Chú giải Tăng Chi Bộ Kinh

Chú giải Thái kinh Tăng Chi Bộ I – Chương 1 – 14.25. Phẩm Người Tối Thắng

อรรถกถา อังคุตตรนิกาย เอกนิบาต เอตทัคคบาลี

Chú giải Tăng Chi Bộ Kinh – Phần Một – Bài Tụng Về Đệ Nhất

วรรคที่ ๓

Chương thứ 3

หน้าต่างที่ ๖ / ๑๐.

Trang 6 / 10

อรรถกถาสูตรที่ ๖

Chú giải Kinh số 6

ประวัติพระทัพพมัลลบุตร

Tiểu sử của Tappa Mallaputra

พึงทราบวินิจฉัยในสูตรที่ ๖ (พระทัพพมัลลบุตร) ดังต่อไปนี้.
Xuất phát từ Kinh số 6 (câu chuyện về Tappa Mallaputra), sau đây là những luận giải cần biết.

บทว่า เสนาสนปญฺญาปกานํ ความว่า ภิกษุผู้เจ้าหน้าที่จัดเสนาสนะ.
Cụm từ “Senāsaṇapaññāpaka” nghĩa là một Tỳ kheo có nhiệm vụ sắp xếp chỗ ở.

ได้ยินว่า ในเวลาพระเถระจัดเสนาสนะในบรรดามหาวิหารทั้ง ๑๘ แห่ง มิได้มีบริเวณที่ยังมิได้กวาดให้เรียบร้อย เสนาสนะที่มิได้ปฏิบัติบำรุง เตียงตั่งที่ยังมิได้ชำระให้สะอาด น้ำดื่ม น้ำใช้ที่ยังมิได้ตั้งไว้ เพราะฉะนั้น ท่านจึงชื่อว่าเป็นยอดของเหล่าภิกษุผู้เป็นเจ้าหน้าที่จัดเสนาสนะ.
Nghe nói, khi vị trưởng lão sắp xếp nơi ở trong số 18 đại tu viện, không có nơi nào chưa được quét dọn sạch sẽ, không có nơi ở nào chưa được chăm sóc, giường ghế nào chưa được lau sạch, nước uống hay nước dùng nào chưa được chuẩn bị sẵn. Vì vậy, ngài được xem là bậc thượng thủ của các Tỳ kheo phụ trách sắp xếp nơi ở.

คำว่า ทัพพะ เป็นชื่อของท่าน แต่เพราะท่านเกิดในตระกูลของเจ้ามัลละจึงชื่อว่า มัลลบุตร.
Từ “Tappa” là tên của ngài, nhưng vì ngài sinh ra trong gia tộc Malla nên được gọi là Mallaputra.

ในปัญหากรรมของท่านมีเรื่องที่จะกล่าวไปตามลำดับดังต่อไปนี้ :-
Trong câu chuyện về nghiệp của ngài, sẽ được thuật lại theo thứ tự như sau:

จะกล่าวโดยย่อ ครั้งพระปทุมุตตระพุทธเจ้า พระเถระนี้เกิดในครอบครัวในกรุงหงสวดี เจริญวัยแล้วไปวิหารฟังธรรม โดยนัยที่กล่าวแล้วนั่นแหละ เห็นพระศาสดาทรงสถาปนาภิกษุไว้ในตำแหน่งเป็นยอดของเหล่าภิกษุผู้มีหน้าที่จัดเสนาสนะ กระทำกุศลกรรมปรารถนาตำแหน่งนั้น. พระศาสดาทรงพยากรณ์แล้ว กระทำกุศลจนตลอดชีพ เวียนว่ายอยู่ในเทวดาและมนุษย์.
Tóm tắt ngắn gọn, vào thời Đức Phật Padumuttara, vị trưởng lão này được sinh ra trong một gia đình tại kinh đô Hamsavati, sau khi lớn lên đã đến tu viện nghe Pháp. Như đã đề cập, ngài thấy Đức Phật thiết lập vị trí của một Tỳ kheo đứng đầu trong việc sắp xếp nơi ở, ngài đã làm các thiện nghiệp với mong muốn đạt được vị trí đó. Đức Phật đã thọ ký cho ngài, và ngài tiếp tục thực hiện thiện nghiệp suốt cuộc đời, luân hồi giữa cõi trời và cõi người.

