อรรถกถา อังคุตตรนิกาย จตุกกนิบาต จตุตถปัณณาสก์
A-ttha-kathā Anguttaranikāya Catukkanipāta Catutthapaṇṇāsaka (Chú giải Tăng Chi Bộ, Phẩm Bốn, Bộ Năm Mươi Thứ Tư)
๓. สัญเจตนิยวรรค
3. Sañcetaniyavagga (Phẩm Ý Thức)
สัญเจตนิยวรรควรรณนาที่ ๓
Lời giảng về Phẩm Ý Thức, Phần 3
อรรถกถาเจตนาสูตรที่ ๑
Chú giải về Kinh Ý Thức, Phần 1
พึงทราบวินิจฉัยในเจตนาสูตรที่ ๑ แห่งวรรคที่ ๓ ดังต่อไปนี้ :-
Hãy hiểu rõ phân tích về Kinh Ý Thức trong Phần 1 của Phẩm 3 như sau:
บทว่า กาเย ได้แก่ เมื่อกายทวาร. อธิบายว่า เมื่อความเคลื่อนไหวทางกายมีอยู่.
Câu “Kāye” có nghĩa là khi thân môn hiện diện. Giải thích rằng khi có sự vận động của thân.
ในบทว่า กายสญฺเจตนาเหตุ เป็นต้น ความสำเร็จแห่งเจตนาในกายทวารชื่อว่า กายสัญเจตนา (ความจงใจทำทางกาย) กายสัญเจตนานั้นมี ๒๐ อย่าง คือ กามาวจรกุศล ๘ อย่าง อกุศล ๑๒ อย่าง.
Trong câu “Kāyasañcetanahetu” v.v., sự thành tựu của ý thức nơi thân môn được gọi là “kāyasañcetana” (ý chí về hành động thân). Kāyasañcetana này có 20 loại, bao gồm 8 thiện nghiệp dục giới và 12 bất thiện nghiệp.
วจีสัญเจตนา (ความจงใจทำทางวาจา) ก็เหมือนกัน.
Vācīsañcetana (ý chí về hành động lời nói) cũng tương tự như vậy.
มโนสัญญเจตนา (ความจงใจทำทางใจ) ก็เหมือนกัน.
Manosañcetana (ý chí về hành động tâm ý) cũng tương tự như vậy.
อนึ่ง แม้มหัคคตเจตนา ๙ ก็ได้ในบทนี้.
Thêm nữa, ngay cả 9 loại mahaggatacetana (ý chí thù thắng) cũng được bao hàm trong đoạn này.
บทว่า กายสญฺเจตนาเหตุ ได้แก่ เพราะกายสัญเจตนาเป็นปัจจัย.
Câu “Kāyasañcetanahetu” có nghĩa là vì kāyasañcetana là duyên.
บทว่า อุปฺปชฺชติ อชฺฌตฺตํ สุขทุกฺขํ ได้แก่ สุขเกิดขึ้นภายในตนเพราะกุศลกรรม ๘ เป็นปัจจัย ทุกข์เกิดขึ้นเพราะอกุสลกรรม ๑๒ เป็นปัจจัย.
Câu “Uppajjati ajjhattaṃ sukhadukkhaṃ” có nghĩa là lạc thọ khởi lên bên trong tự thân do 8 thiện nghiệp là duyên, và khổ thọ khởi lên do 12 bất thiện nghiệp là duyên.
แม้ในทวารที่เหลือก็มีนัยนี้เหมือนกัน.
Ngay cả ở các cửa (thân, khẩu, ý) khác cũng có ý nghĩa tương tự như vậy.
บทว่า อวิชฺชาปจฺจยา วา ได้แก่ เพราะอวิชชาเป็นเหตุ.
Câu “Avijjāpaccayā vā” có nghĩa là do vô minh làm duyên.
จริงอยู่ ถ้าว่าอวิชชาที่ถูกปกปิดไว้เป็นปัจจัย เมื่อเป็นเช่นนั้น เจตนาอันเป็นปัจจัยแห่งสุขและทุกข์ในทวาร ๓ ย่อมเกิดขึ้น. นี้ท่านกล่าวด้วยอำนาจปัจจัยอันเป็นมูล ด้วยประการฉะนี้.
Thật vậy, nếu vô minh bị che lấp là duyên, thì khi ấy ý chí làm nhân của lạc và khổ ở ba cửa (thân, khẩu, ý) sẽ khởi lên. Điều này được nói đến với sức mạnh của duyên làm gốc rễ.
ในบทว่า อวิชฺชาปจฺจยา วา สามํ วา เป็นต้น บุคคลอันคนอื่นไม่ได้ใช้ เมื่อปรุงแต่งด้วยตนเอง ชื่อว่าปรุงแต่งกายสังขารเอง. ชักชวนคนอื่นให้ปรุงกายสังขารใด คนอื่น ชื่อว่าปรุงกายสังขารนั้นของเขา.
Trong câu “Avijjāpaccayā vā sāmaṃ vā” v.v., một người không bị người khác sai khiến mà tự mình tạo tác, được gọi là tự tạo hành động thân (kāyasaṅkhāra). Khi một người khuyến khích người khác tạo tác hành động thân nào đó, thì người khác được gọi là tạo hành động thân đó cho họ.
ก็บุคคลใดรู้กุศลว่าเป็นกุศล รู้อกุศลว่าเป็นอกุศล รู้กุศลวิบากว่าเป็นกุศลวิบาก รู้อกุศลวิบากว่าเป็นอกุศลวิบาก ย่อมปรุงสังขาร ๒๐ อย่างในกายทวาร บุคคลนี้ชื่อว่ารู้ปรุงสังขาร บุคคลใดไม่รู้อย่างนี้ปรุงสังขาร บุคคลนี้ชื่อว่าไม่รู้ปรุงสังขาร.
Người nào biết thiện là thiện, biết bất thiện là bất thiện, biết quả của thiện là quả của thiện, biết quả của bất thiện là quả của bất thiện, người đó tạo ra 20 loại hành động qua thân môn. Người này được gọi là người biết tạo tác. Người không biết như vậy mà vẫn tạo tác thì được gọi là người không biết tạo tác.
แม้ในทวารที่เหลือก็นัยนี้เหมือนกัน.
Ngay cả ở các cửa khác cũng có ý nghĩa tương tự.
ในข้อนั้นพึงทราบการกระทำโดยไม่รู้ตัวดังนี้.
Về điều này, hãy hiểu rằng có những hành động vô thức như sau:
พวกเด็กรุ่นคิดว่า เราจะทำกิจที่มารดาบิดาทำไว้ จึงไหว้เจดีย์ บูชาด้วยดอกไม้ ไหว้หมู่ภิกษุสงฆ์ แม้ทั้งที่เขาไม่รู้ว่าเป็นกุศล การกระทำนั้นก็เป็นกุศลทั้งนั้น.
Những đứa trẻ nghĩ rằng chúng sẽ làm theo những việc cha mẹ đã làm, như lễ tháp, dâng hoa cúng dường, lễ bái tăng đoàn, dù không biết đó là thiện, nhưng hành động đó vẫn là thiện.
สัตว์เดียรัจฉานมีเนื้อและนกเป็นต้นก็เหมือนกัน ฟังธรรม ไหว้สงฆ์ ไหว้เจดีย์ ทั้งที่มันรู้บ้าง ไม่รู้บ้าง การกระทำนั้นก็เป็นกุศลเหมือนกัน.
Các loài động vật như thú và chim cũng tương tự, nghe pháp, lễ bái tăng đoàn, lễ tháp, dù biết hoặc không biết, những hành động đó vẫn là thiện.
แต่พวกเด็กรุ่นเอาและมือและเท้า เตะตีมารดาบิดา ยกมือขู่ตะคอกขว้างก้อนดินด่า.
Nhưng những đứa trẻ dùng tay chân đánh đập cha mẹ, giơ tay đe dọa, la mắng và ném đất.
แม่โคไล่ตามหมู่ภิกษุ. เหล่าสุนัขไล่ตามกัด. สีหะและพยัคฆ์เป็นต้นไล่ตามฆ่า.
Bò mẹ rượt đuổi tăng đoàn, đàn chó rượt cắn, sư tử và hổ vồ giết.
ทั้งที่มันรู้บ้างไม่รู้บ้าง พึงทราบว่าเป็นอกุศลกรรม.
Dù biết hoặc không biết, hãy hiểu rằng đó là bất thiện nghiệp.
บัดนี้ พึงรวบรวมเจตนาอันประมวลลงในทวารแม้ทั้ง ๓.
Bây giờ, hãy tổng hợp ý chí được quy vào cả ba cửa.
ถามว่า อย่างไร.
Hỏi: Như thế nào?
ตอบว่า ในกายทวาร เจตนาที่ทำด้วยตนเองเป็นมูล ๒๐ ที่คนอื่นใช้เป็นมูล ๒๐ ที่รู้ตัวเป็นมูล ๒๐ ที่ไม่รู้ตัวอยู่เป็นมูล ๒๐ รวมเป็นเจตนา ๘๐. ในวจีทวารก็เหมือนกัน. แต่ในมโนทวาร วิกัปหนึ่งๆ วิกัปละ ๒๙ (๔ วิกัป) รวมเป็น ๑๑๖. ดังนั้น เจตนาแม้ทั้งหมดในทวาร ๓ มีสองร้อยเจ็ดสิบหก (๒๗๖)
Trả lời: Ở thân môn, ý chí tự mình làm có 20, ý chí do người khác sai khiến có 20, ý chí biết rõ có 20, và ý chí không biết rõ có 20, tổng cộng 80. Ở khẩu môn cũng giống như vậy. Nhưng ở ý môn, mỗi phần vị (vikappa) có 29 (4 phần vị), tổng cộng 116. Như vậy, tất cả các ý chí trong ba cửa là 276.
เจตนาแม้ทั้งหมดนั้นย่อมนับได้ว่าเป็นสังขารขันธ์ทั้งนั้น การเสวยอารมณ์สัมปยุตด้วยสังขารขันธ์นั้นเป็นเวทนาขันธ์ อาการรู้จำเป็นสัญญา จิตเป็นวิญญาณขันธ์ กายเป็นอุปาทารูป ธาตุ ๔ ที่เป็นปัจจัยแห่งอุปาทารมณ์เป็นภูตรูป ๔ ขันธ์ ๕ ดังกล่าวมาเหล่านี้ ชื่อว่าทุกขสัจ.
Tất cả các ý chí này được xem là hành uẩn. Sự thọ dụng các đối tượng liên quan đến hành uẩn là thọ uẩn. Sự nhận biết là tưởng uẩn. Tâm là thức uẩn. Thân là sắc uẩn. Bốn đại chủng làm duyên cho các đối tượng thuộc sắc là bốn loại sắc căn bản. Năm uẩn này được gọi là Khổ Đế.
บทว่า อิเมสุ ภิกฺขเว ธมฺเมสุ อวิชฺชานุปติตา ความว่า อวิชชาตกไปแล้วในเจตนาธรรมมีประเภทดังกล่าวแล้วเหล่านี้ ด้วยอำนาจสหชาตปัจจัย และอุปนิสสยปัจจัย.
Câu “Imesu bhikkhave dhammesu avijjānupatitā” có nghĩa là vô minh khởi lên trong các pháp ý chí đã nêu trên, do sức mạnh của nhân duyên đồng sinh và duyên trợ.
เป็นอันท่านแสดงถึงวัฏฏะและอวิชชาที่เป็นมูลแห่งวัฏฏะ ด้วยอาการอย่างนี้.
