อรรถกถา อังคุตตรนิกาย เอกนิบาต เอตทัคคบาลี
Chú giải Thái Kinh Tăng Chi Bộ I – Chương 2 – Cửa sổ 3 / 9.
อรรถกถาสูตรที่ ๔
Chú giải kinh số 4.
ประวัติพระสุภูติเถระ
Tiểu sử Tôn giả Supputtha.
พึงทราบวินิจฉัยในพระสูตรที่ ๔ ดังต่อไปนี้.
Cần biết các giáo lý trong kinh số 4 như sau.
บทว่า ทกฺขิเณยฺยานํ แปลว่า ผู้ควรแก่ทักษิณา
Câu “ṭhāniyaṃ” có nghĩa là người đáng được cúng dường.
พระขีณาสพทั้งหลายเหล่าอื่นก็ชื่อว่า พระทักขิไณยบุคคลผู้เลิศ ในบทว่า ทกฺขิเณยฺยานํ นั้นก็จริง
Các bậc Thánh khác cũng được gọi là những người đáng được cúng dường, điều này cũng đúng.
ถึงอย่างนั้น พระเถระกำลังบิณฑบาตก็เข้าฌานมีเมตตาเป็นอารมณ์
Tuy nhiên, Tôn giả khi đi khất thực lại đắm chìm trong thiền định với tâm từ.
ออกจากสมาบัติแล้ว จึงรับภิกษาในเรือนทุกหลัง
Sau khi ra khỏi định, Ngài nhận thực phẩm từ mọi gia đình.
ด้วยทายกผู้ถวายภิกษาจักมีผลมาก เพราะฉะนั้น ท่านจึงเรียกว่า ผู้ควรแก่ทักขิณา
Với những người cúng dường, họ sẽ được lợi ích lớn lao; vì lý do đó, Ngài được gọi là người đáng được cúng dường.
อัตภาพของท่านงามดี รุ่งเรืองอย่างยิ่งดุจซุ้มประตูที่เขาประดับแล้วและเหมือนแผ่นผ้าวิจิตร
Hình dáng của Ngài đẹp đẽ và rực rỡ, giống như những cánh cửa được trang trí và như những tấm vải quý giá.
ฉะนั้นจึงเรียกว่า สุภูติ.
Do đó, Ngài được gọi là Supputtha.
ในปัญหากรรมของท่านมีเรื่องที่จะกล่าวตามลำดับดังต่อไปนี้ :-
Trong vấn đề nghiệp của Ngài, có câu chuyện sẽ được kể theo thứ tự như sau:
เล่ากันว่า ท่านสุภูตินี้เมื่อพระผู้มีพระภาคเจ้าพระนามว่าปทุมุตตระ ยังไม่ทรงอุบัติขึ้น
Người ta kể rằng, khi Đức Thế Tôn tên là Phatumutta chưa xuất hiện,
ได้บังเกิดในตระกูลพราหมณ์มหาศาล ในกรุงหงสวดี
Ngài đã sinh ra trong một gia đình Bà-la-môn vĩ đại ở thành Hongsawadi.
ญาติทั้งหลายขนานนามท่านว่า นันทมาณพ.
Người thân gọi Ngài là Nanda.
ท่านเจริญวัยแล้วเรียนไตรเพท
Khi Ngài trưởng thành, Ngài học Ba thư.
ไม่เห็นสาระในไตรเพทนั้น พร้อมด้วยบริวารของตนมีมาณพประมาณ ๔๔,๐๐๐ คนออกบวชเป็นฤาษี
Không thấy được nội dung của Ba thư, Ngài cùng với khoảng 44.000 môn đệ xuất gia làm đạo sĩ.
อยู่ ณ เชิงบรรพต ทำอภิญญา ๕ และสมาบัติ ๘ ให้บังเกิดแล้ว
Ngài cư trú ở chân núi, đã thực hành năm thần thông và tám định.
ได้กระทำแม้อันเตวาสิกทั้งหลายให้ได้ฌานแล้ว.
