Chú giải Tăng Chi Bộ Kinh

Chú giải kinh Tăng Chi Bộ I – Chương 3 – 5. Phẩm Nhỏ

5. Cūḷavaggo

1. Sammukhībhāvasuttavaṇṇanā

41. Pañcamassa paṭhame sammukhībhāvāti sammukhībhāvena, vijjamānatāyāti attho.

41. Pañcamassa paṭhame sammukhībhāvāti sammukhībhāvena, vijjamānatāyāti attho.
Trong bài kinh đầu tiên của chương thứ năm, “sammukhībhāva” có nghĩa là sự hiện diện trực tiếp, nghĩa là sự tồn tại.

Pasavatīti paṭilabhati.
“Sinh ra” nghĩa là nhận được.

Saddhāya sammukhībhāvāti yadi hi saddhā na bhaveyya, deyyadhammo na bhaveyya, dakkhiṇeyyasaṅkhātā paṭiggāhakapuggalā na bhaveyyuṃ, kathaṃ puññakammaṃ kareyya.
“Sự hiện diện của lòng tin” có nghĩa là nếu không có lòng tin, sẽ không có hành động bố thí, và không có những người xứng đáng để nhận sự cúng dường, thì làm sao có thể thực hiện nghiệp lành được?

Tesaṃ pana sammukhībhāvena sakkā kātunti tasmā ‘‘saddhāya sammukhībhāvā’’tiādimāha.
Tuy nhiên, nhờ sự hiện diện trực tiếp của họ, việc đó có thể thực hiện được, do đó nói rằng “sự hiện diện của lòng tin.”

Ettha ca dve dhammā sulabhā deyyadhammā ceva dakkhiṇeyyā ca, saddhā pana dullabhā.
Ở đây, có hai pháp dễ tìm thấy là vật để bố thí và người xứng đáng nhận, nhưng lòng tin thì khó tìm.

Puthujjanassa hi saddhā athāvarā padavārena nānā hoti, teneva mahāmoggallānasadisopi aggasāvako pāṭibhogo bhavituṃ asakkonto āha – ‘‘dvinnaṃ kho te ahaṃ, āvuso, dhammānaṃ pāṭibhogo bhogānañca jīvitassa ca, saddhāya pana tvaṃyeva pāṭibhogo’’ti (udā. 18).
Bởi vì đối với người thường, lòng tin là không ổn định và thay đổi theo hoàn cảnh, ngay cả vị đại đệ tử như Mahāmoggallāna cũng không thể đảm nhận được, do đó ngài nói: “Này bạn, ta chỉ có thể đảm bảo về hai điều là tài sản và sự sống, nhưng ngươi phải tự đảm bảo về lòng tin của mình.” (Udāna 18).

2. Tiṭhānasuttavaṇṇanā

42. Dutiye vigatamalamaccherenāti vigatamacchariyamalena.

42. Dutiye vigatamalamaccherenāti vigatamacchariyamalena.
Trong bài kinh thứ hai, “vigatamalamaccherenā” có nghĩa là người không có vết bẩn của sự keo kiệt.

Muttacāgoti vissaṭṭhacāgo.
“Muttacāgo” có nghĩa là người có tâm bố thí rộng lượng.

Payatapāṇīti dhotahattho.
“Payatapāṇi” có nghĩa là người có đôi tay trong sạch.

Assaddho hi satakkhattuṃ hatthe dhovitvāpi malinahatthova hoti, saddho pana dānābhiratattā malinahatthopi dhotahatthova.
Người không có lòng tin dù rửa tay cả trăm lần vẫn là tay bẩn, trong khi người có lòng tin dù tay bẩn vẫn là tay trong sạch vì tâm họ luôn vui thích trong việc bố thí.

Vossaggaratoti vossaggasaṅkhāte dāne rato.
“Vossaggarato” có nghĩa là người yêu thích việc bố thí.

Yācayogoti yācituṃ yutto, yācakehi vā yogo assātipi yācayogo.
“Yācayogo” có nghĩa là người có khả năng xin hoặc được liên kết với những người xin.

Dānasaṃvibhāgaratoti dānaṃ dadanto saṃvibhāgañca karonto dānasaṃvibhāgarato nāma hoti.
“Dānasaṃvibhāgarato” có nghĩa là người vừa cho đi vừa chia sẻ, được gọi là người yêu thích sự chia sẻ trong bố thí.

Dassanakāmo sīlavatanti dasapi yojanāni vīsampi tiṃsampi yojanasatampi gantvā sīlasampanne daṭṭhukāmo hoti pāṭaliputtakabrāhmaṇo viya saddhātissamahārājā viya ca.
“Người mong muốn gặp gỡ người có giới hạnh” nghĩa là dù phải đi qua mười, hai mươi, ba mươi, hay một trăm do tuần, họ vẫn khao khát gặp gỡ người có giới hạnh, giống như vị Bà-la-môn ở Pāṭaliputta hay vua Saddhātissa.

Pāṭaliputtassa kira nagaradvāre sālāya nisinnā dve brāhmaṇā kāḷavallimaṇḍapavāsimahānāgattherassa guṇakathaṃ sutvā ‘‘amhehi taṃ bhikkhuṃ daṭṭhuṃ vaṭṭatī’’ti dvepi janā nikkhamiṃsu.
Người ta kể rằng, có hai vị Bà-la-môn ngồi tại cổng thành Pāṭaliputta đã nghe được lời ca ngợi về công đức của Đại trưởng lão Kāḷavallimaṇḍapa và nói rằng: “Chúng ta nên đến gặp vị tỳ-kheo này,” rồi cả hai cùng lên đường.

Eko antarāmagge kālamakāsi.
Một người đã chết trên đường đi.

Eko samuddatīraṃ patvā nāvāya mahātitthapaṭṭane oruyha anurādhapuraṃ āgantvā ‘‘kāḷavallimaṇḍapo kuhi’’nti pucchi.
Người kia đã đến bờ biển, lên thuyền tại Mahātittha, rồi đến Anurādhapura và hỏi: “Kāḷavallimaṇḍapa ở đâu?”

Rohaṇajanapadeti.
Tại vùng Rohaṇa.

