อรรถกถา อังคุตตรนิกาย เอกนิบาต เอตทัคคบาลี
Giải thích về Kinh Aṅguttara Nikāya – Ekaka Nipāta.
วรรคที่ ๒
Phần 2.
อรรถกถาสูตรที่ ๑-๒
Giải thích Kinh số 1-2.
ประวัติพระจุลลปัณฐกเถระและพระมหาปัณฐกเถระ
Lịch sử của Tôn giả Cūḷapānthaka và Tôn giả Mahāpānthaka.
วรรคที่ ๒ สูตรที่ ๑ พึงทราบวินิจฉัยดังต่อไปนี้.
Phần 2, Kinh số 1, xin hãy biết các phán quyết như sau.
บทว่า มโนมยํ ความว่า กายที่บังเกิดขึ้นด้วยใจ ในอาคตสถานที่ตรัสไว้ว่า “เข้าไปหาแล้วด้วยมโนมยิทธิทางกาย” ชื่อว่ากายมโนมัย.
Câu “manomayaṃ” có nghĩa là thân được sinh ra từ tâm. Trong các trường hợp đã được đề cập rằng “đi vào bằng cách sử dụng sức mạnh của tâm”, được gọi là thân “manomaya”.
กายที่บังเกิดขึ้นด้วยใจในอาคตสถานที่กล่าวไว้ว่า “ย่อมเข้าถึงกายอันสำเร็จด้วยใจอย่างใดอย่างหนึ่ง” ก็ชื่อว่ากายมโนมัย.
Thân được sinh ra từ tâm trong trường hợp được đề cập rằng “đạt đến thân do tâm hoàn thành theo cách nào đó” cũng được gọi là thân “manomaya”.
ในที่นี้ประสงค์เอากายมโนมัยนี้.
Tại đây, muốn đề cập đến thân manomaya này.
ในกายทั้ง ๒ อย่างนี้ ภิกษุทั้งหลายเหล่าอื่น เมื่อทำมโนมัยกายให้เกิดขึ้น ก็ทำให้เกิดขึ้น ๓ บ้าง ๔ บ้าง แต่ทำคนมากให้บังเกิดเป็นเหมือนคนเดียวกันไม่ได้.
Trong hai loại thân này, các Tỳ kheo khác khi làm cho thân manomaya xuất hiện, thì có thể làm cho xuất hiện 3 hoặc 4, nhưng không thể làm cho nhiều người trở thành giống như một người.
ชื่อว่ากระทำกรรมได้อย่างเดียวเท่านั้น.
Được gọi là chỉ có thể thực hiện hành động mà thôi.
ส่วนพระเถระชื่อว่าจุลลปัณฐก นิรมิตพระ ๑,๐๐๐ รูปได้ด้วยอาวัชชนะเดียว แต่กระทำแก่ ๒ คนให้เสมือนเป็นคนๆ เดียวกันไม่ได้ ชื่อว่ากระทำกรรมอย่างเดียวไม่ได้.
Còn Tôn giả có tên là Cūḷapānthaka đã tạo ra 1.000 hình thể bằng một điều kiện duy nhất, nhưng không thể làm cho 2 người giống như một người, nên được gọi là không chỉ thực hiện hành động mà thôi.
เพราะฉะนั้น ท่านชื่อว่า เป็นยอดของเหล่าภิกษุผู้นิรมิตมโนมัยกาย.
Do đó, ngài được gọi là người vĩ đại nhất trong số các Tỳ kheo đã tạo ra thân manomaya.
พระจุลลปัณฐกนับว่าเป็นยอดของเหล่าภิกษุ คือภิกษุผู้ฉลาดในเจโตวิวัฏฏะ.
Tôn giả Cūḷapānthaka được xem là người vĩ đại nhất trong số các Tỳ kheo, tức là những Tỳ kheo thông minh trong việc phát triển tâm.
ส่วนพระมหาปัณฐกเถระท่านกล่าวว่าเป็นยอดของเหล่าภิกษุผู้ฉลาดในปัญญาวิวัฏฏะ.
Còn Tôn giả Mahāpānthaka được xem là người vĩ đại nhất trong số các Tỳ kheo thông minh trong việc phát triển trí tuệ.
บรรดาทั้งสองรูปนั้น พระจุลลปัณฐกเถระ ท่านกล่าวว่าเป็นผู้ฉลาดในเจโตวิวัฏฏะ เพราะได้รูปาวจรฌาน ๔.
Trong số hai người này, Tôn giả Cūḷapānthaka được nói là người thông minh trong việc phát triển tâm vì đã đạt được bốn tầng thiền.
พระมหาปัณฐกเถระ ท่านกล่าวว่าเป็นผู้ฉลาดในปัญญาวิวัฏฏะ เพราะเป็นผู้ฉลาดในสมาบัติ.
Tôn giả Mahāpānthaka được nói là người thông minh trong việc phát triển trí tuệ vì ngài là người thông minh trong các thiền định.
พระมหาปัณฐกชื่อว่าผู้ฉลาดในปัญญาวิวัฏฏะ เพราะเป็นผู้ฉลาดในวิปัสสนา.
Tôn giả Mahāpānthaka được gọi là người thông minh trong việc phát triển trí tuệ vì ngài là người thông minh trong việc thiền quán.
เจโตวิวฏฺฏกุสลานมฺปิ จูฬปนฺถโกว อคฺโค ปญฺญาวิวฏฺฏกุสลานมฺปน
Ngài Cūḷapānthaka được biết đến với khả năng phát triển tâm, cũng như Tôn giả Mahāpānthaka được biết đến với khả năng phát triển trí tuệ.
มหาปนฺถกตฺเถโร อคฺโคติ วุตฺโต ฯ
Tôn giả Mahāpānthaka được biết đến như vậy.
ตตฺถ จูฬปนฺถกตฺเถโร จตุนฺนํ รูปาวจรชฺฌานานํ ลาภิตาย เจโตวิวฏฺฏกุสโลติ วุตฺโต
Tại đó, Tôn giả Cūḷapānthaka được nói là người thông minh trong việc phát triển tâm vì đã đạt được bốn tầng thiền sắc giới.
มหาปนฺถกตฺเถโร จตุนฺนํ อรูปาวจรชฺฌานานํ ลาภิตาย ปญฺญาวิวฏฺฏกุสโลติ วุตฺโต ฯ
Tôn giả Mahāpānthaka được nói là người thông minh trong việc phát triển trí tuệ vì đã đạt được bốn tầng thiền vô sắc.
จูฬปนฺถโก จ สมาปตฺติกุสลตาย เจโตวิวฏฺฏกุสโล นาม
Ngài Cūḷapānthaka được gọi là người thông minh trong việc phát triển tâm nhờ vào sự chứng đắc.
มหาปนฺถโก วิปสฺสนากุสลตาย ปญฺญาวิวฏฺฏกุสโล นาม.
Tôn giả Mahāpānthaka được gọi là người thông minh trong việc phát triển trí tuệ nhờ vào thiền quán.
# ๑. ม. ยุ. สญฺญาวิวฏฺฏ… ฯ เอวมุปริปิ ฯ
# 1. M. Yu. Saññāvivatta… Vậy là đã như vậy.
อนึ่ง ในภิกษุ ๒ รูปนี้ รูปหนึ่งฉลาดในลักขณะสมาธิ รูปหนึ่งฉลาดในลักขณะแห่งวิปัสสนา.
Ngoài ra, trong hai Tỳ kheo này, một vị thông minh trong lakkhaṇa của thiền định, trong khi vị kia thông minh trong lakkhaṇa của thiền quán.
อนึ่ง รูปหนึ่งฉลาดในการหยั่งลงสมาธิ รูปหนึ่งฉลาดในการหยั่งลงสู่วิปัสสนา.
Ngoài ra, một vị thông minh trong việc thâm nhập thiền định, còn vị kia thông minh trong việc thâm nhập thiền quán.
อีกนัยหนึ่ง ใน ๒ รูปนี้ รูปหนึ่งฉลาดในการย่อองค์ รูปหนึ่งฉลาดในการย่ออารมณ์.
Nói cách khác, trong hai vị này, một vị thông minh trong việc tóm lược các yếu tố, còn vị kia thông minh trong việc tóm lược các cảm giác.
อีกนัยหนึ่ง องค์หนึ่งฉลาดในการกำหนดองค์ องค์หนึ่งฉลาดในการกำหนดอารมณ์.
Theo một nghĩa khác, một vị thông minh trong việc xác định các yếu tố, còn vị kia thông minh trong việc xác định các cảm xúc.
