Chú giải Tăng Chi Bộ Kinh

Chú giải Thái kinh Tăng Chi Bộ I – Chương 1 – 14.10. Phẩm Người Tối Thắng

อรรถกถา อังคุตตรนิกาย เอกนิบาต เอตทัคคบาลี
Giải thích về Kinh Aṅguttara Nikāya – Ekaka Nipāta.

วรรคที่ ๑
Phần 1.

หน้าต่างที่ ๑๐ / ๑๐.
Cửa sổ số 10 / 10.

อรรถกถาสูตรที่ ๑๐
Giải thích Kinh số 10.

ประวัติพระมหากัจจายนเถระ
Lịch sử của Tôn giả Mahākatṭhāyana.

พึงทราบวินิจฉัยในสูตรที่ ๑๐ ดังต่อไปนี้.
Xin hãy biết các phán quyết trong Kinh số 10 như sau.

บทว่า สงฺขิตฺเตน ภาสิตสฺส ความว่า ของธรรมที่ตรัสไว้โดยย่อ.
Câu “sangkhitten bhāsitassa” có nghĩa là pháp đã được thuyết giảng một cách ngắn gọn.

บทว่า วิตฺถาเรน อตฺถํ วิภชนฺตานํ ความว่า จำแนกอรรถออกทำเทศนานั้นให้พิสดาร.
Câu “vitthārena atthaṃ vibhajantānaṃ” có nghĩa là phân tích ý nghĩa một cách chi tiết trong bài thuyết pháp đó.

นัยว่า พวกภิกษุเหล่าอื่นไม่อาจทำพระดำรัสโดยย่อของพระตถาคตให้บริบูรณ์ ทั้งโดยอรรถทั้งโดยพยัญชนะได้ แต่พระเถระนี้อาจทำให้บริบูรณ์ได้แม้โดยทั้ง ๒ อย่าง เพราะฉะนั้นท่านจึงกล่าวว่าเป็นยอด.
Nghĩa là, các Tỳ kheo khác không thể làm cho lời nói ngắn gọn của Đức Tathāgata trở nên đầy đủ, cả về ý nghĩa và từ ngữ, nhưng Tôn giả này có thể làm cho đầy đủ cả hai cách. Do đó, ngài được gọi là người vĩ đại nhất.

ก็แม้ความปรารถนาแต่ปางก่อนของพระเถระนั้น ก็เป็นอย่างนี้.
Ngay cả nguyện vọng trong quá khứ của Tôn giả cũng giống như vậy.

อนึ่ง ในปัญหากรรมของพระเถระนั้น มีเรื่องที่จะกล่าวตามลำดับดังต่อไปนี้ :-
Hơn nữa, trong vấn đề nghiệp của Tôn giả, có những câu chuyện sẽ được đề cập như sau:

ได้ยินว่า ครั้งพระสัมมาสัมพุทธเจ้าพระนามว่าปทุมุตตระ พระเถระนั้นบังเกิดในสกุลคฤหบดีผู้มหาศาล เจริญวัยแล้ว วันหนึ่งไปวิหารตามนัยที่กล่าวแล้วนั้นแล ยืนฟังธรรมอยู่ท้ายบริษัท เห็นภิกษุรูปหนึ่งที่พระศาสดาทรงสถาปนาไว้ในตำแหน่งเป็นยอดของเหล่าภิกษุผู้จำแนกอรรถแห่งพระดำรัสที่พระองค์ตรัสโดยย่อให้พิสดาร
Nghe nói rằng, vào thời Đức Phật Tathāgata tên là Phatumuttara, Tôn giả đã sinh ra trong gia đình Bà-la-môn vĩ đại. Khi lớn lên, một hôm, ngài đến chùa theo như đã nói, đứng nghe pháp ở phía sau đoàn người, thấy một Tỳ kheo mà Đức Phật đã chỉ định làm người vĩ đại nhất trong số các Tỳ kheo giảng giải ý nghĩa của những lời Ngài thuyết một cách ngắn gọn.