So anupubbena therassa vasanaṭṭhānaṃ patvā cūḷanagaragāme dhuraghare nivāsaṃ gahetvā therassa āhāraṃ sampādetvā pātova vuṭṭhāya therassa vasanaṭṭhānaṃ pucchitvā gantvā janapariyante ṭhito theraṃ dūratova āgacchantaṃ disvā sakiṃ tattheva ṭhito vanditvā puna upasaṅkamitvā gopphakesu daḷhaṃ gahetvā vandanto ‘‘uccā, bhante, tumhe’’ti āha.
Người ấy từ từ đi đến nơi ở của trưởng lão, nhận chỗ trú tại một căn nhà ở làng Cūḷanagara, lo liệu thực phẩm cho trưởng lão và sáng hôm sau thức dậy, hỏi thăm nơi ở của trưởng lão rồi đi đến, đứng ở ranh giới làng. Khi nhìn thấy trưởng lão từ xa đang đi đến, ông cúi lạy rồi đến gần nắm chặt lấy đôi chân của trưởng lão và nói: “Ngài cao quá, thưa ngài.”

Thero ca nātiucco nātirasso pamāṇayuttova, tena naṃ puna āha – ‘‘nātiuccā tumhe, tumhākaṃ pana guṇā mecakavaṇṇassa samuddassa matthakena gantvā sakalajambudīpatalaṃ ajjhottharitvā gatā, ahampi pāṭaliputtanagaradvāre nisinno tumhākaṃ guṇakathaṃ assosi’’nti.
Trưởng lão không cao cũng không thấp, có vóc dáng vừa phải. Sau đó, trưởng lão nói: “Ta không cao lắm, nhưng công đức của ta đã vượt qua đỉnh của biển xanh và bao phủ khắp toàn bộ Jambudīpa. Khi ta ngồi tại cổng thành Pāṭaliputta, ta đã nghe kể về công đức của ngài.”

So therassa bhikkhāhāraṃ datvā attano ticīvaraṃ paṭiyādetvā therassa santike pabbajitvā tassovāde patiṭṭhāya katipāheneva arahattaṃ pāpuṇi.
Sau khi dâng thức ăn cho trưởng lão, người ấy đã sắp xếp ba y áo của mình và xuất gia dưới sự hướng dẫn của trưởng lão. Chỉ trong vài ngày, người ấy đã đạt đến quả vị A-la-hán.

Saddhātissamahārājāpi, ‘‘bhante, mayhaṃ vanditabbayuttakaṃ ekaṃ ayyaṃ ācikkhathā’’ti pucchi.
Vua Saddhātissa cũng hỏi: “Bạch ngài, xin chỉ cho con một vị trưởng lão đáng để con cúi lạy.”

Bhikkhū ‘‘maṅgalavāsī kuṭṭatissatthero’’ti āhaṃsu.
Các vị tỳ-kheo trả lời: “Đó là trưởng lão Kuṭṭatissa ở Maṅgalavāsī.”

Rājā mahāparivārena pañcayojanamaggaṃ agamāsi.
Vua cùng đoàn tùy tùng đi một đoạn đường dài năm do tuần.

Thero ‘‘kiṃ saddo eso, āvuso’’ti bhikkhusaṅghaṃ pucchi.
Trưởng lão hỏi các tỳ-kheo: “Này bạn, tiếng ồn này là gì?”

‘‘Rājā, bhante, tumhākaṃ dassanatthāya āgato’’ti.
“Thưa ngài, đó là vua đến để diện kiến ngài,” các tỳ-kheo trả lời.

Thero cintesi – ‘‘kiṃ mayhaṃ mahallakakāle rājagehe kamma’’nti divāṭṭhāne mañce nipajjitvā bhūmiyaṃ lekhaṃ likhanto acchi.
Trưởng lão nghĩ: “Ở tuổi già này, việc gì ta phải làm trong cung vua?” Rồi ngài nằm trên giường ban ngày và viết gì đó trên mặt đất.

Rājā ‘‘kahaṃ thero’’ti pucchitvā ‘‘divāṭṭhāne’’ti sutvā tattha gacchanto theraṃ bhūmiyaṃ lekhaṃ likhantaṃ disvā ‘‘khīṇāsavassa nāma hatthakukkuccaṃ natthi, nāyaṃ khīṇāsavo’’ti avanditvāva nivatti.
Vua hỏi: “Trưởng lão ở đâu?” Khi nghe rằng ngài ở phòng ban ngày, vua đi đến và thấy ngài đang viết trên mặt đất. Vua nghĩ: “Một vị khīṇāsava không có sự lộn xộn trong hành động, người này không phải là một vị khīṇāsava,” rồi quay về mà không cúi lạy.

Bhikkhusaṅgho theraṃ āha – ‘‘bhante, evaṃvidhassa saddhassa pasannassa rañño kasmā vippaṭisāraṃ karitthā’’ti.
Các tỳ-kheo nói với trưởng lão: “Thưa ngài, tại sao ngài lại làm cho vị vua có lòng tin và sự kính trọng như vậy phải thất vọng?”

‘‘Āvuso, rañño pasādarakkhanaṃ na tumhākaṃ bhāro, mahallakattherassa bhāro’’ti vatvā aparabhāge anupādisesāya nibbānadhātuyā parinibbāyanto bhikkhusaṅghaṃ āha – ‘‘mayhaṃ kūṭāgāramhi aññampi pallaṅkaṃ attharathā’’ti.
Trưởng lão trả lời: “Này bạn, việc bảo vệ lòng tin của vua không phải là trách nhiệm của các ngươi, mà là trách nhiệm của một trưởng lão lớn tuổi.” Sau đó, khi chuẩn bị nhập niết bàn không dư tàn, trưởng lão nói với các tỳ-kheo: “Hãy chuẩn bị thêm một chiếc giường khác trong phòng ta.”

Tasmiṃ atthate thero – ‘‘idaṃ kūṭāgāraṃ antare appatiṭṭhahitvā raññā diṭṭhakāleyeva bhūmiyaṃ patiṭṭhātū’’ti adhiṭṭhahitvā parinibbāyi.
Khi chiếc giường được chuẩn bị xong, trưởng lão quyết định: “Khi vua nhìn thấy ngôi nhà này, ngôi nhà này sẽ không được cố định mà phải tiếp đất vào lúc đó.” Rồi ngài nhập niết bàn.

Kūṭāgāraṃ pañcayojanamaggaṃ ākāsena agamāsi.
Ngôi nhà đi qua năm do tuần trên không trung.

Pañcayojanamagge dhajaṃ dhāretuṃ samatthā rukkhā dhajapaggahitāva ahesuṃ.
Những cây có thể giữ được cờ trên đường dài năm do tuần đã giương cờ lên.

Gacchāpi gumbāpi sabbe kūṭāgārābhimukhā hutvā aṭṭhaṃsu.
Tất cả các cây và bụi cây đều hướng về phía ngôi nhà và đứng yên.