Ngài cũng đã giúp cho những người đi khất thực khác đạt được thiền định.
ในสมัยนั้น พระผู้มีพระภาคเจ้าพระนามว่าปทุมุตตระ ทรงบังเกิดในโลก ทรงอาศัยกรุงหงสวดีประทับอยู่.
Trong thời kỳ đó, Đức Thế Tôn tên là Phatumutta đã ra đời và trú ngụ tại thành Hongsawadi.
วันหนึ่ง ในเวลาใกล้รุ่งทรงตรวจดูสัตวโลก
Một ngày, vào buổi sáng sớm, Ngài đã xem xét chúng sinh.
ทรงเห็นอรหัตตุปนิสัยของเหล่าชฎิลอันเตวาสิกของนันทดาบส
Ngài thấy được sự thành tựu của các Tỳ kheo khất thực của Nanda.
และความปรารถนาตำแหน่งสาวกผู้ประกอบด้วยองค์ ๒ ของนันทดาบส
Cùng với ước nguyện đạt được vị trí của một thánh đệ tử trong tương lai của Nanda.
จึงทรงปฏิบัติพระสรีระแต่เช้า
Vì lý do đó, Ngài đã chuẩn bị cơ thể từ sớm.
ทรงถือบาตรและจีวรในเวลาเช้า เสด็จไปยังอาศรมของนันทดาบส โดยนัยที่ได้กล่าวแล้วในเรื่องของพระสารีบุตรเถระ
Ngài cầm bát và y vào buổi sáng, đi đến nơi của Nanda như đã đề cập trong câu chuyện về Tôn giả Sāriputta.
ในที่นั้น พึงทราบการถวายผลไม้น้อยใหญ่ก็ดี การตกแต่งปุปผาสนะก็ดี การเข้านิโรธสมาบัติก็ดี โดยนัยที่กล่าวแล้ว.
Tại đó, cần biết về việc cúng dường trái cây lớn nhỏ, việc trang trí hoa, và việc vào định bằng cách đã nói.
ก็พระศาสดาออกจากนิโรธสมาบัติ
Khi Đức Thế Tôn ra khỏi định,
ทรงส่งพระสาวกองค์หนึ่งผู้ประกอบด้วยองค์ ๒ คือ อรณวิหารองค์ ๑ ทักขิไณยองค์ ๑ ว่า เธอจงกระทำอนุโมทนาปุปผาสนะแก่คณะฤาษี ดังนี้.
Ngài đã gửi một thánh đệ tử có 2 phẩm hạnh: một là Arahant, một là Takkhīna, để thực hiện việc tán dương cúng dường cho các đạo sĩ.
พระเถระนั้นอยู่ในวิสัยของตนพิจารณาพระไตรปิฎกกระทำอนุโมทนา
Tôn giả đó, trong khả năng của mình, đã suy nghĩ về ba thư và thực hiện việc tán dương.
เมื่อจบเทศนาของท่านแล้ว พระศาสดาจึงทรงแสดง (ธรรม) ด้วยพระองค์เอง
Khi bài giảng của Ngài kết thúc, Đức Thế Tôn đã tự mình giảng dạy.
เมื่อจบเทศนา ดาบสทั้ง ๔๔,๐๐๐ ได้บรรลุพระอรหัตทุกรูป.
Khi kết thúc bài giảng, tất cả 44.000 đạo sĩ đều đạt được Arahant.
ส่วนนันทดาบสถือเอานิมิตแห่งภิกษุผู้อนุโมทนาไม่อาจส่งญาณไปตามแนวแห่งเทศนาของพระศาสดาได้
Còn Nanda không thể chuyển giao tri thức theo hướng của bài giảng của Đức Thế Tôn.
พระศาสดาทรงเหยียดพระหัตถ์ไปยังภิกษุที่เหลือว่า เอถ ภิกฺขโว (จงเป็นภิกษุมาเถิด)
Đức Thế Tôn đã đưa tay về phía các Tỳ kheo còn lại và nói: “Này các Tỳ kheo, hãy trở thành Tỳ kheo.”