จึงคิดว่า ภิกษุซึ่งพระศาสดาทรงชมเชยอย่างนี้ เป็นใหญ่หนอ แม้ในอนาคตกาล เราก็ควรเป็นอย่างภิกษุนี้ในศาสนาของพระพุทธเจ้าพระองค์หนึ่งดังนี้.
Ngài nghĩ rằng, Tỳ kheo được Đức Phật khen ngợi như vậy thật là vĩ đại. Ngay cả trong tương lai, chúng ta cũng nên trở thành như Tỳ kheo này trong giáo pháp của một Đức Phật trong tương lai.

จึงนิมนต์พระศาสดา ถวายมหาทาน ๗ วันตามนัยที่กล่าวแล้วนั่นแล.
Ngài đã mời Đức Thế Tôn và dâng lễ cúng dường lớn trong 7 ngày như đã nói.

หมอบลงแทบบาทมูลของพระศาสดา กระทำความปรารถนาว่า พระเจ้าข้า ด้วยผลแห่งสักการะนี้ ข้าพระองค์ไม่ปรารถนาสมบัติอื่น แต่ในอนาคตกาล ขอข้าพระองค์พึงได้ตำแหน่งนั้นในศาสนาของพระพุทธเจ้าพระองค์หนึ่ง เหมือนภิกษุที่พระองค์ทรงสถาปนาไว้ในตำแหน่งในวันสุดท้าย ๗ วันนับแต่วันนี้.
Ngài quỳ lạy dưới chân Đức Thế Tôn và nguyện rằng: Kính bạch Ngài, nhờ công đức của sự cúng dường này, con không mong muốn tài sản nào khác, mà chỉ mong rằng trong tương lai, con sẽ đạt được vị trí đó trong giáo pháp của một Đức Phật, giống như Tỳ kheo mà Ngài đã chỉ định trong 7 ngày cuối cùng kể từ hôm nay.

พระศาสดาทรงตรวจดูอนาคตกาล ทรงเห็นว่าความปรารถนาของกุลบุตรนี้จักสำเร็จ จึงทรงพยากรณ์ว่า กุลบุตรผู้เจริญ ในที่สุดแห่งแสนกัปในอนาคต พระพุทธเจ้าพระนามว่าโคดม จักทรงอุบัติขึ้น ท่านจักเป็นยอดของเหล่าภิกษุผู้จำแนกอรรถแห่งคำที่ตรัสโดยสังเขปให้พิสดาร ในศาสนาของพระองค์ดังนี้ ทรงกระทำอนุโมทนาแล้วเสด็จกลับไป.
Đức Thế Tôn đã xem xét tương lai và thấy rằng nguyện vọng của chàng thanh niên này sẽ thành hiện thực, nên đã tiên đoán rằng: Chàng thanh niên hiền thiện, vào cuối thời gian của một trăm ngàn kiếp trong tương lai, sẽ có một Đức Phật tên là Gotama xuất hiện. Ngài sẽ là người vĩ đại nhất trong số các Tỳ kheo phân tích ý nghĩa của những lời nói ngắn gọn thành chi tiết trong giáo pháp của Ngài. Sau đó, Ngài đã chúc phúc và trở về.

ฝ่ายกุลบุตรนั้นบำเพ็ญกุศลตลอดชีพแล้วเวียนว่ายในเทวดาและมนุษย์ทั้งหลายแสนกัป.
Chàng thanh niên đó đã làm các việc thiện suốt cuộc đời và đã luân chuyển trong cõi trời và loài người suốt hàng trăm ngàn kiếp.

ครั้งพระกัสสปพุทธเจ้า ก็มาถือปฏิสนธิในครอบครัวกรุงพาราณสี เมื่อพระศาสดาปรินิพพานแล้ว ก็ไปยังสถานที่สร้างเจดีย์ทอง จึงเอาอิฐทองมีค่าแสนหนึ่งบูชา ตั้งความปรารถนาว่า ข้าแต่พระผู้มีพระภาคเจ้า สรีระของข้าพระองค์จงมีวรรณเพียงดังทองในที่ๆ เกิดแล้วเถิด.
Khi Đức Phật Kassapa ra đời trong gia đình ở thành Varanasi, sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết-bàn, ngài đã đến nơi xây dựng tháp vàng, và đã dâng một trăm ngàn viên gạch vàng để cúng dường, đồng thời nguyện rằng: Kính bạch Ngài, thân thể của con hãy có màu vàng như vàng nơi mà con được sinh ra.

