่านเรียกว่า ปสฏฺฐปสฏโฐ ด้วยประการฉะนี้.
Đức Phật được gọi là “Pasattha-pasattho” (bậc cao quý nhất) theo cách này.
บทว่า อตฺถวสํ แปลว่า อำนาจแห่งประโยชน์ทั้งหลาย.
Cụm từ “Atthavasaṃ” nghĩa là quyền năng của mọi lợi ích.
ครั้งนั้น พราหมณ์ปิงคิยานี เมื่อบอกถึงเหตุที่ตนเลื่อมใสแก่การณปาลีพราหมณ์นั้น จึงกล่าวคำมีอาทิว่า เสยฺยถาปิ โภ ปุริส ดังนี้.
Khi ấy, Bà-la-môn Piṅgiyānī, khi giải thích lý do sự kính tín của mình với Bà-la-môn Kāraṇapālī, đã nói lời bắt đầu bằng “Seyyathāpi Bho Purisa” (Thưa ngài, ví như…).
ในบทเหล่านั้น บทว่า อคฺครสปริติตฺโต ความว่า ชื่อว่ารสเลิศมีอาทิอย่างนี้ คือบรรดารสโภชะ ข้าวปายาสเลิศ บรรดารสข้น เนยใสจากโคเลิศ บรรดารสฝาด ผึ้งอ่อนเลิศ. บรรดารสหวาน น้ำตาลกรวดเลิศ. อิ่มในรสเหล่านั้นอย่างใดอย่างหนึ่ง บริโภคพอหอมปากหอมคอดำรงอยู่ได้.
Trong các đoạn đó, cụm từ “Aggarasa-parititto” ám chỉ các hương vị tuyệt vời, như: cơm kheer là món ăn tuyệt hảo, ghee từ sữa bò là chất béo hảo hạng, mật ong non là vị chát ngon nhất, và đường phèn là vị ngọt tối thượng. Một người hài lòng với bất kỳ hương vị nào trong những thứ đó có thể duy trì sự sống với sự thỏa mãn.
บทว่า อญฺเญสํ หีนานํ ได้แก่ รสเลวอื่นจากรสเลิศ.
Cụm từ “Aññesaṃ Hīnānāṃ” nghĩa là những hương vị tầm thường khác ngoài các hương vị cao quý.
บทว่า สุตฺตโส แปลว่า โดยสูตร. อธิบายว่า โดยได้สดับมา.
Cụm từ “Suttaso” nghĩa là “theo kinh văn”, được giải thích là qua việc nghe học.
แม้ในบทที่เหลือก็นัยนี้เหมือนกัน.
Ngay cả trong các đoạn còn lại, ý nghĩa cũng tương tự.
บทว่า ตโต ตโต ได้แก่ จากบรรดาสัตถุศาสน์มีสุตตะเป็นต้นนั้นๆ.
Cụm từ “Tato Tato” nghĩa là từ các giáo lý khác nhau, bao gồm các kinh văn và những lời dạy khác.
บทว่า อญฺเญสํ ปุถุสมณพฺราหฺมณปฺปวาทานํ ได้แก่ ไม่ชอบใจ ไม่ปรารถนา คำสอนอันเป็นลัทธิของสมณพราหมณ์เป็นอันมากอื่น ไม่ปรารถนาแม้แต่จะฟังสมณพราหมณ์เหล่านั้นพูด.
Cụm từ “Aññesaṃ Puthu-samaṇa-brāhmaṇa-ppavādānaṃ” nghĩa là không thích, không mong muốn những giáo lý của các đạo sĩ và Bà-la-môn khác, thậm chí không muốn nghe họ nói.
บทว่า ชิฆจฺฉาทุพฺพลฺยปเรโต ได้แก่ ถูกความหิวและความอ่อนเพลียครอบงำ.
Cụm từ “Jighacchādubbalyapareto” nghĩa là bị cơn đói và sự mệt mỏi chi phối.
บทว่า มธุปิณฺฑิกํ ได้แก่ ข้าวสัตตุก้อนที่เขาคั่วแป้งสาลีแล้ว ปรุงด้วยรสหวาน ๔ อย่าง หรือขนมหวานนั่นเอง.
Cụm từ “Madhu-piṇḍikaṃ” nghĩa là một món ngọt làm từ bột mì rang, trộn với bốn loại hương vị ngọt khác nhau, hoặc chính là món bánh ngọt.
บทว่า อธิคจฺเฉยฺย ได้แก่ พึงได้.
Cụm từ “Adhigaccheyya” nghĩa là có thể đạt được.
บทว่า อเสจนกํ ได้แก่ มีรสประณีตอร่อย ไม่ราดด้วยรสอย่างอื่น เพื่อทำให้หวาน.
Cụm từ “Asecanakaṃ” nghĩa là có hương vị tinh tế, ngon lành, không cần thêm bất kỳ hương liệu nào khác để làm ngọt.
บทว่า หริจนฺทนสฺส ได้แก่ ไม้จันทน์สีเหลืองเหมือนทอง.
Cụm từ “Haricandanassa” nghĩa là gỗ đàn hương có màu vàng giống như vàng ròng.
บทว่า โลหิตจนฺทนสฺส ได้แก่ ไม้จันทน์สีแดง.
Cụm từ “Lohitacandanassa” nghĩa là gỗ đàn hương có màu đỏ.
บทว่า สุรภิคนฺธํ ได้แก่ มีกลิ่นหอม.
Cụm từ “Surabhi Gandhaṃ” nghĩa là tỏa hương thơm ngát.
ก็ความกระวนกระวายเป็นต้น ได้แก่กระวนกระวายเพราะวัฏฏะ ลำบากเพราะวัฏฏะ ชื่อว่าเร่าร้อนเพราะวัฏฏะ.
Sự bất an và bồn chồn ám chỉ sự lo lắng vì vòng luân hồi (saṃsāra), khó khăn vì vòng luân hồi, và cảm giác bị thiêu đốt bởi vòng luân hồi.
บทว่า อุทานํ อุทาเนสิ แปลว่า เปล่งอุทาน.
Cụm từ “Udānaṃ Udānesi” nghĩa là thốt ra lời cảm thán (udāna).
เหมือนอย่างว่า น้ำมันอันใดที่ไม่สามารถจะเอามาตวงได้ แต่ไหลไป น้ำมันอันนั้นเรียกว่าอวเสกะ น้ำใดไม่สามารถจะขังสระได้ไหลท้นไป น้ำนั้นท่านเรียกว่าโอฆะ ฉันใด.
Ví như một loại dầu không thể đo lường được nhưng cứ tuôn chảy, dầu đó được gọi là “Avaseka”. Nước không thể giữ lại trong hồ mà tràn ra ngoài, nước đó được gọi là “Ogha”.