พึงกระทำการประกอบความในภิกษุ ๒ รูปนี้ด้วยประการดังกล่าวมานี้.
Cần phải thực hiện việc kết hợp những điều này trong hai Tỳ kheo này theo cách đã nói.
อีกอย่างหนึ่ง พระจุลลปัณฐกเถระเป็นผู้ได้รูปาวจรฌาน ออกจากองค์ฌาน แล้วบรรลุพระอรหัต ฉะนั้น จึงชื่อว่าเป็นผู้ฉลาดในเจโตวิวัฏฏะ
Một điều nữa, Tôn giả Cūḷapānthaka đã đạt được bốn tầng thiền sắc giới, rời khỏi thiền định và đạt được A-la-hán, vì vậy được gọi là người thông minh trong việc phát triển tâm.
พระมหาปัณถกเป็นผู้ได้อรูปาวจรฌาน ออกจากองค์ฌานแล้วบรรลุพระอรหัต ฉะนั้น จึงชื่อว่าเป็นผู้ฉลาดในปัญญาวิวัฏฏะ
Tôn giả Mahāpānthaka là người đã đạt được bốn tầng thiền vô sắc, rời khỏi thiền định và đạt được A-la-hán, vì vậy được gọi là người thông minh trong việc phát triển trí tuệ.
พระเถระทั้ง ๒ รูปที่มีชื่อว่าปัณฐกะ เพราะท่านเกิดที่หนทางทั้งสองรูปนั้น
Cả hai Tôn giả này có tên là Pānthaka vì họ sinh ra tại hai con đường khác nhau.
รูปที่เกิดก่อนชื่อว่ามหาปนฺถกะ อีกรูปหนึ่งชื่อว่าจุลลปัณฐกะ
Người sinh ra trước được gọi là Mahāpānthaka, còn người sinh ra sau được gọi là Cūḷapānthaka.
ก็ในปัญหากรรมของพระเถระทั้ง ๒ รูปนี้มีเรื่องที่จะกล่าวตามลำดับดังต่อไปนี้.
Trong vấn đề nghiệp của hai Tôn giả này, có những câu chuyện sẽ được đề cập theo thứ tự như sau.
ก็ในอดีตกาล ครั้งพระพุทธเจ้าพระนามว่าปทุมุตตระ มีกุฏุมพี ๒ พี่น้องเป็นชาวเมืองหงสวดี เลื่อมใสในพระศาสดาไปฟังธรรมสำนักพระศาสดาเป็นนิตย์.
Trong quá khứ, vào thời Đức Phật Tathāgata tên là Phatumuttara, có hai anh em Bà-la-môn sống ở thành Hongsavadi, tin tưởng vào Đức Thế Tôn và thường xuyên đến nghe pháp từ Ngài.
ในกุฏุมพี ๒ พี่น้องนั้น วันหนึ่งน้องชายเห็นพระศาสดาสถาปนาภิกษุรูปหนึ่งผู้ประกอบด้วยองค์ ๒ ไว้ในตำแหน่งเอตทัคคะว่า ภิกษุรูปนี้เป็นยอดของเหล่าภิกษุผู้เนรมิตกายมโนมัยและเป็นผู้ฉลาดในเจโตวิวัฏฏะในศาสนาของเรา
Một ngày nọ, người em trai thấy Đức Thế Tôn chỉ định một Tỳ kheo với hai yếu tố trong vị trí vĩ đại nhất và nói rằng: “Tỳ kheo này là người xuất sắc nhất trong số các Tỳ kheo đã tạo ra thân manomaya và là người thông minh trong việc phát triển tâm trong giáo pháp của chúng ta”.
จึงคิดว่า น่าอัศจรรย์หนอ ภิกษุนี้เป็นคนเดียวทำ ๒ องค์ให้บริบูรณ์ เที่ยวไปได้ แม้เราก็ควรเป็นผู้บำเพ็ญมีองค์ ๒ เที่ยวไปในศาสนาของพระพุทธเจ้าองค์หนึ่งในอนาคต ดังนี้.
Ngài nghĩ rằng: “Thật kỳ diệu, Tỳ kheo này là người duy nhất làm cho hai yếu tố hoàn thiện và có thể đi khắp nơi. Chúng ta cũng nên trở thành người thực hành với hai yếu tố trong giáo pháp của một Đức Phật trong tương lai”.
เขาจึงนิมนต์พระศาสดา ถวายมหาทานโดยนัยก่อนนั่นแล แล้วทูลอย่างนี้ว่า ข้าแต่พระองค์ผู้เจริญ ภิกษุที่พระองค์สถาปนาไว้ในตำแหน่งเอตทัคคะว่าเป็นยอดในศาสนาของพระองค์ ด้วยองค์มโนมัยและด้วยความเป็นผู้ฉลาดในเจโตวิวัฏฏะ ในที่สุดแห่งวัน ๗ แต่นี้ แม้ข้าพระองค์ก็พึงเป็นผู้บำเพ็ญองค์ ๒ บริบูรณ์เหมือนภิกษุนั้น ด้วยผลแห่งกรรมอันเป็นอธิการนี้เถิด.
Ngài đã mời Đức Thế Tôn và dâng cúng dường lớn theo cách đã nói trước đó, rồi thưa rằng: “Kính bạch Ngài, Tỳ kheo mà Ngài đã chỉ định làm người vĩ đại trong giáo pháp của Ngài, với thân manomaya và sự thông minh trong việc phát triển tâm, trong 7 ngày tới đây, con cũng mong muốn trở thành người thực hành với hai yếu tố giống như vị Tỳ kheo đó, nhờ vào công đức lớn này.”
พระศาสดาทรงตรวจดูอนาคตก็ทรงเห็นว่า ความปรารถนาท่านจะสำเร็จโดยหาอันตรายมิได้ ทรงพยากรณ์ว่า ในอนาคตในที่สุดแห่งแสนกัป พระพุทธเจ้าพระนามว่าโคตมะ จักทรงอุบัติขึ้น พระองค์จักสถาปนาเธอไว้ในฐานะ ๒ นี้ ดังนี้ ทรงกระทำอนุโมทนา แล้วเสด็จกลับไป.
Đức Thế Tôn đã xem xét tương lai và thấy rằng nguyện vọng của ngài sẽ thành hiện thực mà không có bất kỳ nguy hiểm nào. Ngài đã tiên đoán rằng, trong tương lai, vào cuối thời gian của một trăm ngàn kiếp, sẽ có một Đức Phật tên là Gotama xuất hiện. Ngài sẽ phong ngài vào vị trí này. Sau đó, Ngài đã chúc phúc và trở về.
แม้พี่ชายของท่านในวันหนึ่ง เห็นพระศาสดาทรงสถาปนาภิกษุผู้ฉลาดในปัญญาวิวัฏฏะไว้ในตำแหน่งเอตทัคคะ ก็กระทำบุญกุศลเหมือนอย่างนั้น กระทำความปรารถนาแล้ว แม้พระศาสดาก็ทรงพยากรณ์ท่านแล้ว.
Một ngày nọ, người anh của ngài thấy Đức Thế Tôn đã chỉ định một Tỳ kheo thông minh trong việc phát triển trí tuệ vào vị trí vĩ đại nhất, cũng đã thực hiện những việc thiện như vậy và cũng đã làm nguyện vọng. Đức Thế Tôn cũng đã tiên đoán cho ngài.
ทั้ง ๒ พี่น้องนั้นเมื่อพระศาสดายังทรงพระชนม์อยู่กระทำกุศลกรรมแล้ว เมื่อเวลาพระศาสดาปรินิพพานแล้ว ได้บูชาด้วยทองที่พระเจดีย์บรรจุพระสรีระ จุติจากภพนั้นแล้วไปบังเกิดในเทวโลก เมื่อ ๒ พี่น้องเวียนว่ายอยู่ในเทวดาและมนุษย์ล่วงไปถึงแสนกัป.
Cả hai anh em đó đã làm các việc thiện trong thời kỳ Đức Thế Tôn còn sống, và sau khi Ngài nhập Niết-bàn, họ đã cúng dường bằng vàng tại tháp chứa di hài của Ngài. Họ đã từ bỏ cõi đó và sinh ra trong cõi trời, và sau khi trải qua hàng trăm ngàn kiếp trong cõi trời và loài người.
ในชนทั้ง ๒ นั้น ข้าพเจ้าจะไม่กล่าวกัลยาณกรรมที่มหาปัณฐกะกระทำไว้ในระหว่างๆ ส่วนจุลลปัณฐกะออกบวชในศาสนาของพระผู้มีพระภาคเจ้าพระนามว่ากัสสป เจริญโอทาตกสิณล่วงไป ๒๐,๐๐๐ ปี ไปบังเกิดในสวรรค์.