ต่อแต่นั้น ก็กระทำกุศลกรรมตราบเท่าชีวิต เวียนว่ายในเทวดาและมนุษย์พุทธันดรหนึ่ง.
Sau đó, ngài đã làm các việc thiện suốt cuộc đời và đã luân chuyển trong cõi trời và loài người suốt một thời gian dài.

ครั้งพระทศพลของเราอุบัติ มาบังเกิดในเรือนแห่งปุโรหิต ในกรุงอุชเชนี ในวันขนานนามท่าน มารดาบิดาปรึกษากันว่าบุตรของเรามีสรีระมีผิวดั่งทอง คงจะถือเอาชื่อของตนมาแล้ว จึงขนานนามท่านว่า กาญจนมาณพ ดังนี้.
Khi Đức Tathāgata của chúng ta ra đời trong gia đình của một vị Bà-la-môn ở thành Ujjeni, vào ngày đặt tên cho ngài, cha mẹ đã bàn với nhau rằng đứa con của họ có thân hình và làn da như vàng, chắc hẳn sẽ mang tên của họ, nên đã đặt tên cho ngài là Kañjana.

พอท่านโตขึ้นแล้วก็ศึกษาไตรเพท เมื่อบิดาวายชนม์แล้วก็ได้ตำแหน่งปุโรหิตแทน โดยโคตรชื่อว่ากัจจายนะ.
Khi ngài lớn lên, đã học Tam Vệ, và sau khi cha ngài qua đời, ngài đã kế nhiệm vị trí Bà-la-môn, thuộc dòng họ Kaccayana.

พระเจ้าจัณฑปัชโชตทรงประชุมอำมาตย์แล้วมีพระราชดำรัสว่า พระพุทธเจ้าทรงบังเกิดขึ้นในโลกแล้ว พวกเจ้าเป็นผู้สามารถจะทูลนำพระองค์มาได้ ก็จงนำพระองค์มานะพ่อนะ.
Vua Chandapajjota đã triệu tập các đại thần và nói rằng: Đức Phật đã xuất hiện trong thế giới này. Các ngươi có khả năng dẫn Đức Thế Tôn đến, hãy đưa Ngài đến đây.

อำมาตย์ทูลว่า ข้าแต่สมมติเทพ คนอื่นชื่อว่าเป็นผู้สามารถจะนำพระทศพลมาไม่มี อาจารย์กาญจนพราหมณ์เท่านั้นสามารถ ขอจงทรงส่งท่านไปเถิด พระเจ้าข้า.
Các đại thần thưa rằng: Kính bạch Ngài, không ai khác có khả năng dẫn Đức Tathāgata đến ngoài Tôn giả Kañjana Bà-la-môn. Xin Ngài hãy gửi ngài đi.

พระราชาตรัสเรียกให้กัจจายนะมาตรัสสั่งว่า พ่อจงไปยังสำนักของพระทศพลเจ้า.
Nhà vua đã gọi Kaccayana đến và nói rằng: Hãy đi đến chỗ Đức Tathāgata.

อ. ทูลว่า ข้าแต่มหาราชเจ้า เมื่อข้าพระองค์ไปแล้วได้บวชก็จักไป.
Ngài thưa rằng: Kính bạch Đại Vương, khi con đi và xuất gia, con sẽ đến.

พระราชาตรัสว่า เจ้าจะทำอย่างใดอย่างหนึ่งแล้วก็นำพระตถาคตมาซิพ่อ.
Nhà vua nói: Hãy làm một trong hai việc và hãy mang Đức Tathāgata về đây.

กัจจายนอำมาตย์นั้นคิดว่าสำหรับผู้ไปสำนักของพระพุทธเจ้าไม่จำต้องทำด้วยคนจำนวนมากๆ จึงไปเพียง ๘ คน.
Kaccayana nghĩ rằng, đối với người đến chỗ của Đức Phật không cần phải đi cùng đông người, nên chỉ đi với 8 người.