คำใดที่ประกอบด้วยปีติไม่สามารถจะขังใจอยู่ มีเกินไปตั้งอยู่ไม่ได้ในภายใน ก็ออกไปภายนอก คำที่ประกอบด้วยปีตินั้น ท่านเรียกว่าอุทานก็ฉันนั้น.
Cũng vậy, những lời nói chứa đầy hỷ lạc không thể giữ trong tâm, vượt qua sự kiểm soát bên trong mà trào ra ngoài, được gọi là “udāna”.
อธิบายว่า พราหมณ์การณปาลีเปล่งคำที่สำเร็จด้วยปีติเห็นปานนี้.
Điều này giải thích rằng Bà-la-môn Kāraṇapālī đã thốt ra những lời đầy hỷ lạc như vậy.
จบอรรถกถาการณปาลีสูตรที่ ๔
Kết thúc phần chú giải Kinh Kāraṇapālī Thứ Tư.
อรรถกถาปิงคิยานีสูตรที่ ๕
Chú giải Kinh Piṅgiyānī Thứ Năm.
พึงทราบวินิจฉัยในปิงคิยานีสูตรที่ ๕ ดังต่อไปนี้ :-
Sau đây là phần phân tích Kinh Piṅgiyānī Thứ Năm.
คำว่า นีลา นี้รวมสีเขียวไว้ทั้งหมด.
Từ “Nīlā” bao gồm tất cả các sắc thái của màu xanh lá cây.
คำว่า นีลวณฺณา เป็นต้นแสดงการจำแนกสีเขียวนั้น.
Cụm từ “Nīlavannā” và các cụm từ liên quan thể hiện sự phân loại các sắc thái của màu xanh lá cây.
ในบทว่า นีลวณฺณา นั้นตามปกติวรรณของกษัตริย์ลิจฉวีเหล่านั้นไม่เขียว แต่ท่านกล่าวคำนั้นเพราะกษัตริย์เหล่านั้นทาด้วยเครื่องทาสีเขียว.
Trong cụm từ “Nīlavannā”, thực tế màu da của các vị vua Lichchavī không phải màu xanh, nhưng được gọi như vậy vì họ sơn cơ thể mình bằng các chất liệu màu xanh.
บทว่า นีลวตฺถา ได้แก่ แม้ผ้าเนื้อดีและผ้าไหมเป็นต้นของกษัตริย์เหล่านั้นก็เป็นสีเขียวทั้งนั้น.
Cụm từ “Nīlavatthā” nghĩa là ngay cả những loại vải tốt và lụa của các vị vua đó cũng đều có màu xanh lá cây.
บทว่า นีลาลงฺการา ได้แก่ ประดับด้วยแก้วมณีเขียวและดอกไม้เขียว แม้เครื่องประดับช้าง ม้า รถ ม่าน เพดานและเสื้อของกษัตริย์เหล่านั้นก็เขียวทั้งหมด.
Cụm từ “Nīlālaṅkārā” nghĩa là được trang trí bằng ngọc xanh và hoa xanh. Ngay cả các đồ trang trí cho voi, ngựa, xe, rèm cửa, trần nhà và quần áo của các vị vua đó cũng đều có màu xanh.
พึงทราบเนื้อความในทุกบทโดยนัยนี้.
Hãy hiểu ý nghĩa trong tất cả các đoạn theo cách này.
บทว่า ปทุมํ ยถา ได้แก่ เหมือนดอกปทุมสีแดงมี ๑๐๐ ใบฉะนั้น.
Cụm từ “Padumaṃ Yathā” nghĩa là giống như hoa sen đỏ có 100 cánh.
บทว่า โกกนุทํ เป็นไวพจน์ของคำว่า ปทุมํ นั้นนั่นแล.
Cụm từ “Kokanudaṃ” là một từ đồng nghĩa với từ “Padumaṃ” (hoa sen).
บทว่า ปาโต ได้แก่ เช้าตรู่คือในเวลาพระอาทิตย์ขึ้น.
Cụm từ “Pāto” nghĩa là buổi sáng sớm, tức vào lúc mặt trời mọc.
บทว่า สิยา แปลว่า พึงมี.
Cụm từ “Siyā” nghĩa là “nên có” hoặc “có thể có”.
บทว่า อวีตคนฺธํ ได้แก่ ไม่หายหอม.
Cụm từ “Avītagandhaṃ” nghĩa là không mất đi mùi hương thơm.
บทว่า องฺคีรสํ ความว่า พระรัศมีซ่านจากพระวรกายน้อยใหญ่ของพระผู้มีพระภาคเจ้า เพราะฉะนั้นจึงเรียกพระอังคีรส.
Cụm từ “Aṅgīrasaṃ” nghĩa là ánh hào quang phát ra từ thân lớn nhỏ của Đức Thế Tôn, do đó Ngài được gọi là “Aṅgīrasa”.
บทว่า ตปนฺตมาทิจฺจมิวนฺตลิกฺเข ความว่า พราหมณ์ปิงคิยานีกล่าวว่า ท่านจงดูพระอังคีรสผู้รุ่งเรือง ดุจพระอาทิตย์ส่องแสงในอากาศสามารถทำความสว่างในทวีปใหญ่ ๔ ทวีป ซึ่งมีทวีปน้อย ๒,๐๐๐ เป็นบริวาร.
Cụm từ “Tapantamādiccamivantalikke” nghĩa là Bà-la-môn Piṅgiyānī nói: “Hãy nhìn Đức Aṅgīrasa rực rỡ, giống như mặt trời chiếu sáng trên không trung, làm sáng bốn đại lục lớn và 2.000 tiểu lục địa phụ thuộc.”
พราหมณ์ปิงคิยานีกล่าวอย่างนี้ หมายถึงตนเองหรือมหาชน.
Bà-la-môn Piṅgiyānī nói điều này, có thể ám chỉ chính mình hoặc toàn thể đại chúng.
จบอรรถกถาปิงคิยานีสูตรที่ ๕
Kết thúc phần chú giải Kinh Piṅgiyānī Thứ Năm.
อรรถกถาสุปินสูตรที่ ๖
Chú giải Kinh Supina Thứ Sáu.
พึงทราบวินิจฉัยในสุปินสูตรที่ ๖ ดังต่อไปนี้ :-
Sau đây là phần phân tích Kinh Supina Thứ Sáu.
บทว่า มหาสุปินา ความว่า ชื่อว่ามหาสุบิน เพราะบุรุษผู้ใหญ่พึงฝัน และเพราะความเป็นนิมิตแห่งประโยชน์อันใหญ่.
Cụm từ “Mahāsupinā” nghĩa là “giấc mơ lớn”, được gọi như vậy vì những người vĩ đại mới mơ thấy, và vì nó là điềm báo của những lợi ích to lớn.
บทว่า ปาตุรเหสุํ แปลว่า ได้ปรากฏแล้ว.