Trong số hai người này, tôi sẽ không nói về các việc thiện mà Tôn giả Mahāpānthaka đã thực hiện. Còn Tôn giả Cūḷapānthaka thì đã xuất gia dưới giáo pháp của Đức Phật Kassapa và phát triển thiền chỉ trong 20.000 năm, sau đó đã sinh ra trong cõi trời.
ครั้นภายหลังพระศาสดาของเราทรงบรรลุพระอภิสัมโพธิญาณ ทรงประกาศพระธรรมจักรอันประเสริฐแล้วทรงอาศัยกรุงราชคฤห์ ประทับอยู่ ณ เวฬุวันมหาวิหาร ควรจะกล่าวถึงความบังเกิดของชนทั้ง ๒ นั้น.
Sau đó, khi Đức Thế Tôn của chúng ta đạt được giác ngộ tuyệt đối và tuyên bố bánh xe pháp vĩ đại, Ngài đã sống ở thành Rajagaha tại vườn Veḷuvana. Cần phải đề cập đến sự ra đời của cả hai người này.
ได้ยินว่า กุลธิดาของธนเศรษฐีในกรุงราชคฤห์ กระทำการลักลอบกับทาสของตนเอง แล้วคิดว่า หากคนอื่นๆ รู้กรรมนี้ของเราก็กลัว กล่าวอย่างนี้ว่า เราไม่อาจอยู่ในที่นี้ได้ ถ้าหากว่ามารดาบิดาของเรารู้ความผิดอันนี้ จักกระทำเราให้เป็นชิ้นเล็กชิ้นน้อย จำเราจะไปอยู่ต่างถิ่นกันเถิด จัดถือเอาแต่ของสำคัญติดมือไปได้แล้วพากันออกทางประตูใหญ่ ไปอยู่ยังที่ๆ ไม่มีคนอื่นรู้จักเถิด.
Nghe nói rằng, con gái của một gia đình Bà-la-môn ở thành Rajagaha đã có mối quan hệ lén lút với người nô lệ của mình, và nghĩ rằng nếu người khác biết về hành động này thì sẽ sợ hãi. Cô nói rằng: “Tôi không thể ở đây được, nếu cha mẹ tôi biết về lỗi lầm này, họ sẽ làm tôi tan nát. Tôi sẽ đi đến nơi khác vậy. Hãy lấy những thứ quan trọng mang theo, rồi đi ra cửa lớn đến nơi không ai biết đến.”
คนทั้ง ๒ ก็พากันออกไป เมื่อชนทั้ง ๒ นั้นอยู่ในที่แห่งหนึ่ง อาศัยความอยู่ร่วมกัน นางก็ตั้งครรภ์แล้ว พอครรภ์แก่จัด นางจึงปรึกษากับสามีว่า ครรภ์เราแก่มากแล้ว ธรรมดาการคลอดในที่ที่ไม่มีญาติเผ่าพันธ์เป็นความลำบากแก่เราทั้งสองแท้จริง เราไปเรือนสกุลกันเถอะ.
Cả hai người đã ra đi. Khi họ ở tại một nơi nào đó, do sống chung, người phụ nữ đã mang thai. Khi bụng bầu đã lớn, cô đã thảo luận với chồng: “Bụng của tôi đã lớn rồi, việc sinh ở nơi không có người thân thì thật là khó khăn cho cả hai chúng ta. Chúng ta hãy về nhà đi.”
สามีพูดผลัดว่า วันนี้จะไป พรุ่งนี้ค่อยไป จนล่วงไปหลายวัน.
Người chồng trả lời rằng: “Hôm nay sẽ đi, ngày mai hãy đi,” cho đến khi nhiều ngày đã trôi qua.
นางจึงคิดว่า ผู้นี้เป็นคนโง่ไม่กล้า ไปหรือไม่ไปก็ช่าง เราควรไป เมื่อสามีออกจากบ้านไปก็เก็บข้าวของไว้ในเรือน บอกแก่คนอยู่บ้านติดกันว่า ตนไปเรือนสกุลแล้วก็ออกเดินทาง.
Cô nghĩ rằng: “Người này thật ngu ngốc và không dám đi. Đi hay không cũng không quan trọng. Tôi nên đi thôi.” Khi chồng rời khỏi nhà, cô đã thu dọn đồ đạc và nói với người hàng xóm rằng: “Tôi sẽ về nhà,” rồi bắt đầu lên đường.
ทีนั้น บุรุษนั้นกลับมาเรือนไม่เห็นนาง ถามคนคุ้นเคยกันทราบว่า ไปเรือนสกุลจึงรีบติดตามไปทันกันในระหว่างทาง นางก็คลอดบุตรในที่นั้นนั่นเอง.
Khi đó, người chồng trở về nhà mà không thấy vợ, hỏi những người quen và biết rằng cô đã về nhà. Anh liền vội vàng theo sau. Trên đường đi, cô đã sinh con tại đó.
บุรุษนั้นถามว่า นี้อะไรนางผู้เจริญ. นางตอบว่า นายลูกเกิดคนหนึ่งแล้ว.
Người chồng hỏi: “Cái gì vậy, thưa vợ?” Cô trả lời: “Thưa chồng, con đã sinh ra một đứa trẻ.”
บุรุษนั้นถามว่าบัดนี้เราจะทำอย่างไร.
Người chồng hỏi: “Bây giờ chúng ta sẽ làm gì đây?”
นางกล่าวว่า เราจะไปเรือนสกุลเพื่อประโยชน์แก่การใด การนั้นสำเร็จแล้วในระหว่าง เราไปที่นั้นแล้วจะทำอะไรได้ กลับกันเถิด.
Cô nói: “Chúng ta sẽ về nhà để làm gì? Khi việc đó đã hoàn thành, chúng ta sẽ làm gì ở đó? Hãy quay lại đi.”
สองสามีภรรยานั้นมีใจตรงกันจึงกลับ.
Cả hai vợ chồng đều có cùng một ý kiến nên đã quay trở lại.
ก็สองสามีภรรยาตั้งชื่อบุตรว่า ปัณฐกะ เพราะทารกนั้นเกิดที่หนทาง.
Cặp vợ chồng đó đã đặt tên cho đứa trẻ là Pānthaka vì đứa bé đó được sinh ra trên đường.
อีกไม่นานนัก นางก็ตั้งครรภ์บุตรอีกคนหนึ่ง เรื่องทั้งหมดพึงกล่าวให้พิสดารโดยนัยก่อนนั่นเทียว.
Chẳng bao lâu, cô lại mang thai thêm một đứa trẻ. Tất cả câu chuyện này sẽ được đề cập chi tiết sau đây.
เขาตั้งชื่อบุตรที่เกิดก่อนว่า มหาปัณฐก บุตรที่เกิดทีหลังว่า จุลลปัณฐก เพราะทารกทั้งสองนั้นเกิดที่หนทาง.
Họ đã đặt tên cho đứa trẻ sinh ra trước là Mahāpānthaka và đứa trẻ sinh ra sau là Cūḷapānthaka, vì cả hai đứa trẻ đó đều được sinh ra trên đường.
ชนทั้งสองนั้นพาทารกทั้งสองไปยังที่อยู่ของตนตามเดิม.
Cả hai người đó đã đưa cả hai đứa trẻ về nơi ở của họ như trước.
เมื่อชนเหล่านั้นอยู่ในที่นั้น เด็กมหาปัณฐกะได้ยินเด็กอื่นๆ เรียก อา ลุง ปู่ ย่า จึงถามมารดาว่า แม่จ๋า เด็กอื่นๆ เรียกปู่ เรียกย่า ก็ญาติของพวกเราในที่นี้ไม่มีบ้างหรือ.
Khi mọi người ở đó, cậu bé Mahāpānthaka nghe những đứa trẻ khác gọi “Ông, Bà, Cô, Dì” nên đã hỏi mẹ mình: “Mẹ ơi, những đứa trẻ khác gọi ông, gọi bà, vậy trong đây không có người thân nào của chúng ta sao?”
นางตอบว่า จริงสิ ลูก ญาติของเราในที่นี้ไม่มีดอก แต่ในกรุงราชคฤห์ตาของเจ้าชื่อธนเศรษฐี ในกรุงราชคฤห์นั้นมีญาติของเจ้าเป็นอันมาก.
Cô trả lời: “Đúng vậy, con yêu. Trong đây không có người thân của chúng ta, nhưng ở thành Rajagaha, ông con tên là Dhana có rất nhiều họ hàng.”