ครั้งนั้น พระศาสดาทรงแสดงธรรมแก่อำมาตย์นั้น จบเทศนาท่านได้บรรลุพระอรหัตพร้อมทั้งปฏิสัมภิทากับชนทั้ง ๗ คน พระศาสดาทรงเหยียดพระหัตถ์ตรัสว่า เอถ ภิกฺขโว (ท่านทั้งหลายจงเป็นภิกษุเถิด) ในขณะนั้นนั่นเทียว ทุกๆ คนก็มีผมและหนวดหายไป ทรงบาตรและจีวรอันสำเร็จด้วยฤทธิ์ เป็นประดุจพระเถระ ๑๐๐ พรรษาฉะนั้น.
Lúc đó, Đức Thế Tôn đã thuyết pháp cho các đại thần, khi kết thúc bài thuyết pháp, ngài đã đạt được A-la-hán cùng với 7 người khác. Đức Thế Tôn giơ tay nói: “Hãy đến đây, các Tỳ kheo (các ngươi hãy trở thành Tỳ kheo)”. Ngay lúc đó, tất cả mọi người đều mất tóc và râu, và với sức mạnh, họ đã trở thành giống như các Tôn giả 100 tuổi.

พระเถระเมื่อกิจของตนถึงที่สุดแล้วไม่นั่งนิ่ง กล่าวสรรเสริญการเสด็จไปกรุงอุชเชนี ถวายพระศาสดาเหมือนพระกาฬุทายีเถระ.
Khi Tôn giả đã hoàn thành nhiệm vụ của mình, ngài không ngồi yên, mà đã ca ngợi việc đi đến thành Ujjeni và dâng lễ cho Đức Thế Tôn, giống như Tôn giả Kaludayi.

พระศาสดาสดับคำของท่านแล้วทรงทราบว่า พระกัจจายนะย่อมหวังการไปของเราในชาติภูมิของตน แต่ธรรมดาพระพุทธเจ้าทั้งหลายทรงอาศัยเหตุอันหนึ่ง จึงไม่เสด็จไปสู่ที่ที่ไม่สมควรเสด็จ.
Đức Thế Tôn nghe lời của ngài và biết rằng Kaccayana mong muốn sự đi đến của Ngài trong quốc gia của mình, nhưng các Đức Phật thường phụ thuộc vào một nguyên nhân, nên không đến nơi không thích hợp.

เพราะฉะนั้นจึงตรัสกะพระเถระว่า ภิกษุ ท่านนั่นแหละจงไป เมื่อท่านไปแล้ว พระราชาจักทรงเลื่อมใส.
Vì vậy, Ngài đã nói với Tôn giả: “Này Tỳ kheo, chính ngài hãy đi, khi ngài đi, nhà vua sẽ tin tưởng”.

พระเถระคิดว่า พระพุทธเจ้าทั้งหลายไม่ตรัสเป็นคำสอง ดังนี้จึงถวายบังคมพระตถาคต ไปกรุงอุชเชนีพร้อมกับภิกษุทั้ง ๗ รูปที่มาพร้อมกับตนนั่นแหละ ในระหว่างทางภิกษุเหล่านั้นได้เที่ยวบิณฑบาตในนิคมชื่อว่า นาลินิคม.
Tôn giả nghĩ rằng các Đức Phật không nói hai lời, nên đã dâng lễ Đức Tathāgata và đi đến thành Ujjeni cùng với 7 Tỳ kheo mà ngài đi cùng. Trên đường, các Tỳ kheo đó đã đi khất thực ở một làng tên là Nalinikā.

ในนิคมแม้นั้น มีธิดาเศรษฐี ๒ คน คนหนึ่งเกิดในตระกูลเก่าแก่เข็ญใจ เมื่อมารดาบิดาล่วงไปแล้ว ก็อาศัยเป็นนางนมเลี้ยงชีพ.
Tại làng đó, có hai con gái của một gia đình Bà-la-môn, một người sinh ra trong gia đình nghèo khó. Khi cha mẹ đã qua đời, cô đã sống bằng nghề hầu hạ.