Cụm từ “Pāturahesuṃ” nghĩa là “đã xuất hiện”.
ในบทนั้น ผู้ฝันย่อมฝันด้วยเหตุ ๔ ประการ คือ เพราะธาตุกำเริบ ๑ เพราะเคยเป็นมาก่อน ๑ เพราะเทวดาดลใจ ๑ เพราะบุรพนิมิต ๑.
Trong đoạn này, người mơ thấy giấc mơ do bốn nguyên nhân: sự rối loạn của các yếu tố (dhātu), ký ức về quá khứ, thần linh tác động, và điềm báo trước (pubbanimitta).
ในฝันเหล่านั้น คนธาตุกำเริบ เพราะดีเป็นต้น เป็นเหตุทำให้กำเริบย่อมฝัน เพราะธาตุกำเริบ และเมื่อฝัน ย่อมฝันหลายอย่าง เช่น ฝันว่าตกจากภูเขา ว่าไปทางอากาศ ว่าถูกเนื้อร้าย ช้างและโจรเป็นต้นไล่ตาม.
Trong các giấc mơ đó, người bị rối loạn yếu tố do mật hoặc các yếu tố khác gây ra sẽ mơ những giấc mơ kỳ lạ như rơi từ núi, bay qua không trung, bị thú dữ, voi hoặc cướp rượt đuổi.
เมื่อฝันโดยเคยเป็นมาก่อน ย่อมฝันถึงอารมณ์ที่เป็นมาแล้วในกาลก่อน.
Khi mơ do ký ức về quá khứ, họ sẽ mơ về những đối tượng mà họ đã từng trải qua trong quá khứ.
สำหรับผู้ฝันโดยเทวดาดลใจ ทวยเทพบันดาลอารมณ์หลายอย่าง เพราะประสงค์ดีก็มี เพราะประสงค์ร้ายก็มี.
Đối với người mơ do thần linh tác động, các vị thần có thể tạo ra những giấc mơ với các đối tượng khác nhau, có thể vì ý tốt hoặc ý xấu.
เมื่อฝันโดยบุรพนิมิต (ลางบอกล่วงหน้า) ย่อมฝัน อันเป็นบุรพนิมิตของประโยชน์หรือของความพินาศที่ประสงค์จะเกิดด้วยอำนาจบุญและบาป.
Khi mơ do điềm báo trước, họ sẽ mơ thấy những giấc mơ là điềm báo trước cho lợi ích hoặc sự hủy diệt, do sức mạnh của phước hoặc tội.
ดุจพระชนนีของพระโพธิสัตว์ ได้นิมิตในการได้พระโอรส.
Như trường hợp mẹ của Bồ-tát mơ thấy điềm báo về việc sinh hạ một vị thái tử.
ดุจพระเจ้าโกศลทรงฝันเห็นสุบิน ๑๖.
Như vua Kosala mơ thấy 16 điềm báo.
และดุจพระผู้มีพระภาคเจ้าพระองค์นี้แล ครั้งเป็นพระโพธิสัตว์ ทรงฝันเห็นมหาสุบิน ๕ ประการนี้.
Và như Đức Phật này, khi còn là Bồ-tát, đã mơ thấy năm giấc mơ lớn (Mahāsupina).
ในฝันเหล่านั้น ฝันเพราะธาตุกำเริบ และเพราะเคยเป็นมาก่อนไม่จริง.
Trong những giấc mơ đó, những giấc mơ do sự rối loạn của các yếu tố và ký ức về quá khứ không phải là thật.
ฝันเพราะเทวดาดลใจ จริงบ้าง ไม่จริงบ้าง เพราะว่า เทวดาทั้งหลายโกรธขึ้นมา ประสงค์จะให้ถึงความพินาศด้วยอุบาย จึงแสร้งทำให้ผิดปกติ.
Những giấc mơ do thần linh tác động có thể thật hoặc không thật, bởi các vị thần có thể tức giận và muốn gây hại, nên họ cố tình làm sai lệch giấc mơ.
แต่ฝันเพราะบุรพนิมิต เป็นจริงโดยส่วนเดียวแท้.
Nhưng những giấc mơ do điềm báo trước (pubbanimitta) thì luôn luôn đúng.
แม้เพราะความเกี่ยวข้องของมูลเหตุ ๔ อย่างเหล่านี้ต่างกัน ฝันจึงต่างกันไป.
Ngay cả vì các nguyên nhân liên quan đến bốn yếu tố này khác nhau, nên giấc mơ cũng khác nhau.
ฝันแม้ทั้ง ๔ นั้น พระเสกขะและปุถุชนย่อมฝัน เพราะยังละวิปัลลาสไม่ได้.
Bốn loại giấc mơ này, bậc Sekha (bậc hữu học) và phàm phu đều có thể mơ, vì họ chưa từ bỏ được sự điên đảo (vipallāsa).
พระอเสกขะไม่ฝัน เพราะละวิปัลลาสได้แล้ว.
Bậc Asekha (bậc vô học) không mơ, vì họ đã từ bỏ hoàn toàn sự điên đảo.
ก็เมื่อฝันนั้น หลับฝัน ตื่นฝัน หรือว่าไม่หลับไม่ตื่นฝัน.
Vậy giấc mơ xảy ra khi ngủ, khi tỉnh, hay khi không ngủ cũng không tỉnh?
ในข้อนี้มีอธิบายได้อย่างไร
Câu hỏi này được giải thích như thế nào?
ผิว่าหลับฝันก็ผิดอภิธรรม ด้วยว่าสัตว์ย่อมหลับด้วยภวังคจิต.
Nếu nói rằng mơ khi ngủ thì mâu thuẫn với Abhidhamma, vì chúng sinh ngủ với tâm bhavaṅga (tâm hữu phần).
ภวังคจิตนั้นหามีรูปนิมิตเป็นต้นเป็นอารมณ์ หรือสัมปยุตด้วยราคะเป็นต้นไม่.
Tâm bhavaṅga không có đối tượng như hình tướng, cũng không bị kết hợp với tham ái hoặc các trạng thái tương tự.
จิตเช่นนี้ย่อมเกิดแก่ผู้ฝัน.
Tâm như vậy không thể xảy ra ở người đang mơ.
หากตื่นฝันก็ผิดวินัย.
Nếu nói rằng mơ khi tỉnh thì mâu thuẫn với giới luật.
เพราะว่าฝันที่ตื่นฝันด้วยจิต เป็นอัพโพหาริก (เห็นเหมือนไม่เห็น).
Vì giấc mơ khi tỉnh được xem là “appohārika” (thấy như không thấy).
จะไม่เป็นอาบัติไม่ได้ เพราะล่วงละเมิดด้วยจิตเป็นอัพโพหาริก.
Và không thể không bị phạm lỗi nếu vi phạm bằng tâm appohārika.