เพราะเหตุไรเราจึงไม่ไปกันในกรุงราชคฤห์นั้นละแม่.
“Vì sao chúng ta không đi đến thành Rajagaha nhỉ, mẹ?”
นางมิได้เล่าเหตุที่ตนมาแก่บุตร เมื่อบุตรพูดบ่อยๆ จึงบอกสามีว่า เด็กๆ เหล่านี้รบเร้าเหลือเกิน พ่อแม่ของเราเห็นแล้วจักกินเนื้อหรือ มาเถอะ เราจะไปชี้สกุลตายายแก่เด็กๆ.
Cô không nói cho con biết lý do mà cô đã đến đây. Khi con cô liên tục hỏi, cô đã nói với chồng: “Những đứa trẻ này làm phiền quá. Cha mẹ của chúng thấy chúng thì sẽ ăn thịt chúng sao? Hãy đi thôi, chúng ta sẽ chỉ cho chúng biết về ông bà của chúng.”
สามีกล่าวว่า ฉันไม่อาจเผชิญหน้าได้ แต่ว่าจักพาไปได้.
Người chồng nói: “Tôi không thể đối mặt với họ, nhưng tôi sẽ dẫn đi.”
นางกล่าวว่า ดีละนาย เราควรให้เด็กๆ เห็นตระกูลตาด้วยอุบายอย่างหนึ่ง จึงควร.
Cô nói: “Được rồi, chúng ta nên cho bọn trẻ thấy gia đình ông của chúng bằng một cách nào đó thì sẽ tốt.”
ทั้งสองคนจึงพาทารกไปจนถึงกรุงราชคฤห์โดยลำดับ พักที่ศาลาแห่งหนึ่งใกล้ประตูนคร.
Hai người đã dẫn hai đứa trẻ đến thành Rajagaha, dừng lại tại một cái chòi gần cổng thành.
มารดาเด็กส่งข่าวไปบอกแก่มารดาบิดาว่าพาเด็ก ๒ คนมา.
Người mẹ đã gửi tin tức đến cha mẹ của cô, nói rằng: “Tôi đã đưa hai đứa trẻ đến.”
สัตว์ที่เวียนว่ายอยู่ในสงสารวัฎชื่อว่าจะไม่เป็นบุตรจะไม่เป็นธิดากันไม่มี.
Các sinh vật đang luân hồi trong vòng sinh tử không có ai gọi là con cái hay con gái.
มารดาบิดานั้นได้ฟังข่าวแล้วส่งคำตอบไปว่า คนทั้งสองมีความผิดต่อเรามาก ไม่อาจอยู่ในสายตาของเราได้
Cha mẹ của cô nghe tin rồi đã gửi câu trả lời rằng: “Hai người này đã làm lỗi lớn với chúng ta, không thể ở trong tầm mắt của chúng ta được.”
ทั้ง ๒ คนจงถือเอาทรัพย์มีประมาณเท่านี้ไปอยู่ยังสถานที่ที่เป็นผาสุกเถิด แต่จงส่งเด็กๆ มาให้เรา.
“Vậy cả hai hãy cầm lấy số tài sản này và đi đến nơi nào an lành. Nhưng hãy gửi hai đứa trẻ đến với chúng ta.”
ธิดาเศรษฐีรับเอาทรัพย์ที่มารดาบิดาส่งไปแล้วมอบเด็กทั้ง ๒ ไว้ในมือทูตที่มาแล้วนั้นแล.
Cô con gái Bà-la-môn đã nhận số tài sản mà cha mẹ gửi đến rồi giao hai đứa trẻ cho người sứ giả.
เด็กทั้ง ๒ นั้นเติบโตอยู่ในตระกูลของตา.
Hai đứa trẻ đó đã lớn lên trong gia đình của ông.
ในพี่น้องทั้งสองนั้น จุลลปัณฐกะยังเด็กเกินไป ส่วนมหาปัณฐกะไปฟังธรรมกถาของพระทศพลพร้อมกับตา เมื่อเขาฟังธรรมต่อพระพักตร์พระศาสดาอยู่เป็นประจำ จิตก็น้อมไปในบรรพชาเขาพูดกับตาว่า ถ้าตาอนุญาต หลานจะออกบวช.
Trong hai anh em, Cūḷapānthaka còn quá nhỏ, trong khi Mahāpānthaka đã nghe pháp thoại của Đức Thế Tôn cùng với ông. Khi thường xuyên nghe pháp trước mặt Đức Thế Tôn, tâm của cậu đã hướng về việc xuất gia, và cậu đã nói với ông: “Nếu ông cho phép, cháu sẽ xuất gia.”
ตากล่าวว่า พูดอะไรพ่อ การบรรพชาของเจ้าผู้ออกบวชแล้วเป็นความเจริญทั้งแก่เราแลทั้งแก่โลกทั้งสิ้น ถ้าเจ้าสามารถก็จงบวชเถิดพ่อ ดังนี้รับคำแล้วพากันไปยังสำนักพระศาสดา.
Ông nói: “Con nói gì vậy, con? Việc xuất gia của con không chỉ mang lại lợi ích cho chúng ta mà còn cho cả thế giới. Nếu con có thể, hãy xuất gia đi.” Nói xong, họ cùng nhau đến gặp Đức Thế Tôn.
พระศาสดาตรัสว่า มหาเศรษฐี ท่านได้ทารกแล้วหรือ
Đức Thế Tôn hỏi: “Ông Dhana, ông đã có đứa trẻ chưa?”
ศ. พระเจ้าข้า ทารกผู้นี้เป็นหลานของข้าพระองค์ เขาบอกว่าจะบวชในสำนักของพระองค์.
Người trả lời: “Kính bạch Ngài, đứa trẻ này là cháu của con. Nó đã nói rằng nó muốn xuất gia dưới giáo pháp của Ngài.”
พระศาสดาจึงตรัสมอบภิกษุผู้ถือบิณฑบาตเป็นวัตรรูปหนึ่งว่า เธอจงให้ทารกนี้บวชเถิด
Đức Thế Tôn đã chỉ định một Tỳ kheo đang thực hiện việc khất thực rằng: “Hãy cho đứa trẻ này xuất gia.”
พระเถระบอกตจปัญจกกัมมัฏฐานแก่ทารกนั้นแล้ว ให้บรรพชาแล้ว
Tôn giả đã hướng dẫn đứa trẻ đó về năm phương pháp thiền, rồi cho nó xuất gia.
ท่านเรียนพระพุทธวจนะได้มาก มีพรรษาครบ แล้วก็อุปสมบท ครั้นอุปสมบทแล้วก็กระทำกิจกรรมในความใส่ใจโดยอุบายอันแยบคายจนได้อรูปาวจรฌาน ๔ ออกจากองค์ฌานแล้วได้บรรลุพระอรหัต ดังนั้น ท่านจึงเป็นยอดของบรรดาภิกษุผู้ฉลาดในปัญญาวิวัฏฏะ.
Ngài đã học rất nhiều giáo lý Phật, đã đủ tuổi xuất gia, rồi được thụ giới. Sau khi thụ giới, ngài đã thực hiện các công việc với sự chú ý tinh tế cho đến khi đạt được bốn tầng thiền vô sắc, rời khỏi thiền định và đạt được A-la-hán. Do đó, ngài trở thành người vĩ đại nhất trong số các Tỳ kheo thông minh trong việc phát triển trí tuệ.
ท่านยับยั้งอยู่ด้วยความสุขในฌาน ความสุขในมรรค ความสุขในนิพพาน จึงคิดว่า เราอาจให้ความสุขชนิดนี้แก่จุลลปัณฐกะได้ไหมหนอ
Ngài ở lại trong hạnh phúc của thiền định, hạnh phúc của con đường, và hạnh phúc của Niết-bàn, rồi nghĩ: “Liệu tôi có thể mang lại hạnh phúc này cho Cūḷapānthaka không nhỉ?”
แต่นั้นจึงไปยังสำนักของเศรษฐีผู้เป็นตา กล่าวว่า ท่านมหาเศรษฐี ถ้าโยมอนุญาต อาตมะจะให้จุลลปัณฐกะบวช.
Và sau đó, ngài đã đến gặp ông Dhana, người ông của cậu bé, nói rằng: “Kính bạch Ngài, nếu Ngài cho phép, tôi sẽ cho Cūḷapānthaka xuất gia.”
เศรษฐีกล่าวว่า จงให้บวชเถิดท่าน.
Ông Dhana nói: “Hãy cho nó xuất gia đi.”
พระเถระให้จุลลปัณฐกะบวชแล้วให้ตั้งอยู่ในศีล ๑๐.