เมื่อครั้งศาสนาของพระกัสสปทศพล เสื่อมแล้ว จึงบวชแล้ว.
Khi giáo pháp của Đức Phật Kassapa suy tàn, ngài đã xuất gia.

ครั้งนั้น คนอื่นอีก ๖ คนกับภิกษุนั้นรวมเป็นภิกษุ ๗ รูปมีจิตเป็นอันเดียวกัน เห็นบุคคลเหล่าอื่นๆ นั้น ไม่กระทำความเคารพในพระศาสดา จึงปรึกษากันว่า ในครั้งนี้เราจะทำอย่างไร กระทำบำเพ็ญสมณธรรมในที่สมควรส่วนหนึ่ง จักกระทำที่สุดทุกข์ได้.
Khi ấy, cùng với 6 vị khác, vị Tỳ kheo này, tổng cộng là 7 vị Tỳ kheo đồng tâm nhất trí, thấy rằng những người khác không tôn kính Đức Phật nên đã cùng nhau bàn bạc, rằng lần này chúng ta nên làm gì để tu tập và đạt đến sự giải thoát khỏi khổ đau.

จึงผูกบันไดขึ้นยอดภูเขาสูง กล่าวว่า ผู้ที่รู้กำลังจิตของตนจงผลักบันไดให้ตกไป ผู้ที่ยังมีความเดือดร้อนในภายหลังอยู่เถิด.
Họ dựng một chiếc thang lên đỉnh núi cao và nói rằng: Ai biết được sức mạnh tâm trí của mình thì hãy đẩy thang xuống, người nào vẫn còn phiền não thì cứ tiếp tục ở lại.

จึงพร้อมใจกันผลักบันไดให้ตกไป กล่าวสอนซึ่งกันและกันว่า อาวุโส ท่านจงเป็นผู้ไม่ประมาทเถิด นั่งในที่ที่ชอบใจ เริ่มบำเพ็ญสมณธรรม.
Họ cùng nhau đẩy thang xuống và nhắc nhở lẫn nhau rằng: Các huynh đệ, hãy tinh tấn, ngồi vào nơi yên tĩnh và bắt đầu tu hành.

บรรดาภิกษุทั้ง ๗ นั้น พระเถระรูปหนึ่งบรรลุพระอรหัตในวันที่ ๕ คิดว่า กิจของเราเสร็จแล้ว เราจักทำอะไรในที่นี้.
Trong số 7 vị Tỳ kheo đó, một vị trưởng lão đã chứng đắc A-la-hán vào ngày thứ 5 và nghĩ rằng, việc của ta đã hoàn tất, còn làm gì ở đây nữa.

จึงไปนำบิณฑบาตมาแต่อุตตรกุรุทวีปด้วยอิทธิฤทธิ์ กล่าวว่า อาวุโส ท่านทั้งหลายจงฉันบิณฑบาตนี้ หน้าที่ภิกษาจารเป็นของข้าพเจ้า ท่านทั้งหลายจงบำเพ็ญสมณธรรมเถิด.
Do đó, ngài đã dùng thần thông để đến Uttarakuru lấy thức ăn khất thực và nói: Các huynh đệ, hãy dùng thức ăn này, việc khất thực là trách nhiệm của tôi, các huynh hãy an tâm tu hành.

อาวุโส พวกเราผลักบันไดให้ตกไปได้พูดกันอย่างนี้มิใช่หรือว่า ผู้ใดกระทำให้แจ้งซึ่งธรรมก่อน ผู้นั้นจงไปนำภิกษามา ภิกษุนอกนี้ฉันภิกษาที่ท่านนำมาแล้วจักกระทำสมณธรรม.
Các huynh đệ, chẳng phải chúng ta đã thỏa thuận với nhau rằng ai chứng đạo trước sẽ là người đi khất thực sao? Những vị còn lại sẽ dùng thức ăn đó và tiếp tục tu hành.