Như vậy, Đức Phật đã trình bày về luân hồi và vô minh là cội rễ của luân hồi qua cách này.
บัดนี้ พระผู้มีพระภาคเจ้า เมื่อจะทรงสรรเสริญพระขีณาสพผู้เจริญวิปัสสนาด้วยเหตุเพียงเท่านี้แล้วบรรลุพระอรหัต จึงตรัสว่า อวิชฺชายเตฺวว อเสสวิราคนิโรธา ดังนี้เป็นอาทิ.
Bây giờ, Đức Thế Tôn, khi tán thán bậc A-la-hán đã tu tập thiền quán và nhờ vậy chứng đắc A-la-hán, Ngài đã nói rằng: “Avijjāyatveva asesavirāganirodhā” (vô minh diệt hoàn toàn, tham ái cũng diệt theo) và các điều tương tự.
ในบทเหล่านั้น บทว่า อเสสวิราคนิโรธา ได้แก่ สำรอกโดยไม่เหลือ และดับโดยไม่เหลือ.
Trong các đoạn đó, câu “Asesavirāganirodhā” có nghĩa là diệt sạch hoàn toàn, không còn sót lại gì.
บทว่า โส กาโย น โหติ ความว่า การกระทำทางกายของพระขีณาสพ ย่อมปรากฏเป็นต้นอย่างนี้ คือ การกวาดลานเจดีย์ การกวาดลานโพธิ์ การก้าวไปและการถอยกลับ การทำวัตรปฏิบัติ.
Câu “So kāyo na hoti” có nghĩa là các hành động thân của bậc A-la-hán xuất hiện như sau: quét dọn khu vực tháp, quét sân Bồ-đề, bước đi và quay lại, thực hành các nghi lễ.
แต่ในกายทวาร เจตนา ๒๐ ของพระขีณาสพนั้นย่อมถึงความเป็นกิจไม่มีวิบากเป็นธรรมดา.
Nhưng ở thân môn, 20 ý chí của bậc A-la-hán là những hành động không tạo ra quả báo, như một lẽ tự nhiên.
ด้วยเหตุนั้น ท่านจึงกล่าวว่า โส กาโย น โหติ ยมฺปจฺจยาสฺส ตํ อุปฺปชฺชติ อชฺฌตฺตํ สุขทุกฺขํ
Vì lý do đó, người ta nói rằng: “So kāyo na hoti yaṃpaccayassa taṃ uppajjati ajjhattaṃ sukhadukkhaṃ” (Thân không còn là nhân của khổ và lạc nội tâm ở bậc A-la-hán).
กายอันเป็นปัจจัยให้สุขทุกข์ภายในพระขีณาสพนั้นเกิดไม่มี เจตนาอันเป็นไปในกายทวาร ท่านประสงค์กายในที่นี้.
Thân, vốn là nhân gây ra khổ và lạc nội tâm ở bậc A-la-hán, không còn khởi nữa. Ý chí thuộc thân môn chính là điều được đề cập ở đây.
แม้ในสองบทที่เหลือก็นัยนี้เหมือนกัน.
Ý nghĩa tương tự cũng áp dụng cho hai phần còn lại.
แม้บทมีอาทิว่า เขตฺตํ ดังนี้ ก็เป็นชื่อของกรรมทั้งที่เป็นกุศลและอกุศลนั่นแล.
Ngay cả các từ như “Khettaṃ” (ruộng) cũng là tên gọi của cả nghiệp thiện và bất thiện.
จริงอยู่ สุขและทุกข์นั้น ท่านกล่าวว่าชื่อว่าเขต เพราะอรรถกถาว่าเป็นที่งอกแห่งวิบาก ชื่อว่าวัตถุ เพราะอรรถว่าเป็นพื้นที่ตั้ง ชื่อว่าอายตนะ เพราะอรรถว่าเป็นเหตุ ชื่อว่าอธิกรณะ เพราะอรรถว่าเป็นเรื่องราว.
Thật vậy, khổ và lạc được gọi là “ruộng” vì chú giải nói rằng chúng là nơi sinh trưởng của quả báo. Được gọi là “vật” vì là nền tảng. Được gọi là “căn” vì là nguyên nhân. Được gọi là “chủ đề” vì là vấn đề được thảo luận.
พระศาสดา ครั้นทรงแสดงกรรมอันประมวลลงด้วยทวาร ๓ โดยฐานะประมาณเท่านี้แล้ว บัดนี้ เพื่อจะทรงแสดงถึงฐานะอันเป็นผลของกรรมนั้น จึงตรัสว่า จตฺตาโรเม ภิกฺขเว ดังนี้เป็นอาทิ.
Sau khi Đức Phật giảng giải về nghiệp được quy vào ba cửa với nội dung tóm lược như vậy, Ngài tiếp tục giảng về các trạng thái là quả của nghiệp đó bằng cách nói: “Cattārome bhikkhave” (Này các Tỳ-kheo, có bốn loại này) và các đoạn tương tự.
ในบทนั้น บทว่า อตฺตภาวปฏิลาภา ได้แก่ อัตภาพที่ตนได้แล้ว.
Trong đoạn này, câu “Attabhāvapaṭilābhā” có nghĩa là thân xác mà mình đã đạt được.
บทว่า อตฺตสญฺเจตนา กมติ ได้แก่ เจตนาที่ตนดำริไว้ย่อมนำไป คือย่อมเป็นไป.
Câu “Attasañcetana kamati” có nghĩa là ý chí mà bản thân đã khởi lên sẽ dẫn dắt, tức là sẽ thành hiện thực.
ในบทมีอาทิว่า อตฺตสญฺเจตนาเหตุ เตสํ สตฺตานํ ตมฺหา กายา จุติ โหติ (การจุติจากกายนั้นของสัตว์ทั้งหลายเหล่านั้นย่อมมี เพราะสัญเจตนาของตนเป็นเหตุ) ได้แก่ พวกเทพผู้เป็นขิฑฑาปโทสิกะ (มุ่งแต่จะเล่น) ย่อมจุติเพราะสัญเจตนาของตนเป็นเหตุ.
Trong câu “Attasañcetanahetu tesaṃ sattānaṃ tamhā kāyā cuti hoti” (sự diệt mất thân của những chúng sinh đó xảy ra vì ý chí của chính họ), điều này ám chỉ các chư thiên thuộc loại “khiṭṭhāpadosika” (chỉ mải chơi), họ mất thân do ý chí của chính mình.
ด้วยว่า เมื่อทวยเทพเหล่านั้นดื่มด่ำอยู่ในความพอใจของทิพย์ในสวนนันทวัน จิตรลดาวันและปารุสกวันเป็นต้น เหนื่อยอ่อน ลืมดื่มและบริโภค. เขาย่อมแห้งไปเพราะขาดอาหาร เหมือนดอกไม้ที่เหวี่ยงไปในแดด.
Khi các chư thiên ấy say mê hưởng thụ niềm vui thiên giới tại các khu vườn Nandavana, Cittaladdavana và Parusakavana, họ kiệt sức, quên uống và ăn. Họ trở nên héo mòn do thiếu thức ăn, giống như bông hoa bị bỏ dưới ánh nắng mặt trời.
มโนปโทสิกา (ทวยเทพผู้ทำร้ายทางใจ) ย่อมจุติเพราะสัญเจตนาของผู้อื่นเป็นเหตุ ได้แก่ ทวยเทพชั้นจาตุมมหาราชิกา.
Các chư thiên thuộc loại “manopadosika” (gây hại bằng tâm) mất thân do ý chí của người khác, ám chỉ chư thiên ở tầng Tứ Đại Thiên Vương.
ได้ยินว่า บรรดาทวยเทพเหล่านั้น เทพบุตรองค์หนึ่งหมายจักเล่นนักขัตฤกษ์ จึงพร้อมด้วยบริวาร ขึ้นรถไปตามทาง.
Nghe kể rằng, trong số các chư thiên ấy, một vị thiên tử định tổ chức lễ hội nên cùng đoàn tùy tùng lên xe đi dọc theo đường.
ทีนั้น เทพบุตรอีกองค์หนึ่งออกไปเห็นเทพบุตรนั้นกำลังไปข้างหน้า จึงโกรธว่า อะไรกันพ่อเอ้ย คนขอทานผู้นี้เห็นเทพบุตรองค์หนึ่งทำเหมือนไม่เคยเห็นแล้วเห่อผยองราวกระบวนแห่ไปตามถนน.
Khi đó, một thiên tử khác nhìn thấy thiên tử ấy đang đi phía trước, liền nổi giận và nói: “Gì thế này, đồ ăn xin kia, thấy một thiên tử mà cư xử như kẻ chưa từng thấy, khoe khoang như đang dẫn đầu một đoàn diễu hành trên đường.”
เทพบุตรผู้เดินไปข้างหน้าเหลียวดูเห็นเทพบุตรนั้นโกรธ คิดว่า ขึ้นชื่อว่าคนโกรธรู้ได้ง่าย ครั้นรู้ว่าเทพบุตรนั้นโกรธจริง จึงโกรธตอบว่าท่านโกรธจักทำอะไรเราได้ เราได้สมบัตินี้มาด้วยอำนาจทานและศีลเป็นต้น ไม่ใช่ได้มาด้วยอำนาจของท่าน.
Thiên tử đi phía trước ngoái nhìn và thấy thiên tử kia đang tức giận, nghĩ rằng “Người giận thì dễ nhận ra.” Khi biết thiên tử kia thật sự giận, liền đáp trả: “Ngươi giận thì làm gì được ta? Ta có được tài sản này nhờ bố thí và trì giới, không phải nhờ sức mạnh của ngươi.”
ก็เมื่อเทพบุตรองค์หนึ่งโกรธ อีกองค์หนึ่งไม่โกรธยังรักษาไว้ได้ แต่เมื่อทั้งสองโกรธ ความโกรธของเทพบุตรองค์หนึ่งเป็นปัจจัยของอีกองค์หนึ่ง ความโกรธของเทพบุตรองค์นั้นก็เป็นปัจจัยของเทพบุตรอีกองค์หนึ่ง.
Khi một thiên tử giận mà thiên tử kia không giận thì vẫn giữ được bình an. Nhưng khi cả hai cùng giận, cơn giận của một người trở thành duyên cho người kia, và cơn giận của người kia lại là duyên cho người này.
เพราะฉะนั้น เทพบุตรทั้งสองย่อมจุติทั้งที่สนมเทพอัปสรคร่ำครวญอยู่.
Vì vậy, cả hai thiên tử đều mất thân, ngay cả khi các thiên nữ của họ đang khóc than.
มนุษย์ทั้งหลายย่อมจุติเพราะสัญเจตนาของตนและสัญเจตนาของผู้อื่น เป็นเหตุ.
Con người mất đi sinh mạng của mình do ý chí của chính họ hoặc ý chí của người khác làm duyên.
อธิบายว่า มนุษย์ทั้งหลายย่อมจุติ เพราะเหตุแห่งสัญเจตนาของตนและแห่งสัญเจตนาของผู้อื่น.
Giải thích rằng, con người diệt mất do nhân từ ý chí của chính mình và ý chí của người khác.
จริงอยู่ มนุษย์ทั้งหลายครั้นโกรธแล้วก็เอามือบ้าง เท้าบ้าง ทุบตีตนด้วยตนเอง ผูกด้วยเครื่องผูกคือเชือกเป็นต้นบ้าง ตัดศีรษะด้วยดาบบ้าง กินยาพิษบ้าง ย่อมกระโดดเหวบ้าง กระโดดน้ำบ้าง เข้ากองไฟบ้าง เอาท่อนไม้ศัสตราประหาร แม้คนอื่นให้ตายบ้าง.
