Chú giải Tăng Chi Bộ Kinh

Chú giải Thái kinh Tăng Chi Bộ I – Chương 1 – 14.8. Phẩm Người Tối Thắng

อรรถกถา อังคุตตรนิกาย เอกนิบาต เอตทัคคบาลี

Bình luận Aṅguttara Nikāya Ekaka Nipāta Etadaggavāli.

วรรคที่ ๑

Chương 1.

หน้าต่างที่ ๘ / ๑๐

Trang 8/10.

อรรถกถาสูตรที่ ๘

Bình luận kinh thứ 8.

ประวัติพระปิณโฑลภารทวาชะ

Tiểu sử của Tôn giả Piṇḍola Bhāradvāja.

พึงทราบวินิจฉัยในสูตรที่ ๘ ดังต่อไปนี้
Hãy hiểu rõ những phán xét trong kinh thứ 8 như sau.

บทว่า สีหนาทิกานํ ความว่า ผู้บันลือสีหนาท คือพระบิณโฑลภารทวาชะเป็นยอด
Từ “sīhanādikānaṃ” có nghĩa là người phát ra âm thanh của sư tử, tức là Tôn giả Piṇḍola Bhāradvāja là bậc xuất sắc nhất.

ได้ยินมาว่า ในวันบรรลุพระอรหัต ท่านถือเอาผ้ารองนั่งออกจากวิหารนี้ไปวิหารโน้น ออกจากบริเวณนี้ไปบริเวณโน้น เที่ยวบันลือสีหนาทว่า ท่านผู้ใดมีความสงสัยในมรรคหรือผล ท่านผู้นั้นจงถามเราดังนี้ ท่านยืนต่อพระพักตร์พระพุทธทั้งหลายบันลือสีหนาทว่า ข้าแต่พระองค์ผู้เจริญ กิจที่ควรกระทำในศาสนานี้ถึงที่สุดแล้ว ฉะนั้น ชื่อว่าผู้ยอดของเหล่าภิกษุผู้บันลือสีหนาท
Nghe nói rằng vào ngày đạt đến quả A-la-hán, ngài đã lấy khăn ngồi từ tịnh xá này đến tịnh xá kia, từ khu vực này sang khu vực khác, vang lên tiếng “Sīhanāda” rằng “Nếu ai nghi ngờ về Đạo hay Quả, hãy hỏi tôi,” đứng trước chư Phật, ngài nói lớn rằng, “Lạy Đức Thế Tôn, những việc nên làm trong giáo pháp này đã hoàn thành, vì vậy được gọi là bậc tối cao trong hàng Tỳ-kheo phát ra tiếng Sīhanāda.”

ก็ในปัญหากรรมของท่านมีเรื่องที่จะกล่าวตามลำดับต่อไปนี้
Trong vấn đề về nghiệp của ngài, có câu chuyện được kể theo thứ tự như sau.

ได้ยินว่า ครั้งพระพุทธเจ้าพระนามว่าปทุมุตตระ พระปิณโฑลภารทวาชะนี้บังเกิดในกำเนิดสีหะ ณ เชิงบรรพต
Nghe nói rằng vào thời Đức Phật tên là Padumuttara, Tôn giả Piṇḍola Bhāradvāja đã sinh ra trong hình dạng của một con sư tử tại chân núi.

พระศาสดาทรงตรวจดูโลก ทรงเห็นเหตุสมบัติของท่าน (ความถึงพร้อมแห่งเหตุ) จึงเสด็จทรงบาตรในกรุงสาวัตถี ภายหลังเสวยภัตตาหาร แล้ว ในเวลาใกล้รุ่ง เมื่อสีหะออกไปหาเหยื่อ จึงทรงเข้าไปยังถ้ำที่อยู่ของสีหะนั้น ประทับนั่งขัดสมาธิในอากาศเข้านิโรธสมาบัติ
Đức Thế Tôn quan sát thế gian, thấy nguyên nhân của ngài (đầy đủ lý do), nên ngài đã đi khất thực ở thành Sāvatthi. Sau khi dùng bữa vào gần sáng, khi con sư tử ra đi tìm mồi, Đức Phật đã vào hang của nó, ngồi tọa thiền trong trạng thái nhập Niết-bàn trên không trung.

