1. Valāhakavaggo
Valāhakavagga (Phẩm Cái Cột)
1-2. Valāhakasuttadvayavaṇṇanā
Giải thích hai bài kinh Valāhaka
101-2. Tatiyapaṇṇāsakassa paṭhame gajjitāti thanitā. Tattha gajjitvā novassanabhāvo nāma pāpako. Manussā hi yadā devo gajjati, tadā ‘‘suvuṭṭhitā bhavissatī’’ti bījāni nīharitvā vapanti. Atha deve avassante khette bījāni khetteyeva nassanti, gehe bījāni geheyeva nassantīti dubbhikkhaṃ hoti. Nogajjitvā vassanabhāvo pāpako. Manussā hi imasmiṃ kāle ‘‘dubbuṭṭhikā bhavissatī’’ti ninnaṭṭhānesuyeva vappaṃ karonti. Atha devo vassitvā sabbabījāni mahāsamuddaṃ pāpeti, dubbhikkhameva hoti. Gajjitvā vassanabhāvo pana bhaddako. Tadā hi subhikkhaṃ hoti. Nogajjitvā novassanabhāvo ekantapāpakova.
Trong bài kinh thứ nhất của phần ba mươi, có nói đến việc “gầm thét là điềm báo xấu”. Khi trời gầm thét mà không có mưa thì đó là một dấu hiệu xấu. Con người thường tin rằng khi trời gầm thét sẽ có mùa màng tốt tươi, do đó họ gieo giống. Nhưng khi không có mưa, hạt giống cũng không nảy mầm được trên cánh đồng và trong nhà, dẫn đến mất mùa và đói kém. Nếu trời không gầm thét mà cũng không mưa thì vẫn là một điềm báo xấu. Trong thời đại này, con người chỉ làm những việc xấu khi không có mưa, họ gieo giống mà không có mưa. Còn nếu trời gầm thét và có mưa, thì tất cả hạt giống đều trôi ra biển cả, và vẫn là một mùa mất mùa. Tuy nhiên, nếu trời gầm thét mà có mưa thì tốt, mùa màng sẽ được thu hoạch tốt đẹp. Nhưng nếu trời không gầm thét mà cũng không mưa thì đó là một dấu hiệu hoàn toàn xấu.
Bhāsitā hoti no kattāti ‘‘idāni ganthadhuraṃ pūressāmi, vāsadhuraṃ pūressāmī’’ti kathetiyeva, na uddesaṃ gaṇhāti, na kammaṭṭhānaṃ bhāveti.
Người đó nói rằng “Bây giờ tôi sẽ hoàn thành công việc thêu dệt, và tôi sẽ làm việc để dựng nhà” nhưng không thực hiện, không có sự chuẩn bị, không tu hành đúng cách.
Kattā hoti no bhāsitāti ‘‘ganthadhuraṃ pūressāmi, vāsadhuraṃ vā’’ti na bhāsati, sampatte pana kāle samattaṃ sampādeti. Iminā nayena itarepi veditabbā.
Người đó không nói rằng “Tôi sẽ hoàn thành công việc thêu dệt hay dựng nhà”, nhưng khi thời điểm đến thì sẽ làm đúng như lời hứa. Cách thức này cũng có thể áp dụng cho những người khác.
Atha vā sabbaṃ panetaṃ paccayadāyakeheva kathitaṃ. Eko hi ‘‘asukadivase nāma dānaṃ dassāmī’’ti saṅghaṃ nimanteti, sampatte kāle no karoti. Ayaṃ puggalo puññena parihāyati, bhikkhusaṅgho pana lābhena parihāyati. Aparo saṅghaṃ animantetvā sakkāraṃ katvā ‘‘bhikkhū ānessāmī’’ti na labhi, sabbe aññattha nimantitā honti. Ayampi puññena parihāyati, saṅghopi lābhena parihāyati.