Thật vậy, khi con người giận dữ, họ có thể tự dùng tay, chân đánh đập chính mình, trói mình bằng dây, chặt đầu mình bằng gươm, uống thuốc độc, nhảy xuống vực thẳm, nhảy xuống nước, lao vào lửa, hoặc bị người khác dùng gậy, vũ khí giết chết.
สัญเจตนาของตนก็ดี สัญเจตนาของผู้อื่นก็ดี ย่อมเป็นไปมนุษย์เหล่านั้นด้วยอาการอย่างนี้.
Ý chí của bản thân hoặc ý chí của người khác đều dẫn đến những hành động như vậy đối với con người.
บทว่า กตเม เตน เทวา ทฏฺฐพฺพา ความว่า จะพึงเห็นทวยเทพเหล่านั้นเป็นไฉน หรือความว่าจะพึงเห็นทวยเทพด้วยอัตภาพนั้นเป็นไฉนดังนี้บ้าง.
Câu “Katame tena devā daṭṭhabbā” có nghĩa là: làm thế nào để thấy các chư thiên đó? Hoặc: làm thế nào để thấy các chư thiên với thân xác ấy?
ถามว่า เพราะเหตุไร พระเถระจึงถามปัญหานี้ การกล่าวด้วยตนเองยังไม่พอหรือ.
Hỏi: Tại sao tôn giả lại đặt câu hỏi này? Lời giải thích của chính mình chưa đủ sao?
ตอบว่า ยังไม่พอ. ก็บทนี้ปัญหาพุทธวิสัยโดยสภาวะของปัญหา เพราะเหตุนั้น พระเถระจึงไม่กล่าว.
Trả lời: Chưa đủ. Vì vấn đề này thuộc phạm vi của Phật trí theo bản chất của câu hỏi, do đó tôn giả không tự mình giải thích.
บทว่า เตน ทฏฺฐพฺพา ได้แก่ พึงเห็นด้วยอัตภาพนั้น.
Câu “Tena daṭṭhabbā” có nghĩa là: nên thấy bằng chính thân xác đó.
ก็ปัญหานี้ย่อมได้ในกามาวจรบ้าง รูปาวจรบ้างในเบื้องต่ำ แต่ตรัสกำหนดด้วยภวัคคพรหม เป็นอันตรัสโดยสิ้นเชิง เพราะเหตุนั้น พระผู้มีพระภาคเจ้าจึงตรัสอย่างนี้.
Câu hỏi này có thể được áp dụng trong cõi dục giới hoặc sắc giới bậc thấp, nhưng Đức Phật đã chỉ định rõ ràng là trong Phạm thiên cõi Biến Tịnh (Bhavaggapbrahma), như vậy là nói một cách trọn vẹn. Vì lý do này, Đức Thế Tôn đã dạy như vậy.
บทว่า อาคนฺตาโร อิตฺถตฺตํ ได้แก่ เป็นผู้กลับมาสู่ความเป็นอย่างนี้ คือ สู่ความเป็นกามาวจรและเบญจขันธ์นั่นเอง หาได้เกิดในภพนั้นไม่ มิได้เกิดในภพเบื้องบน.
Câu “Āgantāro itthattaṃ” có nghĩa là: những người quay lại trạng thái này, tức là quay lại cõi dục giới và ngũ uẩn, không tái sinh vào cõi ấy hay các cõi cao hơn.
บทว่า อนาคนฺตาโร อิตฺถตฺตํ ได้แก่ เป็นผู้ไม่กลับมาสู่ขันธบัญจกนี้คือเป็นผู้ไม่เกิดในเบื้องต่ำ.
Câu “Anāgantāro itthattaṃ” có nghĩa là: những người không quay lại với ngũ uẩn này, tức là không tái sinh ở cõi thấp.
อธิบายว่า เป็นผู้เกิดในภพนั้นบ้าง เป็นผู้เกิดในเบื้องบนบ้าง เป็นผู้ปรินิพพานในภพนั้นนั่นเองบ้าง.
Giải thích: Có người tái sinh ở cõi ấy, có người tái sinh ở cõi cao hơn, và có người nhập Niết-bàn ngay trong cõi ấy.
ในบทนี้พึงทราบสัตว์ผู้เกิดในเบื้องบน แม้ด้วยอำนาจสัตว์ทั้งหลายผู้เกิดแล้วในภพชั้นต่ำ.
Trong đoạn này, cần hiểu rằng có chúng sinh tái sinh ở cõi cao hơn, ngay cả khi trước đó họ đã sinh ra ở cõi thấp.
ก็ขันธบัญจกนี้ไม่มีในภวัคคพรหม.
Ngũ uẩn này không tồn tại trong Phạm thiên cõi Biến Tịnh.
คำที่เหลือในบททั้งปวงง่ายทั้งนั้นแล.
Các đoạn còn lại trong bài đều dễ hiểu.
จบอรรถกถาเจตนาสูตรที่ ๑
Kết thúc chú giải về Kinh Ý Thức, phần 1.
อรรถกถาวิภัตติสูตรที่ ๒
Chú giải về Kinh Vibhatti, phần 2
พึงทราบวินิจฉัยในวิภัตติสูตรที่ ๒ ดังต่อไปนี้ :-
Hãy hiểu rõ các phân tích trong Kinh Vibhatti, phần 2 như sau:
บทว่า อตฺถปฏิสมฺภิทา ได้แก่ ญาณอันถึงความแตกฉานในอรรถทั้งหลาย ๕.
Câu “Atthapaṭisambhidā” có nghĩa là trí tuệ đạt được sự thông suốt trong năm ý nghĩa.
บทว่า โอธิโส คือ โดยเหตุ. บทว่า พฺยญฺชนโส คือ โดยอักษร.
Câu “Odhiśo” có nghĩa là theo lý do, và “Byañjanaso” có nghĩa là theo chữ nghĩa.
บทว่า อเนกปริยาเยน คือ โดยเหตุหลายอย่าง.
Câu “Anekapariyāyena” có nghĩa là dựa trên nhiều lý do.
บทว่า อาจิกฺขามิ แปลว่า บอก. บทว่า เทเสมิ คือ บอกกล่าวทำให้ปรากฏ.
Câu “Ācikkhāmi” nghĩa là nói ra, và “Desemi” nghĩa là giải thích để làm rõ.
บทว่า ปญฺญาเปมิ คือ ให้เขารู้. บทว่า ปฏฺฐเปมิ คือ กล่าวยกขึ้นให้เป็นไปแล้ว.
Câu “Paṇṇāpemi” nghĩa là làm cho người khác biết, và “Paṭṭhapemi” nghĩa là trình bày để khởi sự.
บทว่า วิวรามิ คือ บอกแบบเปิดเผย. บทว่า วิภชามิ คือ บอกแบบจำแนก.
Câu “Vivarāmi” nghĩa là trình bày một cách minh bạch, và “Vibhajāmi” nghĩa là giải thích bằng cách phân tích.
บทว่า อุตฺตานีกโรมิ คือ บอกทำข้อที่ลึกซึ้งให้ตื้น.
Câu “Uttānikaromi” nghĩa là làm sáng tỏ những điều sâu sắc để trở nên dễ hiểu.
บทว่า โส มํ ปญฺเหน ได้แก่ ผู้นั้นจงเข้าไปถามปัญหาเรา.
Câu “So maṃ pañheṇa” nghĩa là người đó hãy đến hỏi ta một câu hỏi.
บทว่า อหํ เวยฺยากรเณน ความว่า ข้าพเจ้าจักยังจิตของผู้นั้นให้ยินดีด้วยการแก้ปัญหา.
Câu “Ahaṃ veyyākaraṇena” có nghĩa là ta sẽ khiến người đó hoan hỷ qua việc giải đáp câu hỏi.
บทว่า โย โน ธมฺมานํ สุกุสโล ความว่า พระศาสดาผู้ทรงฉลาดเลิศในธรรมที่เราบรรลุแล้ว พระองค์ประทับอยู่ต่อหน้าเรา ตรัสว่า ผิว่าอัตถปฏิสัมภิทา เรายังไม่ทำให้แจ้ง ดูก่อนสารีบุตร เธอจงทำให้แจ้งก่อนแล้ว จักทรงห้ามเสีย.
Câu “Yo no dhammānaṃ sukusalo” nghĩa là: Đức Thế Tôn, bậc thấu triệt pháp tối thượng mà chúng ta đã đạt được, khi hiện diện trước mặt ta, Ngài nói rằng: “Này Sāriputta, nếu ngươi chưa đạt được Atthapaṭisambhidā (trí thông suốt ý nghĩa), hãy đạt được trước khi thực hiện các lời dạy khác.”
เพราะเหตุนั้น พระสารีบุตรชื่อว่านั่งต่อพระพักตร์พระศาสดา บันลือสีหนาท.
Vì lý do đó, Tôn giả Sāriputta được biết đến là người đã ngồi trước Đức Thế Tôn và cất tiếng rống sư tử.
พึงทราบความในบททั้งหมดด้วยอุบายนี้.
Hãy hiểu rõ ý nghĩa của tất cả các đoạn này theo cách trình bày trên.
ก็และในปฏิสัมภิทาเหล่านี้ ปฏิสัมภิทา ๓ เป็นโลกิยะ อัตถปฏิสัมภิทาเป็นทั้งโลกิยะและโลกุตระ ด้วยประการฉะนี้.
Trong các loại Paṭisambhidā này, ba loại là thế gian (lokiya), còn Atthapaṭisambhidā là cả thế gian (lokiya) và siêu thế (lokuttara).
จบอรรถกถาวิภัตติสูตรที่ ๒
Kết thúc chú giải về Kinh Vibhatti, phần 2.
อรรถกถาโกฏฐิตสูตรที่ ๓
Chú giải về Kinh Koṭṭhita, phần 3
พึงทราบวินิจฉัยในโกฏฐิตสูตรที่ ๓ ดังต่อไปนี้ :-
Hãy hiểu rõ các phân tích trong Kinh Koṭṭhita, phần 3 như sau:
บทว่า ผสฺสายตนานํ ได้แก่ บ่อเกิดแห่งผัสสะ. อธิบายว่า ที่ที่เกิดแห่งผัสสะ.
Câu “Phassāyatanānaṃ” có nghĩa là nguồn gốc của xúc (phassa). Giải thích rằng đó là nơi xúc sinh khởi.
บทว่า อตฺถญฺญํ กิญฺจิ ความว่า ท่านมหาโกฏฐิตะถามว่า เมื่อผัสสายตนะเหล่านั้นดับโดยไม่เหลือ กิเลสไรๆ นอกจากนั้นแม้จำนวนน้อยยังมีอยู่หรือ.
Câu “Atthaññaṃ kiñci” có nghĩa là Đại Đức Maha-Koṭṭhita hỏi rằng: “Khi các căn xúc ấy diệt sạch hoàn toàn, có phiền não nào khác, dù là nhỏ nhất, vẫn còn tồn tại không?”
แม้ในบทว่า นตฺถญฺญํ กิญฺจิ ท่านมหาโกฏฐิตะก็ถามว่า กิเลสแม้จำนวนน้อยก็ไม่มีหรือ.
Ngay cả trong câu “Natthaññaṃ kiñci,” Đại Đức Maha-Koṭṭhita cũng hỏi rằng: “Không có phiền não nào, dù nhỏ nhất, tồn tại hay sao?”