แต่ อัตภาพของเธอบึกบึน ผมยาวเกินคนอื่นๆ.
Nhưng hình dáng của cô ấy thì khỏe mạnh, tóc dài hơn người khác.

ในนิคมนั้นนั่นแหละ ยังมีธิดาของตระกูลอิสรเศรษฐีอีกคนหนึ่ง เป็นคนไม่มีผม เมื่อก่อนนั้นมาแม้นางจะกล่าวว่า ขอให้นาง (ผมดก) ส่งไปให้ ฉันจักให้ทรัพย์ ๑๐๐ หนึ่ง หรือ ๑,๐๐๐ หนึ่งแก่เธอ ก็ให้เขานำผมมาไม่ได้.
Trong làng đó cũng có một cô con gái của gia đình Bà-la-môn khác, cô này không có tóc. Trước đây, mặc dù cô đã nói rằng: “Xin hãy gửi tóc dài cho tôi, tôi sẽ trả 100 hoặc 1.000 đồng”, nhưng không ai có thể mang tóc đến.

ก็ในวันนั้น ธิดาเศรษฐีนั้นเห็นพระมหากัจจายนเถระมีภิกษุ ๗ รูปเป็นบริวาร เดินมามีบาตรเปล่า คิดว่าภิกษุผู้เป็นเผ่าพันธุ์พราหมณ์รูปหนึ่ง มีผิวดังทองรูปนี้เดินไปบาตรเปล่า
Ngày hôm đó, cô con gái Bà-la-môn thấy Tôn giả Mahākaccāna cùng với 7 Tỳ kheo đi đến với bát rỗng, cô nghĩ rằng: “Người Bà-la-môn có làn da như vàng này đang đi với bát rỗng”.

ทรัพย์อย่างอื่นของเราก็ไม่มี แต่ว่าธิดาเศรษฐีบ้านโน้น (เคย) ส่ง (คน) มาเพื่อต้องการผมนี้ ตอนนี้เราอาจถวายไทยธรรมแก่พระเถระได้ด้วยทรัพย์ที่เกิดจากที่ได้ค่าผมนี้ ดังนี้จึงส่งสาวใช้ไปนิมนต์พระเถระทั้งหลายให้นั่งภายในเรือน.
Cô không có tài sản nào khác, nhưng con gái của gia đình Bà-la-môn trước đó đã cử người đến để lấy tóc của cô. Bây giờ cô có thể dâng cúng cho Tôn giả với số tiền thu được từ việc bán tóc này, vì vậy cô đã gửi người hầu đi mời các Tỳ kheo đến ngồi trong nhà.

พอพระเถระนั่งแล้ว (นาง) ก็เข้าห้องตัดผมของตน กล่าวว่า แน่แม่ จงเอาผมเหล่านี้ให้แก่ธิดาเศรษฐีบ้านโน้น แล้วเอาของที่นางให้มา เราจะถวายบิณฑบาตแก่พระผู้เป็นเจ้าทั้งหลาย.
Khi Tôn giả ngồi xuống, cô vào phòng cắt tóc của mình và nói: “Đúng vậy, hãy lấy tóc này đưa cho con gái của gia đình Bà-la-môn đó. Còn phần tài sản mà cô ấy đã cho, chúng ta sẽ dùng để dâng cúng cho các Đức Thế Tôn”.

สาวใช้เอาหลังมือเช็ดน้ำตา เอามือข้างหนึ่งกุมเนื้อตรงหัวใจปกปิดไว้ในสำนักพระเถระทั้งหลาย ถือผมนั้นไปยังสำนักของธิดาเศรษฐี.
Cô hầu gái lấy tay lau nước mắt, một tay ôm lấy trái tim mình, giấu kín trong sự hiện diện của các Tôn giả, và mang tóc đó đến nhà của cô con gái Bà-la-môn.

ธรรมดาขึ้นชื่อว่าของที่จะขายแม้มีสาระ (ราคา) เจ้าของนำไปให้เอง ก็ไม่ทำให้เกิดความเกรงใจ.
Thông thường, nếu hàng hóa có giá trị, thì việc chủ sở hữu tự mang đến sẽ không làm cho người khác cảm thấy ngại ngùng.