ภิกษุทั้งหลายกล่าวว่า อาวุโส ไม่ต้อง.
Các vị Tỳ kheo khác nói: Huynh không cần phải làm vậy.

พระเถระกล่าวว่า ท่านทั้งหลายได้แล้วด้วยเหตุอันมีในก่อนแห่งตน แม้กระผมทั้งหลายสามารถอยู่ก็จักกระทำที่สุดแห่งวัฏฏะได้ นิมนต์ไปเถิดท่าน.
Vị trưởng lão đáp: Các huynh đã đạt được nhờ công đức từ kiếp trước, nếu ở lại, tôi cũng sẽ đạt đến sự giải thoát. Xin hãy để tôi làm nhiệm vụ này.

พระเถระเมื่อไม่อาจยังภิกษุเหล่านั้นให้เข้าใจกันได้ ฉันบิณฑบาตในที่ที่เป็นผาสุกแล้วก็ไป.
Khi vị trưởng lão không thể khiến các Tỳ kheo khác hiểu được, ngài đã thọ thực trong sự yên bình và rời đi.

ในวันที่ ๗ พระเถระอีกองค์หนึ่งบรรลุอนาคามิผล จุติจากอัตภาพนั้นไปบังเกิดในพรหมโลกชั้นสุทธาวาส.
Vào ngày thứ 7, một vị trưởng lão khác đã chứng đắc quả Anāgāmi, từ bỏ thân thể này và tái sinh vào cõi Phạm thiên Suddhāvāsa.

ฝ่ายพระเถระนอกนี้ จุติจากอัตภาพนั้น ก็เวียนว่ายอยู่ในเทวดาและมนุษย์สิ้นพุทธันดรหนึ่ง.
Các vị trưởng lão còn lại đã rời bỏ thân thể này và luân hồi trong cõi trời và cõi người suốt một kỷ nguyên Phật giáo.

บังเกิดในตระกูลนั้นๆ องค์หนึ่งบังเกิดในพระราชนิเวศน์ในกรุงตักกสิลาแคว้นคันธาระ.
Họ tái sinh vào những gia tộc khác nhau, một vị tái sinh trong cung điện hoàng gia ở kinh đô Takkasila, vùng Gandhara.

องค์หนึ่งเกิดในท้องนางปริพาชิกาในปัพพไตยรัฐ.
Một vị khác tái sinh trong bụng của một phụ nữ Paribhājikā tại vùng Pabbatayā.

องค์หนึ่งเกิดในเรือนกุฏุมพี ในพาหิยรัฐ.
Một vị khác tái sinh trong gia đình của một trưởng giả tại vùng Bāhiya.

องค์หนึ่งเกิดในเรือนแห่งกุฎุมพีกรุงราชคฤห์.
Một vị khác tái sinh trong gia đình của một trưởng giả tại kinh đô Rājagaha.

ส่วนพระทัพพมัลละนี้ถือปฏิสนธิในนิเวศน์ของเจ้ามัลละพระองค์หนึ่ง ในอนุปิยนคร มัลลรัฐ.
Riêng Tappa Mallaputra tái sinh trong gia đình của một vị hoàng tử thuộc bộ tộc Malla tại thành phố Anupiya, vùng đất Malla.

ในเวลาใกล้คลอด มารดาของท่านก็ทำกาละ ญาติทั้งหลายนำสรีระของคนตายไปยังป่าช้าแล้วยกขึ้นสู่เชิงตะกอนไม้แล้วจุดไฟ.
Khi sắp sinh, mẹ của ngài qua đời, họ hàng đã đưa thi thể bà đến nghĩa địa, đặt lên giàn thiêu và châm lửa.

พอไฟสงบลงพื้นท้องของนางนั้นก็แยกออกเป็น ๒ ส่วน มีทารกกระเด็นขึ้นไปตกที่เสาไม้ต้นหนึ่งด้วยกำลังบุญของตน.
Khi ngọn lửa tắt, bụng của bà ấy tách ra làm hai, và một đứa trẻ đã văng lên và rơi vào một cây cột gỗ nhờ vào sức mạnh phước báu của mình.