แม้ในสองบทที่เหลือก็นัยนี้เหมือนกัน.
Ý nghĩa tương tự cũng áp dụng cho hai đoạn còn lại.
ท่านมหาโกฏฐิตะถามปัญหาแม้ ๔ ข้อเหล่านี้ด้วยอำนาจสัสสตทิฏฐิ อุจเฉททิฏฐิ เอกัจจสัสสตทิฏฐิ (ความเห็นว่าเที่ยงเป็นบางอย่าง) และอมราวิกเขปทิฏฐิ (ความเห็นดิ้นได้ไม่ตายตัว).
Đại Đức Maha-Koṭṭhita đã hỏi bốn câu hỏi này dưới ảnh hưởng của các tà kiến: Thường kiến (Sassatadiṭṭhi), Đoạn kiến (Ucchedadiṭṭhi), Một phần thường kiến (Ekaccasassatadiṭṭhi), và Quan điểm bất định (Amarāvikkhepadiṭṭhi).
ด้วยเหตุนั้น พระเถระ (พระสารีบุตร) เมื่อจะคัดค้านปัญหาที่ท่านมหาโกฏฐิตะถามแล้วถามอีก จึงกล่าวว่า มาเหวํ ดังนี้.
Do đó, Tôn giả Sāriputta, khi muốn phản bác các câu hỏi mà Đại Đức Maha-Koṭṭhita đã hỏi đi hỏi lại, đã nói: “Māhevaṃ” (Đừng như vậy).
คำว่า หิ ในคำนี้ (มาเหวํ) เป็นเพียงนิบาต. อธิบายว่า ท่านอย่าพูดอย่างนี้.
Từ “Hi” trong câu “Māhevaṃ” chỉ là một trợ từ. Giải thích rằng: “Ngài đừng nói như vậy.”
ท่านมหาโกฏฐิตะถามโดยอาการมีสัสสตทิฏฐิเป็นต้นว่า สิ่งใดๆ อื่นด้วยอำนาจการเข้าไปถือว่ามีอัตตามีอยู่หรือ คือชื่อว่าอัตตาไรๆ อื่นมีอยู่หรือ.
Đại Đức Maha-Koṭṭhita đã hỏi trong ngữ cảnh liên quan đến Thường kiến rằng: “Có bất kỳ thứ gì khác tồn tại như là ‘attā’ (bản ngã) hay không?”
ถามว่า ก็พระเถระ (พระมหาโกฏฐิตะ) นี้เป็นอัตตูปลัทธิถือลัทธิว่ามีอัตตา หรือ.
Hỏi: Vậy, Đại Đức (Maha-Koṭṭhita) này có phải là người mang tà kiến về bản ngã (attūpaladdhi) không?
ตอบว่า ไม่ใช่อัตตูปลัทธิ แต่ภิกษุรูปหนึ่งซึ่งนั่งอยู่ในที่นั้นมีลัทธิอย่างนี้ ภิกษุนั้นไม่อาจถามได้.
Trả lời: Không, Đại Đức không có tà kiến về bản ngã, nhưng một vị Tỳ-kheo đang ngồi ở đó có tà kiến này và vị ấy không thể tự mình đặt câu hỏi.
ท่านมหาโกฏฐิตะถามอย่างนี้เพื่อจะให้พระสารีบุตรแก้ลัทธิในที่นั้น.
Đại Đức Maha-Koṭṭhita đã hỏi như vậy để Tôn giả Sāriputta có thể bác bỏ tà kiến đó ngay tại chỗ.
พระมหาโกฏฐิตะคิดว่า พระมหาสาวกทั้งหลายแก้ปัญหานี้ แม้ในพุทธกาลแก่ผู้ที่มีจักมีลัทธิอย่างนี้ในอนาคตกาล จึงถามเพื่อตัดโอกาสที่จะพูดกัน.
Đại Đức Maha-Koṭṭhita nghĩ rằng các Đại đệ tử trong thời Đức Phật đã giải quyết vấn đề này, ngay cả cho những người sẽ mang tà kiến này trong tương lai, nên hỏi để ngăn chặn mọi cơ hội tranh cãi.
บทว่า อปฺปมญฺจํ ปปญฺเจติ ได้แก่ ไม่ทำความเนิ่นช้าในที่อันควรทำให้เนิ่นช้า คือหน่วงทางอันไม่ควรหน่วง.
Câu “Appamañcaṃ papañceti” có nghĩa là không chần chừ trong những gì đáng làm chậm, tức là không kéo dài điều không cần thiết.
บทว่า ตาวตา ปญฺจสฺสคติ ความว่า คติแห่งผัสสายตนะ ๖ ยังมีอยู่เพียงใด คติแห่งปปัญจธรรม (ธรรมอันทำให้เนิ่นช้า) อันต่างด้วยตัณหา ทิฏฐิ มานะก็ยังมีอยู่เพียงนั้น.
Câu “Tāvatā pañcassa gati” có nghĩa là: “Chừng nào mà còn sự vận hành của sáu căn xúc (phassāyatana), thì sự vận hành của các pháp dẫn đến trì hoãn như tham ái, tà kiến, và ngã mạn cũng vẫn còn tồn tại.”
บทว่า ฉนฺนํ อาวุโส ผสฺสายตนานํ อเสสวิราคนิโรธา ปปญฺจนิโรโธ ปปญฺจวูปสโม
Câu “Channaṃ āvuso phassāyatanānaṃ asesavirāganirodhā papañcanirodho papañcavūpasamo” có nghĩa là: “Này bậc tôn giả, khi sáu căn xúc (phassāyatana) được diệt sạch không còn dư sót, thì các pháp làm trì hoãn (papañcadhammā) cũng bị diệt và lắng xuống.”
ความว่า เมื่ออายตนะ ๖ เหล่านี้ดับโดยประการทั้งปวง แม้ปปัญจธรรมก็เป็นอันดับไป เป็นอันระงับไป.
Ý nghĩa là: Khi sáu căn xúc này được diệt hoàn toàn, thì các pháp dẫn đến trì hoãn cũng lần lượt bị diệt và chấm dứt.
แต่ในอรูปภพ ผัสสายตนะ ๕ ของเทวดาผู้เป็นปุถุชนดับไปก็จริง ถึงดังนั้น เพราะผัสสายตนะที่ ๖ ยังไม่ดับ ปปัญจธรรมแม้ ๓ ก็ชื่อว่ายังละไม่ได้.
Nhưng trong cõi Vô Sắc, năm căn xúc của các chư thiên phàm phu đã diệt, nhưng vì căn xúc thứ sáu (ý căn) chưa diệt, nên ba pháp trì hoãn (tham ái, tà kiến, và ngã mạn) vẫn chưa được từ bỏ.
ก็และท่านกล่าวปัญหานี้ด้วยสามารถปัญจโวหารภพของสัตว์ที่มีขันธ์ ๕ เท่านั้น.
Câu hỏi này chỉ được thảo luận trong phạm vi các chúng sinh thuộc cõi Ngũ uẩn (có năm uẩn).
จบอรรถกถาโกฏฐิตสูตรที่ ๓
Kết thúc chú giải về Kinh Koṭṭhita, phần 3.
อานนทสูตรที่ ๔ ไม่มีเนื้อความอรรถกถา.
Kinh Ānanda, phần 4 không có nội dung chú giải.
อรรถกถาอุปวานสูตรที่ ๕
Chú giải về Kinh Upavāna, phần 5
พึงทราบวินิจฉัยในอุปวานสูตรที่ ๕ ดังต่อไปนี้ :-
Hãy hiểu rõ các phân tích trong Kinh Upavāna, phần 5 như sau:
บทว่า วิชฺขายนฺตกโร โหติ ความว่า บุคคลทำที่สุดวัฏทุกข์ได้ด้วยวิชชา คือทำทางวัฏทุกข์ทั้งสิ้นให้ขาดเสียตั้งอยู่.
Câu “Vijjāyantakaro hoti” có nghĩa là: Người làm cho luân hồi khổ đau chấm dứt nhờ trí tuệ, tức là chặt đứt mọi con đường dẫn đến luân hồi.
แม้ในบทที่เหลือก็นัยนี้เหมือนกัน.
Ý nghĩa tương tự cũng áp dụng cho các đoạn khác.
บทว่า สอุปาทาโน แปลว่า เป็นผู้ยังมีความยึดถืออยู่.
Câu “Sa-upādāno” có nghĩa là: Vẫn còn chấp thủ.
บทว่า อนฺตกโร อภวิสฺส คือ บุคคลจักทำที่สุดแห่งวัฏทุกข์อยู่ได้.
Câu “Antakaro abhavissa” có nghĩa là: Người sẽ làm cho luân hồi khổ đau chấm dứt.
บทว่า จรณสมฺปนฺโน คือ ถึงพร้อมแล้วด้วยจรณธรรม ๑๕ ประเภท.
Câu “Caraṇasampanno” có nghĩa là: Đầy đủ 15 loại hạnh viễn ly (caraṇa).
บทว่า ยถาภูตํ ชานํ ปสฺสํ อนฺตกโร โหติ ความว่า บุคคลรู้เห็นด้วยมรรคปัญญาตามความเป็นจริงแล้ว ชื่อว่าเป็นผู้ทำที่สุดแห่งวัฏทุกข์ตั้งอยู่.
Câu “Yathābhūtaṃ jānaṃ passaṃ antakaro hoti” có nghĩa là: Người biết và thấy đúng như sự thật bằng tuệ giác của Đạo, được gọi là người làm cho luân hồi khổ đau chấm dứt.
เพราะฉะนั้น พระสารีบุตรเถระจึงให้ปัญหาจบลงด้วยยอดธรรมคือพระอรหัต.
Do đó, Tôn giả Sāriputta đã kết thúc câu hỏi bằng giáo lý cao thượng nhất, đó là Arahant (bậc A-la-hán).
จบอรรถกถาอุปวานสูตรที่ ๕
Kết thúc chú giải về Kinh Upavāna, phần 5.
อายาจนสูตรที่ ๖
Kinh Āyācana, phần 6
พึงทราบโดยนัยที่กล่าวแล้วในอรรถกถาเอกนิบาตในหนหลัง.
Hãy hiểu ý nghĩa của Kinh này theo cách đã được trình bày trong chú giải về phần Ekaka Nipāta (Phẩm Một) trước đó.
อรรถกถาราหุลสูตรที่ ๗
Chú giải về Kinh Rāhula, phần 7
พึงทราบวินิจฉัยในราหุลสูตรที่ ๗ ดังต่อไปนี้ :-
Hãy hiểu rõ các phân tích trong Kinh Rāhula, phần 7 như sau:
บทว่า อชฺฌตฺติกา ได้แก่ ปฐวีธาตุใน ๒๐ ส่วนมีผมเป็นต้นมีลักษณะแข็ง.
Câu “Ajjhatikā” có nghĩa là yếu tố đất (paṭhavīdhātu) bên trong bao gồm 20 thành phần như tóc, có đặc tính cứng.
บทว่า พาหิรา ได้แก่ พึงทราบปฐวีธาตุในแผ่นหินและภูเขาเป็นต้นอันไม่เนื่องด้วยอินทรีย์ เป็นภายนอกมีลักษณะแข็ง.
Câu “Bāhirā” có nghĩa là yếu tố đất (paṭhavīdhātu) bên ngoài, như đá và núi, không liên quan đến giác quan, và có đặc tính cứng.