พระยาสีหะได้เหยื่อแล้ว กลับมาหยุดอยู่ที่ประตูถ้ำ เห็นพระทศพลประทับนั่งภายในถ้ำ ดำริว่า
Khi đã săn mồi xong, con sư tử trở về và dừng lại ở cửa hang, thấy Đức Thế Tôn ngồi bên trong hang, và suy nghĩ rằng,

ไม่มีสัตว์อื่นที่ชื่อว่าสามารถจะมานั่งยังที่อยู่ของเรา บุรุษนี้ใหญ่แท้หนอ มานั่งขัดสมาธิภายในถ้ำได้ แม้รัศมีสรีระของท่านก็แผ่ไปโดยรอบ เราไม่เคยเห็นสิ่งที่น่าอัศจรรย์ถึงเพียงนี้ บุรุษนี้จักเป็นยอดของปูชนียบุคคลในโลกนี้ แม้เราควรกระทำสักการะตามสติกำลัง ถวายพระองค์
“Không có sinh vật nào khác có thể vào nơi cư trú của ta. Con người này thật vĩ đại, ngồi tọa thiền trong hang, ngay cả hào quang của ngài cũng lan tỏa xung quanh. Ta chưa bao giờ thấy điều kỳ diệu như vậy. Con người này sẽ là bậc cao nhất trong số những người đáng kính trên thế gian này. Ta cũng nên làm lễ tôn kính cho Ngài trong khả năng của mình.”

จึงไปนำดอกไม้ต่างๆ ทั้งที่เกิดในน้ำ ทั้งที่เกิดบนบกลาดเป็นอาสนะดอกไม้ตั้งแต่พื้นจนถึงที่นั่งขัดสมาธิ ยืนนมัสการพระตถาคตในที่ตรงพระพักตรตลอดคืนยังรุ่ง รุ่งขึ้นวันใหม่ก็นำดอกไม้เก่าออก เอาดอกไม้ใหม่ลาดอาสนะโดยทำนองนี้ เที่ยวตกแต่งปุบผาสนะถึง ๗ วัน บังเกิดปีติโสมนัสอย่างแรง ยืนเฝ้าอยู่ที่ประตูถ้ำ ในวันที่ ๗ พระศาสดาออกจากนิโรธ ประทับยืนที่ประตูถ้ำ
Sau đó, ngài đã mang hoa từ khắp nơi, cả từ dưới nước và trên mặt đất, trải thành tọa cụ hoa từ mặt đất đến chỗ ngồi tọa thiền và đứng lễ bái Đức Như Lai trước mặt Ngài suốt đêm cho đến khi sáng. Ngày hôm sau, ngài đã thay những bông hoa cũ bằng hoa mới, và trang trí tọa cụ hoa trong suốt 7 ngày, cảm thấy vô cùng hoan hỷ và đứng chờ trước cửa hang. Vào ngày thứ 7, Đức Thế Tôn đã ra khỏi trạng thái Niết-bàn, đứng trước cửa hang.

พระยาสีหะราชาแห่งมฤคกระทำประทักษิณพระตถาคต ๓ ครั้ง ไหว้ในที่ทั้ง ๔ แล้วถอยออกไปยืนอยู่
Vua sư tử đi nhiễu Đức Như Lai ba vòng, lạy ở bốn hướng rồi lui ra đứng chờ.

พระศาสดาทรงดำริว่า เท่านี้จักพอเป็นอุปนิสัยแก่เธอ เหาะกลับไปพระวิหารตามเดิม
Đức Thế Tôn suy nghĩ rằng như vậy là đủ để làm nhân duyên cho ngài và bay trở lại tịnh xá như ban đầu.

ฝ่ายพระยาสีหะนั้นเป็นทุกข์เพราะพลัดพรากจากพระพุทธองค์ กระทำกาละแล้วถือปฏิสนธิในตระกูลมหาศาลในกรุงหงสวดี เจริญวัยแล้ว วันหนึ่งไปพระวิหารกับชาวกรุง ฟังพระธรรมเทศนา บำเพ็ญมหาทาน ๗ วัน โดยนัยที่กล่าวแล้วแต่หลัง
Con sư tử đau buồn vì xa cách Đức Phật và khi qua đời đã tái sinh vào một gia đình giàu có ở kinh đô Hamsavati. Sau khi trưởng thành, một ngày nọ, ngài đến tịnh xá cùng dân chúng, nghe thuyết pháp và thực hiện đại thí suốt 7 ngày, như đã được nói trước đó.