Raññopi paṇṇaṃ pahiṇiṃsu ‘‘thero parinibbuto, kūṭāgāraṃ ākāsena āgacchatī’’ti.
Họ gửi một bức thư cho vua nói rằng: “Trưởng lão đã nhập niết bàn, và ngôi nhà đang đến bằng không trung.”

Rājā na saddahi.
Vua không tin.

Kūṭāgāraṃ ākāsena gantvā thūpārāmaṃ padakkhiṇaṃ katvā silācetiyaṭṭhānaṃ agamāsi.
Ngôi nhà đi bằng không trung đến Thūpārāma, rồi đi vòng quanh ba lần và đi đến chỗ của tháp đá.

Cetiyaṃ saha vatthunā uppatitvā kūṭāgāramatthake aṭṭhāsi, sādhukārasahassāni pavattiṃsu.
Tháp đá, cùng với nền móng, đã bay lên và đứng trên ngôi nhà, với hàng ngàn lời tán thán vang lên.

Tasmiṃ khaṇe mahābyagghatthero nāma lohapāsāde sattamakūṭāgāre nisinno bhikkhūnaṃ vinayakammaṃ karonto taṃ saddaṃ sutvā ‘‘kiṃ saddo eso’’ti paṭipucchi.
Vào lúc đó, trưởng lão Mahābyaggha, đang ngồi tại căn nhà thứ bảy trong cung điện bằng sắt và thực hiện nghi thức giới luật cho các tỳ-kheo, đã nghe tiếng động và hỏi: “Tiếng ồn đó là gì?”

Bhante, maṅgalavāsī kuṭṭatissatthero parinibbuto, kūṭāgāraṃ pañcayojanamaggaṃ ākāsena āgataṃ, tattha so sādhukārasaddoti.
“Thưa ngài, trưởng lão Kuṭṭatissa ở Maṅgalavāsī đã nhập niết bàn, và ngôi nhà đã đi năm do tuần trên không trung. Đó là tiếng tán thán,” các tỳ-kheo trả lời.

Āvuso, puññavante nissāya sakkāraṃ labhissāmāti antevāsike khamāpetvā ākāseneva āgantvā taṃ kūṭāgāraṃ pavisitvā dutiyamañce nisīditvā anupādisesāya nibbānadhātuyā parinibbāyi.
Trưởng lão nói: “Này bạn, nhờ những người có công đức, ta sẽ nhận được sự kính trọng.” Sau khi xin lỗi các đệ tử, ngài đi bằng không trung đến ngôi nhà, ngồi xuống chiếc giường thứ hai và nhập niết bàn không dư tàn.

Rājā gandhapupphacuṇṇāni ādāya gantvā ākāse ṭhitaṃ kūṭāgāraṃ disvā kūṭāgāraṃ pūjesi.
Vua mang theo hương liệu và hoa đến, và khi thấy ngôi nhà đứng trong không trung, vua đã cúng dường ngôi nhà.

Tasmiṃ khaṇe kūṭāgāraṃ otaritvā pathaviyaṃ patiṭṭhitaṃ.
Ngay lúc đó, ngôi nhà đã hạ xuống và đứng vững trên mặt đất.

Rājā mahāsakkārena sarīrakiccaṃ kāretvā dhātuyo gahetvā cetiyaṃ akāsi.
Vua đã tổ chức lễ tang với sự kính trọng lớn lao, thu thập xá lợi và xây dựng một bảo tháp.

Evarūpā sīlavantānaṃ dassanakāmā nāma honti.
Những người mong muốn gặp gỡ những người có giới hạnh đều có hành động như vậy.

Saddhammaṃ sotumicchatīti tathāgatappaveditaṃ saddhammaṃ sotukāmo hoti piṇḍapātikattherādayo viya.
“Saddhammaṃ sotumicchati” nghĩa là mong muốn nghe giáo pháp chân chính mà Đức Phật đã giảng dạy, giống như trường hợp của các trưởng lão như Piṇḍapātikatthera.

Gaṅgāvanavāliaṅgaṇamhi kira tiṃsa bhikkhū vassaṃ upagatā anvaddhamāsaṃ uposathadivase catupaccayasantosabhāvanārāmamahāariyavaṃsañca (a. ni. 4.28) kathenti.
Người ta kể rằng, có ba mươi vị tỳ-kheo đang nhập hạ tại khu vườn Gaṅgāvanavāli, và vào mỗi ngày Uposatha, họ giảng về đại pháp của các bậc thánh, với trọng tâm là sự hài lòng trong bốn loại nhu yếu.

Eko piṇḍapātikatthero pacchābhāgena āgantvā paṭicchannaṭṭhāne nisīdi.
Một vị trưởng lão tên Piṇḍapātikatthera đến muộn và ngồi ở một nơi khuất.

Atha naṃ eko gonaso jaṅghapiṇḍimaṃsaṃ saṇḍāsena gaṇhanto viya ḍaṃsi.
Khi ấy, có một con rắn độc cắn vào bắp chân của ngài, như thể nó dùng kìm để nắm lấy thịt.

Thero olokento gonasaṃ disvā ‘‘ajja dhammassavanantarāyaṃ na karissāmī’’ti gonasaṃ gahetvā thavikāya pakkhipitvā thavikāmukhaṃ bandhitvā avidūre ṭhāne ṭhapetvā dhammaṃ suṇantova nisīdi.
Vị trưởng lão nhìn thấy con rắn và nghĩ: “Hôm nay, ta sẽ không để việc nghe pháp bị gián đoạn.” Ngài bắt con rắn, bỏ vào trong một túi, buộc miệng túi lại và đặt nó gần đó, rồi ngồi nghe pháp.

Aruṇuggamanañca visaṃ vikkhambhetvā therassa tiṇṇaṃ phalānaṃ pāpuṇanañca visassa daṭṭhaṭṭhāneneva otaritvā pathavipavisanañca dhammakathikattherassa dhammakathāniṭṭhāpanañca ekakkhaṇeyeva ahosi.
Khi mặt trời mọc, nọc độc đã bị ngăn chặn, và vị trưởng lão đã đạt được ba tầng thánh quả. Nọc độc cũng đã rời khỏi cơ thể tại chỗ bị cắn và ngấm vào lòng đất. Vào chính lúc đó, vị trưởng lão thuyết pháp cũng đã hoàn thành bài pháp của mình.

Tato thero āha – ‘‘āvuso eko me coro gahito’’ti thavikaṃ muñcitvā gonasaṃ vissajjesi.
Sau đó, vị trưởng lão nói: “Này bạn, ta đã bắt được một tên trộm,” rồi mở túi và thả con rắn ra.