พึงทราบธาตุแม้ที่เหลือโดยนัยนี้.
Hãy hiểu các yếu tố còn lại theo cách tương tự.
บทว่า เนตํ มม เนโสหมสฺมิ น เม โส อตฺตา (นั่นไม่ใช่ของเรา นั่นไม่ใช่เป็นเรา นั่นไม่ใช่อัตตาของเรา)
Câu “Netaṃ mama, nesohamasmi, na me so attā” (Đây không phải của tôi, đây không phải là tôi, đây không phải tự ngã của tôi) được nói để phủ nhận sự chấp thủ do tham ái, ngã mạn, và tà kiến.
บทว่า สมฺมปฺปญฺญาย ทฏฺฐพฺพํ ได้แก่ พึงเห็นด้วยมรรคปัญญาโดยเหตุโดยการณ์.
Câu “Sammappaññāya daṭṭhabbā” có nghĩa là: Nên thấy bằng tuệ giác của Đạo, dựa trên các nguyên nhân và điều kiện.
บทว่า ทิสฺวา ได้แก่ เห็นด้วยมรรคปัญญา พร้อมด้วยวิปัสสนา.
Câu “Disvā” có nghĩa là thấy bằng tuệ giác của Đạo, cùng với tuệ Vipassanā.
บทว่า อจฺเฉชฺชิ ตณฺหํ ได้แก่ ตัดตัณหาที่พึงฆ่าด้วยมรรคพร้อมด้วยมูล.
Câu “Acchejji taṇhaṃ” có nghĩa là: Cắt đứt tham ái, thứ cần được đoạn trừ bằng Đạo và các căn nguyên của nó.
บทว่า วิวฏฺฏยิ สญฺโญชนํ ได้แก่ รื้อ คือเพิกถอนละสังโยชน์ ๑๐ อย่าง.
Câu “Vivaṭṭayi saññojanaṃ” có nghĩa là: Phá bỏ, tức là đoạn trừ mười kiết sử (saṃyojana).
บทว่า สมฺมามานาภิสมยา ได้แก่ เพราะละมานะ ๙ อย่างโดยเหตุโดยการณ์.
Câu “Sammāmānābhisamaya” có nghĩa là: Do đoạn trừ chín loại ngã mạn, dựa trên các nguyên nhân và điều kiện.
บทว่า อนฺตมกาสิ ทุกฺขสฺส ได้แก่ กระทำวัฏทุกข์ให้ขาดทาง. อธิบายว่า กระทำแล้วตั้งอยู่.
Câu “Antamakāsi dukkhassa” có nghĩa là: Chấm dứt luân hồi khổ đau. Giải thích rằng: Đã thực hiện và ổn định.
พระศาสดาตรัสวิปัสสนาไว้ในราหุลวาทสูตรให้สังยุตตนิกายด้วยประการฉะนี้.
Đức Thế Tôn đã dạy về thiền quán (Vipassanā) trong Rāhulavāda Sutta thuộc Tương Ưng Bộ Kinh (Saṃyutta Nikāya) như sau.
แม้ในจูฬราหุโลวาทสูตรก็ตรัสวิปัสสนาไว้.
Ngay cả trong Cūḷarāhulovāda Sutta, Ngài cũng dạy về thiền quán.
ตรัสการเว้นจากมุสาวาทของภิกษุหนุ่มไว้ในราหุโลวาทสูตร ณ อัมพลัฏฐิการาม.
Ngài dạy về việc tránh nói dối của một Tỳ-kheo trẻ trong Rāhulovāda Sutta tại Ambalaṭṭhikārāma.
ตรัสวิปัสสนาเท่านั้นในมหาราหุโลวาทสูตร.
Trong Mahārāhulovāda Sutta, Ngài chỉ dạy về thiền quán.
ตรัสจตุโกฏิกสุญญตาไว้ในอังคุตตรนิกายนี้.
Ngài dạy về “Tứ cú không tánh” (Catu-koṭika suññatā) trong bộ Tăng Chi Bộ Kinh (Aṅguttara Nikāya) này.
จบอรรถกถาราหุลสูตรที่ ๗
Kết thúc chú giải về Kinh Rāhula, phần 7.
อรรถกถาชัมพาลีสูตรที่ ๘
Chú giải về Kinh Jambālī, phần 8
พึงทราบวินิจฉัยในชัมพาลีสูตรที่ ๘ ดังต่อไปนี้ :-
Hãy hiểu rõ các phân tích trong Kinh Jambālī, phần 8 như sau:
บทว่า สนฺตํ เจโตวิมุตฺตึ ได้แก่ สมาบัติ ๘ อย่างใดอย่างหนึ่ง.
Câu “Santaṃ cetovimuttiṃ” có nghĩa là: Một trong tám bậc thiền định (samāpatti).
บทว่า สกฺกายนิโรธํ ได้แก่ ดับสักกายะอันได้แก่วัฏฏะที่เป็นไปในภูมิ ๓. อธิบายว่า นิพพาน.
Câu “Sakkāyanirodhaṃ” có nghĩa là: Diệt ngã chấp, tức là đoạn trừ luân hồi trong ba cõi (Tam giới). Giải thích rằng: Đó là Niết-bàn.
บทว่า น ปกฺขนฺทติ ได้แก่ ไม่แล่นไปด้วยอำนาจอารมณ์. แม้ในบทที่เหลือก็นัยนี้เหมือนกัน.
Câu “Na pakkhandati” có nghĩa là: Không bị cuốn trôi bởi các đối tượng cảm xúc. Ý nghĩa tương tự cũng áp dụng cho các đoạn khác.
บทว่า น ปาฏิกงฺโข ได้แก่ ไม่พึงหวังได้.
Câu “Na pāṭikaṅkho” có nghĩa là: Không nên mong đợi.
บทว่า ลปคเตน ได้แก่ เปื้อนยางเหนียว.
Câu “Lapagaten” có nghĩa là: Bị dính bởi nhựa cây.
ก็และในความนี้ ควรนำมาเปรียบด้วยบุรุษผู้ประสงค์จะข้ามไปฝั่งโน้น.
Về ý nghĩa này, nên so sánh với một người đàn ông muốn vượt qua bờ sông bên kia.
เขาว่าบุรุษผู้หนึ่งประสงค์จะข้ามไปฝั่งโน้นของแม่น้ำ ซึ่งมีกระแสเชี่ยวจัดมาก เต็มไปด้วยปลาร้าย คิดว่า ฝั่งในน่ารังเกียจ มีภัยเฉพาะหน้า ฝั่งนอกเป็นที่เกษมปลอดภัย.
Người ta kể rằng một người đàn ông muốn vượt qua bờ bên kia của một dòng sông chảy xiết, đầy cá dữ. Anh ta nghĩ: “Bờ bên này thật đáng sợ, đầy nguy hiểm. Bờ bên kia là nơi an toàn, bình yên.”
เราจะทำอย่างไรดีหนอ จึงจักข้ามไปฝั่งโน้นได้ เห็นต้นกุ่ม ๘ ต้นตั้งอยู่เรียงกัน.
“Ta phải làm thế nào để vượt qua đây?” Anh ta thấy có tám cây gụ xếp thẳng hàng.
จึงแน่ใจว่าเราน่าจะไปตามลำดับของต้นไม้นี้ได้ ขึ้นชื่อว่าต้นกุ่มมีกิ่งเลี้ยง มือจะจับกิ่งยึดไว้ไม่ได้.
Anh ta nghĩ: “Có lẽ ta có thể đi dọc theo các cây này.” Nhưng cây gụ có cành trơn, không thể bám chắc bằng tay.
จึงเอายางของต้นไทรและต้นเลียบเป็นต้น ต้นใดต้นหนึ่งทามือและเท้า.
Vì vậy, anh ta bôi nhựa từ cây si và cây da vào tay và chân mình.
เอามือขวาจับกิ่งหนึ่งไว้. มือก็ติดทีกิ่งนั้นเอง เอามือซ้าย เท้าขวา เท้าซ้ายจับเกาะก็ติดอีก.
Anh ta dùng tay phải nắm một cành, tay bị dính chặt vào đó. Rồi dùng tay trái, chân phải, và chân trái bám vào, tất cả đều bị dính chặt.
เพราะเหตุนั้น มือและเท้าแม้ทั้ง ๔ ก็ติดอยู่ที่กิ่งนั้นนั่นเอง.
Do vậy, cả hai tay và hai chân đều bị dính chặt vào cành cây.
เขาห้อยหัวลง เมื่อฝนตกลงบนแม่น้ำ เขาก็จมลงในกระแสแม่น้ำที่เต็ม กลายเป็นเหยื่อจระเข้เป็นต้น.
Anh ta bị treo ngược đầu xuống. Khi mưa rơi xuống dòng sông, anh ta bị cuốn trôi vào dòng nước đầy cá dữ và trở thành mồi cho cá sấu, v.v.
ในข้อนั้น กระแสแห่งสงสารพึงเห็นดุจกระแสน้ำ.
Trong đoạn này, dòng chảy của luân hồi (saṃsāra) nên được xem như dòng nước.
พระโยคาวจรดุจบุรุษประสงค์จะข้ามฝั่งกระแสน้ำ.
Người hành thiền (yogāvacara) giống như người đàn ông muốn vượt qua dòng sông.
สักกายะดุจฝั่งใน นิพพานดุจฝั่งนอก.
Ngã chấp (sakkāya) giống như bờ bên này, và Niết-bàn giống như bờ bên kia.
สมาบัติ ๘ ดุจต้นกุ่ม ๘ ต้นที่ตั้งเรียงอยู่.
Tám bậc thiền định (samāpatti) giống như tám cây gụ xếp thẳng hàng.
การไม่ชำระธรรมที่เป็นอันตรายต่อฌานและวิปัสสนาให้หมดจดแล้ว เข้าสมาบัติดุจเอามือที่เปื้อนยางเหนียวจับกิ่งไม้.
Việc không thanh lọc các pháp làm trở ngại đến thiền định và tuệ quán trước khi nhập định giống như dùng tay dính nhựa bám vào cành cây.
เวลาที่ถูกความติดใจคล้องไว้ในปฐมฌาน ดุจเอามือและเท้าเกี่ยวติดไว้ที่กิ่งไม้ห้อยหัวลง.
Khi bị sự chấp thủ trói buộc trong sơ thiền, giống như dùng tay và chân bám vào cành cây và bị treo ngược đầu xuống.
เวลาที่กิเลสเกิดในทวาร ๖ ดุจฝนตกบนกระแสน้ำ.
Khi phiền não sinh khởi qua sáu căn môn, giống như mưa rơi xuống dòng sông.
เวลาที่ผู้จมอยู่ในกระแสสงสาร เสวยทุกข์ในอบาย ๔ ดุจเวลาที่ผู้จมลงในกระแสแม่น้ำที่เต็ม เป็นเหยื่อของจระเข้เป็นต้น.
Khi người bị nhấn chìm trong dòng chảy của luân hồi, chịu khổ trong bốn cõi khổ (apāya), giống như người bị nhấn chìm trong dòng sông và trở thành mồi của cá sấu, v.v.
บทว่า สุทฺเธน หตฺเถน ได้แก่ ด้วยมือที่ล้างสะอาดดีแล้ว.
Câu “Suddhena hatthena” có nghĩa là: Với bàn tay đã được rửa sạch sẽ.
แม้ในความข้อนี้ก็พึงเปรียบเทียบเช่นนั้นเหมือนกัน.
Ngay cả trong trường hợp này cũng nên so sánh theo cách tương tự.