เพราะแม้ผู้ฝันทำล่วงละเมิดก็ไม่เป็นอาบัติโดยส่วนเดียวเท่านั้น.
Tuy nhiên, người mơ phạm lỗi trong giấc mơ thì chắc chắn không bị phạm giới.
เมื่อไม่หลับไม่ตื่นฝัน ชื่อว่าไม่ฝัน.
Khi không ngủ cũng không tỉnh, thì gọi là không mơ.
ก็เมื่อเป็นอย่างนี้ จึงไม่มีฝันและจะไม่มีก็ไม่ใช่.
Tuy nhiên, trong trường hợp này, có thể không có giấc mơ hoặc cũng có thể không phải vậy.
เพราะเหตุไร เพราะผู้ฝันเข้าสู่ความหลับดุจลิง.
Vì sao? Vì người mơ rơi vào trạng thái ngủ giống như khỉ.
สมดังที่พระนาคเสนกล่าวไว้ว่า มหาบพิตร ผู้ที่หลับดุจลิงแลย่อมฝัน.
Như Đức Nāgasena đã nói: “Thưa Đại vương, người ngủ giống như khỉ thì sẽ mơ.”
บทว่า กปิมิทฺธป เรโต ได้แก่ ประกอบแล้วด้วยการหลับของลิง.
Cụm từ “Kapimiddha-pareto” nghĩa là liên quan đến giấc ngủ của khỉ.
เหมือนอย่างว่า การหลับของลิงเป็นไปเร็วฉันใด.
Ví như giấc ngủ của khỉ xảy ra rất nhanh.
การหลับที่ชื่อว่าเป็นไปเร็ว เพราะแทรกแซงด้วยจิตมีกุศลจิตเป็นต้นบ่อยๆ ก็ฉันนั้น.
Giấc ngủ được gọi là nhanh chóng vì bị xen vào bởi các loại tâm như tâm thiện (kusala citta) nhiều lần.
ในความเป็นไปของการหลับใด จิตย่อมขึ้นจากภวังค์บ่อยๆ ผู้ประกอบแล้วด้วยการหลับนั้นย่อมฝัน.
Trong loại giấc ngủ mà tâm thường xuyên thoát khỏi bhavaṅga, người trong trạng thái đó sẽ mơ.
ด้วยเหตุนั้น ฝันนี้จึงเป็นกุศลบ้าง อกุศลบ้าง อัพยากฤตบ้าง.
Vì lý do này, giấc mơ có thể là thiện (kusala), bất thiện (akusala), hoặc không xác định (abyākata).
ในฝันนั้นพึงทราบว่า เป็นกุศลแก่ผู้กระทำการไหว้เจดีย์ ฟังธรรมและแสดงธรรมเป็นต้น.
Trong giấc mơ đó, nó được xem là thiện khi liên quan đến việc đảnh lễ bảo tháp, lắng nghe hoặc thuyết giảng giáo pháp.
เป็นอกุศลแก่ผู้ทำปาณาติบาตเป็นต้น.
Là bất thiện khi liên quan đến việc sát sinh và các hành động tương tự.
พ้นจากสองอย่างนั้นเป็นอัพยากฤตในขณะอาวัชชนจิตนึก และขณะตทาลัมพนจิตยึดฝันนั้นเป็นอารมณ์.
Ngoài hai loại này, nó là không xác định (abyākata) trong các khoảnh khắc tâm hướng ý (āvajjana citta) và tâm đổng lực (tadārammaṇa citta) nắm giữ giấc mơ làm đối tượng.
ฝันนี้นั้นเพราะมีวัตถุเป็นทุรพล จึงไม่สามารถจะชักปฏิสนธิของเจตนามาได้.
Giấc mơ này, vì có đối tượng yếu kém, không thể kéo theo sự tái sinh của ý chí (cetanā).
ก็เมื่อเป็นไปแล้ว ฝันอันกุศลและอกุศลอื่นอุปถัมภ์ไว้ย่อมให้วิบาก.
Tuy nhiên, khi đã xảy ra, giấc mơ thiện và bất thiện khác hỗ trợ có thể mang lại quả báo (vipāka).
ให้วิบากก็จริง ถึงอย่างนั้น เจตนาในฝันก็เป็นอัพโพหาริก คือกล่าวอ้างไม่ได้เลย เพราะเกิดในที่อันมิใช่วิสัย.
Dù mang lại quả báo, nhưng ý chí (cetanā) trong giấc mơ được xem là “appohārika” (không thể quy trách nhiệm), vì nó xảy ra trong một trạng thái ngoài khả năng kiểm soát.
ก็สุบินนี้นั้น แม้ว่า โดยเวลาฝันในเวลากลางวัน ย่อมไม่จริง.
Giấc mơ vào ban ngày thường không đúng.
ในปฐมยาม มัชฌิมยามและปัจฉิมยามก็เหมือนกัน.
Trong đêm, các giấc mơ trong buổi đầu, giữa và cuối đêm cũng không đúng.
แต่ตอนใกล้รุ่ง เมื่ออาหารที่กินดื่มและเคี้ยวย่อยดีแล้ว โอชะอยู่ตามที่ในร่างกาย พออรุณขึ้น ความฝันย่อมจริง.
Nhưng vào lúc gần sáng, khi thức ăn đã được tiêu hóa tốt và chất bổ được phân phối đều trong cơ thể, giấc mơ vào lúc bình minh có thể đúng.
เมื่อฝันอันมีอิฏฐารมณ์เป็นนิมิต ย่อมได้อิฏฐารมณ์.
Khi giấc mơ có đối tượng tốt là điềm báo, người ta sẽ nhận được những điều tốt.
เมื่อฝันมีอนิฏฐารมณ์เป็นนิมิต ย่อมได้อนิฏฐารมณ์.
Khi giấc mơ có đối tượng xấu là điềm báo, người ta sẽ gặp những điều không mong muốn.
ก็มหาสุบิน ๕ เหล่านี้ โลกิยมหาชนไม่ฝัน มหาราชาทั้งหลายไม่ฝัน พระเจ้าจักรพรรดิทั้งหลายไม่ฝัน อัครสาวกทั้งหลายไม่ฝัน พระปัจเจกพุทธเจ้าทั้งหลายไม่ฝัน พระสัมมาสัมพุทธเจ้าทั้งหลายก็ไม่ฝัน พระสัพพัญญูโพธิสัตว์พระองค์เดียวเท่านั้นย่อมฝัน.
Năm giấc mơ lớn này không được mơ bởi người thường, các vị vua, vua Chuyển luân Thánh vương, các đại đệ tử, các vị Phật Độc giác, hay các vị Phật Toàn giác. Chỉ có Đức Bồ-tát Toàn giác mới mơ thấy.
ถามว่า ก็พระโพธิสัตว์ของเราทรงฝันเห็นสุบินเหล่านี้เมื่อไร.