Bhikkhū disvā ‘‘kāya velāya daṭṭhattha, bhante’’ti pucchiṃsu.
Các tỳ-kheo hỏi: “Thưa ngài, ngài bị cắn vào lúc nào?”

Hiyyo sāyanhasamaye, āvusoti.
Ngài trả lời: “Hôm qua, vào buổi chiều, này bạn.”

Kasmā, bhante, evaṃ bhāriyaṃ kammaṃ karitthāti.
“Thưa ngài, tại sao ngài lại thực hiện một hành động nghiêm trọng như vậy?”

Āvuso, sacāhaṃ dīghajātikena daṭṭhoti vadeyyaṃ, nayimaṃ ettakaṃ ānisaṃsaṃ labheyyanti.
“Thưa bạn, nếu ta nói rằng mình bị một con rắn độc cắn, ta sẽ không đạt được những lợi ích lớn lao như vậy.”

Idaṃ tāva piṇḍapātikattherassa vatthu.
Đây là câu chuyện về trưởng lão Piṇḍapātikatthera.

Dīghavāpiyampi ‘‘mahājātakabhāṇakatthero gāthāsahassaṃ mahāvessantaraṃ kathessatī’’ti tissamahāgāme tissamahāvihāravāsī eko daharo sutvā tato nikkhamitvā ekāheneva navayojanamaggaṃ āgato.
Tại Dīghavāpi, có một vị trưởng lão được gọi là Mahājātakabhāṇaka, ngài chuẩn bị giảng giải một ngàn bài kệ từ Mahāvessantara Jātaka. Nghe được tin này, một vị tỳ-kheo trẻ sống tại tu viện Tissamahāvihāra ở làng Tissamahā đã rời đi và hoàn thành đoạn đường chín do tuần chỉ trong một ngày.

Tasmiṃyeva khaṇe thero dhammakathaṃ ārabhi.
Ngay vào lúc đó, trưởng lão bắt đầu bài giảng của mình.

Daharo dūramaggāgamanena sañjātakāyadarathattā paṭṭhānagāthāya saddhiṃ avasānagāthaṃyeva vavatthapesi.
Do mệt mỏi sau khi đi một quãng đường dài, vị tỳ-kheo trẻ chỉ có thể tập trung vào đoạn kệ mở đầu và kết thúc của bài giảng.

Tato therassa ‘‘idamavocā’’ti vatvā uṭṭhāya gamanakāle ‘‘mayhaṃ āgamanakammaṃ moghaṃ jāta’’nti rodamāno aṭṭhāsi.
Khi trưởng lão nói “idamavoca” và chuẩn bị rời đi, vị tỳ-kheo trẻ đã đứng khóc và nói: “Cuộc hành trình của tôi đã trở nên vô ích.”

Eko manusso taṃ kathaṃ sutvā gantvā therassa ārocesi, ‘‘bhante, ‘tumhākaṃ dhammakathaṃ sossāmī’ti eko daharabhikkhu tissamahāvihārā āgato, so ‘kāyadarathabhāvena me āgamanaṃ moghaṃ jāta’nti rodamāno ṭhito’’ti.
Một người đàn ông nghe thấy lời than thở của vị tỳ-kheo trẻ và đã báo lại cho trưởng lão: “Thưa ngài, có một vị tỳ-kheo trẻ từ Tissamahāvihāra đã đến để nghe bài pháp của ngài, nhưng do mệt mỏi cơ thể, ngài ấy đang đứng khóc vì cảm thấy hành trình của mình vô ích.”

Gacchatha saññāpetha naṃ ‘‘puna sve kathessāmā’’ti.
Trưởng lão nói: “Hãy đi an ủi ngài ấy và bảo rằng ngày mai ta sẽ giảng lại.”

So punadivase therassa dhammakathaṃ sutvā sotāpattiphalaṃ pāpuṇi.
Ngày hôm sau, sau khi nghe bài pháp của trưởng lão, vị tỳ-kheo trẻ đã chứng đắc quả vị Nhập lưu.

Aparāpi ullakolikaṇṇivāsikā ekā itthī puttakaṃ pāyamānā ‘‘dīghabhāṇakamahāabhayatthero nāma ariyavaṃsapaṭipadaṃ kathetī’’ti sutvā pañcayojanamaggaṃ gantvā divākathikattherassa nisinnakāleyeva vihāraṃ pavisitvā bhūmiyaṃ puttaṃ nipajjāpetvā divākathikattherassa ṭhitakāva dhammaṃ assosi.
Một người phụ nữ sống tại Ullakolikaṇṇi đang cho con bú, nghe rằng có một vị trưởng lão tên là Dīghabhāṇaka Mahāabhaya đang giảng dạy về các pháp của dòng thánh Ariyavaṃsa. Nghe được tin này, bà đã đi một đoạn đường dài năm do tuần và vào lúc trưởng lão đang ngồi giảng pháp vào ban ngày, bà vào chùa, đặt con mình nằm trên mặt đất và đứng nghe pháp.

Sarabhāṇake there uṭṭhite dīghabhāṇakamahāabhayatthero catupaccayasantosabhāvanārāmamahāariyavaṃsaṃ ārabhi.
Khi vị trưởng lão Sarabhāṇaka đứng dậy, Dīghabhāṇaka Mahāabhaya bắt đầu giảng về sự hài lòng với bốn nhu yếu trong giáo pháp Ariyavaṃsa của các bậc thánh.

Sā ṭhitakāva paggaṇhāti.
Người phụ nữ đứng nghe pháp suốt buổi.

Thero tayo eva paccaye kathetvā uṭṭhānākāraṃ akāsi.
Vị trưởng lão chỉ giảng ba nhu yếu và chuẩn bị đứng dậy.

Sā upāsikā āha – ‘‘ayyo, ‘ariyavaṃsaṃ kathessāmī’ti siniddhabhojanaṃ bhuñjitvā madhurapānakaṃ pivitvā yaṭṭhimadhukatelādīhi bhesajjaṃ katvā kathetuṃ yuttaṭṭhāneyeva uṭṭhahatī’’ti.
Người nữ cư sĩ nói: “Bạch ngài, ngài đã nói rằng ngài sẽ giảng về pháp của dòng thánh Ariyavaṃsa, nhưng sau khi ăn uống đầy đủ, dùng các loại thuốc tốt như yaṭṭhimadhuka và dầu, ngài lại đứng dậy giữa chừng.”

Thero ‘‘sādhu, bhaginī’’ti vatvā upari bhāvanārāmaṃ paṭṭhapesi.
Vị trưởng lão nói: “Tốt lắm, thưa chị,” rồi tiếp tục giảng pháp về việc tu tập thiền định.