บุรุษผู้ประสงค์จะข้ามฝั่งคิดว่า ขึ้นชื่อว่าต้นกุ่มกิ่งเกลี้ยง ผู้ที่จับด้วยมือที่สกปรกมือก็พึงติด.
Người muốn vượt qua bờ nghĩ rằng: “Các cành cây gụ rất trơn, nếu ai bám bằng tay bẩn thì tay sẽ bị dính.”
จึงล้างมือและเท้าให้สะอาด แล้วจับกิ่งหนึ่งขึ้นต้นที่ ๑ ลงจากต้นที่ ๑ ขึ้นต้นที่ ๒ ฯลฯ ลงจากต้นที่ ๗ ขึ้นต้นที่ ๘ ลงจากต้นที่ ๘ แล้วก็ถึงพื้นที่ปลอดภัย ณ ฝั่งโน้น.
Do đó, anh ta rửa sạch tay và chân, rồi nắm lấy một cành, leo lên cây đầu tiên, xuống cây đầu tiên, leo lên cây thứ hai,… xuống cây thứ bảy, lên cây thứ tám, và sau khi xuống cây thứ tám, anh ta đã đến được nơi an toàn ở bờ bên kia.
ในข้อนั้น เวลาที่พระโยคีคิดว่า เราจักเข้าสมาบัติ ๘ ครั้นออกจากสมาบัติแล้วจักยึดเอาพระอรหัตให้ได้ดังนี้
Trong trường hợp này, khi một hành giả (yogi) nghĩ rằng: “Ta sẽ nhập tám bậc thiền định (samāpatti), và sau khi xuất thiền, ta sẽ đạt được quả A-la-hán.”
พึงทราบดุจเวลาที่บุรุษนั้นคิดว่า เราจักข้ามไปฝั่งโน้นด้วยต้นไม้เหล่านี้.
Điều này nên được hiểu giống như khi một người nghĩ rằng: “Ta sẽ vượt qua bờ bên kia nhờ những cây này.”
การชำระธรรมอันเป็นอันตรายต่อฌานและวิปัสสนาแล้วเข้าสมาบัติ ดุจการยึดกิ่งไม้ด้วยมือสะอาด.
Việc thanh lọc các pháp gây trở ngại cho thiền định và tuệ quán trước khi nhập thiền giống như nắm cành cây bằng tay đã được rửa sạch.
เวลาเข้าปฐมฌาน ดุจเวลาขึ้นต้นไม้ต้นที่ ๑ ในต้นไม้เหล่านั้น.
Khi nhập sơ thiền (paṭhama jhāna), giống như leo lên cây đầu tiên trong các cây đó.
เวลาที่ไม่ถูกความติดใจผูกไว้ในปฐมฌาน ออกจากปฐมฌานนั้นแล้วเข้าทุติยฌาน ฯลฯ ดุจเวลาลงจากต้นไม้ต้นที่ ๑ แล้วขึ้นต้นที่ ๒ ฯลฯ.
Khi không bị sự chấp thủ trói buộc trong sơ thiền, và sau khi xuất sơ thiền, nhập nhị thiền (dutiya jhāna),… giống như xuống từ cây đầu tiên và leo lên cây thứ hai,…
เวลาที่ไม่ถูกความติดใจผูกไว้ในอากิญจัญญายตนสมาบัติ ออกจากอากิญจัญญายตนสมาบัตินั้นแล้ว เข้าเนวสัญญานาสัญญายตนสมาบัติ ดุจลงจากต้นไม้ต้นที่ ๗ แล้วขึ้นต้นที่ ๘.
Khi không bị sự chấp thủ trói buộc trong cảnh giới Vô Sở Hữu Xứ Định (Ākiñcaññāyatana samāpatti), và sau khi xuất định đó, nhập định Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ (Nevasaññānāsaññāyatana samāpatti), giống như xuống từ cây thứ bảy và leo lên cây thứ tám.
เวลาที่ไม่ถูกความติดใจผูกไว้ในเนวสัญญานาสัญญายตนะ ออกจากสมาบัติแล้ว พิจารณาสังขารบรรลุพระอรหัต
Khi không bị sự chấp thủ trói buộc trong cảnh giới Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, và sau khi xuất thiền, quán chiếu các hành (saṅkhāra) và đạt được quả A-la-hán.
ดุจเวลาที่บุรุษลงจากต้นไม้ต้นที่ ๘ แล้วก็ไปถึงฝั่งโน้นอันเป็นพื้นที่มีความปลอดภัย.
Điều này giống như khi người đàn ông xuống từ cây thứ tám và đến được bờ bên kia, nơi an toàn và yên bình.
บทว่า อวิชฺชาปฺปเภทํ มนสิกโรติ ได้แก่ ภิกษุมนสิการพระอรหัต กล่าวคือธรรมเครื่องทำลายอวิชชาใหญ่หนาทึบ อันเป็นความไม่รู้ในฐานะ ๘ อวิชชา ๘.
Câu “Avijjāppabhedaṃ manasikaroti” có nghĩa là: Vị Tỳ-kheo chú tâm vào sự chứng đắc A-la-hán, tức là pháp phá tan vô minh dày đặc, vốn là sự không biết về tám loại căn bản (avijjā tám).
บทว่า น ปกฺขนฺทติ ได้แก่ ไม่แล่นไปโดยอารมณ์.
Câu “Na pakkhandati” có nghĩa là: Không bị cuốn theo bởi các đối tượng cảm xúc.
บทว่า ชมฺพาลี ได้แก่ บ่อน้ำขนาดใหญ่เป็นที่ขังน้ำซึ่งไหลออกจากหมู่บ้าน.
Câu “Jambālī” có nghĩa là: Một cái ao lớn giữ nước chảy ra từ ngôi làng.
บทว่า อเนกวสฺสคณิกา ได้แก่ บ่อน้ำชื่อว่า อเนกวสฺสคณิกา เพราะมีบ่อน้ำเกิดขึ้นนับได้หลายปี เพราะบ่อน้ำนั้นเกิดขึ้นในเวลาที่หมู่บ้านหรือนครเกิดขึ้น.
Câu “Anekavassagaṇikā” có nghĩa là: Ao nước được gọi là Anekavassagaṇikā vì nó đã tồn tại qua nhiều năm, xuất hiện cùng với sự hình thành của một ngôi làng hay thành phố.
บทว่า อายมุขานิ ได้แก่ ลำรางไหลเข้า ๔ แห่ง.
Câu “Āyamukhāni” có nghĩa là: Bốn con mương dẫn nước vào ao.
บทว่า อปายมุขานิ ได้แก่ ช่องไหลออก.
Câu “Apāyamukhāni” có nghĩa là: Các lối nước chảy ra.
บทว่า น ปาลิปฺปเภโท ปาฏิกงฺโข ได้แก่ ไม่พึงหวังที่จะมีน้ำล้นขอบออกไปได้ เพราะว่าน้ำที่เอ่อขึ้นจากนั้น หาทำลายขอบเขตแล้วพัดเอาหยากเยื่อไปลงสู่มหาสมุทรได้ไม่.
Câu “Na pālippabhedo pāṭikaṅkho” có nghĩa là: Không thể mong đợi rằng nước sẽ tràn qua các bờ, vì nước dâng lên từ ao này không làm vỡ bờ và cuốn rác xuống đại dương.
เพื่อไขความนี้ให้แจ่มแจ้ง ควรนำเรื่องตนแสวงหาสวนมาเปรียบ.
Để làm rõ điều này, nên so sánh với câu chuyện của một người tìm kiếm một khu vườn.
มีเรื่องเล่าว่า กุลบุตรชาวเมืองคนหนึ่งแสวงหาสวน ได้เห็นบ่อใหญ่ไม่ไกลไม่ใกล้จากเมืองนัก.
Có câu chuyện kể rằng một thanh niên trong thành phố đi tìm một khu vườn và thấy một cái ao lớn không quá xa thành phố.
เขาเข้าใจว่า ณ ที่นี้จักเป็นสวนน่ารื่นรมย์ จึงถือเอาจอบปิดทาง ๔ ด้านแล้ว เปิดช่องให้น้ำไหล.
Anh ta nghĩ rằng nơi này sẽ là một khu vườn đẹp, vì vậy anh đã dùng xẻng chặn bốn phía và mở các lối cho nước chảy vào.
ฝนไม่ตกเพิ่ม น้ำที่เหลือก็ไหลไปตามช่องน้ำไหล ชิ้นหนังและผ้าขี้ริ้วเป็นต้น ก็เกิดเน่าในที่นั้นเอง.
Khi không có thêm mưa, nước còn lại chảy ra qua các lối thoát nước, và các mảnh da, giẻ rách trong đó bắt đầu mục nát.
ชนทั้งหลายก็หยุดอยู่รอบๆ ไม่ยอมเข้าไป. แม้ที่เข้าไปก็ต้องปิดจมูกเดินหลีกไป.
Mọi người dừng lại ở xung quanh và không dám vào. Những ai vào trong thì phải bịt mũi và nhanh chóng rời đi.
ล่วงไป ๒-๓ วัน เขามาถอยไปฝืนแลดู ไม่อาจเข้าไปได้แล้ว ก็หลีกไป.
Sau 2-3 ngày, anh ta quay lại nhìn nhưng không thể vào được nữa và đành bỏ đi.
ในข้ออุปมานั้น โยคาวจรพึงเห็นดุจกุลบุตรชาวเมือง.
Trong phép ẩn dụ này, hành giả (yogāvacara) nên được ví như thanh niên trong thành phố.
กายคือมหาภูตรูป ๔ ดุจเวลาที่กุลบุตรผู้แสวงหาสวนเห็นบ่อน้ำใหญ่ ใกล้ประตูบ้าน.
Thân, gồm bốn đại (mahābhūtarūpa), giống như khi người thanh niên tìm kiếm khu vườn thấy một cái ao lớn gần cổng nhà.
เวลาที่ตนไม่ได้น้ำคือการฟังธรรม ดุจเวลาที่ปิดทางน้ำไหลเข้า.
Khi anh ta không nhận được nước, giống như việc không nghe pháp, như khi đóng lối nước chảy vào.
เวลาที่สละความสำรวมในทวาร ๖ ดุจเวลาที่เปิดทางน้ำไหลออก.
Khi từ bỏ sự tiết chế trong sáu căn môn, giống như mở lối cho nước chảy ra.
เวลาที่ไม่ได้กรรมฐานเป็นที่สบาย ดุจเวลาที่ฝนไม่ตกถูกต้องตามฤดูกาล.
Khi không đạt được pháp hành (kammatthāna) mang lại sự an lạc, giống như khi không có mưa đúng mùa.
เวลาที่คุณภายในเสื่อม ดุจเวลาที่น้ำที่เหลือไหลไปทางน้ำไหลออก.
Khi các phẩm chất bên trong suy giảm, giống như nước còn lại chảy ra qua lối thoát.
เวลาที่ไม่สามารถทำลายขอบคันคืออวิชชาได้ด้วยอรหัตมรรคแล้ว กำจัดกองกิเลสเสียทำพระนิพพานให้แจ้ง ดุจเวลาที่น้ำเอ่อแล้วไม่สามารถทำลายขอบคันพัดพาหยากเยื่อลงไปมหาสมุทรได้.
Khi không thể phá vỡ bờ ngăn của vô minh (avijjā) bằng đạo quả A-la-hán và diệt trừ các phiền não, để làm sáng tỏ Niết-bàn, giống như khi nước tràn không thể phá bờ và cuốn rác xuống đại dương.