Tôn giả đã cho Cūḷapānthaka xuất gia và thiết lập cậu ta trong mười giới.
สามเณรจุลลปัณฐกะเรียนคาถาในสำนักของพระพี่ชายว่าดังนี้.
Cậu bé Cūḷapānthaka đã học thuộc các bài kệ tại nơi của người anh mình như sau.
ปทฺทมํ ยถา โกกนุทํ สุคนฺธํ
Như hoa sen tuyệt đẹp, có hương thơm.
ปาโต สิยา ผุลฺลมวีตคนฺธํ
Buổi sáng, nó tỏa hương thơm ngát.
องฺคีรสํ ปสฺส วิโรจมานํ
Hãy nhìn xem Tôn giả Aṅgīrasa, đang tỏa sáng.
ตปนฺตมาทิจฺจมิวนฺตลิกฺเข.
Giống như mặt trời, chiếu sáng trong không gian, giống như hoa sen tuyệt vời tên gọi là Gokunatha, nở rộ vào buổi sáng, không thiếu hương thơm như vậy.
เชิญท่านดูพระอังคีรส ผู้รุ่งเรืองอยู่ ดุจพระอาทิตย์
Hãy nhìn Tôn giả Aṅgīrasa, người đang tỏa sáng như mặt trời.
ส่องแสงอยู่ในอากาศ เหมือนดอกปทุมวิเศษชื่อ
Người chiếu ánh sáng trong không gian, giống như hoa sen tuyệt đẹp tên gọi.
โกกนุทะ มีกลิ่นหอมบานอยู่แต่เช้า ไม่ปราศจากกลิ่นฉะนั้น.
Gokunatha, nở rộ với hương thơm vào buổi sáng, không thiếu hương thơm như vậy.
บทที่ท่านเรียนๆ ไว้แล้ว ก็หายไปเมื่อมาเรียนบทที่สูงๆ ขึ้นไป ท่านพยายามเรียนคาถานี้อย่างเดียวเวลาก็ล่วงไปถึง ๔ เดือน.
Các bài học mà ngài đã học thì biến mất khi ngài học những bài cao hơn. Ngài đã cố gắng học thuộc bài kệ này trong suốt 4 tháng.
คราวนั้น พระมหาปัณฐกะกล่าวกะท่านว่า ปัณฐกะเธอเป็นอภัพพในศาสนานี้ เธอจำคาถาแม้บทเดียวก็ไม่ได้เป็นเวลาถึง ๔ เดือน เธอจะทำกิจของบรรพชิตให้สำเร็จได้อย่างไร เธอจงออกไปจากที่นี้เสีย.
Lần đó, Tôn giả Mahāpānthaka đã nói với ngài: “Pānthaka, ngươi thật là bất hạnh trong giáo pháp này. Ngươi không thể nhớ nổi một bài kệ nào trong suốt 4 tháng, thì làm sao có thể hoàn thành công việc của một người xuất gia? Ngươi hãy rời khỏi đây đi.”
ท่านถูกพระเถระขับไล่จึงไปยืนร้องไห้อยู่ ณ ท้ายพระวิหาร.
Ngài bị Tôn giả đuổi đi, nên đã đứng khóc ở cuối chùa.
สมัยนั้น พระศาสดาทรงเข้าอาศัยกรุงราชคฤห์ ประทับอยู่ในชีวกัมพวันสวนมะม่วงของหมอชีวก.
Vào thời điểm đó, Đức Thế Tôn đang sống ở thành Rajagaha, tại vườn Mango của bác sĩ Jīvaka.
ขณะนั้น หมอชีวกใช้บุรุษไปทูลนิมนต์พระศาสดากับภิกษุ ๕๐๐ รูป และสมัยนั้น พระมหาปัณฐกะเป็นเจ้าหน้าที่แจกอาหาร.
Khi đó, bác sĩ Jīvaka đã cử một người đến mời Đức Thế Tôn cùng với 500 Tỳ kheo. Vào lúc đó, Tôn giả Mahāpānthaka là người phụ trách phát thực phẩm.
เมื่อบุรุษนั้นกล่าวนิมนต์ว่า ท่านขอรับ ขอนิมนต์พระภิกษุ ๕๐๐ รูป. ท่านก็กล่าวว่า ฉันรับสำหรับภิกษุที่เหลือเว้นแต่พระจุลลปัณฐกะ.
Khi người đó nói lời mời: “Kính bạch Ngài, xin mời 500 Tỳ kheo.” Ngài đã trả lời: “Tôi chỉ nhận cho các Tỳ kheo còn lại, ngoại trừ Cūḷapānthaka.”
พระจุลลปัณฐกะได้ฟังคำนั้นก็โทมนัสเหลือประมาณ.
Nghe những lời đó, Tôn giả Cūḷapānthaka cảm thấy vô cùng đau khổ.
พระศาสดาทรงเห็นพระจุลลปัณถกะร้องไห้อยู่ ทรงดำริว่า จุลลปัณฐกะเมื่อเราไปจักตรัสรู้ จึงเสด็จไปแสดงพระองค์ในที่ที่ไม่ไกลแล้วตรัสว่า ปัณฐกะ เธอร้องไห้ทำไม.
Đức Thế Tôn thấy Tôn giả Cūḷapānthaka đang khóc, Ngài suy nghĩ: “Cūḷapānthaka sẽ chứng ngộ khi chúng ta đến.” Ngài liền đến gần và hỏi: “Pānthaka, tại sao con lại khóc?”
ป. พี่ชายขับไล่ข้าพระองค์ พระเจ้าข้า.
Ngài trả lời: “Kính bạch Ngài, anh con đã đuổi con đi.”
พ. ปัณฐกะ พี่ชายของเธอไม่มีอาสยานุสยญาณสำหรับบุคคลอื่น เธอชื่อว่าพุทธเวไนยบุคคล ดังนี้ ทรงบรรดาลฤทธิ์มอบผ้าชิ้นเล็กๆ ที่สะอาดผืนหนึ่งประทานตรัสว่า ปัณฐกะ เธอจงเอาผ้าผืนนี้ภาวนาว่า “รโชหรณํ รโชหรณํ” ดังนี้.
Đức Thế Tôn nói: “Pānthaka, anh con không có khả năng nhận biết về người khác. Ngài được gọi là Phật Veyya. Vì vậy, Ngài đã dùng thần lực ban cho một mảnh vải sạch nhỏ và nói: “Pānthaka, con hãy dùng mảnh vải này và tụng: ‘Racoharaṃ, Racoharaṃ’.”
ท่านนั่งเอามือคลำผ้าท่อนเล็กที่พระศาสดาประทานนั้น ภาวนาว่า รโชหรณํ รโชหรณํ เมื่อท่านลูบคลำอยู่ (เช่นนั้น) ผ้าผืนนั้นก็เศร้าหมอง เมื่อท่านลูบคลำอยู่บ่อยๆ ก็กลายเป็นเหมือนผ้าเช็ดหม้อข้าว
Ngài ngồi lại, dùng tay sờ mảnh vải nhỏ mà Đức Thế Tôn đã ban cho, tụng: “Racoharaṃ, Racoharaṃ.” Khi ngài sờ vào đó, mảnh vải trở nên bẩn thỉu. Khi ngài chạm vào thường xuyên, nó trở nên giống như vải lau nồi.
ท่านอาศัยความแก่กล้าแห่งญาณ เริ่มตั้งความสิ้นไปและความเสื่อมไปในผ้านั้น คิดว่า ท่อนผ้านี้โดยปกติสะอาดบริสุทธิ์ เพราะอาศัยอุปาทินนกสรีระ จึงเศร้าหมอง.
Ngài nhờ vào sức mạnh của trí tuệ, bắt đầu suy nghĩ về sự tiêu tan và sự hủy hoại trên mảnh vải đó. Ngài nghĩ rằng: “Mảnh vải này vốn dĩ sạch sẽ tinh khiết, nhưng do bị ảnh hưởng bởi sự bám víu vào thân thể nên nó trở nên bẩn thỉu.”
แม้จิตนี้ก็มีคติเป็นอย่างนี้เหมือนกัน แล้วเจริญสมาธิกระทำรูปาวจรฌาน ๔ ให้ปรากฎ บรรลุพระอรหัตพร้อมด้วยปฏิสัมภิทาแล้ว.
Tâm trí này cũng có một quan điểm tương tự. Sau đó, ngài đã tu tập thiền định và đạt được bốn tầng thiền sắc giới, đạt được A-la-hán cùng với các kiến thức siêu nhiên.