Hỏi: Đức Bồ-tát của chúng ta đã mơ thấy những giấc mơ này khi nào?
ตอบว่า ทรงฝันในเวลาราตรีกระจ่างของวันขึ้น ๑๔ ค่ำ โดยรู้พระองค์ว่า พรุ่งนี้เราจักเป็นพระพุทธเจ้า.
Đáp: Ngài đã mơ vào đêm sáng trăng ngày 14, khi biết rằng ngày mai Ngài sẽ trở thành một vị Phật.
อาจารย์บางพวกกล่าวว่า วันขึ้น ๑๓ ค่ำก็มี.
Một số vị thầy nói rằng điều này xảy ra vào đêm 13 trăng tròn.
พระองค์ทรงฝันเห็นสุบินเหล่านี้แล้ว ทรงลุกขึ้นประทับนั่งขัดสมาธิ.
Sau khi mơ thấy những giấc mơ này, Ngài đứng dậy và ngồi thiền định.
ทรงดำริว่าถ้าเราฝันเห็นสุบินเหล่านี้ในกรุงกบิลพัสดุ์ จะกราบทูลพระชนก.
Ngài suy nghĩ: “Nếu ta mơ thấy những giấc mơ này ở kinh thành Kapilavatthu, ta sẽ thưa chuyện với vua cha.”
หากพระชนนีของเรายังทรงพระชนม์อยู่ เราก็จะทูลพระชนนี.
“Nếu mẹ ta còn sống, ta sẽ thưa chuyện với bà.”
แต่ในที่นี้ไม่มีผู้จะทำนายสุบินเหล่านี้ได้ จำเราผู้เดียวจักทำนาย.
“Nhưng ở đây không ai có thể giải thích được những giấc mơ này. Chỉ có ta tự giải thích chúng.”
แต่นั้นพระโพธิสัตว์ทรงทำนายสุบินด้วยพระองค์เองว่า สุบินนี้จักเป็นบุรพนิมิตของสิ่งนี้ สุบินนี้จักเป็นบุรพนิมิตของสิ่งนี้.
Sau đó, Đức Bồ-tát tự giải thích rằng: “Giấc mơ này là điềm báo cho việc này, giấc mơ kia là điềm báo cho việc kia.”
แล้ว เสวยข้าวมธุปายาสที่นางสุชาดาในอุรุเวลคามถวาย.
Sau đó, Ngài dùng món kheer ngọt do nàng Sujātā dâng cúng tại làng Uruvela.
เสด็จขึ้นสู่โพธิมัณฑสถาน ทรงบรรลุสัมโพธิญาณ.
Ngài đi đến nơi giác ngộ (Bodhimanda), chứng ngộ trí tuệ tối thượng (Sambodhiñāṇa).
ประทับอยู่ ณ พระเชตวันตามลำดับ เพื่อยังมหาสุบิน ๕ ที่พระองค์เห็นแล้วในมกุฬพุทธกาล (เวลาก่อนเป็นพระพุทธเจ้ามกุฏพุทธะ) ให้พิสดาร.
Ngài trú tại Jetavana, và giảng giải chi tiết về năm giấc mơ lớn mà Ngài đã thấy trong thời kỳ trước khi trở thành Đức Phật (Makulabuddhaka).
จึงตรัสเรียกภิกษุทั้งหลายแล้วทรงเริ่มเทศนานี้.
Ngài gọi các vị tỳ-kheo và bắt đầu thuyết giảng bài pháp này.
ในบทเหล่านั้น บทว่า มหาปฐวี ได้แก่ แผ่นดินใหญ่ตั้งอยู่เต็มท้องจักรวาล.
Trong đoạn này, cụm từ “Mahāpathavī” nghĩa là mặt đất rộng lớn trải dài khắp vũ trụ.
บทว่า มหาสยนํ อโหสิ ได้แก่ เป็นที่สิริไสยาสน์.
Cụm từ “Mahāsayanaṃ Ahosi” nghĩa là nơi nghỉ ngơi đầy uy nghiêm.
บทว่า โอหิโต คือ วางไว้แล้ว.
Cụm từ “Ohito” nghĩa là đã được đặt xuống.
ก็พระหัตถ์นั้นพึงทราบว่ามิได้วางไว้เหนือน้ำ ที่แท้พาดไปเบื้องบนๆ ของมหาสมุทรด้านทิศปราจีนแล้ววางลงที่สุดแห่งจักรวาลด้านทิศปราจีน.
Hãy hiểu rằng bàn tay không được đặt trên nước, mà kéo dài qua đại dương ở phía đông rồi đặt xuống rìa vũ trụ ở phía đông.
แม้ในบทเหล่านี้ว่า ปจฺฉิเม สมุทฺเท ทกฺขิเณ สมุทฺเท ดังนี้ก็นัยนี้เหมือนกัน.
Ngay cả trong các cụm từ như “Pacchime Samudde” và “Dakkhine Samudde”, ý nghĩa cũng tương tự.
ท่านเรียกว่า ทัพพติณะ (คือหญ้าคา) ในบทว่า ติริยา นาม ติณชาติ.
Cụm từ “Tiriya Nāma Tiṇajāti” ám chỉ cỏ tranh (Tappatiṇa).
บทว่า นาภิยา อุคฺคนฺตฺวา นภํ อาหจฺจ ฐิตา อโหสิ (หญ้าผุดจากพระนาภีตั้งจดฟ้า).
Cụm từ “Nābhiyā Uggantvā Nabhaṃ Āhacca ṭhitā Ahosi” nghĩa là cỏ mọc lên từ rốn và vươn đến bầu trời.
ความว่า หญ้าผุดขึ้นจากพระนาภีเป็นท่อนไม้สีแดงขนาดเท่าคันไถแล้วพุ่งขึ้นๆ.
Ý nghĩa là cỏ mọc từ rốn của Ngài giống như một cây gỗ đỏ lớn bằng cán cày, vươn lên cao.
อย่างนี้ คือคืบหนึ่ง ๓ ศอก วาหนึ่ง ยัฏฐิ (ไม้เท้า) หนึ่ง คาวุตหนึ่ง กึ่งโยชน์ โยชน์หนึ่งแล้วตั้งจดฟ้าหลายพันโยชน์ ทั้งที่เห็นอยู่นั่นแล.
Như vậy, nó vươn lên từng bước: một tấc, ba sải tay, một trượng, một gavuta, nửa do-tuần, một do-tuần, và chạm đến bầu trời cao hàng ngàn do-tuần, có thể thấy rõ ràng.
บทว่า ปาเทหิ อุสฺสกฺกิตฺวา ได้แก่ หนอนไต่พระบาทตั้งแต่ปลายพระนขา.
Cụm từ “Pādehi Ussakkitvā” nghĩa là những con giun bò lên bàn chân, bắt đầu từ đầu móng chân.