เวลาที่เต็มไปด้วยกิเลสมีราคะเป็นต้นภายใน ดุจชิ้นหนังและผ้าขี้ริ้วเป็นต้นเน่าอยู่ในบ่อน้ำนั่นเอง.
Khi bên trong đầy phiền não như tham ái (rāga), giống như các mảnh da và giẻ rách mục nát trong ao nước.
เวลาที่บุคคลผู้มีความพร้อมเพรียงในวัฏฏะ เพลิดเพลินในวัฏฏะ ดุจเวลาที่เขามาเห็น (บ่อน้ำ) แล้วมีความร้อนใจกลับไป.
Khi một người đồng thuận với luân hồi và thích thú trong luân hồi, giống như khi anh ta nhìn thấy ao nước và rời đi với tâm trạng phiền muộn.
บทว่า ปาลิปฺปเภโท ปาฏิกงฺโข ได้แก่ พึงหวังน้ำล้นขอบบ่อไปได้.
Câu “Pālippabhedo pāṭikaṅkho” có nghĩa là: Có thể mong rằng nước sẽ tràn qua bờ ao.
อธิบายว่า จริงอยู่ น้ำที่เอ่อจากนั้นจักสามารถทำลายขอบบ่อแล้วพัดหยากเยื่อลงไปสู่มหาสมุทรได้.
Giải thích: Thật vậy, nước tràn từ ao có thể phá bờ và cuốn rác xuống đại dương.
แม้ในข้อนี้ก็พึงนำข้อเปรียบเทียบนั้นมาได้.
Ngay cả trong trường hợp này, cũng có thể áp dụng phép so sánh đó.
เวลาที่ได้ฟังธรรมเป็นที่สบาย พึงทราบดุจเวลาที่เปิดทางน้ำไหลออกในบ่อน้ำนั้น.
Khi nghe pháp và cảm thấy an lạc, nên được hiểu như khi mở lối thoát nước trong ao.
เวลาสำรวมในทวาร ๖ ตั้งมั่นแล้ว ดุจเวลาที่ปิดทางไหลออก.
Khi giữ gìn sáu căn và đạt được sự định tĩnh, giống như đóng lối thoát nước.
เวลาที่ตนได้กรรมฐานเป็นที่สบาย ดุจเวลาที่ฝนตกต้องตามฤดูกาล.
Khi đạt được pháp hành (kammatthāna) mang lại sự an lạc, giống như khi mưa rơi đúng mùa.
เวลาตนทำลายอวิชชาเสียได้ด้วยอรหัตมรรคแล้วกำจัดกองกิเลส ทำนิพพานให้แจ้ง
Khi phá hủy vô minh (avijjā) bằng đạo quả A-la-hán, loại bỏ các phiền não và làm sáng tỏ Niết-bàn.
ดุจเวลาน้ำไหลเอ่อขึ้นทำลายขอบคันพัดเอาหยากเยื่อลงไปสู่มหาสมุทร.
Giống như khi nước tràn lên, phá vỡ bờ và cuốn rác xuống đại dương.
เวลาที่เต็มเปี่ยมด้วยโลกุตรธรรมในภายใน ดุจเวลาที่สระเต็มเปี่ยมด้วยน้ำที่เข้าไปทางน้ำไหลเข้า.
Khi nội tâm đầy đủ các pháp siêu thế (lokuttara dhamma), giống như ao đầy nước từ các lối dẫn vào.
เวลาที่ขึ้นสู่ธรรมปราสาท นั่งเอิบอิ่มผลสมาบัติมีนิพพานเป็นอารมณ์
Khi bước lên tòa lâu đài pháp (dhamma-prāsāda) và ngồi trong trạng thái thỏa mãn với quả định (phala samāpatti), lấy Niết-bàn làm đối tượng.
ดุจการที่บุคคลสร้างรั้วไว้โดยรอบ แล้วปลูกต้นไม้ สร้างปราสาทในท่ามกลางสวน หานักฟ้อนมาบำรุงบำเรอแล้วนั่งบริโภคอาหารที่ดี.
Giống như người xây dựng hàng rào xung quanh, trồng cây, xây dựng một lâu đài giữa khu vườn, thuê các vũ công để giải trí, và ngồi thưởng thức thức ăn ngon.
คำที่เหลือในบทนี้มีเนื้อความง่ายทั้งนั้น.
Những đoạn còn lại trong bài này đều có ý nghĩa dễ hiểu.
ก็เทศนาตรัสคละกันทั้งโลกิยะและโลกุตระ.
Bài giảng này kết hợp cả pháp thế gian (lokiya) và pháp siêu thế (lokuttara).
จบอรรถกถาชัมพาลีสูตรที่ ๘
Kết thúc chú giải về Kinh Jambālī, phần 8.
อรรถกถานิพพานสูตรที่ ๙
Chú giải về Kinh Nibbāna, phần 9
พึงทราบวินิจฉัยในนิพพานสูตรที่ ๙ ดังต่อไปนี้ :-
Hãy hiểu rõ các phân tích trong Kinh Nibbāna, phần 9 như sau:
ในบททั้งหลายมีอาทิว่า หานภาคิยา สญฺญา พึงทราบความโดยนัยที่ท่านกล่าวไว้แล้วในอภิธรรมนั่นแล.
Trong các đoạn như “Hānabhāgiyā saññā,” hãy hiểu ý nghĩa theo cách đã được giảng trong Abhidhamma.
อย่างนี้ว่า การมนสิการด้วยสัญญาอันสหรคตด้วยกาม ย่อมทำผู้ได้ปฐมฌานให้ฟุ้งซ่าน.
Như sau: Sự chú tâm (manasikāra) với nhận thức (saññā) đi kèm với dục (kāma) sẽ làm cho người đạt được sơ thiền (paṭhama jhāna) bị xao động.
สัญญาก็ชื่อ หานภาคินี (สัญญาฝ่ายเสื่อม).
Nhận thức đó được gọi là “Hānabhāginī” (nhận thức thuộc về sự thoái lui).
บทว่า ยถาภูตํ นปฺปชานาติ ได้แก่ ไม่รู้ด้วยมรรคญาณตามความเป็นจริง.
Câu “Yathābhūtaṃ nappajānāti” có nghĩa là: Không biết sự thật theo tuệ giác của Đạo (magga ñāṇa).
จบอรรถกถานิพพานสูตรที่ ๙
Kết thúc chú giải về Kinh Nibbāna, phần 9.
อรรถกถามหาปเทสสูตรที่ ๑๐
Chú giải về Kinh Mahāpadesa, phần 10
พึงทราบวินิจฉัยในมหาปเทสสูตรที่ ๑๐ ดังต่อไปนี้ :-
Hãy hiểu rõ các phân tích trong Kinh Mahāpadesa, phần 10 như sau:
บทว่า โภคนคเร วิหรติ ได้แก่ ในปรินิพพานสมัย พระผู้มีพระภาคเจ้าเสด็จจาริกไปนครนั้นแล้วประทับอยู่.
Câu “Bhoganagare viharati” có nghĩa là: Trong thời kỳ gần nhập Niết-bàn, Đức Thế Tôn đã đi đến thành phố đó và lưu lại tại đó.
บทว่า อานนฺทเจติเย ได้แก่ ในวิหารอันตั้งอยู่ตรงสถานที่เป็นภพของอานันทยักษ์.
Câu “Ānandacetiye” có nghĩa là: Tại tu viện được xây dựng tại nơi trú ngụ của thần Ānanda-yakkha.
บทว่า มหาปเทเส แปลว่า โอกาสใหญ่หรือข้ออ้างใหญ่.
Câu “Mahāpadesa” có nghĩa là: Cơ hội lớn hoặc lời tuyên bố lớn.
อธิบายว่า เหตุใหญ่ ที่กล่าวอ้างคนใหญ่ๆ มีพระพุทธเจ้าเป็นต้น.
Giải thích rằng: Đây là những nguyên nhân quan trọng, được sử dụng để viện dẫn những người vĩ đại như Đức Phật.
บทว่า เนว อภินนฺทิตพฺพํ ความว่า ภาษิตนั้นอันเธอทั้งหลายผู้ร่าเริงยินดี ให้สาธุการแล้วไม่พึงฟังก่อนอย่าเพิ่งเชื่อ.
Câu “Neva abhinanditabbaṃ” có nghĩa là: Không nên lắng nghe hoặc chấp nhận ngay những lời nói mà các bạn thấy vui thích và tán thành.
เพราะเมื่อมีผู้กระทำอย่างนี้ ภิกษุนั้นแม้จะถูกต่อว่าในภายหลังว่า คำนี้ไม่สม ก็ยังกล่าวว่า เมื่อก่อนนี้เป็นธรรม บัดนี้ไม่ใช่ธรรมเสียแล้วหรือ.
Bởi nếu làm như vậy, một Tỳ-kheo dù bị chỉ trích rằng lời nói đó không đúng, vẫn có thể đáp rằng: “Trước đây điều này là đúng pháp, bây giờ lại không phải sao?”
ดังนี้แล้วไม่ย่อมสละลัทธิ.
Như vậy, vị ấy sẽ không từ bỏ quan điểm của mình.
บทว่า นปฺปฏิกฺโกสิตพฺพํ ได้แก่ ไม่พึงกล่าวก่อนว่าคนโง่นี้พูดอะไร.
Câu “Nappaṭikkositabbaṃ” có nghĩa là: Không nên vội vàng nói rằng: “Người này nói gì ngớ ngẩn vậy?”
เพราะเมื่อกล่าวอย่างนี้แล้ว ภิกษุนั้นจักไม่กล่าวถึงแม้ข้อที่ถูกและไม่ถูก.
Bởi nếu nói như vậy, vị Tỳ-kheo đó sẽ không đưa ra những điều đúng hay sai.
ด้วยเหตุนั้น พระผู้มีพระภาคเจ้าจึงตรัสว่า อนภินนฺทิตฺวา อปฺปฏิกฺโกสิตฺวา ดังนี้.
Vì vậy, Đức Phật đã dạy: “Anabhinanditvā appaṭikkositvā” (Không tán dương, không chê bai).
บทว่า ปทพฺยญฺชนานิ ได้แก่ พยัญชนะกล่าวคือบท.
Câu “Padabyajjanāni” có nghĩa là: Các từ và chữ, tức là các thành phần của ngôn từ.
บทว่า สาธุกํ อุคฺคเหตฺวา ได้แก่ เรียนด้วยดีว่า ท่านกล่าวบาลีไว้ในที่นี้ กล่าวความไว้ในที่นี้ กล่าวอนุสนธิไว้ในที่นี้ กล่าวคำต้นคำปลายไว้ในที่นี้ ดังนี้.
Câu “Sādhukaṃ uggahetvā” có nghĩa là: Học kỹ lưỡng rằng: Ở đây các câu Pāli được trình bày, ở đây các ý nghĩa được giải thích, ở đây mối liên hệ được trình bày, ở đây phần đầu và phần cuối được nêu rõ.
บทว่า สุตฺเต โอตาเรตพฺพานิ ได้แก่ พึงเทียบเคียงกันในพระสูตร.
Câu “Sutte otāretabbāni” có nghĩa là: Nên đối chiếu các đoạn trong Kinh Tạng.
บทว่า วินเย สนฺทสฺเสตพฺพานิ ได้แก่ พึงสอบสวนในพระวินัย.
Câu “Vinaye sandassetabbāni” có nghĩa là: Nên kiểm tra các đoạn trong Luật Tạng.