ฉะนั้น ธิดาเศรษฐีจึงคิดว่า เมื่อก่อนเราไม่อาจจะให้นำผมเหล่านี้มาได้ด้วยทรัพย์เป็นอันมาก แต่บัดนี้ตั้งแต่เวลาตัดออกแล้ว ก็ไม่ได้ตามราคาเดิม จึงกล่าวกะสาวใช้ว่า เมื่อก่อนฉันไม่อาจให้นำผมไปแม้ด้วยทรัพย์เป็นอันมาก แต่ผมนี้นำไปที่ไหนๆ ก็ได้ ไม่ใช่ผมของคนเป็น มีราคา ๘ กหาปณะ จึงให้ไป ๘ กหาปณะเท่านั้น
Vì vậy, cô con gái Bà-la-môn nghĩ rằng, trước đây, cô không thể cho mang tóc này đi dù với nhiều tiền, nhưng bây giờ, khi đã cắt đi rồi, nó không còn giá trị như cũ. Cô nói với người hầu: “Trước đây, tôi không thể cho ai mang tóc đi với số tiền lớn, nhưng giờ đây, tóc này có thể đưa đi bất cứ đâu, không phải là tóc của người sống, chỉ có giá trị 8 khaṭṭhā, nên chỉ trả 8 khaṭṭhā thôi.”

สาวใช้นำกหาปณะไปมอบให้แก่ธิดาเศรษฐี.
Cô hầu gái mang số tiền khaṭṭhā đó đến đưa cho cô con gái Bà-la-môn.

ธิดาเศรษฐีก็จัดบิณฑบาตแต่ละที่ให้มีค่าที่ละกหาปณะหนึ่งๆ ให้ถวายแด่พระเถระทั้งหลายแล้ว.
Cô con gái Bà-la-môn đã tổ chức khất thực ở mỗi nơi với giá mỗi phần là một khaṭṭhā để dâng lên các Tôn giả.

พระเถระรำพึงแล้วเห็นอุปนิสัยของธิดาเศรษฐี จึงถามว่า ธิดาเศรษฐีไปไหน.
Tôn giả suy nghĩ và nhận thấy tính cách của cô con gái Bà-la-môn, nên đã hỏi: “Cô con gái Bà-la-môn đâu rồi?”

สาวใช้ตอบว่า อยู่ในห้อง เจ้าค่ะ.
Cô hầu gái trả lời: “Cô ấy đang ở trong phòng, thưa Ngài.”

พระเถระว่า จงไปเรียกนางมาซิ.
Tôn giả nói: “Hãy đi gọi cô ấy đến đây.”

พระเถระพูดครั้งเดียวนางมาด้วยความเคารพในพระเถระ ไหว้พระเถระแล้วเกิดศรัทธาอย่างแรง
Ngài vừa nói một lần, cô ấy đã đến với sự kính trọng đối với Tôn giả, cúi lạy Tôn giả và phát sinh lòng tin mạnh mẽ.

บิณฑบาตที่ตั้งไว้ในเขตอันบริสุทธิ์ ย่อมให้วิบากในปัจจุบันชาติทีเดียว เพราะฉะนั้น พร้อมกับการไหว้พระเถระ ผมทั้งหลายจึงกลับมาตั้งอยู่เป็นปกติ.
Các món khất thực được đặt trong vùng thanh tịnh chắc chắn sẽ mang lại quả báo trong hiện tại. Vì vậy, cùng với việc cúi lạy Tôn giả, tóc của họ đã trở lại bình thường.

ฝ่ายพระเถระทั้งหลายถือเอาบิณฑบาตนั้นเหาะขึ้นไปทั้งที่ธิดาเศรษฐีเห็น ก็ลงพระราชอุทยานชื่ออุทธยานกัญจนะ
Các Tôn giả đã nhận lấy món khất thực đó và bay lên, mặc dù cô con gái Bà-la-môn thấy điều đó, họ đã hạ cánh xuống vườn hoàng gia tên là Uṭṭhāna.