Aruṇuggamanañca therassa ‘‘idamavocā’’ti vacanañca upāsikāya sotāpattiphaluppatti ca ekakkhaṇeyeva ahosi.
Ngay khi mặt trời mọc, lời giảng của trưởng lão vừa kết thúc, và người nữ cư sĩ đã đạt đến quả vị Nhập lưu, tất cả xảy ra cùng một lúc.

Aparāpi kaḷamparavāsikā itthī aṅkena puttaṃ ādāya ‘‘dhammaṃ sossāmī’’ti cittalapabbataṃ gantvā ekaṃ rukkhaṃ nissāya dārakaṃ nipajjāpetvā sayaṃ ṭhitakāva dhammaṃ suṇāti.
Một người phụ nữ khác sống tại Kaḷampara, mang con mình trên tay, với mong muốn nghe pháp, đã đi đến núi Cittalapabbata, đặt đứa con dưới một gốc cây và đứng nghe pháp.

Rattibhāgasamanantare eko dīghajātiko tassā passantiyāyeva samīpe nipannadārakaṃ catūhi dāṭhāhi ḍaṃsitvā agamāsi.
Vào khoảng giữa đêm, có một con rắn độc đến cắn đứa bé đang nằm gần đó bằng bốn chiếc răng nanh, rồi bỏ đi.

Sā cintesi – ‘‘sacāhaṃ ‘putto me sappena daṭṭho’ti vakkhāmi, dhammassa antarāyo bhavissati.
Người phụ nữ nghĩ: “Nếu ta nói rằng con ta bị rắn cắn, thì sẽ làm gián đoạn buổi nghe pháp.”

Anekakkhattuṃ kho pana me ayaṃ saṃsāravaṭṭe vaṭṭantiyā putto ahosi, dhammameva carissāmī’’ti.
“Trong luân hồi này, đứa bé này đã nhiều lần là con ta, ta sẽ chỉ thực hành giáo pháp mà thôi.”

Tiyāmarattiṃ ṭhitakāva dhammaṃ paggaṇhitvā sotāpattiphale patiṭṭhāya aruṇe uggate saccakiriyāya puttassa visaṃ nimmathetvā puttaṃ gahetvā gatā.
Bà đã đứng suốt ba canh giờ, nghe pháp và chứng đắc quả vị Nhập lưu. Khi mặt trời mọc, bà thực hiện một lời nói chân thật và làm tan biến nọc độc trong người con trai mình, sau đó bà bế con về.

Evarūpā puggalā dhammaṃ sotukāmā nāma honti.
Những người như thế này được gọi là những người luôn khao khát nghe pháp.

3. Atthavasasuttavaṇṇanā

43. Tatiye tayo, bhikkhave, atthavase sampassamānenāti tayo atthe tīṇi kāraṇāni passantena.

Trong bài kinh thứ ba, “này các tỳ-kheo, người thấy rõ ba lợi ích là người thấy ba mục tiêu và ba nguyên nhân.”

Alamevāti yuttameva.
“Alameva” nghĩa là “hoàn toàn đúng.”

Yo dhammaṃ desetīti yo puggalo catusaccadhammaṃ pakāseti.
“Người thuyết pháp” nghĩa là người nào giảng dạy về Tứ Diệu Đế.

Atthappaṭisaṃvedīti aṭṭhakathaṃ ñāṇena paṭisaṃvedī.
“Thấu hiểu nghĩa lý” nghĩa là người hiểu rõ các giải thích kinh điển thông qua trí tuệ.

Dhammappaṭisaṃvedīti pāḷidhammaṃ paṭisaṃvedī.
“Thấu hiểu giáo pháp” nghĩa là người thấu hiểu giáo pháp Pāli.

4. Kathāpavattisuttavaṇṇanā

44. Catutthe ṭhānehīti kāraṇehi.

Trong bài kinh thứ tư, “ṭhānehi” nghĩa là các nguyên nhân.

Pavattinīti appaṭihatā niyyānikā.
“Pavattini” nghĩa là sự lưu truyền không bị gián đoạn và dẫn dắt đến giải thoát.

5. Paṇḍitasuttavaṇṇanā

45. Pañcame paṇḍitapaññattānīti paṇḍitehi paññattāni kathitāni pasatthāni.

Trong bài kinh thứ năm, “paṇḍitapaññattāni” nghĩa là những điều được giảng dạy và khen ngợi bởi những bậc trí tuệ.

Sappurisapaññattānīti sappurisehi mahāpurisehi paññattāni kathitāni pasatthāni.
“Sappurisapaññattāni” nghĩa là những điều được giảng dạy và khen ngợi bởi các bậc thánh và đại nhân.

Ahiṃsāti karuṇā ceva karuṇāpubbabhāgo ca.
“Ahiṃsā” nghĩa là từ bi và giai đoạn trước của từ bi.

Saṃyamoti sīlasaṃyamo.
“Saṃyamo” nghĩa là sự điều phục bản thân qua giới hạnh.

Damoti indriyasaṃvaro, uposathavasena vā attadamanaṃ, puṇṇovāde (ma. ni. 3.395 ādayo; saṃ. ni. 4.88 ādayo) damoti vuttā khantipi āḷavake (saṃ. ni. 1.246; su. ni. 183 ādayo) vuttā paññāpi imasmiṃ sutte vaṭṭatiyeva.
“Đama” nghĩa là sự kiểm soát các căn, hoặc chế ngự bản thân qua việc giữ giới Uposatha, như được đề cập trong Puṇṇovāda và Āḷavaka. Sự nhẫn nhịn và trí tuệ cũng được đề cập trong kinh này.

Mātāpitu upaṭṭhānanti mātāpitūnaṃ rakkhanaṃ gopanaṃ paṭijagganaṃ.
“Mātāpitu upaṭṭhāna” nghĩa là việc chăm sóc, bảo vệ và nuôi dưỡng cha mẹ.

Santānanti aññattha buddhapaccekabuddhaariyasāvakā santo nāma, idha pana mātāpituupaṭṭhākā adhippetā.
“Santāna” ở chỗ khác có nghĩa là các vị Phật, các vị Độc giác Phật, và các bậc thánh đệ tử. Nhưng ở đây, “santāna” chỉ những người chăm sóc cha mẹ.

Tasmā uttamaṭṭhena santānaṃ, seṭṭhacariyaṭṭhena brahmacārīnaṃ.
Do đó, “santāna” là những người tuyệt vời nhất, còn “brahmacārī” là những người có hành vi cao quý nhất.