Hoặc tất cả những việc này đều được nói đến bởi những người tạo ra duyên cớ. Một người, chẳng hạn, nói rằng “Vào ngày này tôi sẽ cúng dường” và mời các Tăng đoàn, nhưng khi đến thời gian đó thì không thực hiện. Người này sẽ dần mất công đức, và Tăng đoàn cũng sẽ mất phước lợi. Một người khác mời Tăng đoàn mà không có lễ vật, chỉ nói “Tôi sẽ mang Tăng đến” nhưng không thực hiện được, tất cả những người khác đều được mời từ nơi khác. Cả người này và Tăng đoàn đều mất phước.
Aparo paṭhamaṃ saṅghaṃ nimantetvā pacchā sakkāraṃ katvā dānaṃ deti, ayaṃ kiccakārī hoti. Aparo neva saṅghaṃ nimanteti, na dānaṃ deti, ayaṃ pāpapuggaloti veditabbo.
Một người khác mời Tăng đoàn đầu tiên, rồi sau đó cúng dường lễ vật, người này thực hiện đúng nghĩa vụ. Còn một người khác không mời Tăng đoàn và không cúng dường, người này được coi là người tội lỗi.
Dutiyaṃ uttānameva.
Phần giải thích thứ hai đã xong.
Valāhakasuttadvayavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích về hai bài kinh Valāhaka đã hoàn thành.
3. Kumbhasuttavaṇṇanā
Giải thích về bài kinh Kumbha
103. Tatiye rittakoti anto ritto. Pihitamukhoti pidahitvā ṭhapito. Apārutamukhoti vivaritvā ṭhapito, upamitapuggalesu panettha antoguṇasāravirahito ca tuccho, bāhirasobhanatāya pihito puggaloti veditabbo. Sesesupi eseva nayo.
Trong bài kinh thứ ba, có nói đến “cái bát có miệng kín” và “cái bát có miệng mở”. Cái bát có miệng kín, nghĩa là miệng bị bịt kín lại, còn cái bát có miệng mở thì miệng được mở ra. Ở đây, người này thiếu đi những phẩm hạnh bên trong, chỉ có vẻ đẹp bên ngoài. Do đó, người này được gọi là người có hình thức đẹp bên ngoài nhưng thiếu đức hạnh bên trong. Các trường hợp khác cũng giống như vậy.
Kumbhasuttavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích về bài kinh Kumbha đã hoàn thành.
4. Udakarahadasuttavaṇṇanā
Giải thích về bài kinh Udakarahada
104. Catutthe udakarahado jaṇṇukamattepi udake sati paṇṇarasasambhinnavaṇṇattā vā bahalattā vā udakassa apaññāyamānatalo uttāno gambhīrobhāso nāma hotīti āha ‘‘purāṇapaṇṇarasa…pe… gambhīrobhāso nāmā’’ti. Tiporisacatuporise pana udake sati acchattā udakassa paññāyamānatalo gambhīro uttānobhāso nāma hotīti āha ‘‘acchavippasannamaṇivaṇṇaudako uttānobhāso nāmā’’ti. Ubhayakāraṇasambhavato pana itare dve veditabbā. Puggalepi kilesussadabhāvato guṇagambhīratāya ca abhāvato guṇagambhīrānaṃ sadisehi abhikkamanādīhi yutto uttāno gambhīrobhāso nāma.
Trong bài kinh thứ tư, nói về cái hố nước, dù có nhỏ như cái chân giò, nhưng nếu có nước thì khi nhìn vào sẽ có màu sắc trộn lẫn hoặc đục, hoặc trong. Vì vậy, khi nước không có sự phân biệt rõ ràng, nó tạo thành một dòng chảy sâu, vang vọng và đầy ẩn ý. Người ta cũng có thể thấy rõ điều này qua những cái hố có nước, mà ở đó nước trong veo có vẻ đẹp thuần khiết, trong sáng. Đối với cả hai trường hợp này, có thể nói rằng nước sẽ mang lại vẻ vang sâu sắc. Từ đó, chúng ta cũng hiểu được rằng sự tinh khiết và sự bẩn thỉu cũng có thể phản ánh một cách giống nhau qua những biểu hiện bên ngoài.
Iminā nayena sesā veditabbā.
Các trường hợp khác cũng có thể được hiểu theo cách này.
Udakarahadasuttavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích về bài kinh Udakarahada đã hoàn thành.
5-6. Ambasuttādivaṇṇanā
Giải thích về bài kinh Ambasuttā và các bài khác
105-6. Pañcame āmakaṃ hutvāti anto āmaṃ hutvā. Pakkaṃ āmavaṇṇīti anto pakkaṃ bahi āmasadisaṃ. Tattha yathā ambe apakkabhāvo āmatā hoti, evaṃ puggalepi puthujjanatā. Yathā ca tattha pakkasadisatā pakkavaṇṇitā, evaṃ puggalepi ariyānaṃ abhikkamanādisadisatā pakkavaṇṇitāti iminā nayena sesā veditabbā.
Trong phần thứ năm và thứ sáu, nói về quả xoài, bên trong quả xoài có thể chín hoặc chưa chín. Cái chín bên trong và bên ngoài đều có màu sắc đồng nhất. Tương tự như vậy, người phàm có bản chất như những quả chưa chín. Còn những người thánh thì có sự thuần khiết và đẹp đẽ bên trong, giống như quả xoài đã chín, màu sắc bên ngoài cũng như bên trong đều hòa hợp với nhau. Cách giải thích này áp dụng cho tất cả các trường hợp khác.
Chaṭṭhaṃ uttānameva.
Phần giải thích thứ sáu đã hoàn thành.
Ambasuttādivaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích về bài kinh Ambasuttā và các bài khác đã hoàn thành.
7. Mūsikasuttavaṇṇanā
Giải thích về bài kinh Mūsika
107. Sattame āvāṭaṃ khanatīti attano āsayaṃ bilakūpaṃ khanati. Na ca tattha vasatīti tattha avasitvā kismiñcideva ṭhāne vasati, evaṃ biḷārādiamittavasaṃ gacchati. Vasitā no gādhaṃ kattāti sayaṃ na khanati, parena kate bile vasati, evaṃ jīvitaṃ rakkhati.
Trong bài kinh thứ bảy, có nói đến việc chuột đào hang. Chuột đào hang theo bản tính của nó để làm nơi trú ngụ. Tuy nhiên, không phải là nó sống mãi ở đó, mà nó chỉ tạm thời cư trú ở một chỗ nào đó. Tương tự, một người không ở mãi trong một hoàn cảnh mà phải sống theo sự dẫn dắt của các nhân duyên, giống như con chuột sống theo sự chỉ dẫn của các yếu tố bên ngoài. Khi không tự mình thực hiện công việc mà phải nhờ người khác, thì có thể giữ được sự sống, tự bảo vệ mình.
Tatiyā dvepi karontī jīvitaṃ rakkhati. Catutthī dvepi akarontī amittavasaṃ gacchati.
Trường hợp thứ ba, dù có thực hiện thì cũng chỉ bảo vệ được cuộc sống. Trường hợp thứ tư, dù không làm gì nhưng cũng sẽ bị chi phối bởi thế lực thù địch.
Imāya pana upamāya upamitesu puggalesu paṭhamo yathā sā mūsikā gādhaṃ khanati, evaṃ navaṅgaṃ satthusāsanaṃ uggaṇhāti. Yathā pana sā tattha na vasati, kismiñcideva ṭhāne vasantī amittavasaṃ gacchati, tathā ayampi pariyattivasena ñāṇaṃ pesetvā catusaccadhammaṃ na paṭivijjhati, lokāmisaṭṭhānesu vicaranto maccumārakilesamāradevaputtamārasaṅkhātānaṃ vasaṃ gacchati.
Trong ví dụ này, người đầu tiên, giống như con chuột đào hang, tiếp nhận lời dạy của Đức Phật và học hỏi đúng đắn. Nhưng nếu không cố định ở một nơi và sống theo sự điều khiển của các yếu tố ngoại cảnh, thì sẽ không thể thực hành được giáo pháp, và sẽ bị dẫn dắt bởi các phiền não, các cám dỗ và những vọng tưởng.