ท่านเป็นผู้ได้ฌานด้วยมโนมยิทธินั่นเอง สามารถทำคนคนเดียวเป็นหลายคนได้ หลายคนก็สามารถทำให้เป็นคนเดียวได้
Ngài đã đạt được thiền định nhờ vào manomaya, có khả năng biến một người thành nhiều người, và nhiều người cũng có thể trở thành một.
ก็พระไตรปิฎกและอภิญญา ๖ มาถึงท่านพร้อมกับพระอรหัตมรรคนั่นแหละ.
Do đó, bộ Tam Tạng và sáu loại thần thông đã đến với ngài cùng với sự chứng đắc A-la-hán.
วันรุ่งขึ้น พระศาสดาเสด็จไปพร้อมกับภิกษุ ๕๐๐ ประทับนั่งในนิเวศน์ของหมอชีวก.
Ngày hôm sau, Đức Thế Tôn đã đi cùng với 500 Tỳ kheo và ngồi tại nhà của bác sĩ Jīvaka.
ส่วนพระจุลลปัณฐกะไม่ได้ไปเพราะตนไม่ได้รับนิมนต์นั่นเอง.
Còn Tôn giả Cūḷapānthaka thì không đi vì không được mời.
ชีวกเริ่มถวายข้าวยาคู.
Jīvaka bắt đầu dâng đồ ăn.
พระศาสดาทรงเอาพระหัตถ์ปิดบาตร.
Đức Thế Tôn đã dùng tay ngăn bát của Ngài lại.
หมอชีวกทูลถามว่า เพราะเหตุไร พระองค์จึงไม่ทรงรับพระเจ้าข้า.
Bác sĩ Jīvaka đã hỏi: “Kính bạch Ngài, tại sao Ngài không nhận?”
ตรัสว่า ยังมีภิกษุอีกรูปหนึ่งในวิหาร.
Ngài trả lời: “Vẫn còn một Tỳ kheo khác trong chùa.”
ชีวกหมอชีวกจึงส่งบุรุษไปว่า พนายจงไปนิมนต์พระคุณเจ้าที่อยู่ในวิหารมาที.
Bác sĩ Jīvaka đã sai một người đi: “Ngươi hãy đến mời vị Tỳ kheo đang ở trong chùa.”
แม้พระจุลลปัณฐกเถระเนรมิตภิกษุ ๑,๐๐๐ รูป ในเวลาใกล้ที่บุรุษนั้นมาถึง ทำไม่ให้เหมือนกันแม้สักองค์เดียว
Ngay cả Tôn giả Cūḷapānthaka đã tạo ra 1000 Tỳ kheo trong thời gian gần đến của người đó, nhưng không ai giống nhau.
องค์หนึ่งๆ กระทำกิจของสมณะเป็นต้นว่า กะจีวรไม่เหมือนกับองค์อื่นๆ.
Mỗi vị đều thực hiện các công việc của một người xuất gia, như việc giặt y không giống với các vị khác.
บุรุษนั้นเห็นภิกษุมีมากในวิหารจึงกลับไปบอกหมอชีวกว่า นายท่าน ภิกษุในวิหารนี้มีมากผมไม่รู้จักพระคุณท่านที่จะพึงนิมนต์มาจากวิหารนั้น.
Người đó thấy có nhiều Tỳ kheo trong chùa, liền trở về và nói với bác sĩ Jīvaka: “Kính bạch Ngài, trong chùa này có rất nhiều Tỳ kheo, tôi không biết mời ai từ chùa đó.”
หมอชีวกจึงทูลถามพระศาสดาว่า ภิกษุอยู่ในวิหารชื่อไร พระเจ้าข้า.
Bác sĩ Jīvaka bèn hỏi Đức Thế Tôn: “Tỳ kheo nào đang ở trong chùa, kính bạch Ngài?”
พ. ชื่อจุลลปัณฐกะ ชีวก.
Ngài trả lời: “Tên là Cūḷapānthaka, thưa bác sĩ.”
หมอชีวกกล่าวกะบุรุษนั้นว่า ไปเถิดพนาย จงไปถามว่า องค์ไหนชื่อจุลลปัณถกะ แล้วนำมา.
Bác sĩ Jīvaka nói với người đó: “Hãy đi và hỏi xem ai là người tên Cūḷapānthaka, rồi mang họ đến đây.”
บุรุษนั้นกลับมายังวิหาร ถามว่า องค์ไหนชื่อจุลลปัณฐกะ ขอรับ.
Người đó trở lại chùa và hỏi: “Ai là người tên Cūḷapānthaka, kính bạch?”
กล่าวว่า เราชื่อจุลลปัณฐกะ เราชื่อจุลลปัณถกะ ทั้ง ๑,๐๐๐ รูป.
Tất cả 1000 vị Tỳ kheo đều trả lời: “Chúng tôi là Cūḷapānthaka.”
บุรุษนั้นกลับไปบอกหมอชีวกอีกว่า ภิกษุประมาณ ๑,๐๐๐ รูปทุกองค์บอกว่า เราชื่อจุลลปัณฐกะ เราชื่อจุลลปัณฐกะ ข้าพเจ้าไม่ทราบว่า จุลลปัณฐกะองค์ไหนที่ท่านให้นิมนต์.
Người đó quay lại báo với bác sĩ Jīvaka rằng: “Khoảng 1000 Tỳ kheo đều nói rằng: ‘Chúng tôi là Cūḷapānthaka.’ Tôi không biết vị nào mà Ngài muốn mời.”
หมอชีวกทราบได้โดยนัยว่า ภิกษุมีฤทธิ์เพราะแทงตลอดสัจจะแล้ว จึงกล่าวว่า เจ้าจงจับที่ชายจีวรภิกษุองค์ที่กล่าวก่อน.
Bác sĩ Jīvaka hiểu rằng vị Tỳ kheo có thần thông vì đã chứng đắc chân lý, nên đã nói: “Hãy nắm lấy mép y của vị Tỳ kheo đã nói trước.”
บุรุษนั้นไปวิหารกระทำอย่างนั้นแล้ว ในทันใดนั้น ภิกษุประมาณ ๑,๐๐๐ รูปก็อันตรธานไป.
Người đó đã làm theo lời dặn và ngay lập tức, khoảng 1000 Tỳ kheo biến mất.
บุรุษนั้นพาพระเถระมาแล้ว พระศาสดาจึงทรงรับข้าวยาคูในขณะนั้น.
Người đó đã dẫn Tôn giả trở lại, và Đức Thế Tôn đã nhận thức ăn vào thời điểm đó.
เมื่อพระทศพลกระทำภัตกิจเสร็จแล้ว เสด็จกลับพระวิหาร เกิดการสนทนากันขึ้นในธรรมสภาว่า ธรรมดาพระพุทธเจ้าทั้งหลายใหญ่ถึงเพียงนั้นหนอ
Sau khi Đức Thế Tôn hoàn tất việc ăn uống, Ngài trở về chùa. Có một cuộc thảo luận xảy ra trong hội pháp rằng: “Thật là vĩ đại biết bao những Đức Phật.”
ทรงกระทำภิกษุผู้ไม่อาจจำคาถาคาถาหนึ่งได้ตลอด ๔ เดือนให้เป็นผู้มีฤทธิ์มากอย่างนี้ได้.
Ngài đã khiến một Tỳ kheo không thể nhớ nổi một bài kệ nào trong suốt 4 tháng trở thành người có thần thông vĩ đại như vậy.
พระศาสดาทรงทราบวารจิตของภิกษุเหล่านั้น ประทับนั่งเหนืออาสนะที่เขาจัดไว้แล้วตรัสถามว่า ภิกษุทั้งหลาย เธอพูดอะไรกัน.
Đức Thế Tôn biết rõ tâm tư của các Tỳ kheo ấy, Ngài ngồi trên tòa mà họ đã chuẩn bị và hỏi: “Các Tỳ kheo, các ngươi đang nói về điều gì vậy?”
ภิ. ข้าแต่พระผู้มีพระภาคเจ้า พวกข้าพระองค์มิได้กล่าวเรื่องอะไรๆ อื่น กล่าวแต่คุณของพระองค์เท่านั้นว่า พระจุลลปัณฐกะได้ลาภใหญ่แต่สำนักของพระองค์ ดังนี้
Người đáp: “Kính bạch Ngài, chúng con không bàn về điều gì khác, chỉ nói về công đức của Ngài rằng Cūḷapānthaka đã nhận được lợi lộc lớn từ giáo pháp của Ngài.”
พ. ดูก่อนภิกษุทั้งหลาย จุลลปัณฐกะนี้ทำตามโอวาทของเราแล้วได้ความเป็นทายาททางโลกุตตระ ในบัดนี้ยังไม่น่าอัศจรรย์ แม้ในอดีตเธอกระทำตามโอวาทของเราผู้ตั้งอยู่ในญาณยังไม่แก่กล้า ก็ได้ความเป็นทายาททางโลกิยะแล้ว.