คนเฝ้าพระราชอุทยานเห็นพระเถระนั้นแล้วจึงไปเจ้าเฝ้าพระราชา กราบทูลว่า ข้าแต่สมมติเทพ พระคุณเจ้ากัจจายนะปุโรหิตของเราบวชแล้วกลับมายังอุทยานแล้วพระเจ้าข้า.
Người canh giữ vườn hoàng gia thấy các Tôn giả liền đi gặp nhà vua và thưa rằng: “Kính bạch Ngài, Tôn giả Kaccayana Bà-la-môn của chúng ta đã xuất gia và trở về vườn rồi, thưa Ngài.”

พระเจ้าจันฑปัชโชตจึงเสด็จไปยังอุทยาน ไหว้พระเถระผู้กระทำภัตกิจแล้วด้วยเบญจางคประดิษฐ์ แล้วประทับนั่ง ณ ที่สมควรส่วนหนึ่ง ตรัสถามว่า ท่านเจ้าข้า พระผู้มีพระภาคเจ้าประทับอยู่ ณ ที่ไหนล่ะ.
Vua Chandapajjota đã đến vườn, kính lễ Tôn giả đang thực hiện nghi thức cúng dường bằng các lễ vật quý, rồi ngồi ở chỗ thích hợp, hỏi: “Kính bạch Ngài, Đức Thế Tôn đang ở đâu?”.

พระเถระทูลว่า พระองค์มิได้เสด็จมาเอง ทรงส่งอาตมะมา มหาบพิตร.
Tôn giả thưa: “Ngài không đến đây, mà đã phái tôi đến, thưa Đại Vương.”

พระราชาตรัสถามว่า ท่านผู้เจริญ วันนี้พระคุณเจ้าได้ภิกษา ณ ที่ไหน.
Nhà vua hỏi: “Thưa Ngài, hôm nay Ngài đã khất thực ở đâu?”

พระเถระทูลบอกเรื่องที่กระทำได้โดยยากที่ธิดาเศรษฐีกระทำทุกอย่างให้พระราชาทรงทราบ ตามถ้อยคำควรแก่ที่ตรัสถาม.
Tôn giả đã kể lại cho nhà vua biết về việc khó khăn mà cô con gái Bà-la-môn đã làm để Ngài biết, theo những lời phù hợp với câu hỏi.

พระราชาตรัสให้จัดแจงที่อยู่แก่พระเถระ แล้วนิมนต์พระเถระไปยังนิเวศน์ แล้วรับสั่งให้ไปนำธิดาเศรษฐีมาตั้งไว้ในตำแหน่งอัครมเหสีแล้ว ก็การได้ยศในปัจจุบันชาติได้มีแล้วแก่หญิงนี้ จำเดิมแต่นั้นพระราชาทรงกระทำสักการะใหญ่แด่พระเถระ.
Nhà vua đã ra lệnh sắp xếp chỗ ở cho Tôn giả và mời ngài đến cung điện, sau đó ra lệnh đưa cô con gái Bà-la-môn về để phong làm hoàng hậu. Như vậy, danh vị đã có được trong hiện tại cho người phụ nữ này, kể từ đó, nhà vua đã thực hiện các lễ cúng dường lớn cho Tôn giả.

มหาชนเลื่อมใสในธรรมกถาของพระเถระ บวชในสำนักของพระเถระ จำเดิมแต่กาลนั้น ทั่วพระนครก็รุ่งเรื่องด้วยผ้ากาสาวพัตรเป็นอันเดียวกัน คลาคล่ำไปด้วยหมู่ฤาษี.
Đám đông dân chúng đã tin tưởng vào những lời giảng của Tôn giả và đã xuất gia dưới sự hướng dẫn của ngài. Kể từ thời điểm đó, toàn thành phố đã trở nên rực rỡ với những chiếc áo cà sa giống nhau, đông đúc bởi các vị ẩn sĩ.

ฝ่ายพระเทวีนั้นทรงครรภ์ พอล่วงทศมาสก็ประสูติพระโอรส ในวันถวายพระนามโอรสนั้น พระญาติทั้งหลายถวายพระนามของเศรษฐีผู้เป็นตาว่า โคปาลกุมาร.
Cô con gái Bà-la-môn đã mang thai, sau 10 tháng thì sinh ra một hoàng tử. Vào ngày đặt tên cho hoàng tử, các họ hàng đã đặt tên theo tên của ông nội là Koppala Kumāra.