Idaṃ mātāpituupaṭṭhānaṃ sabbhi upaññātanti evamettha attho daṭṭhabbo.
Việc chăm sóc cha mẹ được mọi người công nhận là một việc làm cao quý. Đây là cách hiểu ý nghĩa của câu này.

Sataṃ etāni ṭhānānīti santānaṃ uttamapurisānaṃ etāni ṭhānāni kāraṇāni.
“Những điều này là nền tảng” nghĩa là những điều này là các nguyên nhân và nền tảng của những người cao quý nhất.

Ariyo dassanasampannoti idha imesaṃyeva tiṇṇaṃ ṭhānānaṃ kāraṇena ariyo ceva dassanasampanno ca veditabbo, na buddhādayo na sotāpannā.
“Ariyo dassanasampanno” nghĩa là ở đây, nhờ ba nền tảng này, một người có thể được xem là bậc thánh và người đã đạt được trí tuệ, nhưng không phải là Phật, Độc giác Phật, hay người đã nhập lưu.

Atha vā sataṃ etāni ṭhānānīti mātupaṭṭhānaṃ pitupaṭṭhānanti etāni ṭhānāni santānaṃ uttamapurisānaṃ kāraṇānīti evaṃ mātāpituupaṭṭhākavasena imissā gāthāya attho veditabbo.
Hoặc là, “những điều này là nền tảng của người cao quý” nghĩa là việc chăm sóc mẹ và cha là những nguyên nhân và nền tảng của những người tuyệt vời nhất. Đây là cách hiểu ý nghĩa của câu kệ này dựa trên sự chăm sóc cha mẹ.

Mātāpituupaṭṭhākoyeva hi idha ‘‘ariyo dassanasampanno’’ti vutto.
Trong kinh này, chính người chăm sóc cha mẹ được gọi là “bậc thánh và người đạt được trí tuệ.”

Sa lokaṃ bhajate sivanti so khemaṃ devalokaṃ gacchatīti.
Người ấy sẽ đến cõi trời an lành.

6. Sīlavantasuttavaṇṇanā

46. Chaṭṭhe tīhi ṭhānehīti tīhi kāraṇehi.

46. Chaṭṭhe tīhi ṭhānehīti tīhi kāraṇehi.
Trong bài kinh thứ sáu, “ba nền tảng” nghĩa là ba nguyên nhân.

Kāyenātiādīsu bhikkhū āgacchante disvā paccuggamanaṃ karontā gacchante anugacchantā āsanasālāya sammajjanaupalepanādīni karontā āsanāni paññāpentā pānīyaṃ paccupaṭṭhāpentā kāyena puññaṃ pasavanti nāma.
Với thân thể, khi nhìn thấy các tỳ-kheo đến, họ đứng dậy để chào đón; khi các tỳ-kheo ra đi, họ đi theo. Khi quét dọn, lau chùi các phòng, chuẩn bị chỗ ngồi, và dâng nước, họ tạo công đức bằng thân thể.

Bhikkhusaṅghaṃ piṇḍāya carantaṃ disvā ‘‘yāguṃ detha, bhattaṃ detha, sappinavanītādīni detha, gandhapupphādīhi pūjetha, uposathaṃ upavasatha, dhammaṃ suṇātha, cetiyaṃ vandathā’’tiādīni vadantā vācāya puññaṃ pasavanti nāma.
Khi thấy các tỳ-kheo đi khất thực, họ nói: “Hãy cho cháo, hãy cho cơm, hãy cho bơ sữa và những thứ khác; hãy cúng dường bằng hương hoa; hãy giữ ngày Uposatha, hãy nghe pháp, và hãy lễ bái tháp,” họ tạo công đức bằng lời nói.

Bhikkhū piṇḍāya carante disvā ‘‘labhantū’’ti cintentā manasā puññaṃ pasavanti nāma.
Khi thấy các tỳ-kheo đi khất thực, họ suy nghĩ: “Mong họ nhận được những gì họ cần,” và tạo công đức bằng tâm ý.

Pasavantīti paṭilabhanti.
“Pasavanti” có nghĩa là “họ nhận được.”

Puññaṃ panettha lokiyalokuttaramissakaṃ kathitaṃ.
Ở đây, công đức bao gồm cả công đức thế gian và công đức siêu thế.

7. Saṅkhatalakkhaṇasuttavaṇṇanā

47. Sattame saṅkhatassāti paccayehi samāgantvā katassa.

47. Sattame saṅkhatassāti paccayehi samāgantvā katassa.
Trong bài kinh thứ bảy, “saṅkhata” nghĩa là những gì được tạo nên từ các điều kiện.

Saṅkhatalakkhaṇānīti saṅkhataṃ etanti sañjānanakāraṇāni nimittāni.
“Các đặc tính của saṅkhata” nghĩa là những dấu hiệu nhận biết rằng một thứ là saṅkhata (điều kiện).

Uppādoti jāti.
“Uppāda” nghĩa là sự sinh khởi.

Vayoti bhedo.
“Vayo” nghĩa là sự tan rã.

Ṭhitassa aññathattaṃ nāma jarā.
“Sự thay đổi của những gì đang tồn tại” được gọi là già nua.

Tattha saṅkhatanti tebhūmakā dhammā.
Ở đây, “saṅkhata” là các pháp thuộc ba cõi.

Maggaphalāni pana asammasanūpagattā idha na kathīyanti.
Tuy nhiên, các đạo quả không được đề cập ở đây vì chúng không thuộc đối tượng quan sát.

Uppādādayo saṅkhatalakkhaṇā nāma.
“Sinh khởi” và những điều tương tự là các đặc tính của saṅkhata.

Tesu uppādakkhaṇe uppādo, ṭhānakkhaṇe jarā, bhedakkhaṇe vayo.
Trong ba trạng thái đó, sinh khởi tương ứng với uppāda (sinh khởi), tồn tại tương ứng với jarā (già nua), và tan rã tương ứng với vayo (sự tan rã).

Lakkhaṇaṃ na saṅkhataṃ, saṅkhataṃ na lakkhaṇaṃ, lakkhaṇena pana saṅkhataṃ paricchinnaṃ.
Đặc tính không phải là saṅkhata, và saṅkhata không phải là đặc tính, nhưng nhờ đặc tính mà saṅkhata được nhận biết.