คนทั้งหลายอุ้มทารกนั้นไปให้แก่ย่าแล้ว ย่านั้นเมื่อจะตั้งชื่อทารกนั้น จึงตั้งชื่อของท่านว่า ทัพพะ เพราะท่านกระเด็นไปที่เสาไม้จึงรอดชีวิต.
Mọi người đã đem đứa trẻ đó cho bà nội, và khi bà đặt tên cho đứa trẻ, bà đã gọi là “Tappa” vì ngài đã rơi vào cây cột và sống sót.

เมื่อท่านมีอายุ ๗ ขวบ พระศาสดามีภิกษุสงฆ์เป็นบริวาร เสด็จจาริกไปในมัลลรัฐ ลุถึงอนุปิยนิคมประทับอยู่ ณ อนุปิยอัมพวัน.
Khi ngài lên 7 tuổi, Đức Phật cùng các Tỳ kheo tùy tùng đã đi khất thực tại vùng Malla và đến Anupiya Nikaya, ngự tại rừng xoài Anupiya.

ทัพพกุมารเห็นพระศาสดาก็เลื่อมใสในพุทธศาสนาทีเดียว ก็อยากจะบวชจึงลาย่าว่า หลานจักบวชในสำนักพระทศพล.
Khi Tappa nhìn thấy Đức Phật, ngài đã kính trọng Phật pháp và muốn xuất gia, nên nói với bà rằng: “Con muốn xuất gia dưới sự bảo hộ của Đức Phật.”

ย่ากล่าวว่า ดีละพ่อ พาทัพพกุมารไปเฝ้าพระศาสดากราบทูลว่า ท่านเจ้าข้า ขอจงให้กุมารนี้บวชเถิด.
Bà ngài đáp rằng: “Được rồi, con yêu”, rồi dẫn Tappa đến gặp Đức Phật và thỉnh cầu: “Kính bạch ngài, xin hãy cho đứa trẻ này được xuất gia.”

พระศาสดาทรงประทานสัญญาแก่ภิกษุรูปหนึ่งว่า ภิกษุ เธอจงให้ทารกนี้บวชเถิด.
Đức Phật đã ban lệnh cho một vị Tỳ kheo rằng: “Tỳ kheo, hãy cho đứa trẻ này xuất gia.”

พระเถระนั้นรับพระพุทธดำรัสแล้วก็ให้ทัพพกุมารบรรพชา บอกตจปัญจกกัมมัฏฐาน.
Vị trưởng lão ấy tuân lệnh Đức Phật và cho Tappa xuất gia, truyền dạy pháp tu Tứ Niệm Xứ.

สัตว์ผู้สมบูรณ์ด้วยบุรพเหตุ ได้บำเพ็ญบารมีไว้แล้ว ในขณะที่ปลงผมปอยแรก ตั้งอยู่ในโสดาปัตติผล.
Một người có căn cơ từ kiếp trước và đã tích lũy công đức, khi hớt nhát tóc đầu tiên, ngài đã đạt được Sơ Quả (Sotāpanna).

เมื่อปลงผมปอยที่ ๒ ตั้งอยู่ในสกทาคามิผล.
Khi hớt nhát tóc thứ hai, ngài đạt được Nhị Quả (Sakadāgāmi).

ปอยที่ ๓ ตั้งอยู่ในอนาคามิผล.
Nhát tóc thứ ba, ngài đạt được Tam Quả (Anāgāmi).

ก็การปลงผมเสร็จและการทำให้แจ้งอรหัตตผล ก็เกิดไม่ก่อนไม่หลังคือพร้อมกัน.
Khi hớt xong tóc, ngài đã đạt được quả vị A-la-hán, thành tựu cùng lúc mà không sớm cũng không muộn.