พระมารดาก็มีพระนามว่า โคปาลมารดาเทวี ตามชื่อของพระโอรส.
Mẹ của hoàng tử cũng được gọi là Koppalamātā theo tên của con trai.

พระนางทรงเลื่อมใสในพระเถระอย่างยิ่ง ขอพระราชานุญาตสร้างวิหารถวายพระเถระในกัญจนราชอุทยาน.
Bà rất tin tưởng vào Tôn giả và đã xin phép nhà vua để xây dựng một ngôi chùa cúng dường Tôn giả trong vườn Ganjana.

พระเถระยังชาวอุชเชนีให้เลื่อมใสแล้ว ไปเฝ้าพระศาสดาอีกครั้งหนึ่ง.
Tôn giả đã khiến dân chúng ở Ujjeni tin tưởng và sau đó đã đến gặp Đức Thế Tôn một lần nữa.

ต่อมาภายหลัง พระศาสดาเมื่อประทับอยู่ ณ เชตวันมหาวิหาร ทรงกระทำพระสูตร ๓ สูตรเหล่านี้คือ มธุบิณฑิกสูตร, กัจจายนเปยยาลสูตร, ปรายนสูตร ให้เป็นอัตถุปบัติเหตุ แล้วทรงสถาปนาพระเถระไว้ในตำแหน่งเป็นยอดของเหล่าภิกษุผู้จำแนกอรรถแห่งพระดำรัสที่ทรงตรัสโดยย่อให้พิสดารแล้ว.
Sau đó, khi Đức Thế Tôn đang ngự tại Jetavana Mahāvihāra, Ngài đã thiết lập ba Kinh: Mahābhindika Sutta, Kaccāyana Peyyāla Sutta, và Pārāyana Sutta như những yếu tố để giảng giải, rồi đã công nhận Tôn giả là người vĩ đại nhất trong số các Tỳ kheo phân tích ý nghĩa của những lời nói ngắn gọn thành chi tiết.

จบอรรถกถาสูตรที่ ๑๐
Kết thúc phần giải thích Kinh số 10.

จบวรรคที่ ๑
Kết thúc phần 1.

Hộp bình luận Facebook

Soṇa Thiện Kim

Panha.org là trang web chuyên sâu về Pháp học của Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Tông), nơi cung cấp kiến thức và tài liệu quý báu về kinh điển, giáo lý, và triết học Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Tông). Tại đây, bạn có thể tìm hiểu về các giáo pháp truyền thống, kinh nghiệm tu tập, và những bài giảng từ các vị tôn sư hàng đầu trong cộng đồng Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Tông). Với mục tiêu giúp người học hiểu sâu hơn về con đường giác ngộ và sự giải thoát, Panha.org mang đến nguồn tài nguyên phong phú, chính xác và cập nhật để hỗ trợ hành giả trên hành trình tu tập Pháp học.

Bài viết liên quan

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.

0 Góp ý
Được bỏ phiếu nhiều nhất
Mới nhất Cũ nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Back to top button
Close

Phát hiện trình chặn quảng cáo

Hãy hùn phước với trang web Panha.org bằng cách vô hiệu hoá trình chặn quảng cáo (Thêm vào danh sách ngoại lệ được hiển thị quảng cáo), xem quảng cáo và nhấn vào quảng cáo trên Panha.org. Trang web Panha.org cần chi phí để duy trì hoạt động, để dịch chú giải, phụ chú giải, dịch lại Tam Tạng Theravadā từ Pāli, Thái Lan sang tiếng Việt, và để phát triển các nội dung bổ ích cho Pháp Học và Pháp Hành của Phật giáo Nguyên thủy (Theravadā). Ngoài ra, nếu sau các chi phí đó mà có dư, thì Soṇa Thiện Kim sẽ dùng số tiền dư để làm thiện pháp đến Tam Bảo. Do đó Soṇa Thiện Kim cần đặt quảng cáo để có các chi phí này. Mong Quý vị tu sĩ, cư sĩ hoan hỷ! Sādhu sādhu sādhu!