Yathā hatthiassagomahiṃsādīnaṃ sattisūlādīni sañjānanalakkhaṇāni na hatthiādayo, napi hatthiādayo lakkhaṇāneva, lakkhaṇehi pana te ‘‘asukassa hatthī, asukassa asso, asukahatthī, asukaasso’’ti vā paññāyanti, evaṃsampadamidaṃ veditabbaṃ.
Giống như dấu hiệu nhận biết của các con voi, ngựa, bò, và trâu không phải là chúng, cũng như chúng không phải là dấu hiệu, nhưng nhờ các dấu hiệu mà người ta biết: “Con voi này thuộc về người này, con ngựa này thuộc về người kia,” tương tự như vậy, điều này nên được hiểu trong ngữ cảnh này.

8. Asaṅkhatalakkhaṇasuttavaṇṇanā

48. Aṭṭhame asaṅkhatassāti paccayehi samāgantvā akatassa.

48. Aṭṭhame asaṅkhatassāti paccayehi samāgantvā akatassa.
Trong bài kinh thứ tám, “asaṅkhata” nghĩa là không được tạo nên từ các điều kiện.

Asaṅkhatalakkhaṇānīti asaṅkhataṃ etanti sañjānanakāraṇāni nimittāni.
“Các đặc tính của asaṅkhata” nghĩa là những dấu hiệu nhận biết rằng một thứ là asaṅkhata (không điều kiện).

Na uppādo paññāyatītiādīhi uppādajarābhaṅgānaṃ abhāvo vutto.
“Không có sự sinh khởi” nghĩa là sự vắng mặt của sinh khởi, già nua và tan rã.

Uppādādīnañhi abhāvena asaṅkhatanti paññāyati.
Vì không có sự sinh khởi và các yếu tố khác, nên nó được gọi là asaṅkhata.

9. Pabbatarājasuttavaṇṇanā

49. Navame mahāsālāti mahārukkhā.

49. Navame mahāsālāti mahārukkhā.
Trong bài kinh thứ chín, “mahāsālā” nghĩa là những cây lớn.

Kulapatinti kulajeṭṭhakaṃ.
“Kulapati” nghĩa là trưởng tộc.

Seloti silāmayo.
“Selo” nghĩa là được làm bằng đá.

Araññasminti agāmakaṭṭhāne.
“Araññasmim” nghĩa là ở một nơi hoang vu, không phải làng mạc.

Brahmāti mahanto.
“Brahmā” nghĩa là vĩ đại.

Vaneti aṭaviyaṃ.
“Vane” nghĩa là trong khu rừng.

Vanappatīti vanajeṭṭhakā.
“Vanappati” nghĩa là trưởng của khu rừng.

Idha dhammaṃ caritvāna, maggaṃ sugatigāminanti sugatigāmikamaggasaṅkhātaṃ dhammaṃ caritvā.
Ở đây, sau khi thực hành giáo pháp, đi theo con đường dẫn đến cõi an lành.

10. Ātappakaraṇīyasuttavaṇṇanā

50. Dasame ātappaṃ karaṇīyanti vīriyaṃ kātuṃ yuttaṃ.

50. Dasame ātappaṃ karaṇīyanti vīriyaṃ kātuṃ yuttaṃ.
Trong bài kinh thứ mười, “ātappaṃ karaṇīyaṃ” nghĩa là sự nỗ lực thích đáng cần được thực hiện.

Anuppādāyāti anuppādatthāya, anuppādaṃ sādhessāmīti iminā kāraṇena kattabbanti attho.
“Anuppādāya” nghĩa là để ngăn chặn sự sinh khởi. Nghĩa là phải làm điều đó với lý do để đạt được sự không sinh khởi.

Paratopi eseva nayo.
Ở đoạn sau, cách hiểu cũng giống như vậy.

Sārīrikānanti sarīrasambhavānaṃ.
“Sārīrikānaṃ” nghĩa là phát sinh từ thân.

Dukkhānanti dukkhamānaṃ.
“Dukkhānaṃ” nghĩa là những đau khổ.

Tibbānanti bahalānaṃ, tāpanavasena vā tibbānaṃ.
“Tibbānaṃ” nghĩa là dữ dội hoặc mãnh liệt, có thể gây ra cảm giác đau đớn.

Kharānanti pharusānaṃ.
“Kharānaṃ” nghĩa là khắc nghiệt hoặc thô ráp.

Kaṭukānanti tikhiṇānaṃ.
“Kaṭukānaṃ” nghĩa là sắc bén hoặc đau đớn.

Asātānanti amadhurānaṃ.
“Asātānaṃ” nghĩa là không ngọt ngào, không dễ chịu.

Amanāpānanti manaṃ vaḍḍhetuṃ asamatthānaṃ.
“Amanāpānaṃ” nghĩa là không thể làm tăng trưởng tâm trí.

Pāṇaharānanti jīvitaharānaṃ.
“Pāṇaharānaṃ” nghĩa là tước đoạt sinh mạng.

Adhivāsanāyāti adhivāsanatthāya sahanatthāya khamanatthāya.
“Adhivāsanāya” nghĩa là để chịu đựng, kiên nhẫn và nhẫn nhục.

Ettake ṭhāne satthā āṇāpetvā āṇattiṃ pavattetvā idāni samādapento yato kho, bhikkhavetiādimāha.
Sau khi chỉ dẫn ở những điểm này, Đức Phật đã ra lệnh và hiện giờ đang khuyến khích với lời nói: “Này các tỳ-kheo.”

Tattha yatoti yadā.
Ở đây, “yato” nghĩa là khi.

Ātāpīti vīriyavā.
“Ātāpī” nghĩa là người có sự tinh tấn.

Nipakoti sappañño.
“Nipako” nghĩa là người có trí tuệ.

Satoti satiyā samannāgato.
“Sato” nghĩa là người có chánh niệm.

Dukkhassa antakiriyāyāti vaṭṭadukkhassa paricchedaparivaṭumakiriyāya.
“Dukkhassa antakiriyāya” nghĩa là chấm dứt vòng luân hồi của khổ đau.

Ime ca pana ātāpādayo tayopi lokiyalokuttaramissakā kathitā.
Ba đức tính như ātāpī và những đức tính khác ở đây được đề cập kết hợp giữa thế gian và siêu thế.

11. Mahācorasuttavaṇṇanā

51. Ekādasame mahācoroti mahanto balavacoro.

51. Ekādasame mahācoroti mahanto balavacoro.
Trong bài kinh thứ mười một, “mahācoro” nghĩa là một tên cướp to lớn và mạnh mẽ.

Sandhinti gharasandhiṃ.
“Sandhi” nghĩa là tấn công vào nhà cửa.

Nillopanti mahāvilopaṃ.
“Nillopa” nghĩa là phá hoại lớn.