บทว่า นานาวณฺณา ความว่า นกมีสีต่างๆ กันอย่างนี้คือตัวหนึ่งสีเขียว ตัวหนึ่งสีเหลือง ตัวหนึ่งสีแดง ตัวหนึ่งสีเหมือนใบไม้แห้ง.
Cụm từ “Nānāvaṇṇā” nghĩa là các loài chim có nhiều màu sắc khác nhau, như một con màu xanh lá cây, một con màu vàng, một con màu đỏ, và một con màu như lá khô.
บทว่า เสตา ได้แก่ สีขาว คือ ขาวปลอด.
Cụm từ “Setā” nghĩa là màu trắng, tức là trắng tinh khiết.
บทว่า มหโต มิฬฺหปพฺพตสฺส ได้แก่ ภูเขาเต็มไปด้วยคูถ สูงประมาณ ๓ โยชน์.
Cụm từ “Mahato Miḷhapabbatassa” nghĩa là một ngọn núi đầy phân, cao khoảng 3 do-tuần.
บทว่า อุปริ อุปริ จงฺกมติ ได้แก่ เสด็จจงกรมแต่บนยอดๆ.
Cụm từ “Upari Upari Caṅkamati” nghĩa là đi kinh hành trên đỉnh núi.
ก็พระพุทธเจ้าทั้งหลายมีพระชนม์ยืน ปรากฏดุจเสด็จเข้าไปประทับนั่งบนภูเขา เต็มไปด้วยคูถประมาณ ๓ โยชน์.
Các Đức Phật có tuổi thọ lâu dài dường như đang ngồi thiền trên một ngọn núi đầy phân cao khoảng 3 do-tuần.
พระผู้มีพระภาคเจ้าครั้นทรงแสดงบุรพนิมิตโดยฐานเท่านี้อย่างนี้แล้ว.
Sau khi Đức Thế Tôn trình bày về điềm báo trước (pubbanimitta) với nội dung này.
บัดนี้ เพื่อทรงแสดงถึงการได้พร้อมด้วยบุรพนิมิตนั้นจึงตรัสคำมีอาทิว่า ยมฺปิ ภิกฺขเว ดังนี้.
Để giải thích về sự đạt được điềm báo trước đó, Ngài đã thuyết rằng: “Yampi Bhikkhave…” (Này các tỳ-kheo…).
ในคำนั้น พระอรหัตมรรคของพระพุทธเจ้าทั้งหลาย ชื่อว่าเป็นสัมมาสัมโพธิญาณอันยอดเยี่ยม เพราะให้คุณทุกอย่าง.
Trong lời này, Đạo quả A-la-hán của các Đức Phật được gọi là sự giác ngộ tối thượng (Sammāsambodhiñāṇa) vì mang lại mọi lợi ích.
เพราะฉะนั้น พระโพธิสัตว์นั้นได้ทรงเห็นแผ่นดินใหญ่แห่งจักรวาลใดเป็นฟูกนอนอันเป็นสิริ.
Do đó, Đức Bồ-tát đã thấy mảnh đất lớn trong vũ trụ như một chiếc giường đầy uy nghi.
แผ่นดินใหญ่แห่งจักรวาลนั้นเป็นบุรพนิมิตแห่งความเป็นพระพุทธเจ้า.
Mảnh đất lớn trong vũ trụ đó là điềm báo trước về việc trở thành Đức Phật.
ได้ทรงเห็นภูเขาหิมพานต์ใดเป็นหมอน ภูเขาหิมพานต์นั้นเป็นบุรพนิมิตแห่งพระสัพพัญญุตญาณ.
Ngài đã thấy núi Himavanta như một chiếc gối, núi Himavanta đó là điềm báo trước về trí tuệ toàn giác (Sabbaññutañāṇa).
ได้ทรงเห็นพระหัตถ์และพระบาททั้ง ๔ ประดิษฐานบนยอดจักรวาลอันใด อันนั้นเป็นบุรพนิมิตในการประกาศพระธรรมจักรซึ่งใครๆ ให้เป็นไปไม่ได้.
Ngài đã thấy đôi tay và chân của mình đặt trên đỉnh vũ trụ, điều đó là điềm báo trước về việc tuyên thuyết Pháp Luân không ai có thể ngăn cản.
ได้ทรงเห็นพระองค์บรรทมหงายอันใด อันนั้นเป็นบุรพนิมิตแห่งความที่สัตว์ทั้งหลายผู้คว่ำหน้าอยู่ในภพ ๓ หงายหน้าขึ้น.
Ngài đã thấy mình nằm ngửa, đó là điềm báo trước về việc chúng sinh đang cúi mặt trong tam giới sẽ được nâng lên và nhìn thẳng.
ทรงเป็นดุจลืมพระเนตรเห็นอันใด อันนั้นเป็นบุรพนิมิตแห่งการได้ทิพยจักษุ.
Ngài đã thấy như thể mở mắt và nhìn thấy, đó là điềm báo trước về sự đạt được Thiên nhãn (Dibbacakkhu).
แสงสว่างได้ปรากฏเป็นอันเดียวกันตราบเท่าถึงภวัคคพรหมอันใด อันนั้นเป็นบุรพนิมิตแห่งอนาวรณญาณ (ญาณอันใดไม่มีเครื่องขัดข้อง).
Ánh sáng đã xuất hiện như một khối duy nhất kéo dài đến cõi Phạm thiên tối cao (Bhavaggabrahma), đó là điềm báo trước về vô ngại trí (Anāvaraṇañāṇa).
คำที่เหลือพึงทราบโดยนัยแห่งพระบาลีนั้นแล.
Những điều còn lại hãy hiểu theo nội dung trong Kinh Pāli.
จบอรรถกถาสุปินสูตรที่ ๖
Kết thúc phần chú giải Kinh Supina Thứ Sáu.
อรรถกถาวัสสสูตรที่ ๗
Chú giải Kinh Vassa Thứ Bảy.
พึงทราบวินิจฉัยในวัสสสูตรที่ ๗ ดังต่อไปนี้ :-
Sau đây là phần phân tích Kinh Vassa Thứ Bảy.
บทว่า เนมิตฺตา ได้แก่ นักพยากรณ์ [หมอดู].
Cụm từ “Nemittā” nghĩa là các nhà tiên tri hoặc thầy bói.
บทว่า เตโชธาตุ ปกุปฺปติ ได้แก่ กองของไฟใหญ่เกิดขึ้น.
Cụm từ “Tejodhātu Pakuppati” nghĩa là một khối lửa lớn bùng lên.
บทว่า ปาณินา อุทกํ ปฏิจฺฉิตฺวา ได้แก่ เอามือกว้างประมาณ ๓๐๐ โยชน์ รับน้ำที่ตั้งขึ้นตามฤดู.
Cụm từ “Pāṇinā Udakaṃ Paṭicchitvā” nghĩa là dùng bàn tay rộng khoảng 300 do-tuần để đón nhận nước từ mưa theo mùa.