Dutiyo yathā mūsikā gādhaṃ na khanati, evaṃ navaṅgaṃ satthusāsanaṃ na uggaṇhāti. Yathā pana parena khanite bile vasantī jīvitaṃ rakkhati, evaṃ parassa kathaṃ sutvā catusaccadhammaṃ paṭivijjhitvā tiṇṇaṃ mārānaṃ vasaṃ atikkamati.
Trong trường hợp thứ hai, giống như con chuột không đào hang, không học hỏi giáo pháp, không theo dõi chỉ dạy của Đức Phật. Tuy nhiên, khi được hướng dẫn bởi người khác, nó có thể bảo vệ được mạng sống của mình và vượt qua được các phiền não, ba cạm bẫy của ma quái.
Iminā nayena tatiyacatutthesupi opammasaṃsandanaṃ veditabbaṃ.
Cách giải thích này cũng áp dụng cho các trường hợp thứ ba và thứ tư.
Mūsikasuttavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích về bài kinh Mūsika đã hoàn thành.
8. Balībaddasuttavaṇṇanā
Giải thích về bài kinh Balībadda
108. Aṭṭhame balībaddo tāva yo attano gogaṇaṃ ghaṭṭeti ubbejeti, paragoṇe pana sūrato sukhasīlo hoti, ayaṃ sagavacaṇḍo no paragavacaṇḍo nāma.
Trong phần thứ tám, bài kinh nói về con vật bị trói, như con bò kéo cày hay con lừa mang vác. Nếu con vật chỉ làm việc cho chính mình, nó sẽ dễ dàng và thoải mái. Nhưng khi nó làm việc cho người khác, nó trở thành một con vật bị thúc ép, có thể trở nên cứng rắn và bực bội. Vì vậy, người nào chỉ làm việc cho lợi ích của mình thì dễ dàng và hòa thuận, nhưng khi làm việc cho lợi ích của người khác thì có thể trở nên cáu kỉnh và khó chịu.
Puggalopi attano parisaṃ ghaṭṭento vijjhanto pharuse samudācaranto, paraparisāya pana soraccaṃ nivātavuttitaṃ āpajjanto sagavacaṇḍo nāmāti iminā nayena sesāpi veditabbā.
Người cũng vậy, nếu người đó luôn gây rắc rối trong cộng đồng của mình, hành động một cách thô lỗ, bạo lực, thì họ sẽ trở thành người xấu trong cộng đồng. Tuy nhiên, nếu họ có thể cư xử đúng mực, hòa thuận với người khác, họ sẽ không bị chi phối bởi sự thù địch và sự xung đột, mà sẽ đạt được sự an vui và hòa hợp.
Balībaddasuttavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích về bài kinh Balībadda đã hoàn thành.
9. Rukkhasuttavaṇṇanā
Giải thích về bài kinh Rukkha
109. Navame rukkho tāva pheggu sāraparivāroti vanajeṭṭhakarukkho sayaṃ pheggu hoti, parivārarukkhā panassa sārā honti. Iminā nayena sesā veditabbā.
Trong phần thứ chín, bài kinh nói về cây rừng, cây đại thụ trong rừng. Cây lớn này là biểu tượng của sức mạnh và sự trường tồn, tự nó đã có những giá trị riêng biệt, nhưng xung quanh nó là những cây khác cũng góp phần làm tăng giá trị của nó. Tương tự như vậy, một người nếu thiếu đức hạnh, thiếu phẩm giá của riêng mình, thì sẽ không thể có được giá trị thật sự, nhưng khi sống hòa hợp với những đức hạnh và lối sống đúng đắn, sẽ đạt được sự tốt đẹp, giống như cây đại thụ trong rừng được bao quanh bởi các cây khác.
Puggalesu pana sīlasāravirahitato pheggutā, sīlācārasamannāgamena ca sāratā veditabbā.
Ở đây, đối với con người, nếu thiếu đi những phẩm hạnh và đức độ căn bản, sẽ giống như cây thiếu chất, không thể có giá trị thực sự. Ngược lại, khi một người thực hành đúng đắn các đức hạnh và sống trong sự hòa hợp với các giá trị đạo đức, thì sẽ trở nên quý giá và đáng tôn trọng.
Rukkhasuttavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích về bài kinh Rukkha đã hoàn thành.
10. Āsīvisasuttavaṇṇanā
Giải thích về bài kinh Āsīvisa
110. Dasame yassa visaṃ pajjalitatiṇukkāya aggi viya sīghaṃ abhiruhitvā akkhīni gahetvā khandhaṃ gahetvā sīsaṃ gahetvā ṭhitanti vattabbataṃ āpajjati maṇisappādīnaṃ visaṃ viya, mantaṃ pana parivattetvā kaṇṇavātaṃ datvā daṇḍakena pahaṭamatte otaritvā daṭṭhaṭṭhāneyeva tiṭṭhanti, ayaṃ āgataviso na ghoraviso nāma.
Trong phần thứ mười, bài kinh nói về loài rắn và nọc độc của chúng. Khi nọc độc nhanh chóng bùng phát và lan rộng, giống như ngọn lửa bùng cháy mạnh mẽ, nó có thể tấn công nhanh chóng và gây hại đến mắt, cơ thể và đầu, giống như một viên đá quý có độc. Tuy nhiên, khi nọc độc được điều chỉnh và có sự thay đổi, nó sẽ nhẹ nhàng hơn, như làn gió vào tai hoặc cú đánh nhẹ với cây gậy, khiến nọc độc không phát triển mạnh mà chỉ dừng lại ở một mức độ nhỏ. Nọc độc này có thể được xem là loại không nguy hiểm.
Yassa pana visaṃ saṇikaṃ abhiruhati, āruḷhāruḷhaṭṭhāne pana āsittaudakaṃ viya hoti udakasappādīnaṃ viya, dvādasavassaccayenapi kaṇṇaviddhakhandhapiṭṭhikādīsu paññāyati, mantaparivattanādīsu ca kariyamānesu sīghaṃ na otarati, ayaṃ ghoraviso na āgataviso nāma.
Nếu nọc độc phát triển từ từ, giống như nước dâng lên từ từ mà không dội mạnh, nó sẽ chậm rãi và không gây tổn hại lớn. Dù nọc độc này có tồn tại trong nhiều năm, nó vẫn chỉ là một loại chất độc nhỏ, nhẹ, không gây nguy hiểm lớn. Mặc dù có thể có sự thay đổi trong cách thức nó hoạt động, nhưng nó không đủ mạnh để phát triển nhanh chóng hay gây tác động mạnh.
Yassa pana visaṃ sīghaṃ abhiruhati, na sīghaṃ otarati aneḷakasappādīnaṃ visaṃ viya, ayaṃ āgataviso ca ghoraviso ca.
Khi nọc độc phát triển nhanh chóng và không có dấu hiệu dừng lại, giống như nọc độc của loài rắn độc, nó sẽ nhanh chóng gây hại và có thể gây tử vong. Loại nọc độc này vừa nguy hiểm vừa mạnh mẽ, không thể kiểm soát được.
Aneḷakasappo nāma mahāāsīviso. Yassa visaṃ mandaṃ hoti, ohāriyamānampi sukheneva otarati nīlasappadhamanisappādīnaṃ visaṃ viya, ayaṃ neva āgataviso na ghoraviso.
Loài rắn vô hại, nọc độc của nó yếu, có thể dễ dàng rút ra mà không gây tác hại. Loại nọc độc này không nguy hiểm như các loại nọc độc mạnh, mà giống như nọc độc của loài rắn có vảy xanh, luôn sống hòa bình và không gây tổn thương.
Nīlasappo nāma sākhavaṇṇo rukkhaggādīsu vicaraṇasappo.
Rắn có vảy xanh thường sống trong các cây cối, có bản tính hiền lành và không gây hại cho môi trường xung quanh.
Āsīvisasuttavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích về bài kinh Āsīvisa đã hoàn thành.
Valāhakavaggavaṇṇanā niṭṭhitā.
Giải thích về nhóm bài kinh Valāhaka đã hoàn thành.