Ekāgārikanti ekameva gehaṃ parivāretvā vilumpanaṃ.
“Ekāgārika” nghĩa là vây quanh và cướp bóc một căn nhà duy nhất.

Paripanthepi tiṭṭhatīti panthadūhanakammaṃ karoti.
“Paripanthepi tiṭṭhati” nghĩa là đứng ở nơi chặn đường để cướp bóc người đi đường.

Nadīvidugganti nadīnaṃ duggamaṭṭhānaṃ antaradīpakaṃ, yattha sakkā hoti dvīhipi tīhipi jaṅghasahassehi saddhiṃ nilīyituṃ.
“Nadīvidugga” nghĩa là những nơi khó qua lại của sông, như giữa các hòn đảo, nơi có thể ẩn náu với hàng ngàn quân lính.

Pabbatavisamanti pabbatānaṃ visamaṭṭhānaṃ pabbatantaraṃ, yattha sakkā hoti sattahi vā aṭṭhahi vā jaṅghasahassehi saddhiṃ nilīyituṃ.
“Pabbatavisama” nghĩa là những nơi gồ ghề trên núi, hoặc giữa các khe núi, nơi có thể ẩn náu với bảy hoặc tám ngàn quân lính.

Tiṇagahananti tiṇena vaḍḍhitvā sañchannaṃ dvattiyojanaṭṭhānaṃ.
“Tiṇagahana” nghĩa là một khu vực rộng hai hoặc ba do tuần, được phủ đầy cỏ.

Rodhanti ghanaṃ aññamaññaṃ saṃsaṭṭhasākhaṃ ekābaddhaṃ mahāvanasaṇḍaṃ.
“Rodha” nghĩa là một khu rừng lớn với những cành cây dày đặc đan xen vào nhau.

Pariyodhāya atthaṃ bhaṇissantīti pariyodahitvā taṃ taṃ kāraṇaṃ pakkhipitvā atthaṃ kathayissanti.
“Pariyodhāya atthaṃ bhaṇissantī” nghĩa là họ sẽ giải thích vấn đề bằng cách xem xét kỹ lưỡng và đưa ra lý do.

Tyāssāti te assa.
“Tyāssa” nghĩa là những người đó của hắn.

Pariyodhāya atthaṃ bhaṇantīti kismiñci kiñci vattuṃ āraddheyeva ‘‘mā evaṃ avacuttha, mayaṃ etaṃ kulaparamparāya jānāma, na esa evarūpaṃ karissatī’’ti taṃ taṃ kāraṇaṃ pakkhipitvā mahantampi dosaṃ harantā atthaṃ bhaṇanti.
“Họ giải thích vấn đề” nghĩa là khi ai đó bắt đầu nói điều gì, họ nói: “Đừng nói như vậy, chúng tôi biết gia đình của hắn qua nhiều thế hệ, hắn sẽ không làm điều như thế,” và họ sẽ che giấu lỗi lầm lớn bằng cách đưa ra những lý do.

Atha vā pariyodhāyāti paṭicchādetvātipi attho.
Hoặc là “pariyodhāya” nghĩa là che giấu.

Te hi tassapi dosaṃ paṭicchādetvā atthaṃ bhaṇanti.
Bởi vì họ che giấu lỗi lầm của hắn và vẫn giải thích vấn đề.

Khataṃ upahatanti guṇakhananena khataṃ, guṇupaghātena upahataṃ.
“Khataṃ upahataṃ” nghĩa là bị tổn thương do bị hủy hoại bởi các đức tính.

Visamena kāyakammenāti sampakkhalanaṭṭhena visamena kāyadvārikakammena.
“Visamena kāyakammena” nghĩa là hành động thân thể sai trái, dẫn đến trượt ngã.

Vacīmanokammesupi eseva nayo.
Đối với hành động của lời nói và ý nghĩ, nguyên tắc cũng giống như vậy.

Antaggāhikāyāti dasavatthukāya antaṃ gahetvā ṭhitadiṭṭhiyā.
“Antaggāhikāya” nghĩa là sự cố định vào một trong mười quan điểm cực đoan.

Sesaṃ sabbattha uttānatthamevāti.
Phần còn lại là những điều đã được hiểu rõ ràng ở mọi nơi.

Cūḷavaggo pañcamo.
Cūḷavagga là phần thứ năm.

Paṭhamapaṇṇāsakaṃ niṭṭhitaṃ.
Phần đầu tiên của Paṇṇāsaka đã kết thúc.

2. Dutiyapaṇṇāsakaṃ
Phần thứ hai của Paṇṇāsaka.

Hộp bình luận Facebook

Soṇa Thiện Kim

Panha.org là trang web chuyên sâu về Pháp học của Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Tông), nơi cung cấp kiến thức và tài liệu quý báu về kinh điển, giáo lý, và triết học Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Tông). Tại đây, bạn có thể tìm hiểu về các giáo pháp truyền thống, kinh nghiệm tu tập, và những bài giảng từ các vị tôn sư hàng đầu trong cộng đồng Phật giáo Nguyên thủy (Theravāda, Nam Tông). Với mục tiêu giúp người học hiểu sâu hơn về con đường giác ngộ và sự giải thoát, Panha.org mang đến nguồn tài nguyên phong phú, chính xác và cập nhật để hỗ trợ hành giả trên hành trình tu tập Pháp học.

Bài viết liên quan

0 0 đánh giá
Đánh giá bài viết
Theo dõi
Thông báo của
guest

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.

0 Góp ý
Được bỏ phiếu nhiều nhất
Mới nhất Cũ nhất
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Back to top button
Close

Phát hiện trình chặn quảng cáo

Hãy hùn phước với trang web Panha.org bằng cách vô hiệu hoá trình chặn quảng cáo (Thêm vào danh sách ngoại lệ được hiển thị quảng cáo), xem quảng cáo và nhấn vào quảng cáo trên Panha.org. Trang web Panha.org cần chi phí để duy trì hoạt động, để dịch chú giải, phụ chú giải, dịch lại Tam Tạng Theravadā từ Pāli, Thái Lan sang tiếng Việt, và để phát triển các nội dung bổ ích cho Pháp Học và Pháp Hành của Phật giáo Nguyên thủy (Theravadā). Ngoài ra, nếu sau các chi phí đó mà có dư, thì Soṇa Thiện Kim sẽ dùng số tiền dư để làm thiện pháp đến Tam Bảo. Do đó Soṇa Thiện Kim cần đặt quảng cáo để có các chi phí này. Mong Quý vị tu sĩ, cư sĩ hoan hỷ! Sādhu sādhu sādhu!