บทว่า ปมตฺตา โหนฺติ ได้แก่ เป็นผู้ประมาท คือปราศจากสติ เพราะมัวเมาในการเล่นของตนเสีย.
Cụm từ “Pamattā Honti” nghĩa là trở nên bất cẩn, mất chánh niệm do bị mê đắm vào trò chơi của họ.
จริงอยู่ เมื่อพวกเขามีจิตคิดว่า พวกเราจะเริงฤดีของตน ฝนย่อมตกแม้มิใช่ฤดูกาล.
Thực vậy, khi họ có tâm ý muốn vui chơi, mưa có thể rơi ngay cả khi không phải mùa mưa.
เพราะไม่มีจิตคิดอย่างนั้น ฝนจึงตก.
Nhưng khi không có tâm ý như vậy, mưa không rơi.
ทรงหมายถึงข้อนั้นจึงตรัสดังนี้ว่า ถึงแม้ในฤดูกาลฝนก็ไม่ตก.
Ngài chỉ vào điều này và thuyết rằng: “Ngay cả trong mùa mưa, mưa cũng không rơi.”
จบอรรถกถาวัสสสูตรที่ ๗
Kết thúc phần chú giải Kinh Vassa Thứ Bảy.
อรรถกถานิสสารณียสูตรที่ ๑๐
Chú giải Kinh Nissāraṇīya Thứ Mười.
พึงทราบวินิจฉัยในนิสสารณียสูตรที่ ๑๐ ดังต่อไปนี้ :-
Sau đây là phần phân tích Kinh Nissāraṇīya Thứ Mười.
บทว่า นิสฺสารณิยา ได้แก่ สลัดออกไป คือพรากออกได้.
Cụm từ “Nissāraṇīyā” nghĩa là sự thoát ly, loại bỏ hoặc tách rời.
บทว่า ธาตุโย ได้แก่ สภาพที่ว่างจากตน.
Cụm từ “Dhātuyo” nghĩa là bản chất vô ngã (không có tự ngã).
บทว่า กามํ มนสิกโรโต ได้แก่ ใส่ใจถึงกาม.
Cụm từ “Kāmaṃ Manasikaroto” nghĩa là hướng tâm đến dục vọng.
อธิบายว่า ออกจากอสุภฌานแล้วส่งจิตมุ่งต่อกามเพื่อจะทดสอบ ดุจหยิบยาทดลองพิษ [ฤทธิ์ยา].
Giải thích: Khi xuất khỏi Asubha-jhāna (thiền bất tịnh), tâm hướng về dục để thử nghiệm, giống như cầm thuốc để kiểm tra chất độc.
บทว่า น ปกฺขนฺทติ คือ ไม่เข้าไป.
Cụm từ “Na Pakkhandati” nghĩa là không đi vào hoặc không tiếp nhận.
บทว่า น ปสีทติ คือ ไม่ถึงความเลื่อมใส.
Cụm từ “Na Pasīdati” nghĩa là không đạt đến sự hài lòng hoặc niềm tin.
บทว่า น สนฺติฏฺฐติ คือ ไม่ตั้งอยู่.
Cụm từ “Na Santiṭṭhati” nghĩa là không đứng vững hoặc không ổn định.
บทว่า น วิมุจฺจติ คือ ไม่น้อมไป.
Cụm từ “Na Vimuccati” nghĩa là không hướng đến hoặc không giải thoát.
เหมือนอย่างว่า ปีกไก่ก็ดี เอ็นกบก็ดีที่เขาใส่ลงไปในไฟ ย่อมหงิกงอ ม้วนไม่เหยียดฉันใด จิตก็หดหู่ไม่เหยียดออกฉันนั้น.
Giống như cánh gà hoặc gân ếch khi đặt vào lửa sẽ co rút, uốn cong và không duỗi ra, tâm cũng co rút và không mở rộng như vậy.
ปฐมฌานในอสุภะชื่อว่าเนกขัมมะ ในบทนี้ว่า เนกฺขมฺมํ โข ปน ดังนี้.
Sơ thiền (Pañhama-jhāna) trong Asubha (thiền bất tịnh) được gọi là “Nekkhamma” trong câu “Nekkhammaṃ Kho Panā…”
เมื่อภิกษุนั้นใส่ใจถึงเนกขัมมะนั้น จิตย่อมแล่นไป (ในเนกขัมมะ).
Khi vị tỳ-kheo hướng tâm đến Nekkhamma (sự từ bỏ), tâm sẽ hướng về (thiền bất tịnh).
บทว่า ตสฺส ตํ จิตฺตํ ได้แก่ จิตในอสุภฌานของภิกษุนั้น.
Cụm từ “Tassa Taṃ Cittaṃ” nghĩa là tâm trong Asubha-jhāna (thiền bất tịnh) của vị tỳ-kheo đó.
บทว่า สุคตํ ได้แก่ ไปแล้วด้วยดี เพราะไปในโคจรคืออารมณ์.
Cụm từ “Sugataṃ” nghĩa là đã đi một cách tốt đẹp, vì nó hướng đến phạm vi (gocara) là đối tượng thiền.
บทว่า สุภาวิตํ ได้แก่ อบรมแล้วด้วยดี เพราะไม่เป็นไปในส่วนแห่งความเสื่อม.
Cụm từ “Subhāvitaṃ” nghĩa là được tu dưỡng tốt, vì không bị suy thoái.
บทว่า สุวุฏฺฐิตํ ได้แก่ ออกไปแล้วจากกาม.
Cụm từ “Suvuṭṭhitaṃ” nghĩa là đã thoát khỏi dục vọng.
บทว่า สุวิมุตฺตํ ได้แก่ พ้นแล้วด้วยดีจากกามทั้งหลาย.
Cụm từ “Suvimuttaṃ” nghĩa là đã được giải thoát hoàn toàn khỏi các dục vọng.
อาสวะทั้งหลาย ๔ ที่มีกามเป็นเหตุ ชื่อว่าอาสวะ มีกามเป็นปัจจัย.
Bốn lậu hoặc (āsava) có dục vọng làm nguyên nhân được gọi là lậu hoặc dựa vào dục vọng.
ความทุกข์ ชื่อว่าวิฆาตะ.
Đau khổ được gọi là “Vighāta” (khổ đau).
ความเร่าร้อนเพราะกามราคะ ชื่อว่าปริฬาหะ.
Sự nung nấu bởi tham dục được gọi là “Pariḷāha” (nhiệt não).
บทว่า น โส ตํ เวทนํ เวทยติ ความว่า ภิกษุนั้นมิได้เสวยเวทนาเกิดจากกามนั้น และเวทนาเกิดจากความทุกข์ และความเร่าร้อน.