Đức Thế Tôn nói: “Hãy nhìn, các Tỳ kheo, Cūḷapānthaka này đã làm theo lời dạy của chúng ta và đã đạt được sự thừa kế về thế giới cao. Hiện tại điều này không có gì đáng ngạc nhiên. Ngay cả trong quá khứ, khi cô ấy làm theo lời dạy của chúng ta, người mà chưa trưởng thành về trí tuệ, cũng đã đạt được sự thừa kế thế gian.”
ภิกษุทั้งหลายจึงทูลวิงวอนว่า เมื่อไร พระเจ้าข้า.
Các Tỳ kheo bèn thưa: “Kính bạch Ngài, khi nào vậy?”
พระศาสดาทรงนำอดีตนิทานมาแสดงแก่ภิกษุเหล่านั้นว่า
Đức Thế Tôn bắt đầu kể một câu chuyện quá khứ cho các Tỳ kheo.
ดูก่อนภิกษุทั้งหลาย ในอดีตกาลพระราชาพระนามว่าพรหมทัต ครองราชสมบัติในกรุงพาราณสี.
“Trong thời gian xa xưa, có một vị vua tên là Brahmadatta, trị vì tại thành Varanasi.”
สมัยนั้น บัณฑิตชื่อจูฬกเศรษฐีเป็นคนฉลาดรู้นิมิตทั้งปวง วันหนึ่งกำลังเดินไปเฝ้าพระราชา เห็นหนูตาย (ตัวหนึ่ง) ในระหว่างทาง จึงกำหนดนักษัตร ในขณะนั้นแล้วกล่าวคำนี้ว่า กุลบุตรผู้มีดวงตามีปัญญาสามารถเอาหนูนี้ไปเลี้ยงภรรยาและจัดการงานได้.
“Vào thời điểm đó, có một học giả tên là Cūḷaka, là người thông minh và hiểu biết mọi dấu hiệu. Một ngày, khi ông đang đi đến gặp nhà vua, ông thấy một con chuột chết trên đường. Ông đã xác định được các dấu hiệu và nói rằng: ‘Người con trai có trí tuệ này có thể lấy con chuột này để nuôi vợ và lo liệu mọi việc.'”
กุลบุตรเข็ญใจคนหนึ่งฟังคำเศรษฐีนั้นแล้วคิดว่า ผู้นี้ไม่รู้คงไม่พูด ดังนี้จึงเอาหนูไปให้ที่ร้านตลาดแห่งหนึ่ง เพื่อเลี้ยงแมว ได้ทรัพย์กากณิกหนึ่ง แล้วซื้อน้ำอ้อยด้วยทรัพย์กากณิกหนึ่งนั้น เอาหม้อใบหนึ่งใส่น้ำดื่มไป.
“Một người con trai nghèo nghe lời của Cūḷaka và nghĩ rằng: ‘Người này chắc không biết gì,’ nên đã mang con chuột đến một cửa hàng để nuôi mèo. Anh ta đã nhận được một đồng tiền và mua nước mía bằng đồng tiền đó, rồi mang theo một cái bình nước.”
เห็นช่างจัดดอกไม้เดินมาแต่ป่าก็ให้ชิ้นน้ำอ้อยหน่อยหนึ่งแล้วเอากะบวยตักน้ำดื่มให้ ช่างดอกไม้เหล่านั้นให้ดอกไม้แก่บุรุษนั้นคนละกำ.
“Thấy một người thợ hoa đi từ rừng về, anh ta đã đưa một ít nước mía và lấy cái muôi múc nước cho người thợ hoa đó. Những người thợ hoa đã tặng cho anh ta mỗi người một bó hoa.”
แม้ในวันรุ่งขึ้น เขาเอาค่าดอกไม้นั้นไปซื้อน้ำอ้อยและหม้อน้ำดื่มแล้วไปยังสวนดอกไม้นั่นแหละ.
“Ngày hôm sau, anh ta đã dùng tiền từ hoa để mua nước mía và bình nước, rồi đi đến vườn hoa.”
วันนั้น ช่างดอกไม้ก็ให้กอดอกไม้ที่ตนเก็บไปครึ่งหนึ่งแล้วแก่เขาแล้วก็ไป ล่วงไปไม่นานนักเขาได้ทรัพย์นับได้ถึง ๘ กหาปณะโดยอุบายนี้.
“Ngày hôm đó, người thợ hoa đã cho anh ta một nửa số hoa mà họ đã thu thập được, và rồi đi. Chẳng bao lâu, anh ta đã tích lũy được đến 8 đồng tiền nhờ vào mẹo này.”
ในวันที่มีลมและฝน (ตกหนัก) วันหนึ่ง เขากระทำไม้ที่ล้มแล้วให้เป็นกอง จึงได้ทรัพย์อีก ๑๖ กหาปณะจากนายช่างหม้อหลวง
Vào một ngày có gió và mưa (rơi nặng), anh đã chất đống gỗ từ những cây đổ, và từ đó nhận được 16 đồng tiền từ người thợ làm gốm.
เขาเมื่อได้ทรัพย์เกิดขึ้นถึง ๒๔ กหาปณะแล้วคิดว่า อุบายนี้มีประโยชน์แก่เรา จึงตั้งหม้อน้ำดื่มไว้หม้อหนึ่งในที่ไม่ไกลแต่ประตูเมือง เอาน้ำดื่มเลี้ยงคนตัดหญ้า ๕๐๐ คน.
Khi anh đã tích lũy được 24 đồng tiền, anh nghĩ rằng: “Chiêu này thật hữu ích cho tôi.” Anh đã đặt một cái bình nước ở nơi không xa cổng thành và đã mời 500 người cắt cỏ đến uống nước.
คนตัดหญ้าเหล่านั้นพูดกันว่า สหาย ท่านมีอุปการะมากแก่พวกเรา พวกเราจะทำอะไรแก่ท่านได้บ้าง.
Những người cắt cỏ nói với nhau: “Bạn ơi, bạn đã giúp đỡ chúng tôi rất nhiều. Chúng tôi có thể làm gì để báo đáp bạn?”
บุรุษนั้นตอบว่า เมื่อมีกิจเกิดขึ้นจึงกระทำแก่ข้าพเจ้าเถิด.
Người đó đáp: “Khi có việc gì xảy ra, hãy làm cho tôi.”
เที่ยวไปทางโน้นทางนี้กระทำการผูกมิตรกับคนทำงานทางบกและคนทำงานทางน้ำ.
Anh đã đi khắp nơi để kết bạn với những người làm việc trên đất và trên nước.
คนทำงานทางบกบอกแก่เขาว่า พรุ่งนี้พ่อค้าม้าจะนำม้า ๕๐๐ ตัวมายังเมืองนี้
Người làm việc trên đất nói với anh rằng: “Ngày mai sẽ có thương nhân mang 500 con ngựa đến thành phố này.”
เขาได้ฟังคำนั้นแล้วให้สัญญาแก่คนตัดหญ้าให้กระทำฟ่อนหญ้าแต่ละฟ่อนๆ ให้เป็น ๒ เท่าแล้วนำมา
Nghe những lời đó, anh đã hứa với những người cắt cỏ rằng hãy làm từng bó cỏ gấp đôi và mang đến.
ครั้นเวลาม้าทั้งหลายมาพักในเมืองแล้ว (เขา) ก็มานั่งทำฟ่อนหญ้า ๑,๐๐๐ ฟ่อนกองไว้ใกล้ประตูด้านใน.
Khi những con ngựa đến nghỉ lại trong thành phố, anh đã ngồi làm 1000 bó cỏ và chất chúng ở gần cổng bên trong.
พ่อค้าม้าหาหญ้าสดให้ม้าทั่วเมืองไม่ได้ ต้องให้ทรัพย์พันหนึ่งแก่บุรุษนั้นซื้อหญ้านั้นไป.
Người bán ngựa không thể tìm thấy cỏ tươi cho ngựa trong toàn thành phố, vì vậy phải trả cho anh một ngàn đồng tiền để mua cỏ đó.
จากนั้นล่วงไป ๒-๓ วัน สหายที่ทำงานทางทะเลมาบอกว่าจะมีเรือใหญ่เข้าจอดท่า.
Sau đó, sau 2-3 ngày, một người bạn làm việc trên biển đã đến và nói rằng sẽ có một con tàu lớn cập bến.