พระศาสดาประทับอยู่ในมัลลรัฐตามพระพุทธอัธยาศัยแล้ว เสด็จไปยังกรุงราชคฤห์ สำราญพระอิริยาบถอยู่ในพระเวฬุวันวิหาร.
Sau khi Đức Phật ở lại vùng Malla theo ý nguyện của ngài, ngài đã đến kinh thành Rājagaha và nghỉ ngơi trong tịnh xá Veḷuvana.

ในที่นั้น ท่านพระทัพพมัลลบุตรอยู่ในที่ลับ ตรวจดูความสำเร็จกิจของตน ประสงค์จะประกอบกายในการกระทำความขวนขวายแก่พระสงฆ์.
Tại đó, Tappa Mallaputra ở một nơi kín đáo, kiểm tra sự hoàn thành nhiệm vụ của mình và mong muốn dùng sức mình để phục vụ chư Tăng.

คิดว่า ถ้ากะไร เราจะพึงจัดแจงเสนาสนะและจัดอาหารถวายสงฆ์.
Ngài suy nghĩ: “Nếu có thể, ta sẽ sắp xếp chỗ ở và chuẩn bị thức ăn dâng lên chư Tăng.”

ท่านจึงเข้าเฝ้าพระศาสดา กราบทูลถึงความปริวิตกของตน พระศาสดาทรงประทานสาธุการแก่ท่าน แล้วทรงมอบหน้าที่จัดเสนาสนะและหน้าที่จัดอาหาร.
Do đó, ngài đến gặp Đức Phật và bày tỏ ý muốn của mình. Đức Phật khen ngợi ngài và giao cho ngài nhiệm vụ sắp xếp nơi ở và chuẩn bị thức ăn.

ครั้งนั้น พระศาสดาทรงดำริว่า พระทัพพนี้ยังเด็กอยู่แต่ดำรงอยู่ในตำแหน่งใหญ่ จึงทรงให้ท่านอุปสมบทแล้ว ในเวลาที่ท่านมีพรรษา ๗ เท่านั้น.
Khi ấy, Đức Phật nghĩ rằng Tappa vẫn còn trẻ nhưng đã đảm nhận một trách nhiệm lớn, nên ngài đã làm lễ xuất gia cho Tappa khi ngài chỉ mới 7 tuổi.

ตั้งแต่เวลาที่ท่านอุปสมบทแล้ว พระเถระจัดเสนาสนะและจัดอาหารถวายภิกษุทุกรูปที่อาศัยกรุงราชคฤห์อยู่.
Từ khi xuất gia, vị trưởng lão đã sắp xếp nơi ở và chuẩn bị thức ăn cho tất cả chư Tăng đang cư trú tại kinh đô Rājagaha.

ความที่ท่านมีหน้าที่จัดเสนาสนะได้ปรากฏไปในทิศทั้งปวงว่า.
Chức vụ của ngài trong việc sắp xếp nơi ở đã được biết đến khắp mọi nơi.

ได้ยินว่า พระทัพพมัลลบุตรย่อมเข้าใจจัดเสนาสนะในที่เดียวกันสำหรับภิกษุผู้ถูกอัธยาศัยกัน ย่อมจัดแจงเสนาสนะแม้ในที่ไกล.
Người ta nghe nói rằng Tappa Mallaputra hiểu rõ cách sắp xếp nơi ở cho các Tỳ kheo có tâm hướng cùng nhau và cũng sắp xếp nơi ở ngay cả ở nơi xa xôi.

พวกภิกษุที่ไม่อาจจะไปได้ ท่านนำไปด้วยฤทธิ์.
Những vị Tỳ kheo không thể đi đến đó được, ngài đã dùng thần thông để đưa họ đi.

ครั้งนั้น ภิกษุทั้งหลายสั่งให้ท่านจัดแจงเสนาสนะอย่างนี้ว่า อาวุโส จงจัดเสนาสนะแก่พวกเราในชีวกัมพวัน จงจัดเสนาสนะให้แก่พวกเราในมัททกุจฉิมิคทายวัน.
Khi ấy, các Tỳ kheo đã yêu cầu ngài sắp xếp nơi ở cho họ tại Chivakambavana và cả tại Maddakucchi Migadāyavana.