กระทำกาละในภพนั้น เวียนว่ายอยู่ในเทวดาและมนุษย์ทั้งหลายมาบังเกิดในตระกูลพราหมณ์มหาศาลในกรุงราชคฤห์ ในพุทธุปบาทกาลนี้ โดยชื่อมีชื่อว่า ภารทวาชะ
Sau khi qua đời ở kiếp đó, ngài đã luân hồi trong các cảnh trời và cõi người, rồi sinh vào một gia đình Bà-la-môn giàu có ở kinh đô Rajagaha trong thời kỳ của Đức Phật hiện tại, với tên là Bhāradvāja.

ท่านเจริญวัยแล้ว ศึกษาไตรเพทเที่ยวสอนมนต์แก่มาณพ ๕๐๐ คน ท่านรับภิกษาของมาณพทุกคนด้วยตนเองเที่ยวในที่ที่เขาเชื้อเชิญ เพราะตนเป็นหัวหน้า เขาว่าท่านภารทวาชะนี้เป็นคนมักโลเลอยู่นิดหน่อย คือเที่ยวแสวงหาข้าวต้มข้าวสวยและของเคี้ยวไม่ว่าในที่ไหนๆ กับมาณพเหล่านั้น ในที่ที่ท่านไปแล้วไปอีกก็ต้อนรับเพียงข้าวถ้วยเดียวเท่านั้น ดังนั้น จึงปรากฎชื่อว่า ปิณโฑลภารทวาชะ
Khi trưởng thành, ngài đã học Tam Vệ-đà và đi dạy thần chú cho 500 thanh niên. Ngài tự tay nhận thức ăn từ tất cả các đệ tử của mình và thường đến những nơi họ mời vì ngài là người đứng đầu. Mọi người nói rằng Bhāradvāja có phần phiền hà, bởi vì ngài thường đi kiếm cháo và đồ ăn bất kể nơi nào, và khi đến nơi ngài cũng chỉ nhận một chén cơm. Vì vậy, ngài được biết đến với tên là Piṇḍola Bhāradvāja.

วันหนึ่ง เมื่อพระศาสดาเสด็จถึงกรุงราชคฤห์ ท่านได้ฟังธรรมกถา ได้ศรัทธาแล้ว บวชบำเพ็ญวิปัสสนา ได้บรรลุพระอรหัตแล้ว ในเวลาที่ท่านบรรลุพระอรหัตนั่นเอง ท่านถือเอาผ้าปูนั่งออกจากวิหารนี้ไปวิหารโน้น ออกจากบริเวณนี้ไปบริเวณโน้น เที่ยวบันลือสีหนาทว่า ท่านผู้ใดมีความสงสัยในมรรคหรือผล ขอท่านผู้นั้นจงถามเราเถิด
Một ngày nọ, khi Đức Thế Tôn đến Rajagaha, ngài nghe bài pháp và sinh tín tâm, rồi xuất gia và thực hành thiền quán. Ngài đã đạt quả A-la-hán. Ngay lúc ấy, ngài đã lấy khăn ngồi và đi từ tịnh xá này sang tịnh xá kia, từ khu vực này sang khu vực khác, vang lên tiếng “Sīhanāda” rằng “Nếu ai nghi ngờ về Đạo hay Quả, hãy hỏi tôi.”

วันหนึ่ง เศรษฐีในกรุงราชคฤห์เอาไม้ไผ่ต่อๆ กันขึ้นไป แขวนบาตรไม้แก่นจันทร์ มีสีดังดอกชัยพฤกษ์ไว้ในอากาศ ท่านเหาะไปถือเอาด้วยฤทธิ์ เป็นผู้ที่มหาชนให้สาธุการแวดล้อมไปพระวิหาร วางไว้ในพระหัตถ์ของพระตถาคตแล้ว
Một ngày nọ, một trưởng giả ở Rajagaha đã kết các cây tre với nhau và treo một chiếc bát gỗ đàn hương có màu như hoa Cassia trong không trung. Ngài đã dùng thần thông để bay lên lấy nó, và được mọi người ca ngợi, theo ngài đến tịnh xá và đặt chiếc bát vào tay của Đức Như Lai.