บุรุษนั้นคิดว่า อุบายนี้มี จึงเอาทรัพย์ ๘ กหาปณะเช่ารถที่พร้อมด้วยเครื่องใช้ทุกชนิดไปยังท่าจอดเรือ ทำสัญญากับนายท่า
Người đó nghĩ rằng: “Chiêu này có thể sử dụng.” Anh đã mang 8 đồng tiền để thuê một chiếc xe với đầy đủ dụng cụ đến cảng.
ประทับนิ้วมือไว้ที่เรือแล้วให้กั้นม่านไว้ในที่ไม่ไกล นั่งอยู่ในภายในม่านนั้น สั่งบุรุษคนใช้ไว้ว่า เมื่อพ่อค้าจากภายนอกมาถึงจงมาบอกทางประตูด่านที่ ๓.
Ngài ấn ngón tay lên tàu, sau đó đặt một bức màn ở nơi không xa, ngồi trong bức màn đó và dặn người hầu rằng: “Khi thương nhân từ bên ngoài đến, hãy báo cho tôi biết ở cổng số 3.”
ครั้นคนใช้เหล่านั้นทราบว่า เรือมาถึงแล้วจึงบอกว่า มีพ่อค้าประมาณ ๑๐๐ คนจากกรุงพาราณสีมาซื้อสินค้า
Khi những người hầu biết rằng tàu đã đến, họ báo rằng có khoảng 100 thương nhân từ thành Varanasi đến để mua hàng hóa.
นายประตูที่ ๓ กล่าวว่า พวกท่านจะไม่ได้สินค้า (เพราะ) นายพานิชใหญ่ในที่โน้นท่านทำสัญญาไว้แล้ว
Người quản lý cổng số 3 nói rằng: “Các ngươi sẽ không nhận được hàng hóa, vì thương nhân lớn ở đó đã ký hợp đồng.”
พ่อค้าเหล่านั้นฟังคำของบุรุษเหล่านั้นแล้วจึงพากันไปยังสำนักของพ่อค้าใหญ่นั้น.
Nghe lời của những người đó, các thương nhân liền đến gặp thương nhân lớn đó.
ฝ่ายบุรุษคนสนิทแจ้งข่าวว่า พ่อค้าเหล่านั้นมาทางประตูด่านที่ ๓ ตามสัญญาฉบับก่อน.
Người bạn thân đã báo tin rằng các thương nhân đã đến qua cổng số 3 theo hợp đồng trước.
พ่อค้าทั้งร้อยคนนั้นต้องให้ทรัพย์คนละพันแล้วจึงเดินทางไปเรือกับบุรุษนั้นแล้วจ่ายทรัพย์อีกคนละพันๆ แล้วให้สละมัดจำแล้วจึงจะทำสินค้าให้เป็นของๆ ตนได้
Tất cả 100 thương nhân đều phải trả 1000 đồng tiền, sau đó đi đến tàu cùng với người đó, rồi trả thêm 1000 đồng nữa để đặt cọc, sau đó mới có thể làm hàng hóa thành của mình.
บุรุษนั้นถือเอาทรัพย์ ๒ แสนกลับมายังกรุงพาราณสี คิดว่า เราควรจะเป็นคนกตัญญู จึงถือเอาทรัพย์แสนหนึ่งไปยังสำนักแห่งจูฬกเศรษฐี.
Người đó mang theo 200.000 đồng trở về thành Varanasi, nghĩ rằng: “Tôi nên là người biết ơn,” nên đã mang 100.000 đồng đến gặp Cūḷaka.
ครั้งนั้น เศรษฐีถามบุรุษนั้นว่า พ่อทำอย่างไรจึงได้ทรัพย์นี้มา.
Lúc đó, Cūḷaka hỏi người đó: “Ngươi đã làm thế nào để có được số tiền này?”
บุรุษนั้นกล่าวว่า ข้าพเจ้าตั้งอยู่ในอุบายที่ท่านกล่าวแล้วจึงได้ทรัพย์มาภายใน ๔ เดือนเท่านั้น.
Người đó đáp: “Tôi đã thực hiện theo phương pháp mà ngài đã nói và đã thu được số tiền này trong vòng 4 tháng.”
เศรษฐีได้ฟังคำของบุรุษนั้นจึงมาคิดว่า บัดนี้เราไม่ควรทำเด็กเห็นปานนี้ให้เป็นสมบัติของคนอื่น จึงยกธิดาที่เจริญวัยให้ ทำให้เป็นเจ้าของทรัพย์สมบัติทั้งสิ้น.
Nghe lời của người đó, Cūḷaka nghĩ rằng: “Bây giờ, tôi không nên để đứa trẻ này trở thành tài sản của người khác,” nên đã gả con gái đang trưởng thành của mình, biến cô thành chủ sở hữu toàn bộ tài sản.
กุลบุตรแม้นั้น เมื่อเศรษฐีล่วงไปแล้วจึงรับตำแหน่งเศรษฐีแทนในพระนครนั้น ดำรงอยู่จนตลอดอายุแล้วไปตามยถากรรม.
Chàng trai đó, khi Cūḷaka đã qua đời, đã tiếp nhận vị trí của Cūḷaka và trở thành một vị phú hộ trong thành phố, sống cho đến cuối đời và theo nghiệp của mình.
พระศาสดาตรัสเรื่องทั้ง ๒ นี้แล้วทรงสืบต่ออนุสนธิเทศนา ในขณะที่ตรัสรู้อนุตตรสัมโพธิญาณแล้ว ตรัสพระคาถาว่าดังนี้
Đức Thế Tôn kể hai câu chuyện này rồi tiếp tục giảng dạy. Khi Ngài chứng đắc vô thượng chánh đẳng chánh giác, Ngài đã nói bài kệ rằng:
อปฺปเกนปิ เมธาวี ปาภเฏน วิจกฺขโณ
Những người khôn ngoan, với trí tuệ sắc bén, có thể tự lập thân mình, ngay cả với tài sản nhỏ bé.
สมุฏฺฐาเปติ อตฺตานํ อณุํ อคฺคึว สนฺธมนฺติ.
Giống như một người nhóm lửa nhỏ có thể làm cho lửa bùng lên.
บุคคลผู้มีปัญญา มีปัญญาเห็นประจักษ์ ย่อม
Người có trí tuệ, nhìn thấy rõ ràng, có thể tự đứng vững với ngay cả một tài sản nhỏ bé.
ตั้งตนได้ด้วยทรัพย์อันเป็นต้นทุนแม้เล็กน้อย ดุจบุคคลก่อไฟอันน้อย ให้โพลงขึ้นได้ ฉะนั้น.
Họ có thể đứng vững bằng tài sản của mình, cho dù nhỏ bé, giống như một người nhóm lửa nhỏ có thể làm cho lửa bùng lên.
พระศาสดาทรงแสดงเหตุนี้แก่บรรดาภิกษุผู้นั่งประชุมกันในธรรมสภาด้วยประการดังนี้ นี้เป็นเรื่องราวที่มีมาตามลำดับ จำเดิมแต่การตั้งความปรารถนาไว้ในตอนแรกของพระมหาสาวกทั้งสอง.
Đức Thế Tôn đã trình bày lý do này với các Tỳ kheo đang ngồi trong hội pháp như sau: Đây là câu chuyện đã diễn ra theo trình tự từ khi đặt ra nguyện vọng ban đầu của hai vị đại đệ tử.
ก็ต่อมา พระศาสดามีหมู่พระอริยแวดล้อมแล้วประทับนั่งเหนือธรรมาสน์
Sau đó, Đức Thế Tôn ngồi trên tòa pháp với sự bao quanh của các thánh nhân.
ทรงสถาปนาพระจุลลปัณฐกเถระไว้ในตำแหน่งเอตทัคคะเป็นยอดของเหล่าภิกษุผู้ฉลาดในเจโตวิวัฏฏะ ผู้เนรมิตกายมโนมัยได้
Ngài đã phong tặng Tôn giả Cūḷapānthaka vào vị trí cao nhất trong số các Tỳ kheo thông thái trong lĩnh vực thiền định, có khả năng tạo ra thân mệnh tâm.
ทรงสถาปนาพระมหาปัณฐกเถระไว้ในตำแหน่งเอตทัคคะเป็นยอดของเหล่าภิกษุผู้ฉลาดในปัญญาวิวัฏฏะ ด้วยประการฉะนี้.
Ngài cũng đã phong tặng Tôn giả Mahāpānthaka vào vị trí cao nhất trong số các Tỳ kheo thông thái trong lĩnh vực trí tuệ.
จบอรรถกถาสูตรที่ ๑-๒
Kết thúc chú giải của các kinh số 1-2.