ภิกษุทั้งหมดมีผมและหนวดอันตรธานแล้ว ครองบริขารอันสำเร็จด้วยฤทธิ์ปรากฏดุจพระเถระ ๑๐๐ พรรษา.
Tất cả các Tỳ kheo đều rụng tóc và râu, mặc y phục của bậc thầy như Tôn giả 100 tuổi.
นันทดาบสถวายบังคมพระตถาคตแล้วยืนเฉพาะพระพักตร์
Nanda đã quỳ lạy trước Đức Thế Tôn và đứng trước Ngài.
กราบทูลว่า พระเจ้าข้า ภิกษุผู้กระทำอนุโมทนาปุปผาสนะแก่คณะฤาษีมีนามว่าอะไรในศาสนาของพระองค์.
Ngài thưa rằng: “Bạch Ngài, người thực hiện việc tán dương cúng dường cho các đạo sĩ có tên gì trong giáo pháp của Ngài?”
ตรัสว่า ภิกษุนี้เป็นเอตทัคคะด้วยองค์คือความมีปกติอยู่โดยไม่มีกิเลส ๑ ด้วยองค์ของภิกษุผู้ควรทักษิณา ๑.
Ngài đã nói rằng: “Tỳ kheo này là người đứng đầu vì đã không có phiền não và cũng vì là người đáng được cúng dường.”
นันทดาบสได้ตั้งความปรารถนาว่า ข้าแต่พระองค์ผู้เจริญ ด้วยกรรมคือกุศลอันยิ่งที่ได้ทำมา ๗ วันนี้
Nanda đã phát nguyện: “Bạch Ngài, nhờ vào công đức lớn lao mà con đã thực hiện trong 7 ngày này,
ข้าพระองค์มิได้ปรารถนาสมบัติอื่น แต่ข้าพระองค์พึงเป็นผู้ประกอบด้วยองค์ ๒ เหมือนอย่างพระเถระนี้ในศาสนาของพระทศพลองค์หนึ่งในอนาคต.
con không mong cầu điều gì khác, nhưng cầu xin con sẽ trở thành người có 2 phẩm hạnh giống như Tôn giả này trong giáo pháp của Đức Thế Tôn trong tương lai.”
พระศาสดาทรงเห็นความไม่มีอันตรายจึงทรงพยากรณ์ แล้วเสด็จกลับไป.
Đức Thế Tôn thấy không có nguy hiểm nên đã tiên đoán và quay trở lại.
ฝ่ายนันทดาบสฟังธรรมในสำนักพระทศพลตามสมควรแก่กาล
Nanda đã nghe pháp trong thời gian thích hợp với Đức Thế Tôn.
ไม่เสื่อมจากฌานแล้วไปบังเกิดในพรหมโลก.
Ngài không rời bỏ thiền và đã tái sinh trong cõi trời.
อนึ่ง พระอรรถกถาจารย์มิได้กล่าวถึงกัลยาณกรรมของดาบสนี้ในระหว่างไว้.
Hơn nữa, người biên soạn không đề cập đến công đức của Nanda trong thời gian đó.
ล่วงไปแสนกัป ท่านมาบังเกิดในเรือนแห่งสุมนเศรษฐีในกรุงสาวัตถี
Sau một trăm kiếp, Ngài đã tái sinh trong gia đình của một người giàu tên là Suman ở thành Sāvatthī.
พวกญาติได้ขนานนามท่านว่า สุภูติ.
Người thân đã gọi Ngài là Supputtha.
ต่อมา พระศาสดาของพวกเราทรงบังเกิดในโลกอาศัย กรุงราชคฤห์ประทับอยู่.
Sau đó, Đức Thế Tôn của chúng ta đã ra đời tại thành Rājagaha.