พระศาสดาทรงทราบอยู่สอบถามว่า ภารทวาชะ เธอได้บาตรนี้มาแต่ไหน
Đức Thế Tôn đã biết nhưng vẫn hỏi: “Bhāradvāja, ngươi lấy chiếc bát này từ đâu?”

ท่านจึงเล่าเหตุการณ์ที่ได้มาถวาย พระศาสดาตรัสว่า เธอแสดงอุตตริมนุสสธรรมเห็นปานนี้แก่มหาชน เธอกระทำกรรมสิ่งที่ไม่ควรทำแล้ว ทรงตำหนิโดยปริยายเป็นอันมากแล้วทรงบัญญัติสิกขาบทว่า
Ngài kể lại sự việc để cúng dường. Đức Thế Tôn nói: “Ngươi đã biểu hiện những năng lực siêu nhiên như thế này trước quần chúng, ngươi đã làm điều không nên.” Rồi Ngài khiển trách nhiều và đặt ra giới luật rằng:

“ดูก่อนภิกษุทั้งหลาย ภิกษุไม่ควรแสดงอุตตริมนุสสธรรมอันเป็นอิทธิปาฏิหาริย์แก่พวกคฤหัสถ์ทั้งหลาย ผู้ใดขืนแสดงต้องอาบัติทุกกฎ” ดังนี้
“Hỡi các Tỳ-kheo, một Tỳ-kheo không nên biểu hiện các năng lực siêu nhiên trước những người tại gia. Ai cố tình biểu hiện sẽ phạm vào tội Đột-khởi.”

ทีนั้นเกิดพูดกันในท่ามกลางภิกษุสงฆ์ว่า พระเถระที่บันลือสีหนาทในวันที่ตนบรรลุพระอรหัต บอกในท่ามกลางภิกษุสงฆ์ว่า ผู้ใดมีความสงสัยในมรรคหรือผล ผู้นั้นจงถามเรา ดังนี้ ในที่ต่อพระพักตร์พระพุทธเจ้า ก็ทูลถึงการบรรลุพระอรหัตของตน พระสาวกเหล่าอื่นก็นิ่ง โดยความที่ตนชอบบันลือสีหนาทนั่นเอง แม้จะทำมหาชนให้เกิดความเลื่อมใสเหาะไปรับบาตรไม้แก่นจันทน์ ภิกษุเหล่านั้นกระทำคุณทั้ง ๓ เหล่านี้เป็นอันเดียวกัน กราบทูลแก่พระศาสดาแล้ว
Lúc đó, các Tỳ-kheo đã bàn tán rằng, vào ngày đạt quả A-la-hán, vị Trưởng lão đã hô lên tiếng “Sīhanāda” trong hội chúng Tỳ-kheo rằng, “Ai có nghi ngờ về Đạo hay Quả, hãy hỏi tôi,” và đã thuật lại sự chứng đắc của mình trước Đức Phật. Các vị đệ tử khác thì yên lặng. Dù ngài khiến quần chúng kính phục khi bay lấy bát gỗ đàn hương, các vị Tỳ-kheo đã trình bày ba điều này với Đức Thế Tôn.

ก็ธรรมดาว่า พระพุทธเจ้าทั้งหลายย่อมทรงติเตียนผู้ที่ควรติเตียน ย่อมทรงสรรเสริญผู้ที่ควรสรรเสริญ ในฐานะนี้
Vốn là Đức Phật luôn khiển trách những ai đáng khiển trách và tán dương những ai đáng tán dương.