Cụm từ “Na So Taṃ Vedanaṃ Vediyati” nghĩa là vị tỳ-kheo đó không cảm nhận các cảm thọ phát sinh từ dục vọng, đau khổ và sự nung nấu.
บทว่า อิทมกฺขาตํ กามานํ นิสฺสรณํ ความว่า อสุภฌานนี้ท่านกล่าวว่า เป็นเครื่องไหลออกไปแห่งกามทั้งหลาย เพราะสลัดออกจากกาม.
Cụm từ “Idamakkhātaṃ Kāmānaṃ Nissaraṇaṃ” nghĩa là Asubha-jhāna (thiền bất tịnh) này được nói là phương tiện thoát khỏi các dục vọng, vì nó tách rời khỏi dục vọng.
ก็ภิกษุใดทำฌานนั้นให้เป็นบาท พิจารณาสังขารทั้งหลายบรรลุตติยมรรค.
Vị tỳ-kheo nào lấy thiền đó làm nền tảng, quán xét các hành (saṅkhāra) và đạt đến Đạo thứ ba (Tatiyamagga).
เห็นนิพพานด้วยอนาคามิผลแล้วก็รู้ว่า ชื่อกามทั้งหลายจะไม่มีอีกดังนี้.
Khi thấy Niết-bàn với Quả Anagami (bất lai) và biết rằng sẽ không còn các dục vọng nào tồn tại nữa.
จิตของภิกษุนั้น ชื่อว่าเป็นนิสสรณะ เครื่องไหลออกโดยส่วนเดียว.
Tâm của vị tỳ-kheo đó được gọi là “Nissaraṇa” (phương tiện giải thoát hoàn toàn).
แม้ในบทที่เหลือก็นัยนี้เหมือนกัน.
Ngay cả trong các phần còn lại, ý nghĩa cũng tương tự.
แต่ความต่างกันมีดังนี้ ในวาระที่ ๒ เมตตาฌานชื่อว่าเป็นเครื่องสลัดออกแห่งพยาบาท.
Nhưng có sự khác biệt như sau: Ở phần thứ hai, thiền Từ (Mettā-jhāna) được gọi là phương tiện loại bỏ sự sân hận.
ในวาระที่ ๓ กรุณาฌานชื่อว่าเป็นเครื่องสลัดออกแห่งวิหิงสา.
Ở phần thứ ba, thiền Bi (Karuṇā-jhāna) được gọi là phương tiện loại bỏ sự bạo hại (vihiṃsā).
ในวาระที่ ๔ อรูปฌานชื่อว่าเป็นเครื่องสลัดออกแห่งรูปทั้งหลาย.
Ở phần thứ tư, thiền Vô sắc (Arūpa-jhāna) được gọi là phương tiện loại bỏ các hình tướng.
อนึ่ง พึงประกอบอรหัตผลเข้าในบทนี้ว่า อจฺจนฺตนิสฺสรณํ ดังนี้.
Ngoài ra, quả vị A-la-hán nên được bao hàm trong cụm từ “Accantaniṣsaraṇaṃ” (sự giải thoát hoàn toàn).
ในวาระที่ ๕ บทว่า สกฺกายํ มนสิกโรโต ความว่า เมื่อภิกษุกำหนดสังขารล้วนเป็นอารมณ์แล้วบรรลุพระอรหัต.
Ở phần thứ năm, cụm từ “Sakkāyaṃ Manasikaroto” nghĩa là khi vị tỳ-kheo quán xét các hành (saṅkhāra) làm đối tượng, Ngài đạt đến quả vị A-la-hán.
เป็นสุกขวิปัสสกออกจากผลสมาบัติแล้วจึงส่งจิตมุ่งต่ออุปาทานขันธ์ ๕ เพื่อทดสอบ.
Vị tỳ-kheo là Sukkhavipassaka (người chỉ thực hành Minh sát tuệ), sau khi xuất khỏi quả định (phalasamāpatti), hướng tâm đến năm uẩn (upādānakkhandha) để kiểm nghiệm.
บทว่า อิทมกฺขาตํ สกฺกายสฺส นิสฺสรณํ ความว่า.
Cụm từ “Idamakkhātaṃ Sakkāyassa Nissaraṇaṃ” nghĩa là:
จิตอันสัมปยุตด้วยอรหัตผลสมาบัติที่เกิดขึ้นว่า สักกายะจะไม่มีอีกต่อไปดังนี้.
Tâm liên quan đến quả định A-la-hán, nhận ra rằng “Sakkāya (ngã kiến) sẽ không còn tồn tại nữa”.
ของภิกษุผู้เห็นพระนิพพานด้วยอรหัตมรรคละด้วยผลดำรงอยู่นี้ ท่านกล่าวว่าเป็นเครื่องสลัดออกไปแห่งสักกายะ ดังนี้.
Đối với vị tỳ-kheo đã chứng ngộ Niết-bàn bằng Đạo A-la-hán và duy trì với quả này, điều đó được gọi là phương tiện loại bỏ hoàn toàn Sakkāya.
บัดนี้ พระผู้มีพระภาคเจ้าเมื่อจะทรงสรรเสริญคุณของพระขีณาสพผู้บรรลุสักกายนิสสรณนิโรธอย่างนี้ดำรงอยู่.
Bây giờ, khi Đức Thế Tôn muốn tán dương phẩm hạnh của vị khánh tận lậu hoặc (khīṇāsava) đã đạt được sự giải thoát khỏi Sakkāya như vậy.
จึงตรัสคำมีอาทิว่า ตสฺส กามนนฺทิปิ นานุเสติ ดังนี้.
Ngài đã thuyết giảng bắt đầu bằng câu: “Tassa Kāmanandi Pi Nānuseti” (Người ấy không còn bị lôi cuốn bởi dục vọng).
จบอรรถกถานิสสารณียสูตรที่ ๑๐
Kết thúc phần chú giải Kinh Nissāraṇīya Thứ Mười.
จบพราหมณวรรควรรรณนาที่ ๕
Kết thúc phần phân tích Phẩm Bà-la-môn Thứ Năm.
จบจตุตถปัณณาสก์
Kết thúc chương Bốn Mươi Lăm.
รวมพระสูตรที่มีในวรรคนี้ คือ
Tổng hợp các kinh trong phẩm này là:
๑. โสณสูตร
1. Kinh Sona.
๒. โทณสูตร
2. Kinh Dona.
๓. สังคารวสูตร
3. Kinh Sangārava.
๔. การณปาลีสูตร
4. Kinh Kāraṇapālī.
๕. ปิงคิยานีสูตร
5. Kinh Piṅgiyānī.
๖. สุปินสูตร
6. Kinh Supina.
๗. วัสสสูตร
7. Kinh Vassa.
๘. วาจาสูตร
8. Kinh Vācā.
๙. กุลสูตร
9. Kinh Kula.
๑๐. นิสสารณียสูตร
10. Kinh Nissāraṇīya.