ครั้งนั้น อนาถบิณฑิกเศรษฐีนำสินค้าที่ผลิตในกรุงสาวัตถีไปยังเรือนของราชคฤห์เศรษฐีสหายของตนทราบว่าพระศาสดาทรงอุบัติแล้ว
Khi đó, Anāthapiṇḍika đã đưa hàng hóa từ Sāvatthī đến nhà của một người bạn giàu có ở Rājagaha, biết rằng Đức Thế Tôn đã xuất hiện.
จึงเข้าไปเฝ้าพระศาสดาซึ่งประทับอยู่ ณ สีตวัน ด้วยการเฝ้าครั้งแรกนั่นเอง
Vì vậy, Ngài đã vào gặp Đức Thế Tôn đang ngự tại vườn Jetavana.
ได้ตั้งอยู่ในโสดาปัตติผล
Ngài đã đạt được quả vị của một thánh quả.
แล้วทูลอาราธนาพระศาสดาให้เสด็จมายังกรุงสาวัตถี ให้สร้างวิหารด้วยการบริจาคทรัพย์แสนหนึ่งๆ
Và sau đó đã xin Đức Thế Tôn đến Sāvatthī để xây dựng một ngôi chùa với việc cúng dường một trăm ngàn.
ทุกๆ โยชน์ตลอดทาง ๔๕ โยชน์
Tại mỗi dặm dọc đường 45 dặm,
ซื้อที่อุทยานของพระราชกุมารนามว่าเชต
đã mua một khu vườn của thái tử tên là Jetavana.
ประมาณ ๑๘ กรีสด้วยเครื่องนับของหลวงในกรุงสาวัตถี โดยเรียงทรัพย์โกฏิหนึ่งสร้างวิหารในที่ที่ซื้อนั้น
Khoảng 18 giri với tiền do chính quyền ở Sāvatthī, đã xây dựng một ngôi chùa tại nơi đó.
ถวายแด่พระผู้มีพระภาคเจ้าแล้ว.
Cúng dường cho Đức Thế Tôn.
ในวันฉลองวิหาร สุภูติกุฏุมพีก็ได้ไปฟังธรรมกับอนาถบิณฑิกเศรษฐี
Vào ngày lễ khánh thành chùa, Tôn giả Supputtha đã đến nghe pháp với Anāthapiṇḍika.
ได้ศรัทธาจึงบวช
Và đã phát tâm và xuất gia.
ท่านอุปสมบทแล้วกระทำมาติกา ๒ บทให้แคล่วคล่อง
Sau khi xuất gia, Ngài đã học thuộc hai bài kệ.
ให้บอกกัมมัฏฐานให้ บำเพ็ญสมณธรรมในป่าเจริญวิปัสสนา
Để giảng dạy thiền, Ngài đã thực hành giới luật trong rừng và phát triển trí tuệ.
กระทำเมตตาฌานให้เป็นบาท บรรลุอรหัตแล้ว.
Ngài thực hành thiền từ và đã đạt được Arahant.
เมื่อแสดงธรรมก็กล่าวธรรมโดยนัยที่กล่าวแล้วนั่นแล
Khi giảng dạy, Ngài đã diễn giải theo cách đã nói.
เมื่อเที่ยวบิณฑบาต ออกจากเมตตาฌานแล้วจึงรับภิกษาโดยนัยที่กล่าวแล้วเช่นกัน.
Khi đi khất thực, Ngài ra khỏi thiền từ và nhận thực phẩm như đã nói.
ครั้งนั้น พระศาสดาทรงอาศัยเหตุ ๒ อย่างนี้ จึงสถาปนาท่านไว้ในภิกษุผู้ควรแก่ทักษิณา แลตำแหน่งเอตทัคคะเป็นยอดของเหล่าภิกษุผู้มีปกติอยู่โดยไม่มีกิเลส.
Vào thời điểm đó, Đức Thế Tôn đã đặt Ngài vào vị trí là người đáng cúng dường và là người đứng đầu trong số các Tỳ kheo không có phiền não.
จบอรรถกถาสูตรที่ ๔
Kết thúc chú giải kinh số 4.