แล้วเห็นฤทธิ์ของท่านก็ไป ในกาลบ้างในวิกาลบ้าง.
Nhìn thấy thần thông của ngài, họ đã đến những nơi đó, đôi khi vào ban ngày, đôi khi vào buổi chiều.

แม้พระทัพพนั้นก็บันดาลกายมโนมัยด้วยฤทธิ์เนรมิตเป็นภิกษุให้เหมือนกับตนสำหรับพระเถระองค์ละรูปๆ.
Ngay cả Tappa cũng đã dùng thần thông để biến hóa ra nhiều hình ảnh của mình, mỗi hình tượng giống như một Tỳ kheo.

ถือไฟไปข้างหน้าบอกว่า นี่เตียง นี่ตั่งเป็นต้น จัดเสนาสนะแล้วจึงกลับมายังที่อยู่ของตนอีก.
Ngài đã cầm đuốc phía trước, chỉ dẫn: “Đây là giường, đây là ghế,” sắp xếp nơi ở rồi trở về chỗ của mình.

นี้เป็นความสังเขปในเรื่องนี้ แต่โดยพิสดารเรื่องนี้มาในพระบาลีแล้วเหมือนกัน.
Đây là bản tóm tắt của câu chuyện, còn chi tiết thì cũng đã được ghi chép đầy đủ trong kinh văn.

พระศาสดาทรงกระทำเหตุนี้นั่นแหละให้เป็นอัตถุปปัติเหตุเกิดเรื่อง เหมือนกับนั่งท่ามกลางหมู่พระอริยะ ทรงสถาปนาพระเถระไว้ในตำแหน่งเป็นยอดของเหล่าภิกษุผู้เป็นเจ้าหน้าที่จัดเสนาสนะแล.
Đức Phật đã lấy câu chuyện này làm đề tài giáo huấn, như thể ngài đang ngồi giữa hàng ngũ các bậc Thánh, và đã thiết lập vị trưởng lão vào vị trí tối cao trong hàng ngũ các Tỳ kheo phụ trách sắp xếp nơi ở.

จบอรรถกถาสูตรที่ ๖

Kết thúc chú giải Kinh số 6

Hộp bình luận Facebook

Soṇa Thiện Kim

Panha.org là trang web chuyên sâu về Pháp học của Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Tông), nơi cung cấp kiến thức và tài liệu quý báu về kinh điển, giáo lý, và triết học Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Tông). Tại đây, bạn có thể tìm hiểu về các giáo pháp truyền thống, kinh nghiệm tu tập, và những bài giảng từ các vị tôn sư hàng đầu trong cộng đồng Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Tông). Với mục tiêu giúp người học hiểu sâu hơn về con đường giác ngộ và sự giải thoát, Panha.org mang đến nguồn tài nguyên phong phú, chính xác và cập nhật để hỗ trợ hành giả trên hành trình tu tập Pháp học.

Bài viết liên quan

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.

0 Góp ý
Được bỏ phiếu nhiều nhất
Mới nhất Cũ nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Back to top button
Close

Phát hiện trình chặn quảng cáo

Hãy hùn phước với trang web Panha.org bằng cách vô hiệu hoá trình chặn quảng cáo (Thêm vào danh sách ngoại lệ được hiển thị quảng cáo), xem quảng cáo và nhấn vào quảng cáo trên Panha.org. Trang web Panha.org cần chi phí để duy trì hoạt động, để dịch chú giải, phụ chú giải, dịch lại Tam Tạng Theravadā từ Pāli, Thái Lan sang tiếng Việt, và để phát triển các nội dung bổ ích cho Pháp Học và Pháp Hành của Phật giáo Nguyên thủy (Theravadā). Ngoài ra, nếu sau các chi phí đó mà có dư, thì Soṇa Thiện Kim sẽ dùng số tiền dư để làm thiện pháp đến Tam Bảo. Do đó Soṇa Thiện Kim cần đặt quảng cáo để có các chi phí này. Mong Quý vị tu sĩ, cư sĩ hoan hỷ! Sādhu sādhu sādhu!