พระศาสดาทรงถือว่า ความเป็นยอดของพระเถระที่สมควรสรรเสริญนั้นแหละ แล้วสรรเสริญพระเถระว่า
Đức Thế Tôn coi phẩm hạnh cao quý của Trưởng lão là điều đáng tán thán và đã ca ngợi rằng:

ดูก่อนภิกษุทั้งหลาย เพราะอินทรีย์ ๓ นั่นแล เธอเจริญแล้ว ทำให้มากแล้ว ภารทวาชภิกษุได้พยากรณ์พระอรหัตแลว่า ชาติสิ้นแล้ว พรหมจรรย์เราอยู่จบแล้ว กิจที่ควรทำ เราทำเสร็จแล้ว ไม่มีกิจอื่นเพื่อความเป็นอย่างนี้
“Hỡi các Tỳ-kheo, bởi vì đã phát triển và thực hành nhiều ba căn bản: Niệm căn, Định căn và Tuệ căn, Bhāradvāja Tỳ-kheo đã dự đoán rằng: Sự sinh tử đã chấm dứt, hạnh Phạm hạnh đã viên mãn, những việc cần làm đã làm xong, không còn việc nào khác nữa.”

อินทรีย์ ๓ เป็นไฉน คือ สตินทรีย์ สมาธินทรีย์ ปัญญินทรีย์
Ba căn bản là gì? Đó là Niệm căn, Định căn và Tuệ căn.

ดูก่อนภิกษุทั้งหลาย เพราะอินทรีย์ ๓ เหล่านี้แล เธอเจริญแล้ว กระทำให้มากแล้ว ภารทวาชภิกษุพยากรณ์แล้วซึ่งพระอรหัตตผล ย่อมรู้ชัดว่า ชาติสิ้นแล้ว พรหมจรรย์เราอยู่จบแล้ว กิจที่ควรทำ ทำเสร็จแล้ว ไม่มีกิจอื่นเพื่อความเป็นอย่างนี้ ดังนี้
“Hỡi các Tỳ-kheo, nhờ phát triển và thực hành ba căn bản này, Bhāradvāja Tỳ-kheo đã đạt đến quả A-la-hán, biết chắc rằng: Sự sinh tử đã chấm dứt, hạnh Phạm hạnh đã viên mãn, những việc cần làm đã làm xong, không còn việc nào khác nữa.”

จึงทรงสถาปนาไว้ในตำแหน่งเป็นยอดของเหล่าภิกษุบันลือสีหนาทแล
Vì vậy, Đức Thế Tôn đã đặt ngài vào vị trí cao nhất trong các Tỳ-kheo phát ra tiếng “Sīhanāda”.

จบอรรถกถาสูตรที่ ๘

Kết thúc phần bình luận về Kinh số 8.

Hộp bình luận Facebook

Soṇa Thiện Kim

Panha.org là trang web chuyên sâu về Pháp học của Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Tông), nơi cung cấp kiến thức và tài liệu quý báu về kinh điển, giáo lý, và triết học Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Tông). Tại đây, bạn có thể tìm hiểu về các giáo pháp truyền thống, kinh nghiệm tu tập, và những bài giảng từ các vị tôn sư hàng đầu trong cộng đồng Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Tông). Với mục tiêu giúp người học hiểu sâu hơn về con đường giác ngộ và sự giải thoát, Panha.org mang đến nguồn tài nguyên phong phú, chính xác và cập nhật để hỗ trợ hành giả trên hành trình tu tập Pháp học.

Bài viết liên quan

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.

0 Góp ý
Được bỏ phiếu nhiều nhất
Mới nhất Cũ nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Back to top button
Close

Phát hiện trình chặn quảng cáo

Hãy hùn phước với trang web Panha.org bằng cách vô hiệu hoá trình chặn quảng cáo (Thêm vào danh sách ngoại lệ được hiển thị quảng cáo), xem quảng cáo và nhấn vào quảng cáo trên Panha.org. Trang web Panha.org cần chi phí để duy trì hoạt động, để dịch chú giải, phụ chú giải, dịch lại Tam Tạng Theravadā từ Pāli, Thái Lan sang tiếng Việt, và để phát triển các nội dung bổ ích cho Pháp Học và Pháp Hành của Phật giáo Nguyên thủy (Theravadā). Ngoài ra, nếu sau các chi phí đó mà có dư, thì Soṇa Thiện Kim sẽ dùng số tiền dư để làm thiện pháp đến Tam Bảo. Do đó Soṇa Thiện Kim cần đặt quảng cáo để có các chi phí này. Mong Quý vị tu sĩ, cư sĩ hoan hỷ! Sādhu sādhu sādhu!