ในที่นี้ ท่านกล่าววินัยว่าเป็นสูตร ดังที่ท่านกล่าวไว้ในสุตตวิภังค์ว่า คัดค้านไว้ในที่ไหน คัดค้านไว้ในกรุงสาวัตถี.
Ở đây, Luật được xem là Kinh, như đã nêu trong Suttavibhaṅga: “Điều luật này đã bị phản đối ở đâu? Ở thành Sāvatthī.”
ขันธกะท่านเรียกว่าวินัย ดังที่ท่านกล่าวไว้ว่า โกสมฺพิยํ วินยาติสาเร ดังนี้.
Khandhaka được gọi là Luật, như đã nêu: “Kosambiyaṃ vinayatissāre” (Trong phần tinh yếu của Luật tại Kosambi).
ไม่ยึดถือเอาแม้วินัยปิฎกอย่างนี้ แต่ถือเอาวินัยปิฎกอย่างนี้ว่า อุภโตวิภังค์เป็นพระสูตร ขันธกะแลปริวารเป็นพระวินัยดังนี้.
Không chấp nhận Luật Tạng theo cách này, mà xem Luật Tạng như sau: Ubhatovibhaṅga là Kinh, còn Khandhaka và Parivāra là Luật.
อีกอย่างหนึ่ง ถือเอาปิฎกสองอย่างนี้คือ สุตตันตปิฎกเป็นพระสูตร วินัยปิฎกเป็นพระวินัย.
Một cách khác, Kinh Tạng (Suttanta Piṭaka) được xem là Kinh, và Luật Tạng (Vinaya Piṭaka) là Luật.
หรือว่าไม่ถือเอาปิฎกสามอย่างนี้ก่อน คือสุตตันตปิฎก และอภิธัมมปิฎกเป็นพระสูตร วินัยปิฎกเป็นพระวินัย.
Hoặc không chấp nhận ba tạng này theo cách thông thường: Kinh Tạng và Abhidhamma Tạng là Kinh, còn Luật Tạng là Luật.
จริงอยู่ ชื่อว่าพุทธพจน์ที่ไม่มีชื่อว่าสูตรมีอยู่ คือ ชาดก ปฏิสัมภิทา นิเทศ สุตตนิบาต ธรรมบท อุทาน อิติวุตตกะ วิมานวัตถุ เปตวัตถุ เถรคาถา เถรีคาถา อปทาน.
Thực ra, có các bài giảng của Đức Phật không mang tên “Sutta” (Kinh), như: Jātaka, Paṭisambhidā, Niddesa, Suttanipāta, Dhammapada, Udāna, Itivuttaka, Vimānavatthu, Petavatthu, Theragāthā, Therīgāthā, Apadāna.
แต่พระสุทินนเถระคัดค้านพุทธพจน์นั้นทั้งหมดว่าพุทธพจน์ที่ไม่มีชื่อว่าสูตรนั้นไม่มีดังนี้.
Tuy nhiên, Tôn giả Sudinna phản đối rằng không có lời dạy nào của Đức Phật không mang tên “Sutta.”
แล้วกล่าวว่าปิฎก ๓ เป็นพระสูตร แต่วินัยเป็นการณะ.
Và Tôn giả nói rằng cả ba tạng đều là Kinh, còn Luật là phương tiện bổ trợ.
เมื่อจะแสดงถึงการณะต่อจากนั้น จึงกล่าวสูตรนี้ว่า
Khi muốn trình bày về nguyên tắc tiếp theo, bài kinh này được giảng rằng:
ดูก่อนโคตมี ท่านพึงรู้ธรรมเหล่าใด ธรรมเหล่านี้ย่อมเป็นไปเพื่อประกอบด้วยราคะ ไม่เป็นไปเพื่อปราศจากราคะ
“Này Gotamī, bất cứ pháp nào dẫn đến sự dính mắc (rāga), không hướng đến sự không dính mắc.”
ย่อมเป็นไปเพื่อสังโยชน์ ไม่เป็นไปเพื่อปราศจากสังโยชน์
“Dẫn đến sự trói buộc (saṃyojana), không dẫn đến sự giải thoát khỏi trói buộc.”
ย่อมเป็นไปเพื่อความยึดมั่น ไม่เป็นไปเพื่อความไม่ยึดมั่น
“Dẫn đến sự chấp thủ (upādāna), không dẫn đến sự buông bỏ.”
ย่อมเป็นไปเพื่อความเป็นผู้มักมาก ไม่เป็นไปเพื่อความเป็นผู้มักน้อย
“Dẫn đến sự tham muốn nhiều, không hướng đến sự biết đủ (mātariññutā).”
ย่อมเป็นไปเพื่อความไม่สันโดษ ไม่เป็นไปเพื่อความสันโดษ
“Dẫn đến sự không hài lòng, không hướng đến sự hài lòng (santuṭṭhi).”
ย่อมเป็นไปเพื่อความเกียจคร้าน ไม่เป็นไปเพื่อปรารภความเพียร
“Dẫn đến sự lười biếng, không hướng đến tinh tấn (vīriya).”
ย่อมเป็นไปเพื่อความคลุกคลี ไม่เป็นไปเพื่อความวิเวก
“Dẫn đến sự dính líu, không hướng đến sự tĩnh lặng (viveka).”
ย่อมเป็นไปเพื่อความสะสม ไม่เป็นไปเพื่อความไม่สะสม
“Dẫn đến sự tích lũy, không hướng đến sự từ bỏ (aparigaha).”
ดูก่อนโคตมี ท่านพึงรู้โดยส่วนเดียวว่า นี้ไม่ใช่ธรรม นี้ไม่ใช่วินัย นี้ไม่ใช่คำสอนของพระศาสดา ดังนี้
“Này Gotamī, ngươi nên hiểu một cách rõ ràng rằng: Đây không phải là Pháp (Dhamma), không phải là Luật (Vinaya), không phải là lời dạy của Đức Thế Tôn.”
ดูก่อนโคตมี ท่านพึงรู้ธรรมเหล่าใด ธรรมเหล่านี้ย่อมเป็นไปเพื่อความปราศจากราคะ ไม่เป็นไปเพื่อความมีราคะ
“Này Gotamī, bất cứ pháp nào dẫn đến sự không dính mắc, không dẫn đến sự dính mắc.”
ย่อมเป็นไปเพื่อปราศจากสังโยชน์ ไม่เป็นไปเพื่อสังโยชน์
“Dẫn đến sự giải thoát khỏi trói buộc, không dẫn đến sự trói buộc.”
ย่อมเป็นไปเพื่อความไม่ยึดมั่น ไม่เป็นไปเพื่อความยึดมั่น
“Dẫn đến sự buông bỏ, không dẫn đến sự chấp thủ.”
ย่อมเป็นไปเพื่อความมักน้อย ไม่เป็นไปเพื่อความมักมาก
“Dẫn đến sự biết đủ, không dẫn đến sự tham muốn nhiều.”
ย่อมเป็นไปเพื่อความสันโดษ ไม่เป็นไปเพื่อความไม่สันโดษ
“Dẫn đến sự hài lòng, không dẫn đến sự không hài lòng.”
ย่อมเป็นไปเพื่อปรารภความเพียร ไม่เป็นไปเพื่อความเกียจคร้าน
“Dẫn đến tinh tấn, không dẫn đến sự lười biếng.”
ย่อมเป็นไปเพื่อวิเวก ไม่เป็นไปเพื่อความคลุกคลี
“Dẫn đến sự tĩnh lặng, không dẫn đến sự dính líu.”
ย่อมเป็นไปเพื่อความไม่สะสม ไม่เป็นไปเพื่อความสะสม
“Dẫn đến sự từ bỏ, không dẫn đến sự tích lũy.”
ดูก่อนโคตมี ท่านพึงรู้โดยส่วนเดียวว่า นี้เป็นธรรม นี้เป็นวินัย นี้เป็นคำสั่งสอนของพระศาสดา.
“Này Gotamī, ngươi nên hiểu rõ rằng: Đây là Pháp, đây là Luật, đây là lời dạy của Đức Thế Tôn.”
เพราะฉะนั้น ความในข้อนี้จึงมีดังนี้ว่า
Do đó, ý nghĩa trong trường hợp này như sau:
บทว่า สุตฺเต ได้แก่ พึงเทียบเคียงในพุทธพจน์คือปิฎก ๓.
Câu “Sutte” có nghĩa là: Nên đối chiếu với các bài giảng của Đức Phật trong ba tạng.
บทว่า วินเย นี้ ได้แก่ พึงสอบสวนในเหตุแห่งการกำจัดกิเลสมีราคะเป็นต้น อย่างหนึ่ง.
Câu “Vinaye” có nghĩa là: Nên kiểm tra nguyên nhân dẫn đến việc loại bỏ các phiền não như tham ái (rāga), v.v.
บทว่า น เจว สุตฺเต โอตรนฺติ ความว่า บทพยัญชนะทั้งหลาย ไม่มาในที่ไหนๆ ตามลำดับ ในพระสูตร.
Câu “Na ceva sutte otaranti” có nghĩa là: Các từ và chữ không được tìm thấy ở bất kỳ chỗ nào trong các bài kinh theo thứ tự.
ยกเปลือกขึ้นแล้ว ปรากฏชัดว่ามาจากคัมภีร์ คุฬหเวสสันตระ คุฬหอุมมัคคะ คุฬหวินัยและเวทัลลปิฎกอย่างใดอย่างหนึ่ง (เป็นคัมภีร์ปายมหายาน).
Khi bóc lớp vỏ bên ngoài, rõ ràng chúng xuất phát từ các bản văn như Kula-vesantara, Kula-ummagga, Kula-vinaya và Vetalla-piṭaka (thuộc kinh điển Đại Thừa).
ก็บทพยัญชนะที่มาแล้วอย่างนี้ และไม่ปรากฏในการนำกิเลสมีราคะเป็นต้นออกไป ก็พึงทิ้งเสีย.
Những từ và chữ xuất hiện theo cách này, nhưng không dẫn đến việc loại bỏ các phiền não như tham ái (rāga), nên được loại bỏ.
ด้วยเหตุนั้น พระผู้มีพระภาคเจ้าจึงตรัสว่า อิติ หิทํ ภิกฺขเว ฉฑฺเฑยฺยาถ ดังนี้.
Do đó, Đức Phật đã dạy: “Iti hi idaṃ bhikkhave chaḍḍeyyātha” (Này các Tỳ-kheo, hãy từ bỏ những điều này).
พึงทราบความในบททุกบท โดยอุบายนี้.
Nên hiểu ý nghĩa của mọi đoạn theo phương pháp này.
บทว่า อิทํ ภิกฺขเว จตุตฺถํ มหาปเทสํ ธาเรยฺยาถ ความว่า ดูก่อนภิกษุทั้งหลาย เธอทั้งหลายพึงทรงจำไว้ ซึ่งโอกาสเป็นที่ประดิษฐานธรรมข้อที่ ๔ นี้ไว้.
Câu “Idaṃ bhikkhave catutthaṃ mahāpadesaṃ dhāreyātha” có nghĩa là: “Này các Tỳ-kheo, các vị nên ghi nhớ nguyên tắc lớn thứ tư này.”
จบอรรถกถามหาปเทสสูตรที่ ๑๐
Kết thúc chú giải về Kinh Mahāpadesa, phần 10.
จบสัญเจตนิยวรรควรรณนาที่ ๓
Kết thúc phần giải thích về Sañcetanīya Vagga, phần 3.